Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Người Hái Rong Biển

NHỮNG NGƯỜI HÁI RONG BIỂN Tác giả: ANATOLY KIM Nguyên tác: СОБИРАТЕЛИ ТРАВ (1976) Dịch giả: Thái Hà Thể loại: Tập truyện NHÀ XUẤT BẢN TÁC PHẨM MỚI - 1984 (Nguồn text: từ bản đánh máy và OCR từ bản chụp của chủ blog arral.wordpress.com) Ghi chú: so với bản gốc, bản ebook được sửa phiên âm lại các tên riêng tiếng Nga, tên gọi một số người gốc Triều Tiên và Nhật cho chính xác. Bản ebook này không phải bản đầy đủ và chỉ gồm các truyện trong tập Những người hái rong biển mà thôi. Các truyện khác trong sách gốc sẽ được cập nhật ở một phiên bản khác. *** Những người hái rong biển là một câu chuyện nhẹ nhàng, dìu dịu và buồn rầu. Nhân vật của Kim bất hạnh một cách bình thường, những nỗi bất hạnh ta có thể thấy ở khắp mọi nơi trên trái đất : vì cuộc sống gia đình không như mong đợi, vì bệnh tật, vì dốt nát, cổ lỗ, già yếu, vì tình yêu không được đền đáp, vì nghèo hèn, quê mùa, vì người thân đối xử lạnh nhạt … Mỗi người một lý do, nhưng tại một thời điểm nào đó, họ bỗng nhận ra mình đã bị đẩy ra khỏi dòng chảy chung của cuộc đời. Những nhân vật như thế rất thật, có lẽ chúng ta vẫn nhìn thấy họ hằng ngày, và đấy là chuyện thường không có gì đáng nói. Mỗi người đều có mặt tốt mặt xấu, mỗi nhà đều có những chuyện riêng, không ai giống ai. Hàng ngày, con người ta vẫn chết đi, điều đó không làm xáo động dòng đời chút nào. Vì thế, cái đáng nói là cách nhìn nhận của tác giả, Anatoli Kim cho rằng “thời gian là sự bồi đắp và tích tụ, thời gian như đoàn tàu chắc chắn sẽ đưa con người tới một ga nào đó, trong khi cứ trôi qua và bay đi hết giây phút này đến giây phút khác, cuối cùng nó cũng phải tụ lại ở một nơi nào đó. Không gian cũng thế. Xung quanh trái đất không phải chỉ có không khí và ánh mặt trời. Trên mặt đất này còn tích tụ một khối năng lượng khổng lồ do những người tốt chết đi tích lại ngày một nhiều. Vậy là không có một cuộc đời người tốt nào, dầu bất hạnh, lại trôi qua vô ích, không một đóng góp nào, dầu nhỏ bé, cho cuộc sống tinh thần con người lại không tích lũy cho một ngày mai hạnh phúc, và do đó, không một nơi nào lại không chứa đựng những cái chính yếu nhất của đời sống…” (theo Những người hái rong biển – Anatoli Kim | Agrael's words (wordpress.com)) Nhà văn, nhà viết kịch, dịch giả Nga Anatoly Kim sinh năm 1939 tại Kazakhstan. Tổ tiên của ông vốn là người Triều Tiên di cư đến Nga từ thế kỷ XIX. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Kim vào học Trường trung cấp nghệ thuật Moskva. Năm 1971, Kim tốt nghiệp tại chức Trường viết văn mang tên M. Gorky, những truyện ngắn đầu tiên của ông được xuất bản năm 1973. Một thời gian, Kim phụ trách xeminar văn xuôi tại Trường viết văn; từ năm 1996, ông là đồng Tổng biên tập tạp chí “Yasnaya Polyana”. Ông là tác giả của 7 tập truyện ngắn, 6 tập truyện vừa, 2 vở kịch và 7 tiểu thuyết. Tập truyện ngắn “Những người hái rong biển” của ông đã được dịch ra tiếng Việt. Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày sinh của nhà văn (1939-2019), xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà báo Vladimir Li về ông. Tôi làm quen với tác phẩm của Anatoly Kim vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước, khi được đọc tập truyện ngắn đầu tay của ông “Đảo màu xanh da trời” (1976). Những năm tiếp theo, tôi được đọc hai cuốn sách của ông “Dây lưng màu ngọc bích” và “Tiếng hót chim họa mi”. Tôi quan tâm tới Anatoly Kim trước hết vì ông là nhà văn Liên Xô gốc Triều Tiên đầu tiên mà tôi đã từng mua sách tại các hiệu sách ở Uzbekistan, còn sau khi Liên Xô sụp đổ, tôi không thấy ở đấy một cuốn sách nào của ông nữa. Cách đây 10 năm, khi chuyển đến Moskva, tôi mới biết rằng Kim viết nhiều truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết và kịch, đã trở thành nhà văn "cổ điển sống" của văn học Nga đương đại. Còn cách đây mấy năm, tôi được trực tiếp gặp ông thông qua người bạn chung của chúng tôi là Moisey Kim, hiện là Chủ tịch Hội những người Triều Tiên ở Nga. Lúc bấy giờ, tôi đã kể về cuốn sách đầu tiên của Kim mà tôi đã đọc. Số là về sau tôi phát hiện ra cuốn sách này trong một vali sách mà bố tôi muốn mang theo khi sang thế giới bên kia, nói rằng “ở đấy” ông sẽ đọc những cuốn sách này. Không một người thân nào dám phản đối ý nguyện cuối cùng của bố chúng tôi. Người đã qua đời ngày 2 tháng 8 năm 1980. Dưới quan tài của bố, chúng tôi đặt hai vali sách, trên cùng là cuốn “Cánh đồng mẹ” của Chingiz Aymatov và “Đảo màu xanh da trời” của Anatoly Kim. Sau khi chăm chú lắng nghe câu chuyện của tôi, Kim thốt lên: “Lần đầu tiên tôi được nghe một câu chuyện như vậy. Có nghĩa là từ thế giới bên kia, bố anh đã xui chúng ta gặp nhau và cần phải nâng cốc vì điều này”. Sau đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau, năm 2014 tôi được mời tới dự lễ kỷ niệm nhân 75 năm Ngày sinh của nhà văn và được ông ký tặng ba cuốn tiểu thuyết. Tháng 5 năm 2015, tôi cùng với Moisey Kim đến thăm nhà văn tại biệt thự của ông ở làng Peredelkino, Moskva. Và mấy năm gần đây, tôi đã nhiều lần được gặp nhà văn tại những sự kiện chính trị-xã hội khác nhau. Bàn về không gian và thời gian diễn ra câu chuyện trong tiểu thuyết, Anatoly Kim nói nguyên văn như sau: “Con chim, chiếc máy bay và, có thể, cả thiên thần nữa, cần cánh để bay, nhưng con người hoàn toàn không cần cánh để bay tới nơi tôi mời họ đến. Trong tiểu thuyết của tôi, có những chuyến bay không cần cánh, những cuộc di chuyển tự do trong không gian của những thế giới và thời đại khác nhau...”. Đề tài tình yêu chiếm vị trí chủ đạo trong toàn bộ sáng tác của Kim. Tình yêu - sự bảo đảm của hạnh phúc và sự tiếp tục nòi giống của con người. Ông nghiêng mình trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu là cơ sở của sự hài hòa của thế giới, sự hồi sinh của nhân loại và tương lai của nó. Hạnh phúc của Kim có dung lượng không gian và thời gian rõ rệt, bởi vì tình yêu là mặt trời với cuộc đời con người quay quanh nó. Nhưng khi mặt trời lùi xa và biến mất, tất cả trở nên bất động, giống như thiên nhiên ngủ thiếp đi trước mùa đông. Kim coi con người là một phần của vũ trụ, còn cuộc đời con người chỉ là khoảnh khắc, là ánh chớp lóe lên trong thời gian và không gian của vũ trụ nói chung. Trong khoảnh khắc đó, mỗi con người để lại dấu vết của mình trong không gian vô cùng tận, bởi Trái đất phản ứng rất nhanh trước tất cả những vận động của tâm hồn con người; khi con người làm điều ác thì không gian bao quanh nó chìm vào bóng tối, thời gian ngừng lại; còn khi con người làm điều thiện thì thế giới bừng sáng. Vấn đề hạnh phúc là một trong những đề tài sáng tác chính của Kim. Chỉ người biết yêu mới giành được hạnh phúc chân chính, bởi tình yêu là sức mạnh vĩ đại có thể hồi sinh con người. Sách của Kim không dành cho sự đọc dễ dãi, để kích thích giấc ngủ hay đơn giản là giết thời gian. Tác phẩm của ông mang đậm tính triết lý, nhiều tầng ý nghĩa, đa dạng, phổ quát, đầy biến hóa, không dễ gì nhận thức được. Nó ẩn giấu đạo lý thường tình ngàn đời nay của các dân tộc trên thế giới. Nói về tác phẩm văn học của mình, Kim giải thích rằng, ông cảm thấy mình là một nghệ sĩ hoàn toàn tự do và không bao giờ viết theo đơn đặt hàng của những kẻ cầm quyền. Ông làm việc theo ý thích và cảm hứng, chứ không phải hàng ngày. Không bao giờ nháp trước, không thu thập tài liệu hay thông tin bổ sung về điều gì đấy. Ông viết một mạch, hàng giờ liền, không nghỉ, dường như có ai đó từ “trên” đọc cho ông chép. Nhà văn khẳng định rằng, trong những ngôi làng Nga, nơi ông đã có dịp sống vào những năm khác nhau, người ta đánh giá con người ngắn gọn và đơn giản: “người tốt” hay “người xấu”. Anatoly Kim nói rằng, ông viết cho “người tốt”. “Người xấu” sẽ không đọc sách của ông, hắn không hiểu, ngay cả khi đọc. Vì vậy, sau khi đọc sách của Kim, hắn cũng sẽ không trở thành “người tốt”. Kim không trách mình vì trên đời có “những người xấu”. Khi được hỏi vì sao viết sách và viết như thế nào, ông nói: - Tôi viết sách cho “người tốt”. - Tôi không quan tâm người ta hiểu hay không hiểu tôi. - Tôi không viết cho đám đông và cho những người trên quảng trường gào lên: hoan hô Kim! - Tôi không muốn viết cho những người coi sách như ly cà phê hay ly rượu; - Tôi không thể chịu nổi thái độ tiêu thụ đối với sách. - Tôi không viết sách để về sau nó trở thành hàng hóa, vì vậy tôi phản đối thương mại hóa văn học. Anatoly Kim cho rằng, nhà văn không tồn tại thiếu độc giả. Nếu còn lại dù chỉ một độc giả thì đó là nhà văn. Nói về sự phản hồi của độc giả, Kim có thể dẫn chứng hàng chục bức thư, các cuộc gặp gỡ, lời nhắn nhủ của nhiều người đối với ông. Sau đây là một số ví dụ: ...Vào một ngày đẹp trời, có một người quen gọi điện thoại cho nhà văn Kim nói rằng vợ ông ta ốm nặng. Bác sĩ chẩn đoán bà bị ung thư dạ dày và trả về nhà vì chẳng còn sống được bao lâu nữa. Trước đó, người chồng đã đưa cho vợ đọc tiểu thuyết “Con sóc” của Anatoly Kim, và bây giờ nguyện vọng cuối cùng của bà là được gặp tác giả cuốn sách. Vào ngày hẹn, Kim đến nhà. Người phụ nữ cố ngồi dậy để chào khách. Anatoly Kim bảo bà đừng ngại, ông bước tới nắm bàn tay bà và ngồi đối diện với bà. Bà chân thành cảm ơn nhà văn về tiểu thuyết “Con sóc” và nói rằng, sau khi đọc cuốn sách, bà không còn sợ chết nữa. Những lời của độc giả nói với nhà văn trong giờ phút thập tử nhất sinh như vậy thật vô cùng giá trị - không thể không tin con người như vậy. Một ví dụ khác: ...Một lần, Anatoly Kim được nhà thờ Tin lành ở thành phố Voronezh mời đến dự hội nghị bàn về đấu tranh chống nạn ma túy trẻ em. Từ trên diễn đàn hội nghị, nhà văn nói rằng cuộc đấu tranh chống ma túy cực kỳ gay go và kém hiệu quả. Cách chống ma túy tốt và hiệu quả nhất là dự phòng và cảnh báo trước về tất cả sự nguy hại của việc sử dụng chất ma túy. Không bao giờ cho phép trẻ em thử dùng chất độc chết người này. Trong lúc nhà văn phát biểu trên hội nghị, có một phụ nữ mặc ào choàng trắng lặng lẽ bước vào phòng và ngồi vào một chỗ trống ở phía sau. Mấy phút sau, bà xin được phát biểu ý kiến. Bà là một nữ y tá, làm việc tại bệnh viên thành phố. Khi nghe tin nhà văn Anatoly Kim đến thành phố Voronezh và đang ở nhà thờ, bà xin phép bác sĩ trưởng đến đây. Bà nói rằng đã từ lâu mơ ước được gặp nhà văn và đến để cảm ơn ông về cuốn tiểu thuyết tuyệt vời “Onlirya”. Cuốn sách kỳ diệu này mang lại cho độc giả niềm hy vọng lớn và niềm tin vào một cuộc sống tốt đẹp. Sau khi đọc tiểu thuyết này, bà có cảm giác như được tắm mình trong một dòng nước nguồn tinh khiết, và muốn sống cuộc đời mới. Và bây giờ cuộc sống khó khăn của bà đã được cải thiện. Bà chân thành cảm ơn nhà văn và vái chào ông. Rồi bà vội vã ra đi trong tiếng vỗ tay của các đại biểu. Trong giờ giải lao, nhà văn muốn nói chuyện với người phụ nữ này, nhưng bà đã trở về bệnh viện. Nhớ lại những câu chuyện đó, Anatoly Kim trầm ngâm nói: “Những lời tâm sự đó của độc giả đem lại cho tôi sức mạnh và niềm cảm hứng đích thực, và tôi sẽ sáng tác cho những con người như vậy. Đó cũng có thể là câu trả lời: tôi viết cho ai”. (Theo Anatoly Kim - người đương thời của tôi | Báo Công an nhân dân điện tử (cand.com.vn))   Mời các bạn đón đọc Những Người Hái Rong Biển của tác giả Anatoly Kim.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khao
Khao được coi là tiểu thuyết trào phúng, xuất bản lần đầu năm 1946. Bìa này của NXB Văn học năm 1988. Bản ebook dưới đây lấy nguồn từ Tổng tập văn học Việt Nam tập 33. *** Thơ của Xuân Sách về Bùi Huy Phồn trong "Chân dung nhà văn" Phất rồi ông mới ăn khao Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời Ông đồ phấn ông đồ vôi Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng (in nghiêng: tên tác phẩm của ông) Một giai thoại về Bùi Huy Phồn Bùi Huy Phồn phải bỏ làng... Chuyện vào làng văn phải bỏ... làng là có thật. Người ấy chính là nhà văn Bùi Huy Phồn, quê ở Vân Đình, huyện Ứng Hoà (Hà Tây cũ). Nhà văn Bùi Huy Phồn từng dạy học, viết văn, làm báo, sáng tác thơ và qua các công tác: Uỷ viên Ban Vận động nghiệp đoàn những người viết báo Bắc Kỳ (trước cách mạng) ở Hà Nội, Uỷ viên Ban Chấp hành Đoàn Kháng chiến Bắc Bộ, Chủ bút báo Tây Việt Bắc (khu X), Giám đốc Nhà xuất bản Văn học 1962-1972... Năm 20 tuổi, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay dã sử “Lá huyết thư”, rồi sau này liên tiếp xuất bản hơn 20 tập tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch cùng với 4 tập thơ trào phúng. Bùi Huy Phồn là một trong những nhà thơ trào phúng nổi tiếng với bút danh Đồ Phồn. Để bước được vào làng văn và có được một bề dày văn phẩm, thi phẩm như kể trên, thì những ngày đầu “chập chững” vào làng văn, Bùi Huy Phồn phải bỏ làng ra đi... Năm ấy, khi Bùi Huy Phồn mới 15, 16 tuổi, nhân dịp Tết Nguyên đán, thấy mẹ dặn chị gái đi chợ nhớ mua mấy tờ giấy hồng điều cánh sen mang sang nhà cụ đồ Hai trong làng nhờ viết cho dăm câu đối bằng chữ nho để dán ở trong nhà, ngoài cửa, ngoài ngõ mấy ngày Tết. Thấy có giấy hồng điều, Bùi Huy Phồn tự nghĩ ra đôi câu đối rồi viết bằng chữ quốc ngữ, đem dán vào hai cột cổng ngoài nhà thờ họ vào trước lúc giao thừa. Sáng mồng một Tết, Bùi Huy Phồn dậy thật sớm ra trước cổng nhà thờ họ để ngắm và thưởng thức tác phẩm trào phúng đầu tay của mình. Nhưng thật lạ, không rõ kẻ nào đã bóc đi? Trên cột chỉ còn lại những vết bóc nham nhở. Bùi Huy Phồn ức quá, cảm thấy mình như một người đi săn lần đầu vớ phải một viên đạn thối. Song nghĩ lại, ông thấy có khi thế lại may, bởi vì chỉ lát nữa thôi cụ tuần anh, tuần em, cụ thượng cùng “Tinh thê đẳng” (những người chức sắc trong làng, xã thời đó) mũ mãng cân đai đi đến nhà thờ đại tôn họ Bùi lễ tổ mà bắt gặp đôi câu đối “bạo thiên, nghịch địa” của ông, thì mẹ ông phải đi tạ tội “phạm thượng”. Con dại cái mang mà! Những vị chức sắc làng xã kia không nổi giận sao được khi đọc những câu đối mà Bùi Huy Phồn viết thế này: “Mồng một Tết người đội mũ cánh chuồn khoe mẽ Ba ngày xuân tớ trùm nơm mẹ đĩ ngâm thơ” Mặc dù chưa có vợ nhưng Bùi Huy Phồn vẫn “mượn tạm” cái nơm mẹ đĩ để đối với mũ cánh chuồn. Thật là hả hê quá, mũ cánh chuồn đối với cái váy đàn bà. Tưởng chuyện bị mất câu đối chìm trong im lặng. Nào ngờ, chắc để hết Tết, qua rằm tháng giêng? Đúng ngày 16 tháng giêng năm ấy, nhân ngày giỗ tổ họ Bùi, những người “tai to mặt lớn” trong làng, xã có mặt. Giờ là dịp để họ “sờ gáy’ tác giả câu đối kia. Cụ tuần anh nói với mẹ Bùi Huy Phồn: - Phải đưa thằng Phồn ra nhà thờ họ ngay. Phồn vừa bước đến cửa, cụ tuần anh quát: - Thằng kia, vào đây! Rồi cụ tuần anh quay sang nói với mọi người trong họ: - Hôm nọ, mồng một Tết, anh và các chú vận phẩm phục triều đình đi hành ngơi trong thôn, xóm, cho dân làng được ra bái yết lấy may. Thế mà thằng này (chỉ Phồn) nó dám làm câu đối nói láo! Bùi Huy Phồn lắp bắp định cãi thì cụ tuần anh đập tay xuống tráp, thét lớn: - Câm! Tao lại sai nó nọc cổ mày xuống trước từ đường, đánh cho tan xác bây giờ. Mày muốn làm bình dân thì mày ra Hà Nội. Mày muốn làm cộng sản thì mày sang Nga-la-tư. Chứ còn ở cái làng này thì phải có tôn ti trật tự! Thôi cút! (câu nói này, cũng như những nhân vật Tuần anh, Tuần em... đã được đưa vào trong tác phẩm Khao) Có ai ngờ câu quở mắng của cụ tuần anh kia đã trở thành những lời “tiên tri” ứng nghiệm với cuộc đời Bùi Huy Phồn. Quả thật, sau “vụ câu đối Tết”, Bùi Huy Phồn đã phải bỏ làng ra Hà Nội làm một người bình dân viết văn kiếm sống và sau này, ông được sang Liên Xô thật trong đoàn nhà văn Việt Nam và trở thành một người cộng sản viết văn. *** Lão buông dùi, buông đục. Lão híp cặp mắt. Lão nhe đôi hàm lợi trơ. Rồi xoa hai tay vào nhau, lão thở phào qua đôi hàm lợi ấy. Lão đã khớp xong đôi cá ở ván địa. Cả đôi cá ở ván thiên. Lão đã khớp gần xong tám cặp cá ở cỗ quan tài. Một cỗ quan tài cho lão. Lão khoái! Và nghĩ ngợi. Tất cả mọi người khi đến cái tuổi “gần đất xa trời”, thấy mình sắp được nằm dài thanh thản trong cỗ quan tài, ai mà không nghĩ ngợi? Lão nghĩ rằng: năm nay, lão vừa bẩy mươi hai. Lại có chín con, một miếng đất ở, ba gian nhà. Tổng cộng là bẩy mươi hai tuổi, chín con, một miếng đất, ba gian nhà. Ta có nên tính cả một mụ vợ gù và một con chó ghẻ? Chín con, nhưng theo thói thường, những đứa hiếu đạo đều là đứa yểu số, hoặc nghèo xác, nghèo xơ. Còn những đứa tổ độ mát mặt mát mày lại là đứa cư xử với lão chả ra gì ráo. Một miếng đất ở đã đem cầm lấy tiền nộp ma khô cho vợ cả lão đâu từ năm trước. Ba gian nhà chỉ chờ được tiếp một cơn gió mạnh, là nằm kềnh ra ngửa mặt lên cười với giời. Rút lại, ở lão, chỉ còn có chút tuổi bẩy mươi khả dĩ cho lão tự hào được với trong xóm ngoài làng. Thiên tước kia mà! Lão đã chẳng có phú quý - một con chó ghẻ, ba gian nhà -, nhưng ở đời này, ai không làm được nên phú quý? Lão cũng chẳng có công danh - phó mộc từ năm mười bốn, lão vẫn còn phó mộc đến lúc bẩy mươi, - nhưng ai không làm được nên công danh? Còn như nói đến thiên tước, nói đến sự sống nổi cái tuổi mà lão sống đến ngày hôm nay, dễ ai mà sống được? Đó là một triết lý lão lấy làm sung sướng mới khám phá ra, để hằng ngày hiểu thị cho cái đám thê nhi, sau tiếng rít điếu cày, hoặc cạn một cút con rượu lậu. Đó cũng là một thứ khí giới lão tính sẽ dùng đến để tự vệ ở chỗ đình chung điếm sở, chống với mấy ông Nhang, ông Cán, ngõ hầu hạ giá họ, mỗi khi họ cậy là Nhang, là Cán, hạ giá lão là một thằng… bạch đinh! Bạch đinh! Lão hết cười. Và buồn. Lão đứng lên - như mỗi khi buồn - lẻn vào gậm ban thờ, moi ra một cút rượu lậu, nhấp nháp xuông vài tợp làm vui. Được kích thích trong não cân, đột nhiên, lão tìm ra, lần này cũng như tất cả mọi lần, câu trả lời cho cái điều sỉ nhục trên kia: - A! Bạch đinh, âu nó cũng là cái… số. Phải; chính nó là cái “số”! Lão lại được dịp nhe lợi ra cười phào, sung sướng về sự khám phá mới mẻ này, như lúc vừa đây đã khám phá ra cái “thiên tước”. Chính nó là cái số. Cái số đã cho thiên hạ làm ông Nhang, ông Cán, cái số đã bắt lão mòn đời làm thằng dân trắng, lưng đen khố cao. Rồi lão nghèo, đói, rách, rét. Đó cũng là cái số cả mà thôi. Rồi Chánh Vận sai người đánh đập lão để đòi nợ, hay Lý Bá trói giải lão để ốp thuế năm xưa, chung quy cũng chỉ là cái số lão phải cam như thế. Ấy thế là lão đã vơi được hẳn những oán hận trong lòng! Như mỗi khi vui, lão lại tợp luôn vài tợp rượu cho nó thêm vui. Lão khà một cái khà thống khoái. Chỉ bực một nỗi mụ vợ gù của lão mãi chưa về chợ, thế nào chẳng mua cho lão đôi bìa đậu phụ với vài đồng mắm tôm! Sực nghĩ đến mụ vợ gù, lão không chỉ cười phào. Lão quệt tay lau miệng, liếm môi một cái, cười hẳn ra mấy tiếng “hức hức” liền. Đó mới cũng là cái “số” của giời xui! Nếu không, thì tự dưng sao mụ, chẳng rõ quê quán nơi đâu, lại thành ra con mụ ăn mày. Đã thế rồi, tự dưng sao mụ lại đến xin ngủ nhờ trong túp nhà của lão một đêm! Hai đêm! Rồi lại thêm nữa một đêm! Cho đến khi mụ thấy rằng mụ chẳng cần đi, và lão thấy rằng để mụ ở cũng chẳng thiệt gì cho lão. Mời các bạn đón đọc Khao của tác giả Đồ Phồn.
Sự Hy Sinh Của Thầy Trừ Tà
CẢNH BÁO: KHÔNG ĐƯỢC ĐỌC SAU KHI TRỜI TỐI "Một người nào đó sẽ phải đứng lên để chống lại bóng tối. Và con là người duy nhất có thể." Trong nhiều năm qua, Thầy Trừ Tà Gregory đã giữ cho Hạt an toàn khỏi ma quỷ. Giờ thời gian của ông đã kết thúc, nhưng ai sẽ là người tiếp quản chuyện đó? Hai mươi chín người học việc đã đến thử - một vài người không đạt tiêu chuẩn, một vài người đã bỏ trốn, một vài người đã chết. Chỉ còn lại duy nhất Thomas Ward. Cậu là niềm hy vọng cuối cùng; cậu bé học việc cuối cùng. Liệu Thomas có thành công? Liệu cậu có học được sự khác nhau giữa phù thủy loại lành và phù thủy loại độc? Liệu lời cảnh báo của Thầy Trừ Tà về những cô gái đi giày mũi nhọn có bao gồm cả Alice không? Và điều gì sẽ xảy ra nếu Thomas vô tình giải thoát Mẹ Malkin, phù thủy độc ác nhất ở Hạt…? Câu chuyện đáng sợ đầu tiên trong series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà. *** Joseph Delaney từng dạy truyền thông và phim ảnh ở một trường trung học tại Blackpool, Anh. Ông sống cùng gia đình ở Lancashire, giữa trung tâm lãnh thổ của ông kẹ. Sự Báo Thù Của Phù Thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay. Truyện được hãng Warner Bros. Pictures mua bản quyền và chuyển thể thành phim với tên Người con trai thứ bảy (The Seventh Son, đạo diễn: Sergei Bodrov). Phim sẽ được phát hành trong đầu năm 2013, có sự tham gia của nam diễn viên Ben Barnes (vai Thomas Ward), Julianne Moore (vai Mẹ Malkin), nam diễn viên Jeff Bridges (vai Thầy Trừ Tà Gregory)… Series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà do Chibooks xuất bản 2012-2013: Phần 1: Sự Báo Thù Của Phù Thủy (The Spook’s Apprentice) Phần 2: Lời nguyền của Quỷ độc (Spook's Curse) Phần 3: Đêm của Kẻ Đánh Cắp Hồn (The Spook’s Secrect) Phần 4: Đòn Tấn Công của Quỷ Vương (The Spook’s Battle) Phần 5: Cơn Thịnh Nộ của Huyết Nhân (The Spook’s Mistake) Phần 6: Sự Hi Sinh của Thầy Trừ Tà (The Spook’s Sacrifice) Phần 7: The Spook’s Nightmare Phần 8: The Spook’s Destiny Phần 9: The Spook’s I am Grimalkin Phần 10: The Spook’s Stories: Witches Phần 11: The Spook’s Bestiary *** "Phù thủy hả mẹ? Chúng ta liên minh với phù thủy sao?" Là chân học việc của Thầy Trừ Tà, nhiệm vụ hàng đầu của Tom là bảo vệ Hạt khỏi thế lực bóng tối. Nhưng giờ đây mẹ lại cần đến sự giúp sức của cậu tại quê nhà Hy Lạp của bà để nổi dậy chống lại một trong mấy vị Cổ Thần, mụ Ordeen gớm ghiếc. Mẹ đã triệu tập một nhóm hùng hậu để chiến đấu, nhưng trong số đó lại có cả các phù thủy đến từ Pendle. Liệu Tom có thể đi ngược lại tất cả những gì Thầy Trừ Tà đã dạy mà liên minh với kẻ thù hay không? Điều bí mật gì mẹ đang cố giấu cậu ấy? Và điều gì cần phải hy sinh trong trận chiến chống lại bóng tối? Câu chuyện đáng sợ thứ 6 trong series Cậu bé học việc và thầy trừ tà. *** Tôi bừng tỉnh với tâm trạng bồn chồn lo lắng có chuyện gì đó chăng lành. Ngoài trời, những tia sét đánh chằng chịt bên khung cửa, tiếp nối bằng những đợt sấm rền. Trước đây tôi từng ngủ qua những đêm giông bão ở Hạt, nên chắc chắn những thứ ấy không thể làm tôi thức giấc. Không đâu, tôi linh tính có một mối nguy nào đó đang chực chờ ngoài kia. Tôi nhảy phóc ra khỏi giường, đúng lúc chiếc gương ngay cạnhđầu giường tôi đột nhiên sáng hơn lên. Tôi thoáng thấy hình ảnh phản chiếu của ai đó lướt qua rồi nhanh chóng biến mất. Nhưng tôi đã kịp nhận ra khuôn mặt. Là Alice. Dù được đào tạo trong hai năm liền để trở thành phù thủy, Alice vẫn là bạn tôi. Cô bé đã bị Thầy trừ tà xua đuổi nên phải quay trở lại khu đồi Pendle. Tôi nhớ có ghê lắm nhưng vẫn ráng giữ lời hứa với Thầy mình mà tảng lờ mọi nỗ lực liên lạc của cô ấy. Nhưng lần này tôi không thể lờ đi được nữa. Cô ấy đã cố ghi lại lời nhắn trên gương, còn tôi không thể không đọc trước khi dòng chữ phai mất. Maenad là gì nhỉ? Tôi chưa từng nghe đến. Với lại làm sao mà một tên sát thủ bất kỳ nào có thể tiếp cận được tôi khi hắn phải băng qua khu vườn của Thầy trừ tà - nơi luôn được Ông Kẹ thần thánh của Thầy trông chừng? Nếu kẻ nào đó xâm phạm khu vườn, Ông Kẹ ấy sẽ gầm lên một tiếng đến cả cách đó hàng dặm vẫn còn nghe ra, và sẽ xé xác kẻ xâm phạm thành trăm mảnh. Còn nữa, làm sao Alice biết được mối nguy hiểm đó? Cô bé đang ở Pendle cách đây hàng dặm. Tuy vậy, tôi cũng sẽ không làm ngơ lời cảnh báo của cô ấy đâu. Thầy tôi, John Gregory, đã ra ngoài xử lý một hồn ma chuyên gây rắc rối, chỉ còn lại mỗi tôi trong ngôi nhà này. Mà tôi lại chẳng có gì tự vệ trong tay. Thanh trượng cùng túi đồ của tôi đang ở tuốt trong bếp, nên tôi phải đi lấy vậy. Đừng hoảng, tôi tự nhủ. Từ từ bình tĩnh nào. Tôi nhanh chóng mặc quần áo, xỏ chân vào đôi ủng. Tôi nhẹ nhàng mở cửa phòng ngủ và cẩn thận lẻn ra ngoài khu hành lang tối om om ngay lúc tiếng sấm rền vang một lần nữa. Tại đây tôi dừng lại nghe ngóng. Vạn vật im phăng phắc. Thấy chắc ăn rằng chưa có kẻ nào đột nhập vào được trong nhà, nên tôi tiếp tục rón rén đi xuống cầu thang. Tôi lướt qua khu tiền sảnh rồi hướng thẳng vào bếp. Tôi nhét sợi xích bạc vào túi quần, rồi vừa nắm lấy thanh trượng, tôi vừa mở cửa sau để bước ra ngoài. Ông Kẹ đâu nhỉ? Tại sao Ông Kẹ lại không bảo vệ ngôi nhà và khu vườn khỏi kẻ đột nhập? Mưa xối thẳng vào mặt tôi khi tôi đứng chờ, kỹ lưỡng dò mắt qua sân cỏ lẫn cây cối ngoài kia xem có cử động nào không. Mời các bạn đón đọc Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 6: Sự Hy Sinh Của Thầy Trừ Tà của tác giả Joseph Delaney.
Và Rồi Núi Vọng
Afghanistan trong Người đua diều (The Kite Runner) là một giấc mơ ấu thơ đẹp đẽ, sự đẹp đẽ được reo rắc, ươm mầm từ những hoài niệm, xót thương, ẩn ức. Cậu bé Amir đi xa Kabul đến vạn dặm vẫn khắc khoải về một góc phố, về một ngôi nhà, về một ấu thơ thấm đẫm nỗi niềm. Người đua diều ngay khi ra mắt đã trở thành hiện tượng xuất bản. Tác phẩm đầu tay của bác sĩ Khaled Hosseini trở thành “best seller” trong nháy mắt. Người Mỹ kinh ngạc và lặng đi trước một Afghanistan đau thương nhưng lấp lánh giấc mơ. Afghanistan trong Và rồi núi vọng (And the Mountains Echoed) là một giấc mơ thăm thẳm đau đớn. Ở đó, đói nghèo đặt dấu vết lên từng nhân vật, chiến tranh tàn phá từng số phận, sự đau khổ, trống rỗng hủy hoại từng cuộc đời. Những số phận mang hình hài Afghan Shadbagh (một địa danh ở Pakistan) không hiểu vì sao được đặt tên cho ngôi làng của Afghanistan - nơi Hosseini bắt đầu câu chuyện của mình. Người cha Saboor nghèo khổ, gia cảnh kiệt quệ sau cái chết của đứa con trai chưa đầy tuổi hồi mùa đông đã quyết định bán cô con gái Pari cho một gia đình giàu có ở Kabul. Hành trình kéo xe của Saboor từ Shadbagh đến Kabul như vô tận, lết theo đó là nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Saboor không có sự lựa chọn. Nghèo đói đã trĩu nặng trên vai ông. Sự trong sáng, thơ ngây của 2 đứa con dày vò, hành hạ ông. Và cuộc chia ly ở Kabul đã xô đẩy cuộc đời mỗi người trong số họ theo những hướng khác nhau, Pari ở lại với gia đình giàu có trong cô đơn, trống rỗng. Ông bố Saboor, người anh trai Abdullah trở về Sadbagh trong nỗi đau đớn dày xéo họ suốt phần đời còn lại. Và rồi núi vọng là cuốn sách thứ 3 của bác sĩ Hosseini. Trước đó, anh đã từng viết Người đua diều và Ngàn mặt trời rực rỡ, đều để lại ấn tượng mạnh mẽ về đất nước Afghanistan. Cuốn Người đua diều được chuyển thể thành phim năm 2007. Và rồi núi vọng được kể theo thời gian phi tuyến tính. Mỗi chương là một dấu mốc thời gian. Mỗi dấu mốc thời gian là một cuộc đời. Từ cuộc chia tay Kabul, diễn biến câu chuyện vừa như có sự sắp đặt, vừa như chẳng hề có sự sắp đặt nào. Những nhân vật đến rồi đi. Nhiệm vụ của họ là kể câu chuyện của mình, sứ mệnh của họ là một nút thắt, một dấu chấm trên hành trình cuộc đời đằng đẵng với chằng chịt các mối quan hệ kết nối. Theo nhiều cách, số phận đẩy chúng ta ra xa nhau, rồi kết nối lại bằng những biến cố, bằng những sợi dây vô hình. Những số phận Afghan trong Và rồi núi vọng bị xô đẩy, bị vùi dập, bị hủy hoại, bị chia cắt trong bối cảnh đất nước chiến tranh kéo dài. Cuộc chiến của Mỹ, sự can thiệp của người Nga, sự tàn bạo của Taliban đã chia cắt Afghanistan thành từng số phận nhỏ. Dưới ngòi bút của Hosseini, “ở Kabul, mỗi một dặm vuông có cả ngàn thảm kịch”. Ông lão Nabi bám trụ ở Kabul để chứng kiến cuộc sống thay đổi theo chiến sự. Pari bị xô đẩy đến Pháp với khoảng trống vô tận trong lòng. Abdullah bằng cách nào đó đã đến Mỹ với câu hỏi của cả cuộc đời: em gái đang ở đâu? Anh em Timur, Idris từ Mỹ trở về Afghanistan mang theo những mục đích riêng. Markos vòng quanh thế giới để tìm bản ngã. Gia đình Parwana trôi dạt theo cuộc di cư tị nạn ở Pakistan… Mỗi người trong số họ đều mang những bi kịch riêng, những gương mặt riêng của một người Afghan đặc trưng. Cùng quẫn và bế tắc. Day dứt và bất lực. Đau đớn và kiên cường. Nỗi đau của nhà văn giấu trong từng nhân vật Chất chứa đằng sau mỗi số phận là nỗi xót thương hoang hoải và trĩu nặng tâm tư của tác giả. Tưởng như, nỗi niềm dân tộc, nỗi niềm Afghanistan khiến tác giả đau đớn trong cả những giấc mơ. Khaled Hosseini sinh năm 1965 tại Kabul, Afghanistan. Anh và gia đình rời Kabul sang Paris năm 1976. Năm 1980, gia đình Hosseini được chính phủ Mỹ bảo hộ, họ sang California và định cư tại đó đến nay. Đằng sau một Pari tha hương bé nhỏ, là những con chữ len lỏi nói về sự mạnh mẽ. Đằng sau một Roshi bất hạnh là niềm kiêu hãnh âm thầm về sự kiên cường của dân tộc Afghan. Hay, đằng sau bác sỹ Idris là thấp thoáng những nỗi day dứt, dày vò của chính tác giả, khi tận mắt chứng kiến cả ngàn thảm kịch ở Kabul, Idris trở về Mỹ nhìn cuộc sống giàu sang, xa hoa thấy như lạc lõng, như nực cười, như vô vị. Khi nhìn những đứa trẻ bị bỏ đói, bị hãm hiếp, bị giết hại ở Afghan, cuộc sống nhung lụa ở California bỗng trở nên tội lỗi. Idris đã nghĩ đến việc xây dựng một rạp chiếu phim mini trong nhà, và thấy như muốn khóc khi số tiền đó có thể xây được một ngôi trường ở Afghan. Chỉ tiếc, Hosseini đã quá tham nhân vật, quá tham diễn giải về những số phận, đôi khi, anh để mình lan man, và trượt quá xa câu chuyện chính. Khi độc giả chờ đợi một sự quay về, chờ đợi một lần gặp gỡ, chờ đợi một kịch tính, Hosseini lại để mình lạc đi trong những mối quan hệ rối bời. Kể từ Người đua diều, Ngàn mặt trời rực rỡ đến Và rồi núi vọng, câu chuyện trở đi trở lại với Hosseini, là ở Kabul, cứ một dặm vuông có cả ngàn thảm kịch. Đọc Và rồi núi vọng để thấy, trong từng câu chữ, trong từng nỗi nhớ thương, trong từng hoài niệm, trong cả những nỗi đau đớn khôn nguôi là một giấc mơ Afghan thăm thẳm. *** Khaled Hosseini, là một tiểu thuyết gia và dược sĩ người Hoa Kỳ. Tên tuổi ông trở nên nổi tiếng nhờ hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Người đua diều (2003) và Ngàn mặt trời rực rỡ (2007) bán được 38 triệu bản trên toàn thế giới. Ngoài ra, Người đua diều đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 2007. Năm 2003, Hosseini cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tay tên The Kite Runner (nghĩa là: Người đua diều). Cuốn sách là câu chuyện về cậu bé Amir vật lộn để có hàn gắn quan hệ với cha mình và vượt qua nỗi ám ảnh về một sự việc thời thơ ấu. Bối cảnh truyện đặt ở Afghanistan, từ lúc chính quyền Taliban rệu rã đến khi sụp đổ hoàn toàn, và khu vực vịnh San Francisco mà cụ thể là Fremont, California. Trong các chủ đề được nói tới, bao gồm căng thẳng sắc tộc giữa người Hazara và người Pashtun ở Afghanistan, và những trải nghiệm di cư của hai cha con Amir đến Mỹ. Theo thông tin của Nielsen Bookscan, Người đua diều xếp thứ ba trong số những cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ năm 2005. Phiên bản sách nói của cuốn sách được đọc bởi chính tác giả. Tháng 12 năm 2007, bộ phim cùng tên dựa trên cuốn tiểu thuyết được công chiếu. Hosseini có một vai nhỏ khúc gần cuối phim - một người lạ đứng ngoài nhìn Amir mua con diều để sau đó thả với Sohrab. Năm 2008, cuốn sách được chuyển ngữ tiếng Việt và được tái bản năm 2013 xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tiểu thuyết thứ hai của ông A Thousand Spendid Suns (tạm dịch: Ngàn mặt trời rực rỡ) được phát hành vào năm 2007, cũng lấy bối cảnh tại Afghanistan. Truyện theo dõi sự giao thoa giữa hai số phận của hai người phụ nữ cách nhau một thế hệ, Mariam và Laila. Thời gian trong tiểu thuyết từ lúc Afghanistan chịu sự chiếm đóng của Xô Viết, đến những năm dưới ách Taliban và hậu Taliban. Nhà sản xuất Scott Rudin và hãng Columbia Pictures đã mua quyền chuyển thể cuốn sách thành phim. Năm 2010, tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt và xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Các tác phẩm được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Người Đua Diều Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ Và Rồi Núi Vọng ... Mời các bạn đón đọc Và Rồi Núi Vọng của tác giả Khaled Hosseini.
Whiney Yêu Dấu
Niềm say mê trẻ con của Whitney Stone đối với anh chàng hàng xóm đã khiến người cha lạnh nhạt, không tình cảm đẩy nàng đến Paris để sống cùng với dì và chú. Dưới sự chỉ dẫn đầy yêu thương, cô gái trẻ đã trở thành một người đẹp mê hồn và được cả xã hội Paris hoa lệ yêu quý... Công tước Claymore đẹp trai và quyền lực đã quyết tâm biến nàng thành vợ mình. Bất chấp sự quan tâm nhiệt thành của Công tước, Whitney vẫn kiên định với tình yêu thời thơ ấu. Cho đến khi nàng nhận thấy mình bị Công tước cuốn hút, sự cuốn hút vừa khiến nàng vừa thích thú vừa hoang mang. Nhưng Công tước không hề có chút băn khoăn. Chàng muốn Whitney và chàng đã lên kế hoạch để giành lấy nàng, bấp chấp vô số ngáng trở, bao gồm cả lòng mê đắm của Whitney với một chàng trai khác, sự lo lắng ngày càng tăng của dì nàng và những nỗ lực vụng về của người cha tham lam nhằm kiểm soát đứa con gái xinh đẹp của mình. Đam mê bốc cháy giữa Công tước và cô gái trẻ, nhưng Whitney không dễ dàng khuất phục trước 'ông chủ' của mình. Những hiểu lầm và sự phản bội ám ảnh cả Whitney và Clayton. Phải chăng "Tình yêu có thể chiến thắng được tất cả"? Nhưng để hạnh phúc đơm hoa kết trái, họ sẽ phải vượt qua một đầm lầy hiểu lầm đe dọa bất cứ hy vọng nào về một kết thúc hạnh phúc. "Trong vòng mười lăm năm kể từ khi Whitney yêu dấu được phát hành lần đầu tiên, tôi đã phải cưỡng lại mong muốn viết một tập tiếp theo, nhưng tôi cũng luôn ước rằng mình đã không kết thúc câu chuyện khá đột ngột như đã làm. Tôi thấy rằng mình có thể bổ sung một số cảnh tuyệt vời và kéo dài những cảnh khác, nhưng tôi không hề nghĩ mình có cơ hội làm điều đó. Quyết định tái bản Whitney yêu dấu như một ấn phẩm đặc biệt mang lại cho tôi cơ hội đó, tôi hy vọng các bạn cũng thích thú thưởng thức ấn phẩm mới có bổ sung này nhiều như tôi thích thú mang lại nó cho bạn." (Judith McNaught) *** Nhận định "Judith McNaught là một đẳng cấp riêng." - USA Today "Tác giả ăn khách bậc nhất New York Times đã khéo léo dệt nên một câu chuyện ly kỳ đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng hồi hộp, đầy những nhân vật không thể quên và chằng chịt những mạch ngầm dữ dội của khát khao, tham vọng." - Amazon.com "Một câu chuyện tình yêu đích thực hòa trộn giữa sự hài hước, hồi hộp, bí ẩn và lãng mạn khôn cùng."- Regan *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường ... *** Trong cỗ xe du hành sang trọng lắc lư nhè nhẹ trên con đường mòn ngoại ô, Quý bà Anne Gilbert tựa má vào vai chồng và thốt ra một tiếng thở dài nóng ruột. “Phải đến cả tiếng đồng hồ nữa chúng ta mới đến nơi, vậy mà sự chờ đợi đã gần như ăn mòn em. Em đang băn khoăn bây giờ Whitney trông như thế nào khi cô bé đã lớn”   Bà chìm vào im lặng và lơ đãng nhìn khung cảnh miền quê xanh tươi của nước Anh trôi qua cửa sổ xe bao phủ bởi hoa mao địa hoàng màu hồng và hoa mao lương vàng hoang dại, trong khi cố gắng hình dung đứa cháu gái bà đã không gặp gần 11 năm qua.   “Cô bé sẽ rất đẹp, như mẹ của nó. Và cô bé sẽ có nụ cười, sự dịu dàng và tính tình ngọt ngào của mẹ nó…”   Quý ông Edward ném một cái nhìn ngờ vực cho vợ mình. “Tính tình ngọt ngào?” ông lặp lại với vẻ nghi ngờ hài hước. “Đó không phải những gì mà cha cô bé nói trong lá thư của ông ấy.”   Là một nhà ngoại giao đại diện cho Lãnh sự quán Anh ở Paris, Ngài Gilbert là một bậc thầy với những lời bóng gió, nói tránh, ám chỉ và hàm ý. Nhưng trong cuộc sống riêng, ông thích lựa chọn dễ chịu là thẳng thắn nói lên sự thật. “Cho phép anh gợi lại trí nhớ của em,” ông nói, dò dẫm trong túi quần và rút ra lá thư từ cha của Whitney. Ông đẩy đôi kính mắt lên sống mũi, và phớt lờ vẻ nhăn nhó của vợ, ông bắt đầu đọc: “‘Cách cư xử của Whitney là một sự sỉ nhục, những hành vi của con bé thật đáng bị chỉ trích. Nó là một con bé lanh chanh ngỗ ngược, là sự thất vọng đối với tất cả những người nó quen và là một nỗi xấu hổ của tôi. Tôi xin cô đưa con bé đến Paris với cô, hy vọng rằng cô có thể thành công hơi tôi với đứa bé ngang bướng này.’”   Edward cười khoái trá. “Chỉ cho anh chỗ nào nói cô bé có ‘tính khí ngọt ngào.’”   Vợ ông quăng cho ông một cái nhìn dằn dỗi. “Martin Stone là một người đàn ông lạnh lùng và không có cảm giác, không nhận ra sự dịu dàng và phẩm chất tốt đẹp cho dù Whitney có! Chỉ cần nghĩ đến cách ông ta mắng cô bé và bắt nó về phòng ngay sau đám ma của chị gái em.”   Edward nhận ra sự ngoan cố biểu hiện trên cằm của vợ và vòng tay ôm vai bà trong một cử chỉ hòa giải. “Anh cũng không thích người đàn ông đó hơn em, nhưng em phải thừa nhận là, vừa mới mất người vợ trẻ trong một đám tang sớm, lại bị đứa con gái buộc tội, ngay trước mặt năm mươi người, là đã nhốt mẹ nó vào một cái hộp vì vậy bà ấy không thể đi ra đã khiến ông ta khá bối rối.”   “Nhưng Whitney vừa mới năm tuổi đầu!” Anne nóng nảy phản đối. .... Mời các bạn đón đọc Whiney Yêu Dấu của tác giả Judith McNaught.