Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cha Con Giáo Hoàng - Mario Puzo
Cha con Giáo hoàng lấy bối cảnh Italy thời kỳ Phục hưng. Tiểu thuyết là câu chuyện về những dã tâm chính trị của nhà Borgia - “gia đình tội phạm đầu tiên” theo nhận định của Puzo. Ở đó, Giáo hội nắm quyền thống trị tối cao, nhưng ẩn dưới tấm áo choàng đỏ luôn là lửa tham vọng rực cháy. Cha con Giáo hoàng là một thiên sử thi xuất sắc, pha trộn màu sắc lãng mạn với chất cuồng điên của lòng tham quyền lực, những mưu ma chước quỷ, tội lỗi và trừng phạt… vượt xa khỏi trí tưởng tượng của người thường. Cuốn sách mang người đọc du hành đến một không gian, thời gian hoàn toàn khác, nơi Giáo hội nắm quyền thống trị tối cao, nơi lửa tham vọng ngùn ngụt cháy dưới tấm áo choàng đỏ rực. Đây là câu chuyện về mối quan hệ cha con kì lạ: gắn bó với nhau bởi huyết thống, lòng tận tụy và những ý đồ đen tối; về một gia đình khét tiếng mà công trạng và tội lỗi còn mãi lưu truyền hậu thế: gia đình Borgia. *** “Hấp dẫn không ngừng, li kì với những tình tiết xoay quanh tệ tham nhũng, mưu đồ phản bội, sát hại lẫn nhau, đan xen cùng chất trữ tình đậm đà và các giá trị gia đình” • Time “Puzo là người kể chuyện thiên tài với một thủ pháp miêu tả kì lạ khiến độc giả cứ phải nhấp nhổm lật giở từ trang này sang trang khác. Hãy gọi đó là thứ văn chương gây nghiện.” • USA Today “Tài năng của Puzo nằm ở chỗ ông biết sáng tạo nên một thế giới đa sắc, mỗi nhân vật có tính cách và lối hành xử riêng… khiến mỗi khi đọc tác phẩm của ông, ta luôn có cảm giác vui sướng đầy tội lỗi.” • New York Post “Một trong những tác phẩm hay nhất của Puzo… Cốt truyện lôi cuốn, tỉ mỉ với những nhân vật nổi tiếng lịch sử nhưng được miêu tả đầy chân thật… Đậm chất sử thi, một di tác vô cùng hấp dẫn mà ông hoàng tiểu thuyết Mafia để lại cho đời” • Booklist “Với nỗ lực biến những nhân vật lịch sử tai tiếng nhà Borgia trở nên gần gũi, Cha con Giáo hoàng - cuốn tiểu thuyết có tiết tấu dồn dập, được dụng công nghiên cứu kĩ càng - có lẽ là tác phẩm tham vọng nhất trong sự nghiệp của Puzo.” • Barnes and Noble Review “Cho dầu tôi hèn hạ và đê tiện đến thế nào, xin hãy để tôi hôn đường viền tấm vải liệm bao bọc nhục thể Chúa tôi. Mặc dầu có thể con đang đi theo quỷ dữ, con vẫn là con của Người, ôi lạy Chúa, và con yêu kính Người, và con cảm nhận niềm lạc phúc mà nếu không có nó thế giới này không thể tồn tại. • FYODOR DOSTOYEVSKY - Anh em nhà Karamaxov *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu trường u ám (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) Mời các bạn đón đọc Cha Con Giáo Hoàng của tác giả Mario Puzo.
Cửa Tiệm Của Những Lá Thư - Yasushi Kitagawa
Tác giả Yasushi Kitagawa đã để lại dấu ấn lớn trong lòng bạn đọc khi viết về những vấn đề gần gũi, chân thực trong đời sống của xã hội Nhật Bản đầy bất ổn nhưng cũng rất khuôn phép gò bó. Nối tiếp thành công từ cuốn tiểu thuyết Cuộc hẹn bình minh và Nếu ngày mai không bao giờ đến, Yasushi tiếp tục chinh phục độc giả qua cuốn sách thứ 3 mang tên Cửa tiệm của những lá thư. Cửa tiệm của những lá thư sẽ giúp bạn có câu trả lời, tuy không giải đáp được mọi thắc mắc nhưng cuốn sách được ví như luồng ánh sáng len lỏi vào tâm hồn mỗi người. Ở đó, góc khuất của tâm hồn lần lượt được chiếu rọi. *** Bây giờ, tôi đã viết xong tác phẩm thứ ba của mình Cửa tiệm của những lá thư. Tôi đang ngồi một mình trong thư phòng để viết lời bạt này.   Mùa hè năm ngoái, khi tôi xuất bản cuốn Nếu ngày mai không bao giờ đến, rất nhiều bạn đọc đã gửi cảm nhận của họ đến tôi. Đó như một mối duyên dẫn ta đến với nhiều cuộc gặp gỡ tuyệt vời. Nhờ những cuộc gặp gỡ đó, tôi có được cơ hội tham gia diễn thuyết hay làm khách mời trên sóng truyền thanh.   Đem tác phẩm của mình bày ra trước thế giới cần nhiều dũng khí lắm. Nhưng một khi có dũng khí hành động thì thế giới của tôi sẽ từng bước mở rộng ra. Chính vì thế, lần này, tôi lại có cơ hội mời các bạn đón đọc một tác phẩm mới của tôi.   Tôi không phải dạng viết lách thường xuyên. Chỉ khi nào cuộc sống của tôi có những điều cực kì muốn truyền tải đến mọi người, hay khi có những người mình thực lòng muốn truyền tải đến họ. Chỉ những lúc ấy, tôi mới viết. Lần này là nhờ một cậu sinh viên đã luôn hỗ trợ công việc của tôi suốt bốn năm trời. Nhìn cảnh bon chen đi xin việc của cậu ấy, tôi mới quyết định, “Được rồi, hãy viết theo cách nghĩ của mình!” rồi bắt tay vào viết, đó chính là tác phẩm Cửa tiệm của những lá thư này.   Tôi không có ý dùng tác phẩm này để chỉ dạy cách thức vượt rào tuyển dụng (xin lỗi những ai đã mong đợi điều ấy khi đọc cuốn sách này).   So với việc thành hay bại trong quá trình xin việc trước mắt, cuộc đời sau này ra sao, ta sẽ sống là chính mình như thế nào mới là điều quan trọng hơn hẳn. Điều đó, tôi muốn gửi đến cho cậu ấy, đến cho những bạn trẻ đồng tuổi với cậu ấy và cả những người đang mang cùng mối lo nữa. Tôi muốn gửi đến những bạn trẻ đang nắm tương lai của đất nước này. Với quyết tâm đó, tôi đã khởi thảo cho tác phẩm này đây.   Thực ra, tác phẩm này kể từ khi bắt đầu viết cho tới tận lúc hoàn thành mất nhiều thời gian hơn tôi dự tính ban đầu. Tôi phải xem xét những điều mình muốn truyền tải có thể truyền tải một cách rõ ràng không rồi còn viết lại, việc đó lặp đi lặp lại chẳng biết bao nhiêu lần.   Quá trình đó là điều đương nhiên, nhưng bắt đầu từ lòng kiên nhẫn, ta cần đến rất nhiều trí lực theo nhiều nghĩa. Đối với tôi, nó mệt mỏi hơn nhiều các tác phẩm mình đã viết ra như Cuốn sách của nhà hiền triết hay Nếu ngày mai không bao giờ đến.   Chỉ là, dẫu có vậy, tôi không hề có ý từ bỏ giữa chừng.   Nếu là tôi của trước đây, điều này cũng chẳng phải lạ gì nhưng tôi đã giữ vững niềm tin “Nhất định, mình sẽ hoàn thành một tác phẩm hay!” rồi tiếp tục viết.   Với lại, trong lúc tôi viết tác phẩm này, tôi luôn nghĩ đến “một điều gì đó” và “một điều gì đó” đấy biết đâu lại là cách suy nghĩ được giới thiệu trong chính tác phẩm này.   Tôi lúc nào cũng viết một mình.   Ngồi một mình trong căn phòng yên tĩnh, lặng lẽ viết.   Nhưng, tôi không thấy cô độc.   Tôi có ý định mình sẽ một mình ngồi trên bàn viết ra một tác phẩm với đội cổ vũ hùng hậu đủ để lấp đầy sân bóng chày Koushien.   Đội cổ vũ đó giờ tôi vẫn chưa thấy đâu nhưng khi tôi vượt qua được bức tường của mình cũng là lần đầu tiên gặp được họ, đó là những người có suy nghĩ “đọc được tác phẩm này thật tốt quá”.   “Có những người đang đợi tác phẩm này hoàn thành. Dẫu có gặp gian nan nhường nào, chỉ cần vượt qua, chắc chắn sẽ có hàng vạn người sẽ nghĩ rằng đọc được Cửa tiệm của những lá thư quả là điều may mắn. Nhất định tôi sẽ gặp được những người như vậy.”   Nghĩ vậy, tôi đã nghe thấy đâu đây những tiếng hò reo ủng hộ.   Giờ, khi đọc xong hết tác phẩm này rồi, bạn cũng sẽ trở thành một người trong số đó chứ?   Bởi vì tôi đã nghe thấy được những tiếng cổ vũ của các bạn đọc cuốn sách “May mà cuốn sách này đã được xuất bản, cảm ơn anh” nên mới có thể cố gắng hoàn thành nó.   Đương nhiên, để có được cảm xúc như vậy cũng là nhờ nhiều người đã nói rằng “Chúng tôi trông đợi vào tác phẩm tiếp theo của anh Kitagawa đấy!”. Những độc giả đã tiếp sức cho tôi, thật lòng cảm ơn các bạn.   Giờ, đến lượt người đã đọc cuốn sách là bạn đấy, đến lượt bạn nghe thấy những tiếng cổ vũ và vượt qua bức tường khó khăn của mình rồi. Tôi cũng sẽ là một người trong đó lớn tiếng ủng hộ bạn.   Hãy cứ rạng rỡ, tươi vui và là chính mình. Ngoài ra... dẫu có thể nào! Hãy cứ chạy tiếp đi.   Viết được tác phẩm này, tôi đã nhận được nhiều lời khuyên bổ ích cho cấu trúc của câu chuyện từ giám đốc Hoshiba và phụ trách biên tập Ishibashi của Discovery 21. Morisue đã cung cấp cho tôi rất nhiều ý tưởng liên quan đến “Thư lạc”. Nếu không có sự giúp đỡ của những người đó, Cửa tiệm của những lá thư sẽ không thể ra đời được. Tôi muốn mượn một góc nhỏ, xin gửi lời tri ân đến họ. Thành thật cảm ơn.   Ngoài ra, những thành viên hội “Soumei” lúc nào cũng giúp đỡ tôi, những em học sinh luôn chỉ dạy cho tôi nhiều điều và cả những người đã tài trợ cho tôi. Những người tôi đã có cơ hội được gặp từ trước tới nay. Người vợ và con gái luôn thấu hiểu tôi nhất nữa. Những độc giả đã luôn đọc sách của tôi từ trước tới giờ. Và cả người đang đọc cuốn sách vào lúc này đây là bạn nữa.   Xin có lời cảm ơn.   Cảm ơn mọi người.   Đầu hè 2007   Mời các bạn đón đọc Cửa Tiệm Của Những Lá Thư của tác giả Yasushi Kitagawa.
Từ Thăm Thẳm Lãng Quên - Patrick Modiano
Ở Từ thăm thẳm lãng quên, cuộc gặp lại sau mười lăm năm biến mất không dấu vết gì về nhau đã gợi lại một đoạn đường ngắn nhân vật Tôi được ở trong vùng kết nối cùng Jacqueline, cô gái mà anh đã quý mến day dứt ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy trước cửa quán cà phê Dante, ở Paris. Cô gái Jacqueline đột ngột bước vào một đoạn tuổi trẻ ngắn ngủi của anh, để rồi từ ấy, anh đã bị cuốn theo cô, với những cuộc đi băng qua nhiều đại lộ ở Paris, rồi sau đó là cuộc vượt thoát sang London, và họ ở đó, mùa hè rong ruổi cùng nhau trên những đại lộ nóng bức. Thế nhưng, Jacqueline bỗng nhiên biến mất. Còn anh, sau những ngày tháng trôi dạt cùng cô giữa Paris, giữa London, phá phách, hoang dại, lại trở về với đời sống thường ngày, nhưng anh hoàn toàn không phải là anh của những ngày trước kia gặp cô. Tâm trí anh vẫn tìm kiếm cô như tìm kiếm một ảo vọng giữa mê cung đầy huyễn hoặc của những mùa hè. Để rồi mười lăm năm sau, anh gặp lại cô cùng chồng cô trong một bữa tiệc ở ngày khu nhà cũ. Cô đã đổi tên, cắt tóc, và hút thuốc không còn bị ho. Anh tưởng như cô không còn nhớ gì về anh. Thực chất, ấy chỉ là một mặt hồ yên lặng, dậy sóng ở đáy sâu. *** Nhà văn Patrick Modiano sinh ngày 30/7/1945 tại Boulogne-Billancourt - một khu ngoại ô thành phố Paris. Cha của ông là một doanh nhân Ý gốc Do Thái, sống sót qua Thế chiến thứ hai bằng những mối làm ăn bí mật với Đức quốc xã. Có lẽ chính vì thế nên Patrick Modiano bị ám ảnh với thân thế có vết nhơ. Các tác phẩm của ông thường lấy bối cảnh thời kỳ Đức quốc xã chiếm đóng nước Pháp và xoay quanh những chủ đề như ký ức, sự lãng quên, thân phận và cảm giác tội lỗi. Trong một lần xuất hiện trên truyền hình năm 2007, ông kể mình “đau khổ vì được ra đời” và mô tả bản thân là “sản phẩm của một thời kỳ quái đản, khi những người lẽ ra không nên gặp nhau lại gặp và có con một cách tình cờ”. Từ khi xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay La place de L’Etoile (Quảng trường ngôi sao), Patrick Modiano đã lập tức trở thành một hiện tượng của nền văn học Pháp. Hàng loạt tác phẩm sau đó, từ La ronde de nuit (Tuần tra đêm), Les boulevard de ceinture (Những đại lộ ngoại vi), Rue des boutique obscures (Phố những cửa hiệu u tối) đều được giới phê bình đánh giá cao và giành hàng loạt giải thưởng văn học Pháp. Một số tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Phố Những Cửa Hiệu U Tối - Patrick Modiano Quảng Trường Ngôi Sao - Patrick Modiano Ở Quán Cà Phê Tuổi Trẻ Lạc Lối - Patrick Modiano Để Em Khỏi Lạc Trong Khu Phố - Patrick Modiano Từ Thăm Thẳm Lãng Quên   Mời các bạn đón đọc Từ Thăm Thẳm Lãng Quên của tác giả Patrick Modiano.
Truy Mộng - Neil Gaiman & Yoshitaka Amano
Đây là truyện dịch đầu tiên của tôi, về bộ truyện tiếng Anh mà tôi yêu thích nhất, Sandman. Lời văn ma quái của Neil Gaiman – Shakespeare của truyện tranh, kết hợp với những bức họa mỹ lệ của Yoshitaka Amano (họa sĩ của Vampire Hunter D) sẽ trở thành gì? Tác phẩm Truy Mộng – một truyện cổ tích được giao hòa giữa hai nền văn hóa. Cũng như mọi câu chuyện cổ tích khác, Truy Mộng bắt đầu khá đơn giản: Một cuộc đánh cá giữa con chồn và con cáo. Kẻ nào đuổi được nhà sư ra khỏi ngôi chùa sẽ trở thành kẻ chiếm hữu nơi đó. Con chồn biến thành một viên quan lớn, truyền cho nhà sư phải lên kinh đô để trình hoàng đế. Con cáo biến thành một thiếu nữ mỹ miều bị cướp xin nhà sư đưa nàng trở về nhà. Nhưng nhà sư thông minh đều nhìn thấu những âm mưu của chúng, và vẫn ở trong ngôi chùa của mình đơn độc. Duy chỉ có con cáo, từ ngày đó đã bắt đầu làm bạn với nhà sư và bí mật tương tư người. *** Review: Sandman – The Dream Hunters Lời văn ma quái của Neil Gaiman – Shakespeare của truyện tranh, kết hợp với những bức họa mỹ lệ của Yoshitaka Amano (họa sĩ của Vampire Hunter D) sẽ trở thành gì? Tác phẩm Truy Mộng – một truyện cổ tích được giao hòa giữa hai nền văn hóa. Cũng như mọi câu chuyện cổ tích khác, Truy Mộng bắt đầu khá đơn giản: một cuộc đánh cá giữa con chồn và con cáo. Kẻ nào đuổi được nhà sư ra khỏi ngôi chùa sẽ trở thành kẻ chiếm hữu nơi đó. Con chồn biến thành một viên quan lớn, truyền cho nhà sư phải lên kinh đô để trình hoàng đế. Con cáo biến thành một thiếu nữ mỹ miều bị cướp xin nhà sư đưa nàng trở về nhà. Nhưng nhà sư thông minh đều nhìn thấu những âm mưu của chúng, và vẫn ở trong ngôi chùa của mình đơn độc. Duy chỉ có con cáo, từ ngày đó đã bắt đầu làm bạn với nhà sư và bí mật tương tư người. Đến chương 2, câu chuyện đột ngột trở nên đen tối với sự xuất hiện của bốn tinh linh đang muốn hãm hại nhà sư. Chúng là tay sai của một viên quan thái bốc nổi tiếng ở Kinh Thành, một người lúc nào cũng sợ hãi – dù không biết là sợ gì. Nghe lời ba người đàn bà tiên tri, ông phải lấy mạng của nhà sư để có sự bình an trong tâm hồn mình. Nàng cáo nghe được âm mưu này, và van xin Mộng Đế để có thể cứu được người mình yêu. Sự hi sinh của nàng có ích hay không? Hay chỉ là vô nghĩa? Kết quả của nhà sư và nàng cáo sẽ ra sao? Viên quan có được sự bình an của mình hay không? Tất cả những người này đều chạy theo một giấc mộng, để rồi phải hối tiếc mãi mãi. Được kể theo một câu chuyện cổ tích Nhật Bản, truyện mang nhiều nét Đông phương huyền bí. Ta thấy ở trong đó là nhà sư, Bồ Tát, ngôi chùa, viên quan ở Nhật, hồ ly tinh hóa thành người, linh vật trong truyền thuyết, v.v. Ngay cả quan niệm lấy thiện báo oán nữa. Tuy nhiên, truyện vẫn có những nét riêng biệt của Tây phương. Khác với truyện liêu trai, các nàng hồ ly không bao giờ cho ta thấy hình dáng thật của nàng, trừ khi là bị nguy hiểm sắp chết. Nàng hồ ly trong Truy Mộng thật là một con cáo, ta thấy nó mơ giấc mơ của con cáo, chạy bằng bốn chân, săn thịt cóc khi đói (ew!) Quan niệm không kẻ nào chống lại được số phận dù có cố gắng đến mấy. Điểm đặc biệt nữa của truyện là không nhân vật nào trong truyện có tên. Mọi người chỉ là như thế: nhà sư, nàng hồ ly, vị quan, mộng đế … Những người đó đã bị thời gian xóa đi tên, không ai nhớ nữa, nhưng họ vẫn trở về trong mơ. Ở đây, ta gặp lại những nhân vật quen thuộc của bộ truyện Sandman. Mộng đế – dĩ nhiên – vẫn xanh xao, nhưng với vẻ đẹp kì bí, có thể nói là đẹp trai hơn dưới ngòi bút của Amano. Ba nhà nữ tiên tri (hay phù thủy) là hiện thân của ba nữ thần Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai. Hai anh em sinh đôi với người em tốt bụng luôn giúp đỡ người ta và người anh luôn muốn giết người em. (Mà những ai đã đọc qua Sandman truyện tranh chương 2 trong Thư Viện đều đã biết