Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thế Giới Trẻ Em

“Thế giới trẻ em” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Ibragimov, đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, lúc thì như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền đau thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh.   Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp.  *** Lấy bối cảnh vùng đất Bắc Kavkaz trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, tác giả Kanta Ibragimov kể câu chuyện bi thương của chiến tranh. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violin đồng thời là nhà vật lý người Nga; nữ y tá người Chechnya và cậu bé 8 tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên "Thế giới trẻ em". Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé sự hồn nhiên của thơ trẻ. Để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, cậu bé phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì cậu xử sự ngây thơ như mọi đứa trẻ, khi lại như người lớn. Câu chuyện về đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn ngẫm nghĩ về tương lai của dân tộc.  Bên cạnh kể chuyện của những nhân vật trong cuộc chiến, Thế giới trẻ em còn là bức tranh hiện thực về chiến tranh. Những cuộc chiến đã tàn phá vùng đất Kavkaz thanh bình và giàu đẹp. Bức tranh bi tráng đó được tác giả tái hiện từ góc nhìn của những người dân bình thường; đó cũng là lời cảnh báo về hậu quả tàn khốc mà chiến tranh gây ra cho con người. Dịch giả Đào Minh Hiệp - người chuyển ngữ Thế giới trẻ em - cho rằng đây là một câu chuyện thấm đẫm chất nhân văn: "Dẫu vậy, trên nền câu chuyện bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái và những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng nghìn năm qua, làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân - thiện - mỹ vì một tương lai tươi sáng". Bản thân tác giả Ibragimov từng trải qua các cuộc chiến ly khai ở Chechnya. Ông vốn là một nhà khoa học, Cục phó Tổng cục thuế Liên bang Nga. Sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương (thủ đô của vùng tự trị này). Tác phẩm đầu tay Cuộc chiến đi qua đưa tên tuổi Ibragimov nổi tiếng ở cả Liên bang Nga. Tổng thống Putin đã trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật cho Ibragimov. Từ đó, nhà văn liên tiếp cho ra đời nhiều tiểu thuyết được đánh giá cao. Hiện tại Ibragimov tiếp tục nghiên cứu khoa học và giảng dạy để nuôi sống gia đình và sáng tác văn chương để nuôi dưỡng tâm hồn.  Các nhà phê bình văn học Nga nhận xét, sự thành công trong lĩnh vực văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan về miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Điều quan trọng, như tác giả nói, ông "không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào". Lam Thu *** Kanta Khamzatovich Ibragimov sinh ngày 9 tháng 7 năm 1960 tại thành phố Grozny, thủ đô nước Cộng hòa Tự trị Chechnya thuộc Liên bang Nga, trong một gia đình trí thức có cha là tiến sĩ Hóa học, còn bản thân là tiến sĩ Kinh tế, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Chechnya, phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thành phố Grozny, giáo sư Đại học Tổng hợp quốc gia Chechnya. Cho đến trước năm 1999, Ibragimov chỉ được biết đến với tư cách là một nhà khoa học với gần ba mươi công trình và đầu sách về kinh tế. Nhưng kể từ khi Ibragimov công bố tác phẩm văn học đầu tay - tiểu thuyết Cuộc chiến đi qua dày bảy trăm trang viết về vùng đất Chechnya quê hương từ khi chính quyền Xô viết được thành lập tại đây vào năm 1924 và tan vỡ hoàn toàn vào năm 1995, thì tên tuổi của Ibragimov không chỉ được thường xuyên nhắc tới trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Chechnya mà cả ở Liên bang Nga. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn, còn tác giả trở nên nổi tiếng và được đọc nhiều nhất ở nước Nga. Và cái gì đến phải đến, bốn năm sau, tác phẩm văn học đầu tay của một nhà khoa học đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật năm 2003. Kể từ đó, Ibragimov liên tục cho ra mắt nhiều tiểu thuyết khác và cũng được bạn đọc đánh giá cao, như Kavkaz già nua (2001), Thầy giáo lịch sử (2003), Thế giới trẻ em (2005), Truyện cổ phương Đông (2007), Ngôi nhà hỗn tạp (2009), Avrora (2012), Viện sĩ Piotr Zakharov (2013)… Và theo thông báo của Cơ quan báo chí Tổng thống và Chính phủ Chechnya, nhà văn Ibragimov đã hai lần được đề cử vào danh sách Giải Nobel Văn học: Năm 2010 với Thế giới trẻ em và năm 2012 với Avrora. Sau khi Liên bang Xô viết tan rã vào năm 1991, nước Cộng hòa Chechnya nhỏ bé trong Liên bang Nga bỗng nhiên được nhiều người biết tới bởi các phong trào ly khai bùng phát dữ dội, biến thành các cuộc chiến đẫm máu. Nhà khoa học Ibragimov đã từng có một cuộc sống sung túc và một công việc ổn định ở Moskva (Phó tổng cục trưởng Tổng cục thuế Liên bang Nga), nhưng sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đã từ bỏ tất cả, đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương, đồng thời trở về với quá khứ của dân tộc bằng các tác phẩm văn học của mình vì những lý do mà theo như lời ông nói là “để không bao giờ được quên những năm tháng đau thương đó và lặp lại những sai lầm khủng khiếp đó”. Thế giới trẻ em là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Bản thân Ibragimov đã trực tiếp trải qua các cuộc chiến tranh này, và khi được hỏi về những năm tháng đó, ông đã thành thật chia sẻ: “Làm người Chechnya trong khoảng mười, mười lăm năm gần đây chẳng dễ dàng chút nào”. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, khi lại như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp. Theo nhận xét của các nhà phê bình văn học Nga, sự thành công trong lĩnh vực Văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan của tác giả về lịch sử miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo mà không cần phải dùng đến những thủ pháp giả tạo. Và điều quan trọng nữa, như chính tác giả bộc bạch, là ông “không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào cả, điều đó không chỉ cần thiết trong Văn học mà còn ở tất cả mọi lĩnh vực”. Với những thành tựu trong Văn học, Ibragimov được kết nạp vào Hội nhà văn Chechnya, Hội nhà văn Liên bang Nga và được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn Chechnya. Hiện tại, Ibragimov vẫn tiếp tục làm công tác khoa học và sáng tác văn học. Theo như ông nói, “Công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy là để nuôi sống bản thân cùng gia đình với năm đứa con, còn văn chương là để nuôi dưỡng tâm hồn”. Tác phẩm của Ibragimov đã nhanh chóng được dịch sang tiếng Anh, Đức, Tây Ban Nha và bây giờ là tiếng Việt. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Người dịch ĐÀO MINH HIỆP *** Lại một lần nữa, thêm một lần nữa tôi trở về chốn này. Tôi đứng đây, chỉ đứng mà chẳng nghĩ ngợi gì cả, đầu óc trống rỗng, thân thể bải hoải, cặp mắt đờ đẫn dõi theo dòng nước đục ngầu của dòng Sunzha. Còn dòng sông, như bao năm nay, vẫn chảy, nhưng tôi có cảm giác, trong đó không còn niềm khát vọng và nhiệt huyết như trước nữa. Tất cả, như mùa đông, đã đến lúc phải dịu lại. Bản thân tôi cũng đã đến lúc phải bình tâm trở lại, phải lùi lại và quên đi tất cả. Nhưng tôi không thể. Tôi cần phải, tôi buộc phải kể về những lỗi lầm của mình, về lỗi lầm chung và tấn bi kịch chung của tất cả chúng tôi… Không phải lần đầu, cũng chẳng phải lần thứ hai tôi đến nơi này, và tôi chờ cho đến khi đã nạp đủ năng lượng để có thể bắt tay vào thực hiện bức tranh tâm huyết của đời mình. Nhưng, than ôi!… Không hiểu tại sao, lúc nào tôi cũng nhớ lại một câu trong đoạn mở đầu tác phẩm Người thầy đầu tiên của Tsinghiz Aitmatov: “Tôi sợ không mang được đến nơi, tôi sợ làm sánh bát nước đầy”, thật đáng tiếc là tôi đã lặp lại điều đó. Tôi cảm thấy đầu óc trống rỗng, mất hết mọi cảm hứng, nhưng tôi vẫn hy vọng, tôi sống bằng niềm hy vọng, tôi rất muốn vẽ được bức tranh quan trọng của đời mình. Và không chỉ một lần tôi đã bắt tay vào việc, nhưng tôi không dám, tôi không thể, tôi không đủ sức, tôi sợ hãi. Mơ ước về bức tranh đó, tôi đã tốn không biết bao nhiêu màu sắc, mà không chỉ có vậy, còn bức tranh thì vẫn cứ ám ảnh tôi. Và để có thể bắt đầu từ một điểm nào đó, tôi lại quay về nơi ấy, đứng rất lâu, cảm nhận sự đau đớn cùng những lỗi lầm và ngẫm nghĩ về những mất mát. Song, tôi cũng chẳng thể nghĩ ra điều gì, chỉ còn lại ký ức, và tôi cũng chẳng nhìn thấy gì, tôi chỉ hướng cặp mắt về phía mặt sông ảm đạm gợn sóng như đang xem một bộ phim rực rỡ sắc màu với một kết thúc khủng khiếp. Dù không muốn xem bộ phim ấy, nhưng tôi không thể dứt ra được. Tôi đã bỏ đi nhưng có một cái gì đó cứ níu kéo tôi lại, vẫy gọi tôi, làm ngực tôi đau nhói, và thế là tôi lại đến cái hoang mạc này, nơi những đám cỏ dại bị khô úa vào mùa đông xuyên qua lớp nhựa đường và bê tông cũ, nhưng rồi lại đơ ra như từ thời xa xưa… Chỉ có dòng Sunzha là vẫn chảy, nó nhìn thấy hết, biết hết, nhớ hết… Và tôi cũng nhớ. Tôi nhớ, nơi đây từng là thành phố Grozny tươi đẹp và tràn đầy sinh lực. Nhiều người bảo, hiện giờ Grozny cũng vậy, nhưng là nói thế thôi, chứ ở đây, giờ trông như hoang mạc, xa một chút là những đống đổ nát, chỉ còn lại cái tên hung dữ của thành phố[1] với những tâm hồn thiếu bản sắc như bóng đen, tất cả đều khoác một màu đen dẫu là mùa đông tuyết phủ trắng, tất cả đều mang vẻ u ám, nặng nề và buồn bã. Nhưng dẫu có thế nào đi nữa, tôi chỉ nhớ đến một thành phố Grozny đẹp như mơ, nơi tôi đã sinh ra, lớn lên, học tập rồi làm việc. Chính tại chỗ này, dạo còn trẻ, tôi đã từng đứng rất lâu. Tại đây, bên bờ sông Sunzha từng có một công viên tráng lệ, quanh năm hoa lá xanh tươi, với đài phun nước cùng những con đường rợp bóng cây, và một cây cầu vắt ngang sông Sunzha. Sau đó, khi người ta xây cây cầu mới lớn hơn, cây cầu cũ này chỉ dành cho người đi bộ, hai bên thành cầu là những bồn hoa màu sắc sặc sỡ. Chính vì vậy mà cây cầu được gọi là Cầu hoa. Cây Cầu hoa này dẫn đến một tòa nhà cổ, đẹp đẽ, hình bán nguyệt. Một nửa tòa nhà dành cho các cơ quan nhà nước, nơi trước đây người bạn gái yêu quý của tôi đã làm việc và buổi chiều sau giờ làm tôi lại đến chống tay lên thành cầu đợi cô ấy. Một nửa tòa nhà còn lại dùng để ở, tầng một là những gian hàng lớn lắp kính với rất nhiều, rất nhiều đồ chơi - đó chính là cửa hàng bách hóa tổng hợp “Thế giới trẻ em”. Phải, tôi cũng có một thế giới trẻ em của mình, nói chung đó là một thế giới hoàn toàn khác cho tới khi trưởng thành. Và tôi là người rất may mắn! Những đứa trẻ hiện nay ở Grozny có một tuổi thơ và tuổi trẻ ra sao? Đó mới là điều đáng nói. Nhưng làm thế nào để cho mọi người biết? Xung quanh là một khoảng trống đáng sợ, thậm chí cũng chẳng còn lại gì từ những cây cầu, chỉ còn lại vài tấm bê tông bám vào trụ cầu phủ đầy tuyết, chắc là chờ cho đến một lúc nào đó người ta cẩu chúng lên để xây dựng lại. Và tôi cũng chờ, tôi mơ ước dựng lại cây cầu của mình, đúng ra là cây cầu nối về quá khứ, nhưng không phải là cái quá khứ sặc sỡ tỏa hương thơm ngát khi tôi còn nhỏ và trai trẻ. Tôi biết, chẳng thà không có cái thời ấy và đừng bao giờ có còn hơn… Phải, tôi muốn nói về quá khứ khác. Về tuổi thơ của người khác, về một thời kỳ khác mãi sau này mới diễn ra. Quả thật, những cây cầu vẫn còn đó, nhưng sự đổ vỡ đã diễn ra rồi. Chuyện xảy ra vào thời kỳ nổ ra cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất[2], cuộc chiến của các phiến quân[3]. Chiến tranh ở Chechnya - chỉ diễn ra ở Chechnya, vì từ thời xa xưa, ở nơi rừng sâu núi thẳm, người ta đã quá quen với các cuộc chiến tranh. Còn các nhóm phiến quân lại rất cần đến chiến tranh, bởi lẽ đó là bối cảnh, là cột thu lôi dư luận, là tấm phông màn màu mè, mà đằng sau tấm bình phong đó là một cuộc chiến không kém phần khốc liệt để tranh cướp tài sản quốc gia, để những kẻ mạnh phân chia lại thế giới. Thôi, Thượng đế phù hộ cho họ… Mà chẳng lẽ Thượng đế lại đứng về phía họ hay sao? Ôi, sao tôi lại nói thế nhỉ! Thật là phạm Thánh?! Tôi đâu có muốn nói về chuyện đó, hoàn toàn không… Tóm lại, trong cuộc chiến lần thứ nhất ở Chechnya, tôi nhớ, cũng như bây giờ, dạo ấy là mùa đông, hình như trước Năm mới, năm 1996. Tôi bay từ Moskva về quê, về Chechnya thăm cha mẹ già mà tôi không thể thuyết phục được họ rời bỏ quê hương. Chuyến đi của tôi phải vòng qua thành phố Grozny, với nhiều “chặng chuyển tiếp”, qua rất nhiều trạm kiểm soát liên hợp với những hàng người nối nhau rồng rắn, bị kiểm tra, thu phí, chấp nhận sự nhẫn nhục và xúc phạm. Mặc dù vậy, tôi vẫn về được đến nhà, ở đấy có mái nhà thân yêu che chở. Tiếng đại bác và tiếng máy bay gào rú suốt ngày không ngớt, trở thành một đặc điểm không thể tránh khỏi của cuộc sống thường nhật, ít ra là người dân địa phương đã quen với tất cả những điều đó, chỉ có điều trái tim của một số người không chịu đựng nổi - vì chúng không được làm bằng sắt. Mặc dù vậy, cuộc sống ở một ngôi làng gần trận tuyến vẫn tiếp diễn, nơi đây vẫn có chợ, có chỗ để thư giãn (miễn là có tiền). Sau hai ngày thăm thú bà con họ hàng, tôi quyết định vào thành phố Grozny: Tôi có việc phải giải quyết, một con nợ cũ đã lâu của tôi, giờ là quan chức của chính quyền mới đang tham gia xây dựng lại thủ đô sau khi bị ném bom, chắc là có tiền. Những người thân khuyên tôi không nên đi vì rất nguy hiểm, khắp nơi vẫn còn bắn nhau loạn xạ, đối với những người không phải dân địa phương, bộ dạng có vẻ giàu có như tôi, chắc chắn sẽ toi mạng ngay tại các trạm kiểm soát liên hợp. Nhưng dẫu sao đi nữa, tiền bạc bao giờ cũng có sức mạnh, thế là người em họ nhận lời chở tôi vào thành phố, không đi đường thẳng mà đi đường vòng nhưng sẽ nhanh hơn vì tránh được những hàng người dài cả cây số bên các trạm kiểm soát. Tuy nhiên, đường này cũng có trạm kiểm soát, chỉ có điều yên tĩnh và vắng vẻ hơn, mặc dù đã là mùa đông nhưng đá vẫn lăn từ trên núi Argun xuống. Một quân nhân liếc vào chứng minh nhân dân của tôi, thấy nơi đăng ký cư trú ở Moskva, liền nhìn thẳng vào mặt tôi khá lâu, khệnh khạng bỏ tay ra khỏi xe, lẩm nhẩm điều gì đó, chăm chú quan sát tôi từ đầu đến chân, rồi hướng ánh mắt vào chiếc áo bành tô dài đắt tiền của tôi. Mời các bạn đón đọc Thế Giới Trẻ Em của tác giả Kanta Ibragimov & Đào Minh Hiệp (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie - Mitch Albom
Đây là một quyển sách nhỏ rất cảm động đã được in lần đầu vào tháng 10, năm 2002. Quyển sách nói về một ông thầy già nua có thật ngòai đời, một cậu sinh viên cũ của người thầy khả kính đó, và những bài học cuối quí giá nhất trên đời. Văn phong của Mitch Albom rất giản dị, kể chuyện một cách rất nhẹ nhàng tâm tình, về những kỹ niệm với ông thầy khả kính và rất ư có cá tính ấy. Sau những ngày thăm viếng thứ ba kết thúc, chúng ta cũng sẽ rất ngậm ngùi thương tiếc cho những kỹ niệm đẹp tuyệt vời mà ông Mitch Albom ghi lại cho chúng ta cùng nhón chân nhìn vào những bài học tuyệt vời đầy tình người với người của cặp thầy trò này. *** Mitch Albom là một nhà báo, giữ mục thể thao cho tờ Detroit Free Press. Liên tiếp mười năm, lúc chỉ vào lứa tuổi trên 30, anh chàng  ký  mục  gia  thể  thao  này,  được  Hội  Ký  Giả  Thể  Thao (Associated Press Sports Editors) vinh danh là người ký muc gia thể Thao hay nhất. Thế rồi một ngày nọ, vì một sự đình công, anh đã tạm ngưng viết mục ký Thể Thao, để hoàn thành quyển sách, sau này là quyển sách bán chạy nhất trong năm 1977 - Quyển sách không liên quan gì tới thể thao. Một quyển sách viết về kinh nghiệm cuộc đời của một giáo sư đại học già đang chết dần mòn vì bệnh Lou Gehrig. Một tối nọ, Mitch Albom đang đổi từ  đài này qua đài khác không mục đích, và anh bỗng chú ý tới chương trình "Nightline" của Ted Koppel. Kìa người ta đang nói về ông Thầy yêu quý của anh! Từ lâu khi ra khỏi đại học, anh không còn liên lạc với ông Thầy Xã Hội Học, mà anh rất thân từ thuở bận quần jeans, áo thun, và đầu óc đầy lý tưởng. Giờ đây Mitch Albom là ký mục gia ăn khách, người ta cần anh viết về các trận banh, bóng rỗ, túc cầu, baseball, quần vợt nóng bỏng. Thêm vào đó anh còn làm cho đài radio, xuất hiện trên đài truyền hình, anh bận rộn với các các buổi phỏng vấn về các tay thể thao gia nổi tiếng đương thời. Anh chạy theo từng mùa của thể thao và quên mất ông Thầy yêu quý đã từng có những buổi nói chuyện đời lý thú với.... Sau buổi truyền hình, Mitch Albom gọi điện thoại hỏi thăm người thầy già, rồi bay về lại thành phố đại học cũ để thăm thầy. Và từ đó mỗi ngày thứ Ba cho đến khi Thầy Morrie Schwartz qua đời, hai thầy trò gặp nhau. Một thầy giảng về cuộc đời, và một trò ghi chép bài học và cảm nghĩ đã thay đổi đời sống của anh. Dù Thầy đang chết dần mòn nhưng thế giới thầy đầy tình yêu và hy vọng. "Tình Yêu là sự hiện diện của ta trên cuộc đời, dù rằng thể xác ta đã ra đi (Love is how you stay alive, even after you are gone).  Mitch Albom đã ghi lại kinh nghiệm của một người đang chết dần mòn, nhưng tư tưởng của ông vẫn còn mãi mãi. Đó là quyển "Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie" (Tuesdays with Morrie) của Mitch Albom. *** Khoá học cuối đời của vị giáo sư già của tôi diễn ra mỗi tuần một buổi tại nhà ông bên cạnh cửa sổ phòng đọc sách, nơi ông có thể nhìn ngắm một cây dâm-bụt, rụng lá đỏ hồng. Lớp nhóm vào mỗi ngày thứ ba. Bắt đầu sau bữa ăn sáng. Môn học là Ý Nghĩa Cuộc Đời. Dạy theo kinh nghiệm. Không có điểm sắp hạng nhưng có thi vấn đáp mỗi tuần. Sinh viên phải trả lời câu hỏi và phải tự đặt câu hỏi của mình. Cũng phải làm một vài công việc tay chân như nâng đầu giáo sư lên để vào một tư thế thoải mái, hoặc đeo cặp kiếng của ông vào sống mũi. Hôn ông từ giã cũng được thêm điểm. Không cần sách nhưng bàn nhiều về đề tài, bao gồm lòng nhân ái, làm việc cộng đồng, gia đình, tuổi già, tha thứ và cuối cùng là cái chết. Bài giảng cuối cùng rất vắn tắt chỉ có vài chữ. Đám tang diễn ra thay cho lễ tốt nghiệp. Mặc dầu không thi cuối khoá nhưng sinh viên phải viết một bài dài về những gì đã học được. Bài ấy được trình bày ở đây. Khoá học cuối cùng của vị thầy già chỉ có một sinh viên. Sinh viên đó là tôi. Khoảng cuối mùa Xuân năm 1979, vào một buổi chiều Chủ Nhật nóng bức, nhễ nhại. Tụi tôi cả trăm đứa ngồi với nhau, bên cạnh nhau, trên nhiều dãy ghế xếp đế trên nền cỏ trong khu trung tâm đại học. Chúng tôi mặc áo thụng nylon màu xanh dương và nghe bài diễn văn dài đến sốt ruột. Khi cuộc lễ chấm dứt, chúng tôi ném mũ lên trời và thế là chúng tôi chính thức tốt nghiệp, hoàn thành  năm  chót  của  đại  học  Brandeis,  nằm  trong  thành  phố Waltham, Massachussetts. Đối với nhiều đứa chúng tôi, tuổi thơ vừa mới hạ màn. Sau buổi lễ, tôi gặp Thầy Morrie Schwartz, ông thầy mà tôi quý mến nhất và giới thiệu Thầy với ba má tôi. Ông là người nhỏ bé, bước đi là những bước ngắn như thể là gió mạnh lúc nào cũng có thể bốc ông lên tới mây. Trong bộ lễ phục ngày tốt nghiệp, trông ông giống như một cây thánh giá dựng giữa ông tiên tri trong Kinh Thánh và một thiên thần tí hon vào dịp Giáng Sinh. Mắt ông long lanh hai màu xanh dương lục, tóc thưa mỏng màu bạch kim xoà xuống trán, đôi tai lớn, sóng mũi hình tam giác và hai chùm lông mày hơi ngả màu. Mặc dầu răng ông không đều đặn và hàm răng dưới thụt vào trong -- giống như có ai đấm xô vào trong -- khi ông cười lại giống như khi bạn vừa nói một câu khôi hài chưa ai từng nói trên trái đất này. Ông bảo ba má tôi là tôi đã chọn tất cả những giảng khoá mà ông dạy. Ông bảo ba má: "Ông bà có một cậu con đặc biệt lắm đấy. " Tôi bối rối nhìn xuống đôi chân. Trước khi chia tay, tôi trao tặng ông thày một gói quà là chiếc cặp da màu xám với tên tắt của phía trước chiếc cặp. Tôi đã mua chiếc cặp này ngày hôm trước tại một thương xá. Tôi không muốn quên ông. Có lẽ tôi không muốn ông quên tôi thì đúng hơn. "Mitch, cậu là một trong những sinh viên giỏi. " Ông vừa nói vừa ngắm chiếc cặp. Rồi ông ôm tôi. Tôi cảm thấy hai cẳng tay gầy gò ôm quanh lưng. Tôi cao hơn ông nên khi ông ôm tôi, tôi cảm thấy ngượng ngùng như tôi là một phụ huynh và ông là một thằng nhỏ. Ông hỏi rồi đây tôi sẽ còn liên lạc với ông nữa không, tôi không do dự trả lời: "Dĩ nhiên còn chứ, Thầy". Khi ông lùi ra, tôi thấy ông khóc. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie của tác giả Mitch Albom.
Người Tình Kỳ Ảo - Sherrilyn Kenyon
MONG MUỐN CỦA EM LÀ MỆNH LỆNH ĐỐI VỚI TÔI (Thay cho lời giới thiệu sách) Grace lùi lại. Tim cô đập thình thịch. Điều này không phải thật. Không thể là thật. Cô chỉ say rượu và bị ảo giác thôi. Hay cũng có thể cô bị ngã dập đầu vào thành bàn và đang nằm bất tỉnh, chảy máu đến chết. Đúng thế rồi! Thế nghe còn có lý. Ít nhất thì điều đó còn có lý hơn trái tim đang đập thình thịch dồn máu hâm nóng khắp cơ thể cô. Trái tim đang van vỉ cô hãy lao vào người đàn ông này. Và than hình anh ta mới đẹp làm sao. Khi cô gặp ảo giác, cô gái, chắc chắn do cô đã quá mệt mỏi. Thời gian gần đây chắc hẳn cô đã làm việc quá vất vả. Cô đang bắt đầu mang những giấc mơ của bệnh nhân về nhà. Anh đưa tay về phía cô và ôm đôi má cô trong đôi tay mạnh mẽ ấy. Grace không thể nhúc nhích. Tất cả những gì cô có thể làm là để mặc anh từ từ nâng khuôn mặt cô lên đến khi cô có thể nhìn sâu vào đôi mắt ấy, đôi mắt mà cô chắc chắn đang xuyên thấu tâm hồn cô. Chúng thôi miên cô như thể một con thú săn mồi nguy hiểm đang thôi mien con mồi. Cô run rẩy trong vòng tay anh. Rồi đôi môi nóng bỏng đầy ham muốn áp vào môi cô. Grace rên lên đáp lại. Cô đã nghe nói rất nhiều về những nụ hôn khiến phụ nữ xúc động đến bủn rủn, nhưng đây là lần đầu tiên cô trải nghiệm điều đó. Ôi, nhưng cô cảm thấy mùi vị của nó thật ngọt ngào, và mùi vị của anh còn tuyệt vời hơn... MỘT HUYỀN THOẠI HY LẠP CỔ Sở hữu một sức mạnh vô song và lòng dũng cảm phi thường, anh là người được các vị thần che chở, khiến những kẻ phàm trần sợ hãi và là niềm khao khát của tất cả những người phụ nữ nhìn thấy anh. Anh là người không biết đến luật lệ, không để tâm tới sự khoan dung với kẻ thù. Chiến thuật của anh trên chiến trường cùng với tài cầm quân xuất chúng có thể sánh ngang với những cái tên như Asin, Ô đi xê và Héc Quyn, lịch sử còn ghi lại rằng ngay cả Thần Chiến tranh Ares hùng mạnh cũng không thể đánh bại anh. Như thể là món quà của Thần Chiến tranh vẫn còn chưa đủ, người ta còn kể rằng ngay khi anh lọt lòng, Nữ thần Tình yêu Aphrodite đã hôn lên má anh và đảm bảo vị trí vĩnh viễn của anh trong ký ức của nhân loại. Được Aphrodite ban phước, anh đã trở thành một người đàn ông mà không một người phụ nữ nào có thể chối từ. Về Nghệ thuật Yêu thì anh không có đối thủ - không một người phàm trần nào có thể bì kịp sự dẻo dai của anh. Dục vọng trong anh nóng bỏng và hoang dã, không ai có thể thuần phục được anh hay có thể từ chối anh. Với ánh vàng của làn da và mái tóc, và ánh mắt của một chiến binh, chỉ riêng sự hiện diện của anh cũng đủ khiến phụ nữ mê mệt, một khi đã được bàn tay anh chạm vào họ sẽ trở nên mù quáng vì sung sướng. Không ai có thể cưỡng lại sức quyến rũ của anh. Và anh đã phải hứng chịu một lời nguyền xuất phát từ sự ghen tị. Lời nguyền không bao giờ có thể hóa giải. Giống như Tantalus[1] khốn khổ, lời nguyền đã bắt anh phải vĩnh viễn đi tìm kiếm sự thỏa mãn mà không bao giờ đạt được. Mong mỏi và khao khát từng cái đụng chạm của những người gọi anh đến và có nghĩa vụ phải đưa họ lên đến đỉnh cao khoái lạc. Từ ngày rằm tháng này cho đến ngày rằm tháng sau, anh phải sống với cô ta, làm tình với cô ta, cho đến khi anh lại bị biến khỏi thế giới này. Nhưng hãy cẩn thận, vì một khi đã được anh chạm vào, hình bóng anh sẽ mãi mãi được ghi dấu trong tâm trí người tình. Sẽ không một người đàn ông nào có thể làm cô ta thỏa mãn được nữa. Bởi vì không một người phàm trần nào có thể sánh được với một vẻ đẹp như thế. Sự cuồng nhiệt như thế. Sự ham muốn nhục dục mãnh liệt như thế. Người mang lời nguyền. Julian xứ Macedon[2] Hãy ôm anh vào ngực và gọi tên anh ba lần vào đúng nửa đêm trăng tròn. Anh sẽ tới với bạn và cho đến ngày trăng tròn của tháng tiếp theo, thân thể anh ta sẽ thuộc quyền điều khiển của bạn. Mục đích duy nhất của anh sẽ là làm bạn hài lòng, phục vụ bạn. Làm cho bạn mãn nguyện. Trong vòng tay của anh, bạn sẽ được biết thiên đường thực sự. [1] Tantalus là con trai Thần Dớt, phạm tội bị đày xuống địa ngục chịu hình phạt đứng trong nước mà không thể uống vì mối khi chạm vào nước sẽ biến mất, đứng dưới cây đầy quả chín mà không thể ăn vì khi đưa tay ra quả cũng sẽ biến mất (ND). [2] Macedon: Một vương quốc thời Hy Lạp cổ đại (ND). *** "Cưng à, cậu cần phải nằm nghỉ." Grace Alexander phát ngại trước giọng nói quá to của Selena khi họ ngồi trong một quán cà phê New Orlean nhỏ ăn nốt bữa trưa có cơm với đậu đỏ. Thật không may cho cô là Selena lại sở hữu một giọng nói có âm vực đáng yêu có thể nghe rõ cả trong giông bão. Và theo sau đó là sự im lặng đột ngột của cả căn phòng đông đúc. Liếc nhìn sang các bàn bên cạnh, Grace nhận thấy những người đàn ông đã dừng nói chuyện và quay sang nhìn họ chằm chằm với sự chú ý quá mức cô mong muốn. Ôi trời! Selena không bao giờ có thể nói nhỏ một chút được sao? Và tệ hơn là không biết cô ấy định làm gì tiếp theo đây? Thoát y và nhảy múa trên bàn? Vẫn thế. Đây là lần thứ một triệu kể từ khi họ quen nhau, Grace đã ao ước giá như Selena có thể cảm thấy xấu hổ. Nhưng cô bạn khoa trương và thường là quá khích của cô không hề biết đến nghĩa của từ xấu hổ. Grace lấy tay che mặt và cố gắng hết sức để có thể lờ đi những cái nhìn tò mò xung quanh. Cô những muốn chui xuống gầm bàn và hơn thế nữa là đá cho cô bạn mấy cái. "Tại sao cậu không nói to thêm chút nữa đi Lanie?" cô thì thầm. "Mình sợ rằng đàn ông bên Canada họ chưa nghe thấy cậu nói gì đâu." "Ồ, tôi cũng không biết nữa," người bồi bàn lanh lợi có mái tóc nâu nói khi dừng lại tại bàn của họ. "Họ thường quay đầu về hướng nam ngay cả khi nghe chúng tôi nói" Hơi nóng dồn lên má Grace khi cậu bồi bàn rõ ràng chỉ tầm tuổi học sinh cấp 3 nhìn cô cười tinh quái. "Tôi còn có thể giúp gì không thưa các quí cô?" cậu ta hỏi rồi nhìn chằm chằm vào Grace. "Hay chính xác hơn là tôi có thể làm gì giúp bà không thưa bà?" Có cái túi nào để tôi chui đầu vào hay cái gậy nào để nện Lanie không? "Tôi nghĩ là có đấy," Grace trả lời trong khi mặt nòng bừng. Chắc chắn cô sẽ giết chết Selena vì chuyện này. "Chúng tôi chỉ cần hoá đơn thanh toán thôi." "Vâng, có ngay," cậu ta nói rồi lôi hoá đơn thanh toán ra và viết vội vàng lên đầu trang. Cậu ta đặt nó trước mặt Grace. "Xin cứ gọi cho tôi nếu bà cần thêm bất kỳ dịch vụ nào." Sau khi cậu ta rời đi, Grace mới nhìn thấy tên và số điện thoại của cậu ta trên đầu tờ hoá đơn. Selena nhìn vào tờ hoá đơn và cất tiếng cười lớn. "Cậu cứ đợi đấy," Grace nói, cố nén cười khi cô tính toán phần của mình trông tổng hoá đơn trên chiếc máy tính Palm Pilot. "Tớ sẽ cho cậu biết tay vì chuyện này." Selena phớt lờ lời đe doạ, vừa cho tay vào cái túi hạt cườm lấy tiền cô vừa nói, "này, này cậu cứ nói đi. Nếu tớ là cậu, tớ sẽ giữ số điện thoại đó. Cậu ta là một cậu chàng xinh trai đấy chứ." "Trẻ con," Grace đính chính. "Tớ nghĩ là tớ sẽ bỏ qua thôi. Bị còng tay vì tội có quan hệ với một đứa trẻ vị thành niên là điều cuối cùng mà tớ mong muốn." Selena liếc nhìn cậu bồi bàn đang đứng tựa một bên hông vào quầy bar, nói: "Ừ, nhưng cậu chàng có vẻ ngoài giống Brad Pitt kia đáng để mạo hiểm đấy. Không biết cậu ta có anh trai không nhỉ?" "Tớ đang tự hỏi không biết Bill sẽ trả bao nhiêu để biết vợ mình đã dành toàn bộ thời gian ăn trưa hau háu nhìn một thằng bé con?" Selena vừa đặt tiền lên mặt bàn vừa khịt mũi. "Tớ không hau háu nhìn cậu ta cho bản thân mình. Tớ nhìn hộ cho cậu. Mà nói cho cùng thì cái chúng ta đang bàn đến chính là đời sống tình dục của cậu." "À, đời sống tình dục của tớ rất tuyệt và chắc chắn nó không có liên quan gì đến những người ngồi trong quán này."Quẳng tiền của mình xuống bàn, Grace vơ nốt miếng pho mát còn lại và đi thẳng ra cửa." "Đừng có cáu kỉnh thế," Selena nói và đi theo cô ra ngoài hoà lẫn vào đám đông khách du lịch và khách bộ hành đang chen chúc nhau trên quảng trường Jackson. Một nhạc công saxophone đang chơi một bản nhạc jazz trên nền tạp âm lẫn lộn của tiếng người nói, tiếng ngựa hí, tiếng động cơ ô tô tất cả đang ào lên như một đợt sóng của hơi nóng hầm hập dội vào đầu cô. Cố gắng hết sức để không để ý đến bầu không khí ngột ngạt đến mức khó thở, Grace đi len qua đám đông và những sạp hàng rong bày bán ngay cạnh hàng rào sắt vây quanh quảng trường Jackson. "Cậu hiểu điều đó mà," Selena nói khi bắt kịp cô. "Ý mình là, ôi chúa ơi, Grace, đã bao lâu rồi? Hai năm?" "Bốn năm," cô lơ đãng nói. "Nhưng ai thèm đếm cơ chứ?" "Bốn năm không làm tình?" Selena thảng thốt nhắc lại vẻ không tin. Một số người đi dạo dừng lại tò mò nhìn hết Selena lại đến Grace. Và như thường lệ sau khi thu hút sự chú ý của mọi người, Selena vẫn thản nhiên nói tiếp. "Đừng nói với mình cậu đã quên rằng bây giờ là thời đại điện tử rồi nhé? Ý mình là, thật ra thì có bệnh nhân nào của cậu biết đã bao lâu rồi cậu chưa làm tình không?" Grace nuốt miếng pho mát và ném cho Selena một cái nhìn nảy lửa. Không biết Selena có định hét lên cho tất cả mọi người và toàn thể lũ ngựa ở quận Vieux Carre này nghe thấy không? "Cậu nói nhỏ thôi," cô nói, rồi nói thêm với giọng khô khốc, "tớ thấy bệnh nhân của tớ chả có liên quan gì đến việc tớ tái sinh lại thành một trinh nữ cả. Nhân tiện nói về thời đại điện tử, tớ thực sự không muốn chuyện riêng tư của mình lại gắn với những thứ dán nhãn lưu ý nguy hiểm và lại có cả pin nữa." ... Mời các bạn đón đọc Người Tình Kỳ Ảo của tác giả Sherrilyn Kenyon.
Mười Rưỡi Đêm Hè - Marguerite Duras
Một anh chồng đã bắn chết cô vợ trẻ, tình nhân của cô ta và đang lẩn trốn trong thị trấn. Mười giờ rưỡi đêm hè ấy, Maria phát hiện ra chỗ trốn của kẻ sát nhân, rồi cứu hắn thoát khỏi vòng vây cảnh sát. Nhưng sau đó hắn lại tự sát. Tại sao Maria lại cứu hắn? Maria, Pierre, một cặp vợ chồng cùng đứa con gái nhỏ và Claire cùng đi du lịch trên chiếc xe ô tô nhỏ của riêng họ. Trên đường đi họ gặp một cơn mưa bão lớn, họ đành phải dừng nghỉ lại ở một thị trấn nhỏ. Ở đây, ngày hôm ấy xảy ra một vụ án mạng. Mười giờ rưỡi đêm, mùa hè, Pierre- chồng Maria và cô bạn Claire ôm hôn nhau say đắm trên ban công khách sạn. Cách đó vài mét là Rodrigo Paestra, kẻ bị truy nã vì vừa giết vợ hắn và người tình giữa lúc họ đang ăn nằm với nhau, đang trốn trên ống khói nóc nhà. Những cơn mưa tầm tã của đêm hè kéo đến hết đợt này sang đợt khác, như che giấu sự dan díu của cặp tình nhân, hủy hoại hình thù bất động của Rodrigo Paestra, tất cả những điều này đều diễn ra trong mắt Maria. Như sự xui khiến của số phận, Maria lẻn ra ngoài đưa Rodrigo Paestra đi trốn. Cô để lại hắn ở đồng lúa mì trên đường đi Madrid và hứa với hắn sẽ quay lại vào giữa trưa rồi trở lại khách sạn. Đêm hôm ấy, trong khách sạn, Pierre và Claire vẫn chưa đến với nhau. Maria kể lại kế hoạch cứu Rodrigo Paestra cho chồng và bạn, việc mà cô cho rằng sẽ cắt ngang chuyến nghỉ mát ở Madrid, nơi chắc sẽ diễn ra cuộc ái ân vụng trộm. Tuy nhiên, khi họ trở lại cánh đồng lúa mì, Rodrigo Paestra đã tự sát. Vậy là hành trình đến Madrid vẫn phải tiếp tục. Tại khách sạn họ dừng lại nghỉ trưa, Maria nói muốn ngủ. Claire đợi cô ngủ rồi sấn sổ ve vãn Pierre và họ ăn nằm chớp nhoáng với nhau. Maria biết điều này, cô biết họ sẽ đến với nhau và đã kiên nhẫn chờ đợi nó suốt cả chuyến đi. Trong mơ hay là thức, cô nghĩ đến Rodrigo Paestra tự sát trong đồng lúa mì, cô tưởng mình cũng đã chết giữa cánh đồng cô đơn ấy. Họ vẫn đến Madrid. Nơi thành phố đẹp rực rỡ ấy, Pierre, trong nỗi ăn năn dày vò, trong sự giãy giụa của mối tình đã chết đột nhiên thèm muốn Maria da diết. Anh gõ cửa phòng cô và điên cuồng ôm hôn cô… Marguerite Duras viết "Mười giờ rưỡi đêm hè" năm 1960, khi bà đã ở độ chín của đời người phụ nữ cũng như độ chín của sự nghiệp. Cuốn sách, vì vậy, phô diễn sự thăng hoa của một tài năng phóng khoáng và đa dạng. Chủ chương xóa nhòa các ranh giới trong văn chương, Marguerite Duras trong "Mười giờ rưỡi đêm hè" đã pha trộn tinh tế thể loại tiểu thuyết trinh thám và tiểu thuyết tâm lý tạo ra một thế giới hỗn loạn và ám gợi: vụ giết người của Rodrigo Paestra, cuộc lùng bắt kẻ sát nhân, việc Maria phát hiện kẻ tội phạm và sự dan díu giữa chồng cô với người đàn bà khác cùng lúc như một định mệnh... Tẩt cả thù hận - đam mê, tội ác - tình yêu, ý thức - vô thức xâm nhập lẫn nhau, càng cố che đậy càng bùng cháy đã dẫn dắt cốt truyện một cách khôn lường trước sự ngạc nhiên và căng thẳng chờ đợi của độc gỉa. Đặc biệt, Marguerite Duras bộc lộ khả năng đi sâu vào những ẩn ức của con người, năng lực khám phá những dòng mạch của vô thức qua tình cảm của Maria dành cho kẻ trừng phạt Rodrigo Paestra. Việc Maria mê mệt trong rượu, sắc đẹp của Claire, đôi bàn tay ve vuốt của Pierre,…là những biểu tượng của tình yêu ở tất cả sự ngọt ngào và man trá, gắn liền với vấn đề tình dục - nỗi ảm ảnh trong các tiểu thuyết hiện đại. Tác giả đã để lại nhiều khoảng trắng câm lặng ở những nơi đứt gãy mạch tâm trạng suốt tác phẩm, và cuối cùng là một kết cục dở dang cho số phận của các nhân vật làm cho tiểu thuyết đọng lại ở dư vị buồn thấm thía của bi kịch tình yêu. Cái kết để ngỏ đặt ra cho độc giả biết bao câu hỏi về sự sống, sự chết, ý nghĩa của cuộc đời, sự chung thủy và phản bội trong tình yêu, hạnh phúc và khổ đau… Một lát cắt trong cuộc đời của các nhân vật chính mà dung lượng tưởng như chỉ đủ cho một truyện ngắn, nhưng dưới ngòi bút tài tình của Marguerite Duras nó trở thành một tiểu thuyết mini với giọng văn hình sự đầy hấp dẫn. Giọng văn đặc trưng của Marguerite Duras khó chịu đến mức cuốn hút buộc người đọc phải đọc liền một hơi cho kỳ hết mới thôi. "Mười giờ rưỡi đêm hè" với những mâu thuẫn nghịch lý giữa tình yêu và tình dục đã biểu hiện tính chất phức tạp, tính hai mặt của cuộc sống con người vì thế mà thấm đượm tinh thần nhân văn của Marguerite Duras. *** - Pasestra, tên là thế. Rodrigo Paestra. - Rodrigo Paestra. - Phải. Và anh chàng bị hắn giết là Perez. - Toni Perez. Trên quảng trường, hai viên cảnh sát đi ngang dưới trời mưa. - Hắn giết Perez vào lúc mấy giờ? Người khách hàng không biết thật chính xác, khoảng quá trưa về chiều mà lúc này thì trời sắp tối. Đồng thời với Perez, Rodrigo Paestra giết luôn cả vợ mình. Hai nạn nhân được tìm thấy cách đây hai tiếng đồng hồ, mãi trong cùng một cái nhà xe, nhà để xe của Perez. Trong tiệm rượu, bóng tối đã lan dần. Tận cuối phòng, trên chiếc quầy ướt át, những cây nến được thắp lên và ánh sáng của chúng, vàng vọt, hoà lẫn với ánh sáng phơn phớt xanh của ngày tàn. Trận mưa rào bỗng tạnh đột nhiên như nó đã đột nhiên ầm ầm trút xuống. - Bao nhiêu tuổi, cô vợ của Rodrigo Paestra? – Maria hỏi. - Trẻ măng. Mười chín tuổi. Maria bĩu môi luyến tiếc. - Tôi muốn một ly rượu manzanilla nữa – chị bảo. Người khách hàng gọi cho chị một ly. Ông ta cũng uống rượu manzanilla. - Tôi băn khoăn sao họ vẫn chưa bắt được hắn ta nhỉ - chị nói tiếp – thành phố bé tí tẹo thế này. - Hắn thông thuộc thành phố còn hơn cả cảnh sát. Rodrigo, một tay cừ khôi đấy. Quầy rượu đông nghịt. Người ta bàn tán về tội giết người của Rodrigo Paestra. Ai nấy nhất trí về Perez, nhưng về cô nàng thì không. Một cô bé oắt con. Maria uống ly manzanilla. Người khách hàng ngạc nhiên nhìn chị. - Bà vẫn uống như thế này à? - Cùng tùy – chị nói – đại khái, vâng, gần gần như thế này. - Một mình? - Vâng, vào lúc này. Tiệm rượu không nhìn trực tiếp ra đường, nhưng ra một dãy nhà cầu hình vuông mà đại lộ chính của thành phố chia cắt, xuyên qua cả bên này lẫn bên kia. Dãy nhà cầu ấy có hàng lan can bằng đá vây quanh, mặt lan can đủ rộng và đủ vững chắc để chịu đựng sức nặng của bọn trẻ con nhảy lên trên hoặc nằm dài ra đấy nhìn những trận mưa rào ập đến và các cảnh sát đi qua. Trong số bọn trẻ ấy có Judith, con gái của Maria. Đứng tì tay lên một chiếc lan can cao đến ngang vai, nó nhìn ra quảng trường. Lúc này có lẽ vào khoảng sáu, bảy giờ tối. Một trận mưa rào nữa kéo đến và ngoài quảng trường chẳng còn ai. Những cây cọ lùn thành khóm, ở giữa quảng trường ấy, quằn quại trước gió. Các bông hoa, trong khóm cây, bị dập nát. Judith từ nhà cầu chạy tới và nép vào mẹ. Nhưng nỗi sợ hãi của nó đã bay biến. Những tia chớp loé liên tiếp đến nỗi chúng móc xích lại với nhau và sấm sét ầm ầm không dứt. Đôi khi chúng phá lên như tiếng gang tiếng thép, nhưng liền ngay đó lại chuyển sang tiếng ì ầm cứ nghẹt đi dần theo với trận mưa dịu ngớt. Trong nhà cầu trở nên yên lặng. Judith rời mẹ và chạy ra nhìn mưa cho gần hơn. Rồi nó nhìn quảng trường nhảy múa trong những sọc mưa rơi. - Mưa đến suốt đêm mất – người khách hàng nói. Mưa bỗng tạnh đột ngột. Người khách hàng rời quầy rượu và trỏ bầu trời xanh xẫm, nhiều vùng viền quanh bằng màu xám xịt như chì và sà xuống đến tận các mái nhà, vì trời rất thấp. Maria lại muốn uống nữa. Người khách gọi những ly manzanilla mà chẳng phê bình gì. Ông ta cũng sẽ làm thêm một ly. - Chính là chồng tôi muốn chọn Tây Ban Nha để đi nghỉ hè đấy. Chứ như tôi thì chắc đã ưng đi nơi khác hơn. - Đi đâu? - Tôi chưa nghĩ đến. Cùng một lúc đi khắp nơi. Và cả Tây Ban Nha nữa. Ông đừng để ý đến những điều tôi nói. Thực ra, tôi rất hài lòng được sang Tây Ban Nha mùa hè này. Ông ta cầm chiếc ly manzanilla của mình và đưa cho chị. Ông trả tiền cho bồi bàn. - Ông bà tới đây vào khoảng năm giờ phải không? – Người khách hàng hỏi – Hình như ông bà đi trong một chiếc Rover nhỏ màu đen, nó đã dừng lại trên quảng trường chứ gì? - Vâng – Maria nói. - Lúc ấy còn rất sáng – ông ta nói tiếp – Trời không mưa. Cả thảy có bốn người trong chiếc Rover màu đen ấy. Có ông chồng bà lái xe. Bà ngồi cạnh ông ta? Đúng không? Và phía sau có một cô bé – ông chỉ nó – cô bé này. Và một phụ nữ nữa. - Vâng. Chúng tôi gặp cơn dông từ lúc ba giờ chiều, giữa đồng không mông quạnh và con bé của tôi đâm sợ. Vì vậy, chúng tôi đã quyết định dừng lại ở đây chứ không đến Madrid tối nay. Người khách vừa nói vừa ngóng ra ngoài quảng trường, nhìn những viên cảnh sát do trời tạnh mưa, đã lại thấy đi qua đi lại và ông ta cố lắng nghe những tiếng còi rít lên từ mọi góc phố, lẫn trong tiếng sấm rì rầm. - Cô bạn tôi cũng sợ cơn dông lắm – Maria nói thêm. Phía mặt trời lặn là ở đầu đại lộ chính của thành phố. Đó là hướng đi tới khách sạn. Kể ra cũng chưa đến nỗi muộn lắm như người ta tưởng. Cơn dông đã làm rối tung cả giờ giấc, đã thúc đẩy chúng ta nhanh lên, nhưng nay mặt trời đã lại hiện ra, ửng hồng, qua bầu trời sâu thẳm. - Họ đang ở đâu? – Người khách hỏi. - Ở khách sạn Principal. Tôi phải về với họ đây. - Tôi vẫn nhớ. Một người đàn ông, chồng bà, bước một chân ra khỏi chiếc Rover màu đen và ông ấy đã hỏi tốp thanh niên là trong thành phố có bao nhiêu khách sạn. Và ông bà đã đi về hướng khách sạn Principal. - Chẳng còn phòng nào, tất nhiên. Lúc ấy cũng đã chẳng còn phòng nào. Bầu trời lại vần vũ đầy mây. Lại chuẩn bị một cơn dông nữa. Cái khối màu xanh sẫm của buổi chiều hôm ùn ùn như đại dương kia tiến lừ lừ phía trên thành phố. Nó từ phương đông kéo tới. Trời chỉ còn đủ ánh sáng lờ mờ để người ta nhìn thấy màu sắc đáng lo ngại của nó. Chắc là họ vẫn đứng ở rìa ban công. Đàng kia ở đầu đại lộ. Nhưng kìa đôi mắt em xanh, Pierre nói, lúc này là do bầu trời. - Tôi vẫn chưa thể về được. Ông nhìn mà xem, trời lại muốn đổ mưa. Lần này Judith chẳng vào nữa. Nó nhìn lũ trẻ chân đi đất chơi nghịch trong những rãnh nước ngoài quảng trường. Nước chảy nhớp nháp ở dưới chân chúng. Đó là một thứ nước màu đỏ quạch, đỏ như đá của thành phố và như đất quanh vùng. Tất cả đám thanh niên đều ở bên ngoài, trên quảng trường ấy, dưới bầu trời sấm vang chớp loé liên hồi. Người ta nghe thấy tiếng thanh niên huýt sáo du dương nổi lên giữa tiếng sấm rền. Mưa ập đến đây rồi. Đại dương trút xuống thành phố. Quảng trường biến mất. Dãy nhà cầu đầy những người. Trong tiệm rượu người ta nói to hơn để nghe cho rõ. Đôi khi người ta hét lên. Với những cái tên của Rodrigo Paestra và Perez. ... Mời các bạn đón đọc Mười Rưỡi Đêm Hè của tác giả Marguerite Duras.
Một Mảnh Trò Đời - Steve Toltz
"Một mảnh trò đời" được đánh giá là tác phẩm nặng ký của một nhà văn trẻ từng gây xôn xao văn đàn thế giới và sau đó được lọt vào danh sách shortlist của giải Man Booker 2008.  Các nhà phê bình đã từng có những lời khen tặng dành cho cuốn tiểu thuyết như: “hài hước vô biên,” "một quyển sách có thể chứa đựng bí mật cuộc đời,” “một chiếc tàu lượn nhào lộn điên loạn,” "Nghìn lẻ một đêm thời hiện đại”… Đó là những đánh giá dành cho cây bút người Úc sinh năm 1972, Steve Toltz. Chuyện sống không giống ai "Một mảnh trò đời" là câu chuyện về những nhân vật bất bình thường sở hữu những ý tưởng ngỡ như điên rồ sống một cuộc đời không giống ai. Câu chuyện diễn ra qua lời kể của hai cha con Martin Dean và Jasper Dean. Người cha Martin luôn có những suy nghĩ khác người, từng vào viện tâm thần và sau đó sống cuộc đời ẩn dật tại một căn nhà giấu trong một mê cung.  Các dự án kì lạ của ông đã giúp ông được nước Úc tung hô như anh hùng, nhưng cũng chính các dự án đó đã đẩy ông xuống vực sâu, phải trốn chạy khỏi nước Úc. Cậu con trai Jasper, chịu sự dạy dỗ khác người của bố từ bé, phải vật lộn chứng tỏ bản thân để thoát khỏi cái bóng của bố mình, chỉ để rồi sau đó nhận ra ông thật đáng thương và cậu yêu ông xiết bao.  Người gắn kết hai cha con là Terry Dean, em trai của Martin, một tên tội phạm khét tiếng của Úc, phạm tội với mục đích duy nhất là... làm trong sạch ngành thể thao! Cuốn sách đưa người đọc vào một chuyến phiêu lưu trên một phạm vi rộng lớn, và nhiều hoàn cảnh lạ lùng. Từ một vùng đất hoang xơ của xứ sở chuột túi đến thủ đô Paris phóng túng, tới những cánh rừng tại đất nước Thái Lan, đặt chân tới một mê cung kỳ quái, nhà thương điên, thâm nhập vào hang ổ tội phạm, cho tới chuyến vượt biên khủng khiếp lênh đênh trên biển...  Toàn bộ tạo ra một cơn lốc xoáy của các sự kiện, người đọc bị hút sâu vào một thế giới đầy rẫy những điều lập dị, kỳ quái. Gia đình nhà Dean bị cười chê bởi họ không suy nghĩ như đám đông, không hành động như đám đông.  Các nhân vật rất khác với số đông. Song có vẻ như chính cái số đông cho mình là bình thường mới là những kẻ đầu óc có vấn đề. Đó là số đông mù quáng khi tung hô những tên tội phạm lên thành anh hùng.  Đó là số đông vô cảm hau háu trước các tin tức giật gân, được đáp ứng bằng một bộ phận truyền thông sẵn sàng vào cuộc moi móc chuyện đời tư của người khác. Và khi giá trị giải trí không còn, số đông đó sẽ không ngần ngại tống những kẻ suy nghĩ ngược lại với họ vào tù, hoặc nhà thương điên. Truyện đặt ra nhiều câu hỏi như xã hội có thể chấp nhận sự khác biệt của các cá thể trong nó đến mức độ nào? Và mỗi con người có cần gò mình vào khuôn khổ để được chấp nhận, nếu không muốn đứng ngoài cuộc chơi? Câu hỏi đó đeo đẳng hai cha con Martin và Jasper suốt cuộc đời.  Những triết lý thấm thía Trong khi người bố quyết định sẽ làm kẻ khác người đến phút chót, thì cậu con trai, trước khi bước vào cuộc phiêu lưu của đời mình, lại lưỡng lự: “…khi bạn là đứa trẻ, để ngăn bạn làm theo số đông, bạn sẽ bị phủ đầu với câu: “Nếu mọi người nhảy khỏi cầu, con cũng làm thế ư?” nhưng khi bạn là người lớn và sự khác người bỗng dưng trở thành một cái tội, thì người ta hình như hay nói: “Này. Mọi người đang nhảy khỏi cầu. Sao cậu không làm đi?”” Tác giả Steve Toltz đã đặt những vấn đề đó vào một tác phẩm có thể ví như bữa tiệc thịnh soạn của ý tưởng và ngôn từ. Viết về những điều khác thường, người viết phải có một trí tưởng tượng cực kì phong phú.  Những ý tưởng sáng tạo và cách kể chuyện hài hước khiến câu chuyện lôi cuốn ngay từ đầu. Toltz gây tò mò với những sáng kiến kì dị: lập ra liên minh dân chủ tội ác, xuất bản cẩm nang tội ác cho tội phạm, xây nhà trong mê cung, biến tất cả những người Úc thành triệu phú…  Những suy nghĩ quái chiêu sẽ làm bạn đọc không nhịn được cười: “Anh sẽ ngạc nhiên khi biết nhiều tên trộm đã cởi găng tay ra để ngoáy mũi. Tôi muốn nhấn thật mạnh điều này: Đừng để dấu vân tay lại bất kì đâu! Ngay cả trong mũi của anh!” "Một mảnh trò đời" mang đầy hài hước, tốc độ ngôn từ nhanh khiến cho người tiếp nhận trước nhiều điều lạ lẫm ngày từ những gì ngỡ bình thường và thấy không thể tưởng tượng được mình đã buồn cười thế nào. Dịch giả Thi Trúc là dịch giả của hai tác phẩm văn học nổi tiếng là "Cọp trắng" (Aravind Adiga – giải Man Booker 2008) và "Bà Mụ" (Chris Bohjalian) chia sẻ rằng chị đã cố gắng chuyển thể tác phẩm thật sát với cách thể hiện trong nguyên tác với hy vọng bạn đọc cảm nhận được văn phong của tác giả và sự thú vị trong lối hành văn độc đáo. *** Cuốn tiểu thuyết từng lọt vào chung khảo giải Man Booker của nhà văn Úc Steve Toltz. Một ký ức tuổi thơ khác thường đầy chấn động của Jasper Dean. Ở đó, có sự thất bại triền miên của người cha, sự vắng mặt bí ẩn của người mẹ và người chú là kẻ phạm tội khét tiếng. Một tiểu thuyết nhiều cung bậc, tràn trề trải nghiệm, từ các xó xỉnh tận cùng đến những đỉnh cao thăng hoa, từ bần cùng tuyệt vọng đến sự thanh thoát cao cả. Tất cả trộn lẫn trong một giọng văn hài hước đến chua chát. Gia đình tỉnh táo nào cũng giống nhau - nhưng mỗi gia đình điên rồ lại điên rồ theo một cách khác nhau. Khi hồi tưởng những sự kiện bất thường dẫn đến cái chết ngoạn mục của người bố tên Martin, Jasper Dean đã kể lại chính tuổi thơ đầy rẫy những kế hoạch điên khùng và phát hiện chấn động - về ông chú tội phạm đầy tai tiếng Terry Dean, người mẹ vắng mặt một cách bí ẩn của anh ta, và thất bại triền miên của Martin trong nỗ lực để lại dấu ấn trên cõi đời. Từ rừng rú nước Úc đến Paris phóng túng, từ những cánh rừng của Thái Lan đến các mê cung, nhà thương điên, và hang ổ tội phạm, và từ đỉnh cao của mối tình đầu đến vực sâu của tham vọng bất thành, “Một mảnh trò đời” là một cuộc phiêu lưu khó quên. *** Steve Toltz là một tiểu thuyết gia người Úc. Anh sinh năm 1972 ở Sydney. Tiểu thuyết đầu tay của Toltz là A fraction of the whole (xuất bản ở Việt Nam dưới tên Một mảnh trò đời) đã đoạt giải Man Booker năm 2008. Toltz đã từng học tại trường Knox Grammar School, Killara High School và tốt nghiệp trường đại học Newcastle, ở New South Wales vào năm 1994. Vì sự nghiệp văn chương của mình, anh đã từng chuyển đến sống ở Montreal, Vancouver, New York, Barcelona và Paris, với nhiều công việc khác nhau như: quay phim, tiếp thị viễn thông, bảo vệ, thám tử tư, giáo viên tiếng Anh và biên kịch phim. Toltz đã cưới nữ họa sĩ đầy triển vọng mang trong mình hai dòng máu Pháp-Úc Marie Peter Toltz vào năm 2005. Họ sinh được một người con trai vào năm 2012. Trong một lần trả lời phỏng vấn cho trang The Book Depository, Toltz cho biết với anh, việc khó khăn nhất trong quá trình viết một cuốn sách chính là: chờ đợi cho đến khi khả năng bản thân bắt kịp được tham vọng của mình. Anh đã mất 5 năm để viết tiểu thuyết đầu tay A fraction of the whole. Khi sáng tác, Steve viết tay liên tục trong hai tiếng đồng hồ và mục tiêu của anh là cố gắng hết mức để mỗi ngày có thể viết càng nhiều những lần hai tiếng càng tốt. Vào buổi tối, nếu như có tinh thần kỉ luật, Toltz sẽ đánh máy lại tất cả những gì mình đã viết vào buổi sáng. Nếu như không có được tinh thần tự giác kỉ luật ấy, mà tình trạng này thường xuyên xảy ra nhiều hơn là có, những bản viết tay sẽ chất chồng, sau đó Toltz phải dành toàn bộ những ngày riêng rẽ chỉ để chuyển thứ mình đã viết lên máy tính. Thường thì chữ viết tay của anh rất khó đọc và anh phải cố gắng để đoán xem mình đã viết gì. Những lúc không viết, sở thích của Toltz khi rảnh rỗi là: đọc sách, chơi guitar, đi bộ, xem phim… Những tác giả mà anh yêu thích là: Knut Hamsun, Dostoyevsky, E.M. Cioran, Henry Miller, Raymond Chandler, Roberto Bolano, Celine, Thomas Bernhard. Những tác phẩm mà anh yêu thích phần lớn cũng là những tác phẩm do các tác giả kể trên viết. Tuy nhiên, có một số tác phẩm khác anh yêu thích như: Winsberg, Ohio của Sherwood Anderson; A hero of our time của Lermontov; Revolutionary Road của Richard Yates; Moravagine của Blaise Cendrars.   Mời các bạn đón đọc Một Mảnh Trò Đời của tác giả Steve Toltz.