Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoa Hồng Trắng

Bộ truyện tình báo của Nguyễn Sơn Tùng - Nhà xuất bản Lao Động phát hành năm 1987, 4 tập gồm: Hoa hồng trắng Miền đất lạ Viên đạn ngược chiều Một mình trên đất khách. *** Mặt trời như trút lửa xuống ruộng đồng, cây cối im lìm, không một làn gió thoảng qua, mặt đường nóng bỏng, vắng bóng người lai vãng, sau vài khóm tre xơ xác tiêu điều, ẩn hiện những mái nhà tranh bạc phếch. Trên con đường đất từ Kiến-an về Đồ-sơn có hai chiếc xe gíp nhà binh đang mở hết tốc độ lao vun vút, cuốn lại sau một lớp bụi mờ. Hai chiếc xe chạy đến ngã ba thì dừng lại. Từ chiếc xe đi trước nhảy xuống ba tên lính đeo súng “mát”, mặt mũi đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, một trong ba tên quay lại chiếc xe sau hỏi: - Ngài đồn trưởng cho chúng tôi giải khát chứ ạ? Từ chiếc xe sau bốn tên nhảy xuống, bọn chúng cũng ướt đẫm mồ hôi, một tên đeo lon trung úy có bộ mặt lưỡi cày dài ngoẵng, cái sống mũi gồ, cặp mắt xếch và đôi lông mày rậm, hắn khoát tay ra lệnh: - Vào hàng cô Mơ! - Rồi khệnh khạng tì tay phải vào chuôi khẩu “côn bát” đeo lủng lẳng bên sườn, hắn ngất ngưởng đi vào quán, theo sau là những tên lính tùy tùng. Trong quán có mấy bà đi buôn, gồng gánh thúng mủng, đang lấy nón ra sức quạt, khi thấy bọn chúng vào vội vàng nem nép dồn vào một góc. Còn cô chủ quán trạc hăm bốn, hăm nhăm tuổi, vấn tóc trần, mặc áo phin nõn bó chặt bộ ngực phồng căng, đang vội vã lấy khăn lau sạch chiếc bàn đã được phủ lên trên tấm vải ni-lông hoa, ỏn ẻn nói: - Bẩm ngài đồn trưởng, ngài muốn gì ạ? - Kem sô-đa! Hôm nay có đá không cô em? - Tên đồn trưởng hỏi sau khi đã ra lệnh cho bọn lính được phép ngồi xuống bàn. - Dạ thưa ngài, khó mua lắm ạ! Thằng em em nó đi Hải-phòng, suốt từ sớm tới giờ chưa lấy được về, các ngài xơi sô-đa tạm vậy, có cả bia và nước chanh chai ạ! - Nóng thế này mà không có đá, chán thật! - Một tên hạ sĩ đứng dậy vừa xốc lại chiếc quần soóc ka ki vừa nói - Cô Mơ này, nếu lần sau cô thấy chiếc xe của quan đồn đi qua thì thế nào cô cũng phải chạy cho bằng được đá nhé! Lúc về, quan đồn bao giờ cũng xuống giải khát ở hàng cô, cô không thấy đó là vinh dự à? - Dạ em biết. Nhưng quả thật dạo này nóng quá mà đá thì rất hiếm, tranh nhau mãi, không mua được, quan đồn có cách nào giúp em mua đá được không? Nếu được thì em cám ơn quan đồn vô cùng ạ! - Mua đá hộ cô à? - Tên đồn trưởng hỏi rồi phá lên cười, cả bọn thấy hắn cười cũng cười theo. Tên đồn trưởng hỏi tiếp: - Nếu mua đá hộ cô thì cô em có tính tiền giải khát cho tôi không? - Dạ, em ủng hộ ạ! - A! Được rồi, thế thì viết cho cô một cái giấy nhé, nói là mua đá phục vụ quân đội quốc gia. Mỗi ngày một cây đủ chưa? - Dạ, được hơn thì càng tốt ạ! - Cô chủ quán mừng rỡ tiến đến phía sau tên đồn trưởng, ghé sát mớ tóc đã bôi nước hoa qua vai hắn trong khi hắn đang hí hoáy viết vào tờ giấy đóng dấu sẵn. - Đây, cho cô em, vừa ý chưa? Cô hàng nhận giấy, liếc mắt đưa tình và cất giọng ỏn ẻn: - Em xin cảm ơn! Bỗng tên đồn trưởng túm lấy tay cô kéo sát lại gần rồi nghiêm sắc mặt: - Cấm cô không được chỉ đường cho Việt Minh đấy! - Dạ. - Thấy người lạ mặt lảng vảng đến hàng thì phải theo dõi. - Vâng ạ! - Nếu thấy người nào nghi ngờ là du kích thì phải lập tức báo ngay cho lý trưởng để đồn kịp thời cho lính xuống bắt! - Dạ. - Nếu gặp khó khăn thì cô chịu khó lên đồn gặp tôi, tôi sẽ giúp đỡ. - Cám ơn quan lớn ạ! Tên đồn trưởng định kéo sát cô chủ quán gần mình nữa nhưng thấy bọn lính đang nhìn, hắn tảng lờ, vờ hỏi: - Những điều tôi dặn cô nghe rõ chứ? - Dạ, em nghe rõ cả. - Được, thôi ta đi - Hắn ra lệnh cho cả bọn và khệnh khạng bước lên xe, quên trả tiền hơn chục chai nước ngọt. Xe nổ máy, bọn chúng giơ tay chào cô chủ quán, một tên nói tiếng Tây giả cầy. - Ô-rơ-voa, ma-đờ-ma-den! Hai chiếc xe cùng rú ga phóng vun vút trên đường về Đồ-sơn, nhả lại đám bụi mù mịt tỏa vào các quán hàng ở ngã ba, khiến mọi người phải giơ tay lên bịt mũi. Bọn chúng đi được chừng mười phút thì những người ở ngã ba bỗng nghe thấy tiếng nổ. Một đám khói và bụi bốc cao lên ở phía Đồ-sơn. Một số người từ các quán hàng đổ xô ra nhìn và reo lên: - Mìn, bọn chúng vấp phải mìn rồi! Tiếp theo là tiếng súng máy nổ loạn xạ một hồi lâu rồi tiếng động cơ ầm ì xa xa. Từ trên đồn, tên thiếu úy đồn phó sau khi nghe thấy tiếng nổ lớn rất gần, hốt hoảng quay điện thoại gọi ra trạm tiền tiêu hỏi tên hạ si thường trực thì được biết có mìn nổ trên đường quốc lộ. Hắn thất sắc, nghĩ đến khả năng đồn trưởng bị phục kích, hắn vội vàng ra lệnh báo động. Gần một trăm tên, súng ống đầy đủ nhốn nháo tập trung dưới sân đồn. Tên đồn phó hạ lệnh cho một trung đội lên hai chiếc xe cam nhông, mở máy đi tiếp cứu. Nhưng vừa ra khỏi đồn thì thấy chiếc xe đồn trưởng về tới nơi, bọn chúng đều dừng lại và đoán rằng đã có chuyện chẳng lành. Tên đồn trưởng mặt tái mét từ trên xe bước xuống, theo sau là hai tên cận vệ quần áo tả tơi đầy bụi cùng tên tài xế vừa chết hụt. - Ông cho ngay quân xuống cây số mười lăm kéo chiếc xe bị mìn cùng xác ba binh sĩ về, đồng thời càn kỹ khu vực quanh cây số mười lăm - Đồn trưởng hạ lệnh cho đồn phó, tên này đang đứng nghiêm trước mặt hắn. - Bắt cho bằng hết những đứa làm ruộng xung quanh đem về đồn! - Xin tuân lệnh! Đồn phó rập gót giày, giơ tay chào và nhảy vội lên xe phóng thẳng. Tên đồn trưởng thất thểu bước ngay về buồng riêng, mở quạt máy và cứ để nguyên quần áo bẩn như vậy nằm sóng soài trên giường, mắt trợn tròn vừa sợ hãi vừa giận dữ. Từ ngày được bổ nhiệm về thay thế tên quan ba Phéc-đi-man đến nay đã gần ba tháng. Cái đất đáng nguyền rủa này lại chính là nơi các quan khách thường lui tới nghỉ mát trong những dịp hè. Tên tỉnh trưởng Kiến-an đã chỉ thị cho hắn phải kiện toàn màng lưới bảo vệ khu vực nghỉ mát bất khả xâm phạm này, vì vậy hắn đã được bổ sung thêm một đại đội bảo an do thiếu úy Toàn chỉ huy. Hôm nay, hắn lên tỉnh để chuẩn bị tiếp nhận và trên đường về bị vấp mìn của du kích. Chiếc xe đi đầu bị nổ tung, thiệt mạng ba tên lính cận vệ. Còn hắn ngồi xe sau nên thoát chết. Hắn nhớ lại những ngày vẫy vùng chỉ huy bọn phỉ ở vùng biên giới Móng-cái. Đến khi quân Pháp trở lại chiếm đóng, hắn đã đem hơn chục tàn quân, những hảo hán trên mặt biển, đến gặp tên quan năm Sác-lơ Đo xin đầu thú. Cảm động về sự nhiệt thành của hắn, Sác-lơ Đo đã tiếp nhận và đề nghị với bộ chỉ huy phong cho hắn chức trung úy và cất nhắc lên làm đồn trưởng Móng-cái một thời gian. Vì hắn là người địa phương, lại xuất thân là một tên giặc biển nên nhân dân Móng-cái đều căm ghét hắn vô cùng. Hễ nghe nói đến Tằng Sáng, đồn trưởng Móng-cái, thì từ đứa trẻ lên ba đến các cụ già đều phải khiếp vía kinh hoàng. Tằng Sáng khét tiếng tàn ác, uống máu người không tanh, do đó càng được bọn chỉ huy Pháp tin dùng. Tằng Sáng ra sức lập công với quan thầy, hễ cứ sau mỗi trận càn, nếu bắt được người nào bị nghi là du kích, hắn chặt đầu mổ bụng không thương tiếc. Có người hỏi hắn tại sao lại thích hành hình theo kiểu thời trung cổ như vậy, hắn trả lời: “Cho đỡ tốn đạn. Vả lại có thế bọn Việt Minh mới sợ”. Tằng Sáng được chuyển về Đồ-sơn, đồng bào khu vực Đồ-sơn lại phải chịu đựng nhiều thảm họa. Hôm nay du kích Đồ-sơn định bắt hắn trả nợ máu nhưng lại giết hụt. Hắn chưa đến ngày tận số. Hắn đang suy nghĩ để tìm cách báo thù du kích, hắn nôn nóng chờ mong tin tức của bọn đi càn. Liệu có bắt được tên Việt Minh nào không? Khi đã mệt, hắn gọi lính hầu lấy nước rửa mặt rồi bước ra phòng làm việc, ngồi thừ mặt trông chờ. Bỗng chuông điện thoại réo vang, hắn vội cầm lấy ống nghe. Từ trạm gác tiền tiêu báo tin là đội quân đi càn đã trở về. Tằng Sáng bước vội ra cửa đồn. Bọn lính do tên đồn phó chỉ huy đang kéo về rầm rập. Tên thiếu úy báo cáo với hắn: - Báo cáo đồn trưởng, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Tằng Sáng sốt ruột hỏi: - Có bắt được tên Việt Minh nào không? - Dạ, bắt được bốn tên đang bắt cua dưới đồng. - Dẫn bọn chúng lại đây. Tằng Sáng hậm hực, không hài lòng khi nhìn thấy ba người đàn bà cùng một em bé trạc mười ba tuổi, quần áo đều rách rưới và mặt mũi lem luốc. Họ lẩy bẩy co dúm lại, mặt mày xanh xám vì quá sợ hãi. Tằng Sáng hất hàm ra lệnh cộc lốc: “Bắn!” Lần đầu tiên, những nạn nhân đáng thương được hưởng ân huệ của hắn là không bị chặt đầu, mổ bụng, moi gan, như mọi khi. Mặt trời đã khuất sau dãy núi, một dải mây đen dài ôm lấy chân trời, một loạt súng nổ vang… Tằng Sáng không chút động tâm. Hắn bước vội vào phòng làm việc, hạ lệnh cho tên thư ký đánh máy một bản báo cáo như sau để gửi lên cấp trên: Kính gửi: Quan tỉnh trưởng Kiến-an. Tôi là Tằng Sáng, trung úy phụ trách khu vực Đồ-sơn xin trân trọng báo cáo với ngài Tỉnh trưởng một việc như sau: Hồi 15 giờ 30, chúng tôi từ trên tỉnh về đến cây số 15 thì bị Việt Minh phục kích. Chiếc xe đi đầu chở ba binh sĩ bị trúng mìn thiệt hại. Chúng tôi lập tức xuống xe chiến đấu. Sau ba mươi phút nổ súng ác liệt, bọn chúng đã phải rút lui, binh sĩ của chúng tôi tiếp tục càn quét và đã bắt sống được bốn tên Việt Minh, đem về đồn tra hỏi, bọn chúng đều ương bướng không chịu khai. Thừa lệnh quan Tỉnh trưởng, chúng tôi đã xử tử hình bọn chúng. Chiến lợi phẩm thu được gồm một số lựu đạn và một quả mìn chưa nổ, chúng tôi sẽ gửi lên tỉnh sau. Vậy đề nghị quan Tỉnh trưởng ghi vào sổ thành tích chiến đấu của anh em binh sĩ Đồ-sơn. Kính chào quý ngài. Đồ-sơn, ngày X tháng X năm X Đồn trưởng kí tên TẰNG SÁNG Hắn bắt tên thư ký đọc lại cho hắn nghe bản báo cáo trên rồi gật gù với những thành tích giật gân ấy, chắc hẳn phen này cấp trên sẽ gắn thêm cho hắn một chiếc mề đay trong chiến công thật vẻ vang này. Mời các bạn đón đọc Hoa Hồng Trắng của tác giả Nguyễn Sơn Tùng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đắm Đuối - Carter Brown
Một cái xác bị đánh cắp tại nhà xác ngay trong đêm. Trung úy Wheeler được cử đến hiện trường và chứng cứ thu thập được đã giúp anh tìm lại được tử thi đã mất nhưng kèm theo đó lại là một cái xác mới khác. Wheeler trong quá trình điều tra luôn nhận được những tin tức bí mật từ một người lạ mặt và anh đã phải trải qua những ngày dài căng thẳng, mệt nhọc. Cuối cùng, qua từng bước điều tra khôn ngoan và hiệu quả của Wheeler, kẻ sát nhân đã phải lộ mặt và nhận lấy sự trừng phạt thích đáng… *** Carter Brown là bút danh văn học của Alan Geoffrey Yates (1 tháng 8 năm 1923 - 5 tháng 5 năm 1985), một nhà văn người Anh chuyên tiểu thuyết trinh thám. Sinh ra tại Anh, Alan Yates kết hôn và định cư tại Úc vào năm 1948. Anh bắt đầu cuộc sống làm việc của mình như là một kỹ thuật viên điện ảnh, nhân viên bán hàng và trong quan hệ công chúng cho Qantas trước khi viết lên toàn thời gian. Yates nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học. Ông đã viết các phương Tây dưới bút danh Todd Conway, và khoa học viễn tưởng dưới thời Paul Valdez. Ông thậm chí còn tìm được thời gian để viết sách theo các phiên bản khác nhau của tên riêng của mình cũng như các bút danh khác, Dennis Sinclair và Sinclair MacKellar. Nhưng Peter Carter Brown, sau đó là Peter Carter Brown, sau đó là Carter Brown, và trở thành tác giả các tiểu thuyết bán chạy nhất thế giới. Tại Việt Nam, Ông được biết đến với series về Trung úy Wheeler. Một số tác phẩm của Carter Brown đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Xác Chết Vũng Lầy Đắm Đuối *** *** Nhấn hết ga, tôi cho chiếc xe lái với tốc độ một trăm ba mươi cây số giờ trên con đường đất, lòng thầm vái rằng mình sẽ không bị sụp ổ gà và chết tan xác. Sau khi vượt qua khúc quanh gần đoạn cuối, tôi cho xe chậm lại ở vận tốc bảy mươi cây số giờ và khi tôi rẽ vào hoang địa. Tôi thắng gấp và chiếc Austin Healey dừng lại giữa chiếc du lịch màu nâu và chiếc Cadillac xanh. Cả hai hai đều vắng bóng người. Khi tắt máy xe, tôi mới thấy rằng mình đang chìm trong bầu không khí tĩnh mịch, đầy đe dọa. Tôi ngồi đó một lúc, lắng tai nghe ngóng nhưng không biết rõ là mình đang chờ đợi điều gì: tiếng súng nổ, tiếng đạn ráo cày xới những vách đá sừng sững, hay là - để mặc cho trí tưởng tượng vẽ vời - tôi chờ nghe tiếng hổn hển của hai tên khổng lồ đang sống mái trên mỏm đá sừng sững bên trên tôi sáu mươi thước… Nhưng có điều là tôi không hề chờ đợi sự yên ổn! Tôi đóng ầm cửa xe và tiếng động này vang vào vực núi như tiếng sấm gầm. Tôi châm điếu thuốc và bước ra trước xe để quan sát cảnh vật. “Ô kìa Wheeler!” một giọng nói thốt lên từ phía sau tôi. Tôi giật thót người, tưởng chừng cả tấm thân có thể bay bổng lên cả thước. Quay phắt lại, tôi thấy Blake đang ngồi nơi ngăn trước của chiếc du lịch, khuôn mặt hơi khuất dưới cái mũ phớt rộng vành. Y mặc một chiếc sơ mi hở cổ màu ô liu và chiếc quần nhung sọc nhét kỹ vào đôi ủng bóng loáng. Cái khăn quàng cổ màu trắng buộc hờ hững như muốn làm nổi bật hơn làn da rám náng của y. Trên cặp đùi của y là khẩu Winchester calíp 458 tuyệt đẹp với ống ngắm lấp lánh dưới nắng trời. ... Mời các bạn đón đọc Đắm đuối của tác giả Carter Brown.
Bàn Tay Cứu Mạng - Chris Cleave
Trong cuộc chạy trốn bọn giết người hòng truy sát những nhân chứng tội nghiệp của một ngôi làng Nigeria (châu Phi) hiền lành bị san phẳng chỉ vì một nguyên do là nó nằm trên một mỏ dầu, hai chị em Ong Nhỏ - Lòng Tốt đã trốn đến một bãi biển ở Đông Nam Nigeria. Ở đó, hai chị em đã gặp hai vợ chồng nhà báo Anh đi nghỉ mát hòng hàn gắn cuộc hôn nhân đã nguội lạnh của họ. Chưa kịp bày tỏ hết mối hiểm nguy đang rình rập hai chị em, bọn giết người đã đuổi đến, và tên cầm đầu đã ra một điều kiện bất ngờ: nếu người đàn ông da trắng kia chịu chặt một ngón tay thì Ong Nhỏ và Lòng Tốt sẽ được tha mạng. Quá bất ngờ với điều kiện lạ lùng đó, lại không tin vào lời đảm bảo của tên cầm đầu đám sát nhân, người chồng đã từ chối... Và kể từ sau phút giây định mệnh khủng khiếp đó, cuộc đời của Ong Nhỏ và hai vợ chồng nhà báo người Anh đã không còn như trước... *** — “Dù trăng biến mất bao lâu/Một mai trăng lại sáng thâu đêm dài” được lấy từ www.motherlandnigeria.com - Đoạn “Ave Maria” tiếng Ibo được lấy từ trang web: www. christusrex.org — Một số thành ngữ Nigeria được lấy từ “từ điển tiếng Anh Nigeria” của roger blench và Từ điển cách dùng tiếng Anh Nigeria của herbert Igboanusi, Nxb Enicrownfit, 2001. - Một số thành ngữ Jamaica được lấy từ Từ điển tiếng Anh Jamaica của F.G. Cassidy và r.b. Le Page, Nxb Đại học West Indies, 2002. - Một số thành ngữ tiếng Anh bốn tuổi được lấy từ con trai tôi, batman. — Câu “Chúng tôi không nghĩ là có ai lại đi xin quá nhiều băng vệ sinh để làm gì” được lấy từ báo cáo đặc biệt của hội đồng hạt bedfordshire ngày 18 tháng 7 năm 2002 về vụ hỏa hoạn xảy ra ở trại giam Nhập cư Yarl’s Wood ngày 14 tháng 2 năm 2002. — Chi tiết về hệ thống trại giam nhập cư của Vương quốc Anh do Christine bacon cung cấp. Việc Christine đạo diễn vở Những màn độc thoại của người tị nạn với sự tham gia của các nhóm Diễn viên vì người nhập cư tại Vương quốc Anh và Úc là nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết này. bạn có thể tham khảo công trình nghiên cứu của cô, tựa đề “Sự phát triển của trại giam nhập cư ở Vương quốc Anh: Sự nhúng tay của các công ty nhà tù tư nhân” tại trang web www.rsc. ox.ac.uk/PDFs/rSCworkingpaper27.pdf — thông tin về khía cạnh y tế và xã hội của hệ thống nhập cư và trại tị nạn được tiến sĩ Mina Fazel, bob hughes và teresa hayter cung cấp. tôi cũng chân thành cám ơn bob và teresa vì sự nhiệt tình, khích lệ của họ, vì đã đọc bản thảo của tôi và đóng góp ý kiến. tính chính xác của tiểu thuyết này có được là nhờ họ; những sai sót không thể tránh khỏi là do tôi. Cám ơn Andy Paterson và Olivia Paterson vì những ghi chú tuyệt vời cho bản thảo ban đầu của tôi. Cám ơn Sharon Maguire và Anand tucker vì sự nhiệt thành và ủng hộ. tôi mang ơn Suzie Dooré, Jennifer Joel, Maya Mavjee, Marysue rucci và Peter Straus, những người đã kiên nhẫn đọc nhiều lần và biên tập thấu đáo cho các bản thảo của tôi. Sự đóng góp của họ là vô giá. tôi cám ơn các bạn. • Chris Cleave, London, 18 tháng 2 năm 2008 www.chriscleave.com Đời đánh ta má sưng vù Mỉm cười ta bảo phù vì béo thôi - Tục ngữ Nigeria Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Cứu Mạng của tác giả Chris Cleave.
Trước Tòa Đại Hình - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Ông đã đến đây hai trăm, ba trăm lần? Hay còn hơn thế? Ông không muốn đến, cũng không muốn nhớ lại từng trường hợp riêng rẽ, cả những lần nổi tiếng nhất, những lần đã đi vào lịch sử công lý, bởi đó chính là khía cạnh nặng nề nhất của nghề nghiệp ông. Phần lớn những cuộc điều tra của ông tuy nhiên chẳng phải đều kết thúc ở toà Đại hình như hôm nay, hoặc ở toà Phúc thẩm sao? Ông có lẽ thích không biết tới nó hơn, trong bất kỳ trường hợp nào, luôn đứng ngoài những nghi lễ cuối cùng mà ông không bao giờ quên nổi chúng hoàn toàn. Trong văn phòng của ông ở đường bờ sông Orfèvres, cuộc đấu tranh thường kết thúc vào buổi sáng, đúng ra vẫn còn là cuộc đấu tranh của con người với con người. Vài hành lang phải vượt qua, mấy chiếc cầu thang phải leo lên, rồi đến một cảnh tượng khác hẳn, một thế giới khác, trong đó câu chữ không còn cùng một nghĩa, một vũ trụ trừu tượng, thần bí, vừa tôn nghiêm vừa lố bịch. Cùng với những nhân chứng khác, ông vừa rời khỏi phòng xử có những vách gỗ tốt nơi ánh sáng điện của những bóng hình cầu trộn lẫn với màu nhờ xám của một chiều mưa. Viên mõ toà, mà Maigret cam đoan luôn thấy lão vẫn già như thế, dẫn họ tới một căn phòng nhỏ hơn, như một thầy giáo dẫn học trò, và chỉ cho họ những chiếc ghế dài gắn chặt vào tường. Phần lớn ngoan ngoãn ngồi xuống, vâng theo những lời dặn dò của ông chủ tịch, không nói một lời, không cả dám nhìn những bạn đồng hành của họ. Họ nhìn thẳng trước mặt, căng thẳng, kín đáo, giữ bí mật của họ cho khoảnh khắc tôn nghiêm, lát nữa, chỉ có mỗi mình họ giữa một không gian đầy ấn tượng, họ sẽ bị thẩm vấn. Hơi giống như trong kho đồ thánh. Lúc còn bé, mỗi sáng, đến phụ việc hành lễ ở nhà thờ làng, Maigret cũng cảm thấy bối rối như thế khi chờ đợi đi theo ông mục sư tới bàn thờ thắp sáng bằng những cây nến run rẩy. Ông nghe thấy những bước chân của những thiện nam, tín nữ không nhìn rõ mặt, tới ngồi vào chỗ, và tiếng đi đi lại của người coi giữ đồ thánh. Giờ đây cũng vậy, ông có thể đi theo cuộc hành lễ đang diễn ra phía bên kia chiếc cửa không? Ông nhận ra tiếng của ông chủ tịch Bernerie, người xét nét nhất, tỉ mỉ nhất trong các vị quan toà, nhưng cũng có thể là người thận trọng nhất, người say mê nhất trong việc khám phá chân lý. Gầy gò, ăn mặc xuềnh xoàng, đôi mắt như lên cơn sốt, tiếng ho khàn, ông có dáng vẻ như một vị thánh canh cửa. Tiếp đến là giọng nói của công tố viên Aillevard, giữ ghế Viện Công tố. Cuối cùng là tiếng bước chân lại gần của viên mõ tòa hé cửa gọi: “Ngài Cảnh sát trưởng Segré.” .. Mời các bạn đón đọc Trước Tòa Đại Hình của tác giả Georges Simenon.
Kẻ Góa Vợ - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Jeanne là một cô gái điếm bị hành hung, bị rạch mặt một buổi tối xế trước cửa nhà gã, gần một ngôi nhà chứa. Gã đã chứng kiến cảnh đó và đã đưa nàng về nhà mình một cách vô tư, không chút ẩn ý, không lợi dụng mà hoàn toàn vì nhân tính. Khi thanh tra cảnh sát Gordes đến khám nhà vì biết Jeanne trú ở đó, và nói cho gã biết Jeanne là gái điếm có thẻ hành nghề, và đã hai lần trốn khám sức khỏe định kỳ. Gã đã hỏi thanh tra Gordes nếu Jeanne muốn thôi không hành nghề nữa có được không? Tất nhiên gã sẽ đứng ra bảo lãnh vì gã có việc làm ổn định. Thanh tra Gordes đã hướng dẫn gã tiến hành các thủ tục pháp lý nhưng không quên giễu cợt và cảnh cáo gã: “Cái trò này, nó chỉ thành công được một phần nghìn, và cần có quyền thử vận may...” Tám năm trời sống với nhau, có thể gọi là hạnh phúc, mặc dầu là một thứ hạnh phúc khép kín trong một tiểu vũ trụ. Nhưng khi Jeanne hỏi “Anh hạnh phúc chứ Bernard?” thì gã lại chỉ có thể trả lời “Anh không bất hạnh”. Đó là nguyên nhân của mọi sự chăng? Đó là lý do khiến nàng phải sụt sịt khóc thầm khóc vụng, không thành tiếng chăng? Phải chăng vì thế mà nàng mất tích? Phải chăng vì thế mà gã đã để tuột mất cái một phần nghìn nhỏ nhoi trong việc biến Jeanne thành một người vợ bình thường, trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng gã lại không chịu thua cuộc với thanh tra Gordes. Gã vẫn tin ở cái phần nghìn nhỏ nhoi đó của mình. Rốt cuộc, khi được phát hiện việc nàng tự vẫn trong bộ quần áo sang trọng trên chiếc giường hoa của một khách sạn đắt tiền, gần như đã bị hoàn toàn thất bại, gã lại bấu víu vào một cái phao nhỏ khác, đó là bức thư nàng để lại, chắc chắn là để cho gã, nhưng bức thư cũng đã biến mất. Từ thất bại này sang thất bại khác, cuối cùng gã cũng không tin là thư đó gửi cho mình mà rất có thể là cho kẻ đã thuê phòng hàng tháng cho nàng hơn một năm nay. Phải chăng vì lòng tốt, vì thiện ý mà hai người hiểu lầm nhau. Jeanne coi Jeantet như một vị phúc thần, gã quá tốt. Còn Jeantet không muốn Jeanne phải chạm đến quá khứ, cái quá khứ bất hạnh đã để lại một vết sẹo trên má nàng mà có lẽ vì vậy gã rất thích cái mái tóc rủ xuống một bên che đi vết sẹo đó. Gã không biết Jeanne đã phải miễn cưỡng, lén lút bước tiếp cái quá khứ nhơ nhuốc và bất hạnh đó mỗi thứ tư hàng tuần, thời gian duy nhất gã vắng nhà, vì nàng còn có một đứa con trai phải mướn nuôi, phải trả tiền mổ ruột thừa, tiếp đó tiền ăn, tiền trọ học cho nó. Jeantet muốn cùng Jeanne khép mình trong bốn bức tường tạo thành một thế giới riêng nhỏ bé để hạnh phúc của hai người, không ai có thể lọt vào cản trở. Thế nhưng Jeanne lại lén lút phá rào bởi Jeanne không thể, không chịu rời bỏ một người tốt như gã, bởi Jeanne thấy mình cần thiết cho gã. Gã quá tốt, nhưng theo Beaudoin, một chủ doanh nghiệp điện tử lớn của nước Pháp, đầy quyền thế, người tình đầu tiên của Jeanne, là cha đứa con trai của Jeanne, kẻ đã rạch mặt trừng phạt Jeanne vì đã bỏ hắn, lòng tốt của gã đã biến gã thành một con quỷ đồng thời vẫn tỏ ra là một người mộ đạo. Có thật lòng tốt của Jeantet đã buộc Jeanne phải phạm tội, hổ nhục, khốn khổ, vì nhu cầu sống của con người còn mạnh hơn tất cả? Nếu thế sao Jeanne lại tự vẫn? Nếu quả thật Jeantet biến thành một con quỷ sao gã lại nhận con nàng làm con nuôi, chứ không để mặc việc đó cho cha nó, Beaudoin giải quyết sau khi nàng tự vẫn? Đến đây quả thực bức thư gửi cho ai không còn cần thiết nữa, và thực tế là nó đã bị nát trong chậu giặt. Quả thật lý giải lòng tốt, thói xấu, cái thiện, cái ác chẳng để làm gì. Có thể đặt ra một giả thuyết: Cả Jeanne và Jeantet đều cởi mở hơn, nói với nhau tất cả, có khi không cần tốt đến thế họ cũng có thể đạt được hạnh phúc và tránh được cái kết cục bi thảm chăng? Giữa thanh tra cảnh sát Gordes và Jeantet Bernard ai là người thua cuộc, xin dành cho độc giả. Hà Nội, mùa Hè 2002 Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân Mời các bạn đón đọc Kẻ Góa Vợ của tác giả Georges Simenon.