Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thành Phố Quốc Tế

Thành phố Quốc tế là cuốn sách khiêm tốn về dung lượng nhưng lại mang dáng dấp của một thiên sử thi bởi nó trình bày những mảnh ghép đa hình sắc của một thế giới vô phương cứu chữa. Don DeLillo không chú trọng về điều gì quá mới mẻ. Tự thân cuốn tiểu thuyết đã mang tính mới lạ với những dòng văn dồn nén, xô đẩy tương lai vào lưỡi dao sắc bén của những phút giây hiện tại. Nếu bạn là người yêu thích khía cạnh trừu tượng của sức mạnh tài chính và công nghệ; đồng thời, trân trọng vẻ đẹp của ngôn từ và tin vào vẻ đẹp nhân bản thì “Thành phố Quốc tế”   chính là cuốn tiểu thuyết đáng lưu tâm dành cho bạn. Với bối cảnh chính là một ngày tháng Tư năm 2000 ở New York, cốt truyện xoay quanh Erick Packer, một tỷ phú hết sức giàu có và chỉ mới 28 tuổi. Nhà tài chính này sở hữu một căn hộ 48 phòng, có bể bơi, có hai thang máy riêng theo nhịp một bản nhạc nổi tiếng, có phòng tranh với những bức tranh mà người xem không biết phải ngắm như thế nào, và có cả cá mập. Sau một đêm mất ngủ, thức trắng với sách và rượu mạnh, Eric quyết định dạo quanh New York trong chiếc limousine sang trọng để tìm chỗ cắt tóc. Chuyến đi của anh kéo dài cả ngày vì gặp phải một đoàn xe hộ tống Tổng thống, một cuộc biểu tình chống toàn cầu hóa và cả đám tang của một nghệ sĩ nhạc rap. Eric quan sát, liên lạc với thế giới bên ngoài thông qua hệ thống media và camera tối tân được trang bị trong xe. Chuyến đi đó có lẽ không khác một ngày làm việc bình thường: Eric vừa khám bệnh định kỳ với bác sĩ, vừa bàn công việc với cấp dưới ngay trong xe. Xen lẫn với các cuộc gặp gỡ về công việc, anh ta có đủ thời gian để gặp gỡ và ăn sáng với bồ, ăn trưa tâm sự với vợ. Khi Eric được vệ sĩ báo tin là có kẻ đang bám theo xe của họ, cốt truyện chuyến hướng sang hồi gay cấn. Một kẻ bất mãn đang bám theo để giết Eric. Điều này thực sự chẳng đáng ngạc nhiên chút nào, bởi vì bản thân nhà tài chính cự phách này tin rằng “logic mở rộng của công việc kinh doanh là án mạng”. Kẻ bám theo Eric là Benno Levin, tác giả của những dòng nhật ký đan xen trong mạch truyện về Eric. Đó là một người từng làm việc dưới quyền Eric, muốn giết Eric vì mối hận thù Eric – con người giàu có với cuộc sống xa hoa, vì hắn muốn trở thành nhà văn nhưng cuối cùng lại ngồi phân tích đồng Baht… Điểm thú vị của cuốn tiểu thuyết này không chỉ nằm ở các hành động; mà chủ yếu là ở lối dẫn dắt tài tình của nhà văn, đưa người đọc đến với thế giới ngoại hiện và nội cảm phong phú, phức tạp của Eric Packer. Bởi thế, có lẽ cách tốt nhất để đọc “Thành phố Quốc tế”   là đừng nhất nhất tâm niệm là mình đang đọc một cuốn tiểu thuyết. Bạn hãy xem như mình đang thưởng thức một áng thơ - văn xuôi về New York. Tác phẩm thiếu đi thứ mà người Mỹ Latinh gọi là “calor humano” (hơi ấm tình người); bởi thế, nó có thể làm một số độc giả nản lòng vì thứ logic lạnh lùng trong cõi lòng sâu hút như vực thẳm của Packer và giọng văn thờ ơ, bằng phẳng, yếm thế. Tuy nhiên, trí tuệ sắc sảo, lối văn kén người đọc của Don DeLillo lại dệt nên vầng sáng bao quanh từng sự kiện, bỏ xa tính gượng gạo và sự ngẫu nhiên. Ẩn đằng sau lớp bề mặt ngổn ngang và những lời bình luận chua cay về thị trường tài chính thế giới cuối thế kỷ XX, DeLillo muốn cảnh tỉnh người đọc về tình trạng mỏng manh, cô độc của con người. Dường như tác giả muốn khơi gợi ý nghĩ rằng, chúng ta đang sống trong thế giới của những đợt thủy triều không ngừng chuyển động, vượt quá tầm kiểm soát của con người. Cảm giác mình thuộc về ai đó hoặc quan tâm đến ai đó là thứ cuối cùng nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của giá trị. Cái nhìn giễu cợt sâu sắc và sự thờ ơ đúng mực, câu văn ngắn ngắt quãng đột ngột chuyển tải rất nhiều nội dung chính là điểm hấp dẫn nhất của “Thành phố Quốc tế”  . Mặc dù cuốn sách khá ngắn, có thể đọc toàn bộ nội dung chỉ trong một ngày nhưng câu chuyện trong đó sẽ kéo dài mãi. “Thành phố Quốc tế”  là sự thử thách, khiêu khích suy nghĩ và hoàn toàn khác biệt. NAM AN Review *** Trong vài thập kỉ trở lại đây, Don DeLillo là một trong những gương mặt ưu tú trên văn đàn Hoa Kỳ. Ông là ứng viên nặng kí cho giải thưởng Nobel văn học. Kế thừa thành tựu của những nhà văn hiện đại lớp trước, Don DeLillo khai mở lối viết hậu hiện đại độc đáo. Tác phẩm của ông, với hình thức ghép nối ngẫu nhiên, với sự tưởng tượng phong phú diệu kì, mang đậm tính khoa học giả tưởng,… đã đưa người đọc vào tâm điểm của sự hỗn mang đương đại trong một thế giới ngột ngạt bởi công việc, bởi tham vọng, sự sống và cái chết… Sự khai phóng ý tưởng táo bạo và tạo tác nên một thế giới mang bộ mặt quái gở song trùng với thế giới thực tại đã khiến những trang viết của Don DeLillo có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với nhiều thế hệ người đọc. Những đề tài được DeLillo thường xuyên hướng đến được giới nghiên cứu tập trung trong khái niệm Lí thuyết ngầm đa đề tài (themes-conspiracy theory), bao gồm bạo lực văn hoá, cuồng tín tín ngưỡng, đại biến cố, sự khủng bố của đám đông, bí mật lịch sử, con người cô đơn trong không gian hẹp… Cái nhìn tiên tri nhuốm màu phóng túng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tác phẩm của DeLillo ban đầu bị xem là mang tính chất hoang tưởng (paranoid), nhưng dần người ta hiểu ra giá trị đích thực của nó. Thành phố quốc tế (Cosmopolis, 2003) được viết dưới dạng đa đề tài ngầm ẩn. Xuyên suốt là đề tài về thị trường chứng khoán. DeLillo đề cao vai trò của thị trường chứng khoán trong mối quan hệ với nền kinh tế đương thời. Một tay trùm đầu tư cổ phiếu có thể làm xoay chuyển cán cân kinh tế thế giới. Một lần nữa, DeLillo cho thấy khả năng tiên tri của mình trong sáng tạo nghệ thuật. Phải đến 2008 nền kinh tế thế giới mới thực sự chao đảo mà nguyên do bắt đầu từ việc khủng hoảng tài chính. Câu chuyện ông kể về cái thành phố thế giới trong cơn khủng hoảng tài chính và đó có lẽ là nguyên nhân gây nên sự bạo động. Tình trạng hỗn loạn đến mức bản thân cảnh sát ban đầu cũng không thể nào lập lại trật tự. Đấy là một thế giới hoàn toàn bất an và quyền lực gần như là tuyệt đối khi nó tập trung vào một ai đó. Nhưng ngay cả khi nắm trong tay quyền lực thì người đó vẫn không có khả năng xoay chuyển tình thế của mình. Vẫn luôn tồn tại một thế lực, một quyền năng nào đó ngoài khả năng suy đoán của con người. Nhân vật chính trong truyện là tay trùm kinh doanh tiền bạc xuyên quốc gia, cụ thể là đầu tư vào đồng yên Nhật. Chàng trai ấy năm nay hai mươi tám tuổi. Trước khi kết hôn với một nhà thơ, người sẽ sở hữu một gia sản kếch xù của dòng họ Shifrin, anh ta có mấy người tình tên là Didi Fancher và Kendra Hays… Điều đáng lưu ý ở nhân vật này, tuy được giới thiệu là ông trùm chứng khoán và là một tay có hạng trong quan hệ tình dục với phụ nữ, nhưng cả hai yếu tố đó không phải là đích sống của anh ta. Người kể ở ngôi thứ ba đặt nhân vật vào một hành trình trong vòng một ngày (một ngày tháng tư năm 2000) trong thành phố New York được ngụ ý là Thành phố thế giới. Nơi đó tập trung đủ kiểu người, đủ công việc, đủ những hoạt động đời thường như kinh doanh cổ phiếu, ăn uống ở nhà hàng, đọc sách ở thư viện, vẽ ở xưởng, làm tình… Tất cả những hoạt động này xoay xung quanh nhân vật chính là Eric Packer đang đi trên chiếc xe hiệu limousine sang trọng. Đấy là chiếc xe chuyên dụng, được trang bị đầy đủ máy móc như một phòng làm việc tối tân. Từ trên xe, Eric có thể theo dõi diễn biến của thị trường qua màn hình. Từ trên xe, anh ta cũng có thể quan sát được hết mọi sự việc đang diễn ra trong ngày trên khắp thế giới. Đấy cũng là dạng chiếc xe thế giới, người sử dụng cũng là một dạng con người thế giới, có thể dùng chiếc xe đó vào những việc riêng tư như khám chữa bệnh, làm tình và đưa ra các chỉ thị điều hành kinh doanh… Như một nghịch lí, càng hiện đại, con người càng bị rơi vào nỗi cô đơn và gần như là mất phương hướng hành động. Để khắc hoạ đậm nét hơn bản thể con người trong kỉ nguyên hậu hiện đại, DeLillo đã thực hiện bút pháp mô phỏng đối với kiệt tác Ulysses của James Joyce và xa hơn là với Odyssey của Homer. Hành trình của Eric trên đường đi cắt tóc tương đồng với hành trình của Leopold Bloom lang thang trong một ngày tại thành phố Dublin. So với Bloom, hành động của Eric có mục đích hơn. Eric đang điều hành một tập đoàn kinh tế mà sức mạnh của nó có thể chi phối nền kinh tế toàn cầu. Trong khi đó, Bloom chỉ là một nhân viên chào hàng quảng cáo quèn. Sự tương phản giữa hai nhân vật này chính là sự khác biệt giữa thế giới hiện đại và hậu hiện đại. Một đằng thì lang thang vô mục đích. Một đằng thì vô mục đích ngay trong chính hành động ngỡ như có mục đích của mình. Rốt cuộc cả hai đều giống nhau ở cái kết cục cô đơn và hư vô, nhưng con đường đến đó của họ thì khác nhau. Thành phố quốc tế mở đầu bằng hình ảnh một con người cô đơn: “Anh mất ngủ thường xuyên hơn, không chỉ một, hai lần mà tới bốn, năm lần một tuần. Anh đã làm gì khi điều này xảy ra? Anh không muốn đi dạo trong ánh bình minh lên. Anh không có bạn bè thân thiết để quấy quả bằng một cú điện thoại. Có gì để nói bây giờ? Chỉ là một sự tĩnh lặng, không đối thoại” (1). Điều này quả thực lạ với một nhà kinh tế mà đặc biệt là một ông trùm kinh tế. Sự mất ngủ được giới thiệu ngay từ đầu khiến người đọc nhầm tưởng về chuyện thị trường, nhưng chỉ mấy dòng tiếp theo, ta thấy sự mất ngủ đó có nguyên do chủ yếu từ bản thể hoặc từ những mối quan hệ hầu như không có liên quan gì đến công việc của “anh”. Tính chất hai mặt trong một con người được thể hiện ở đây. Một con người năng nổ hoạt động và một con người chán chường với những hoạt động của mình. Nếu chỉ nhìn trên bề mặt chúng ta sẽ gặp được nỗi bức bối, thúc ép vô cùng to lớn của công việc. Eric trong lúc đi cắt tóc vẫn phải liên tục theo dõi các chỉ số, lắng nghe các chuyên gia cố vấn báo cáo tình hình tài chính và đặc biệt là những báo cáo về tình hình an ninh của bản thân… Cùng một lúc Eric phải xử lí vô vàn các thông tin khác nhau. Đấy là một con người của công việc thực thụ. Con người ý thức được trách nhiệm của mình với công ty, với khối tài sản kếch xù của dòng họ. Có hai yếu tố chủ chốt chi phối mạnh đến hoạt động của Eric là thời gian và lợi nhuận kinh doanh. Lợi nhuận, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ phải chịu áp lực rất lớn về phương diện thời gian. Chỉ trong vòng một phần mười giây hay thậm chí thời lượng ngắn hơn cả thế là đủ để xoay chuyển cả cục diện kinh tế của công ty và cả nền kinh tế thế giới. Dưới áp lực của thời gian, con người hiện lên vô cùng kì quặc. Những nghi thức giao tiếp hay nghi thức công việc hầu như không còn chỗ đứng trong cuộc đời. Thay vào đó là những hành động cốt đạt mục đích tức thời. Còn gì khôi hài hơn là trước mặt nhân viên nữ trên chiếc xe, Eric tụt quần ra để bác sĩ khám tuyến tiền liệt. Có thể nói chưa bao giờ con người bị rơi vào sự quẫn bách như lúc này. Nếu lấy tiêu chí tự chủ của con người để làm thước đo hạnh phúc thì một người có quyền uy như Eric chẳng có lấy chút hạnh phúc nào. Trước đây, các hình tượng nhà tư bản tài chính trong giai đoạn chủ nghĩa hiện đại như trong tác phẩm của Dreizer thường tự tại, tự tin vào sức mạnh và khả năng tận hưởng cuộc sống vô tận của mình, thì sang thời hậu hiện đại, những con người càng có khả năng tận hưởng cuộc sống bao nhiêu lại càng cảm thấy sự bức bối, bị chèn ép bởi bao gánh nặng công việc từ bên ngoài bấy nhiêu. Vậy nên, trong họ không còn là cảm giác của sự tận hưởng cuộc đời mà chỉ là sự bị động chạy theo cuộc đời. Trên đường đi cắt tóc của Eric, biết bao biến cố xảy ra. Cái thời điểm một ngày tháng tư đó chất chứa bao nhiêu sự kiện dồn dập. Nỗi ám ảnh về một kẻ khủng bố đang tìm theo dấu vết để tiêu diệt mình trong Eric luôn thường trực. Eric thờ ơ với cuộc sống giàu có. Một phần cũng vì sở thích của anh không giống những người cùng giới. Phần khác vì “tuyến tiền liệt của anh không cân xứng”. Đấy là tất cả các dấu hiệu cho thấy sự bất bình thường ở Eric. Anh là kiểu nhân vật “khiếm khuyết” đặc thù của chủ nghĩa hậu hiện đại. Thực ra kiểu nhân vật này đã xuất hiện trong văn chương chủ nghĩa hiện đại, như ở tác phẩm Kafka chẳng hạn. Nhưng cái cách các nhân vật thể hiện thì có khác. Trên hành trình đi cắt tóc của Eric, dấu hiệu ẩn dụ cho sự khủng hoảng chính trị hay sự xáo trộn cuộc sống là việc xuất hiện xe tổng thống đang đi trong thành phố. Đương nhiên mọi tuyến đường đều bị xoá sổ để dành quyền ưu tiên cho con người đứng đầu quốc gia này. Trong dòng xe dường như là bất tận của sự tê liệt, chiếc limousine của Eric cũng bị tê liệt theo. Tất nhiên, ngồi trên xe Eric vẫn có thể tiếp tục làm việc, nhưng mối nguy hiểm là một khi dừng lại, chiếc xe của Eric dễ dàng bị những kẻ khủng bố tấn công bất cứ lúc nào. Eric có cả một đội bảo vệ, đứng đầu là Torval. Một nhân viên giàu kinh nghiệm và sẵn sàng làm mọi thứ để bảo vệ thân chủ mình. Sự xuất hiện của nhân vật này là tín hiệu báo hiệu mối nguy hiểm thường trực đang rình rập Eric. Và không ít lần nhân vật này phải ra tay. Vụ đầu tiên là với bác sĩ Ingram, người đến chữa bệnh thay cho bác sĩ Nevius. Torval nghi ngờ ông ta nên đã khống chế để Eric nhận diện. Vụ thứ hai thì thật là nghiêm trọng. Chiếc xe của Eric rơi vào tâm điểm của cuộc bạo động khi nó đi đến “nơi giao nhau giữa đại lộ thứ bảy và nhà hát Broadway”, nơi đó gần ngân hàng đầu tư và là nơi đang diễn ra vụ tấn công khủng khiếp. Những người bạo động đến “từ bốn mươi nước” cùng tấn công vào trung tâm chứng khoán New York. Bất chấp sự ngăn cản của cảnh sát họ vẫn chiếm được trụ sở chứng khoán và thay đổi các chỉ số trên bảng điện tử bằng dòng chữ Một con chuột trở thành đơn vị tiền tệ. Con chuột, một loài vật nhỏ bé và gần như vô giá trị lại có khả năng hình thành nên một hệ thống tiền tệ, nơi kết tinh nhất của văn minh nhân loại. Điều này đồng nghĩa với việc nền văn minh tiền tệ đương thời bị xóa sổ, con người quay lại với những hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp sơ khai thưở nguyên sơ của mình. Câu chuyện của DeLillo là một câu chuyện hoang đường nhưng nó vẫn hấp dẫn người đọc bởi những địa điểm và thời gian xác thực. Trong thực tế, làm gì có chuyện trụ sở chứng khoán New York bị tấn công, làm gì có vị sư nào tự thiêu trong tư thế ngồi thiền trên đường phố New York vào cái năm 2000 ấy… Nhưng bầu không khí bạo loạn và cuồng nộ của đám đông luôn rình rập chờ sự nổi dậy khắp mọi nơi thì không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Người đọc vẫn theo dõi câu chuyện hoang đường kia là nhờ vào khả năng dự báo của nó. Bởi trong một thế giới còn sự chênh lệch lớn giữa người giàu và người nghèo thì bạo loạn là đều tất yếu, luôn có thể xảy ra. DeLillo dẫn ý (có sửa đổi) một câu trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản để diễn tả điều này: Một bóng ma đang ám ảnh thế giới – bóng ma của chủ nghĩa tư bản. Và sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản là để sản sinh ra một thế lực lật đổ nó. Sẽ luôn có những cuộc bạo loạn mang tầm cỡ thế giới khi vẫn còn tồn tại những cá nhân nắm trong tay những giá trị tiền tệ để có thể xoay chuyển thế giới theo cách của mình. Câu chuyện của DeLillo không dừng ở đó, ông thấy được sự bấp bênh của các giá trị ngay trong chính những con người mang quyền lực nhất trên đời. Eric với khối tài sản của mình là một thế lực. Cũng giống như vị tổng thống mà mọi người phải nhường đường khi xe ông ta đi qua, Eric cũng liên tục được đưa lên màn hình. Vai trò của anh quan trọng gần như vai trò của tổng thống. Một mặt Eric ý thức tầm quan trọng đó, mặt khác anh muốn phá tung nó để sống một cuộc sống bình thường. Chuyện anh ta có tình nhân, không chỉ một mà thậm chí là hai hay ba người là minh chứng rõ ràng cho điều đó. Mặc dù tuyến tiền liệt của anh có vấn đề nhưng nó không ngăn được khả năng và khao khát tình dục trong anh. Kiểu tình dục luôn báo hiệu thảm hoạ. Đấy cũng chính là bản chất cuộc sống của anh. Một trong những thảm hoạ lớn mà anh luôn phải đối đầu là việc tri nhận thế giới xung quanh. Có thể nói nhân vật này nhận thức và hành động trước thế giới một cách ngẫu hứng và cực đoan theo cách của riêng mình. Trong lúc đang theo đuổi đồng yên Nhật Bản trong thế bất lợi, được trợ lí can ngăn đừng đầu tư nhưng anh vẫn phớt lờ và tiếp tục canh bạc cuộc đời với lập luận sẽ đến một giới hạn nào đó đồng yên sẽ suy thoái. Về mặt lí thuyết điều đó hoàn toàn đúng, nhưng cuộc sống tiền tệ có quy luật riêng của nó, đấy là quy luật thặng dư tuyệt đối. Không bao giờ đồng tiền trong đầu tư chịu dừng lại một khi nó đã chiếm được vị trí thượng phong. Trong sự cố chấp của mình, Eric vẫn liều đánh nốt canh bạc, rốt cuộc anh bị cháy túi và phá tán thêm cả chỗ tiền lớn của cô vợ giàu có của mình. Đối với cô vợ, Eric càng gặp rắc rối hơn trong nhận thức. Mối quan hệ vợ chồng của họ thật mỏng manh. Anh không luôn chắc chắn nắm giữ được hình ảnh của vợ. Đây là một trong số ít những lần gặp nhau trong ngày của hai vợ chồng: “Anh hạ cửa sổ xuống và nhìn kĩ một trong những người phụ nữ đứng ngoài đó. Đầu tiên anh cho rằng đó là Elise Shifrin. Thỉnh thoảng anh nghĩ về vợ anh với cái tên đầy đủ khi chợt bắt gặp những người họ hàng danh tiếng của cô trên những chuyên mục xã hội hay sách thời trang. Nhưng rồi anh không biết chắc đó là ai nữa, bởi tầm nhìn của anh bị che khuất và vì người phụ nữ mà anh đặt dấu hỏi đó đang cầm một điếu thuốc lá trên tay” (tr.156). Hoá ra đó chính là vợ anh. Chi tiết điếu thuốc lá này cho thấy hai người tuy là vợ chồng nhưng khoảng cách giữa họ là thật lớn. Bởi hôn nhân của họ chủ yếu được dựa trên tiền bạc, danh tiếng dòng họ mà thôi. Còn đây là lần gặp gỡ cuối cùng trong ngày và cả trong đời của Eric với vợ. Đấy là khi Eric rời xe tham gia vào việc đóng phim tự nguyện. Một nhóm làm phim đang quay cảnh những người khoả thân nằm trên đường. Eric nằm cạnh một cô gái. Hai người trao đổi đôi lời với nhau nhưng không nhận ra nhau. Eric ngờ ngợ đấy là vợ mình: “Chẳng phải Elise cũng có mái tóc màu nâu đỏ sao? Anh không thể nhìn thấy gương mặt của người phụ nữ và cô cũng không thể nhìn thấy anh. Nhưng anh đã nói và hiển nhiên là cô cũng nghe thấy tiếng anh. Nếu đây là Elise, sao cô không phản ứng lại tiếng nói của chồng cô? Nhưng tại sao cô phải làm như vậy? Đó không phải là việc gì thú vị cho lắm” (tr.233). Quả là Elise thật. Cuối cùng hai vợ chồng cũng nhận ra nhau. Tay trong tay, họ đi đến vỉa hè, “nơi đây, anh đẩy cô vào bóng tối hôn cô và gọi tên cô. Cô trèo lên anh, quấn quanh cơ thể anh. Họ đã làm tình giữa đống gạch vụn đổ nát, với tư thế người đàn ông đứng còn người phụ nữ cưỡi phía trên” (tr.236). Tư thế làm tình này thật là bất bình thường đối với một xã hội văn minh, nhưng nó lại hoàn toàn có lí khi con người quay lại với đời sống bản năng của mình. Lần gặp trước đó của hai vợ chồng Eric được kết thúc bằng bữa ăn. Lần nay là một cuộc làm tình. Tại cuộc làm tình đó, Eric cho vợ biết anh đã làm mất toàn bộ chỗ tiền của cô. Phản ứng của cô là “anh thấy cô bật cười. Anh cảm thấy hơi thở bật ra từ miệng cô, toả ra làn hơi ẩm bao trùm gương mặt anh. Lâu nay anh đã lãng quên niềm vui thích trước nụ cười của cô, một cái ho nhuốm mùi khói, một nụ cười có hương vị thuốc lá giống như trong những bộ phim đen trắng kinh điển. – Lúc nào em cũng mất tất cả mọi thứ, – cô nói. – Sáng nay em đánh mất xe rồi. Em đã kể cho anh về chuyện này chưa? Em không nhớ nữa” (tr.236). Toàn bộ hành trình sống của các nhân vật trong truyện như đi trong đám mây mù của số phận. Cái số phận do chính họ đặt ra (hay do chính tác giả đặt ra cho họ). Người ta thực hiện những hành động kì quặc trên đời. Những chuyện được mất dễ dàng xảy ra với họ đến mức mà khi được họ không hề cảm thấy thực sự hạnh phúc và khi mất họ cũng chẳng hề lấy đó làm điều tiếc nuối. Thái độ bàng quang với cuộc sống là nét đặc trưng dễ nhận thấy ở những con người hậu hiện đại. Thái độ đó thoát thai từ việc tranh đấu không ngừng với cuộc sống nhằm khẳng định mình để cuối cùng họ chỉ còn đối diện với một cái thế giới mịt mùng không lối thoát. Bản chất của họ không phải lười biếng hay phó mặc cuộc đời,… nhưng những gì họ nhận được trên cuộc đời sau chuỗi nỗ lực không ngừng nghỉ rốt cuộc cũng chỉ là một sự mất mát vô cùng tận. Sau cuộc làm tình trên phố đó, hai vợ chồng Eric mỗi người đi một ngả vì cả hai còn nhiều việc phải làm. Người đọc không thể đoán định họ đang làm gì. Đây cũng là đặc thù của chủ nghĩa hậu hiện đại. Động cơ hành động của con người không được miêu tả. Nhân vật cứ liên tục hành động theo lối ngẫu hứng, bất chợt, không đầu không cuối. Cuộc sống gia đình vợ chồng Eric dường như được xác lập ngoài đường. Họ không đủ thời gian để có những khoảnh khắc bên nhau trong một căn phòng hay một ngôi nhà tử tế. Ngay đối với những người tình của Eric cũng vậy, anh làm tình với họ trong lúc đang tạt qua trên đường đi làm và bản thân họ cũng đang loay hoay với công việc của mình. Đỉnh điểm của việc thiếu thời gian ở đây là cảnh họ làm tình mà không cởi quần áo. Sự “tranh thủ” lên đến đỉnh điểm của nó và hiện diện khắp mọi nơi. Được xem là người mở đầu cho chủ nghĩa hậu hiện đại, Beckett trong các vở kịch của mình đã miêu tả sự xa lạ của con người với môi trường và với cả chính bản thân mình. Cảm thức đó đến DeLillo vẫn hiện diện. Chỉ có khác là DeLillo đẩy nó lên đến cận đỉnh bằng cách gia tăng các cảnh ghép nối ngẫu nhiên vào với nhau. Thời hiện đại, con người đã ý thức thời gian như một vật cản họ cần phải chinh phục và ít nhiều đã thực hiện được ước vọng, nhưng đến thời hậu hiện đại thời gian không còn là đối tượng chinh phục mà là chủ thể chinh phục con người. Việc đánh mất phương hướng của con người trên cuộc đời đa phần là do không còn tự chủ về mặt thời gian mà để thời gian nhấn chìm bản thân vào công việc và bao thứ lo toan bất thành văn trên cuộc đời. Nguyên nhân cũng chỉ vì những toan tính để được sống tốt hơn, để được hơn người, để được thống trị thế giới từ chính con người gây ra mà thôi. Những yếu tố cá nhân đan xen một cách quái gở với những yếu tố cộng đồng đã tạo cho câu chuyện của DeLillo một không khí khác lạ. Những đề tài chính của truyện cũng xoay quanh những vấn đề này. Đó là vũ khí chiến tranh (Eric sở hữu một chiếc máy bay TU – 160 của Nga, loại máy bay chiến đấu mang tên lửa lắp đầu đạn hạt nhân), là tiền tệ (thị trường chứng khoán), là hôn nhân, làm tình, là khủng bố, là điện ảnh, nhà hàng, bạo loạn… Dường như mọi chuyện thường nhật nhân sinh từ riêng tư nhỏ bé đến những chuyện trọng đại của thời đại đều được DeLillo tái hiện trong sách của mình. Nhà văn hậu hiện đại không đi phân tích bình luận các biến cố, không tập trung truy tìm nguyên nhân – kết quả. Mọi luật nhân quả đều bị phá sản tại đây, con người chỉ còn một mệnh lệnh, một động thái tối thượng là tiến lên phía trước. Nhưng bi đát thay, cái phía trước đó không hề rõ ràng chút nào. Càng tiến lên, họ càng vấp phải sự mù mịt (một trạng thái tương tự ở Kafka) để cuối cùng trong nỗi hoang hoải nhân sinh ấy, họ đối diện với cái chết một cách thờ ơ vô cùng tận. Với họ chết thì chết, điều đó đâu thành vấn đề. Cái chết như một tất yếu. Họ không hề có tham vọng biến cái chết của mình thành một sự kiện cứu thế, không hề cầu mong một chút xúc cảm nào từ phía người chứng kiến. Chết, đơn giản chỉ là chết mà thôi: “Kẻ đã giết anh, Richard Sheets, ngồi đối diện với anh. Anh đã mất đi niềm vui thích đối với người đàn ông này. Bàn tay anh mang nỗi đau cuộc đời, tất cả nỗi đau, cảm xúc và những thứ khác. Một lần nữa, anh khép đôi mắt lại. Đây không phải là kết thúc. Anh chết bên trong bề mặt chiếc đồng hồ nhưng vẫn tồn tại trong không gian và chờ đợi tiếng súng vang lên” (tr.279). Con người anh đã được lập trình. Ngay đến cái chết của anh cũng được trình chiếu cho tất thảy bàn dân thiên hạ và cả chính anh chiêm ngắm. Ý thức chết của anh cũng thật bình dị như những suy nghĩ về mọi vấn đề khác của anh một khi “anh đã tự bão hoà bản thân mình”. Nhưng dẫu thế, anh vẫn hướng suy nghĩ về những chuyện đời thường khác. Về người tình Kendra Hays, “vệ sĩ và cũng là người tình của anh, đang dội rửa nội tạng của anh bằng rượu cọ trong buổi lễ ướp xác”, về “trưởng phòng tài chính và là người tình trong tâm tưởng của anh, Jane Melman, đang thủ dâm một cách lặng lẽ ở hàng ghế cuối cùng của nhà thờ, trong buổi lễ tang”, về “việc anh đã kết hôn và rồi để lại người vợ goá bụa. Anh nghĩ đến việc vợ mình cạo trọc đầu để tang anh và mặc đồ tang trong suốt một năm, rồi việc cô cùng với bà mẹ và các phương tiện truyền thông tham dự lễ an táng anh tại một khu sa mạc biệt lập ở một nơi xa xôi”, về anh “không chôn mà là hoả thiêu” cùng với chiếc máy bay TU – 160 “bay lên với tốc độ siêu âm rồi lao vào cát và nổ tung” nhưng không phải là vĩnh viễn biến mất mà “để lại một tác phẩm nghệ thuật bằng cát, và nó sẽ được lưu giữ bằng niềm tin bất diệt của người thực hiện di chúc và cũng là người tình gắn bó với anh từ rất lâu, Didi Fancher” (tr.278). Khát vọng được bất tử của Eric thật mong manh, bởi hai lẽ: thứ nhất người tình rồi cũng sẽ quên anh như quên bao người tình khác trong đời, may ra thì Didi có thể nhớ anh lâu hơn một vài người khác và sau nữa, cát thì chẳng thể nào lưu giữ được bức tranh nghệ thuật là cái chết của chính anh đó, gió và bụi thời gian sẽ cuốn trôi hết mọi dấu vết của anh trên đời. Như thế ngay trong chính khát-vọng-chết-bất-tử này cũng đan cài yếu tố nghiêm túc và yếu tố bông phèng. Eric nửa như muốn được bất tử, nửa như giễu cợt sự bất tử đó. Ai muốn hiểu thế nào thì tuỳ. DeLillo là nhà văn chuyên viết về đề tài khủng bố. Đặc biệt sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, thế giới bắt đầu nhìn nhận một cách nghiêm túc về chuyện khủng bố trong tác phẩm của DeLillo. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc DeLillo sáng tạo tiểu thuyết Người rơi về sự kiện 11-9 thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Thực tế là suốt ba mươi năm sáng tác của mình, DeLillo cũng đã không ngừng viết về đề tài này. Những kẻ khủng bố là gương mặt thường xuyên xuất hiện trong các tiểu thuyết của ông kể từ cuốn Tay chơi (Players, 1977). Tác phẩm tái hiện một bức chân dung biếm hoạ về một đôi vợ chồng có liên quan đến chuyện khủng bố. Người chồng là thành viên của một nhóm khủng bố đang lên kế hoạch cho nổ tung toà nhà Giao dịch Chứng khoán New York nơi anh ta đang làm việc. Người vợ thì làm thuê cho một công ty có cái tên mùi mẫn Uỷ ban Quản lí nỗi buồn, có trụ sở đóng tại toà tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới. Tại mỗi bữa tiệc trên sân thượng, cô vợ trông thấy một chiếc máy bay bay qua và sợ máy bay va phải toà nhà, cô ta đã kêu toáng lên. Chi tiết này được các nhà nghiên cứu đưa ra như là bằng chứng của sự tiên tri về việc toà tháp đôi bị tấn công sau này bằng máy bay của DeLillo. Nhân vật khủng bố trong truyện là người trước đây từng làm việc cho Eric. Anh ta muốn sát hại Eric nhưng không vì lí do gì cả. Đơn giản anh ta muốn Eric chết. Hành động của nhân vật này mang đậm tính phi lí. Nhưng điều phi lí hơn là Eric gần như không tỏ vẻ gì lo lắng cho tính mạng mình. Eric xem chuyện cảnh báo có kẻ muốn sát hại anh là bình thường như bao chuyện khác. Ngay cả khi đội trưởng đội bảo vệ Torval đưa súng cho anh, anh cũng không hề thoáng chút e ngại cho tính mạng mình. Thay vào đó, khi Torval nói cho anh biết mật mã bằng giọng nói của khẩu súng, anh liền bắn chết Torval. Hành động của Eric mang tính phi lí của chủ nghĩa hiện sinh. Luật nhân quả không còn đúng trong kỉ nguyên hậu hiện đại. Câu chuyện của Eric và Torval đưa ra những phản đề với nhiều hàm nghĩa trái ngược: người bảo vệ bị người được bảo vệ sát hại, vũ khí của cá nhân bị lạm dụng để sát hại cá nhân đó, hành vi con người thật bất ngờ và không thể nào kiểm soát được… Thế nhưng, đằng sau câu chuyện súng ống đó nó cho thấy khả năng sát hại con người ngày một tinh vi của công nghệ vũ khí. Nếu để ý, người đọc có thể liệt kê ra hàng loạt các loại vũ khí có khả năng sát thương con người một cách… hiệu quả. Thống kê sơ bộ ta có dùi cui điện, súng cao su, súng ngắn, thuốc nổ, đầu đạn hạt nhân… những thứ vũ khí con người lạnh lùng mang ra đối phó với nhau. Hậu quả là có nhiều người chết. Một tác phẩm hậu hiện đại thì luôn có nhiều cái chết. Nhưng những cái chết đó không hề có chút bi lụy nào, nó nhại những cái chết mang tính anh hùng ca. Đơn giản các nhà hậu hiện đại xem cái chết cũng giống như sự sống. Chết hay sống đều là quy luật tất yếu của cuộc sống, con người chẳng thể nào làm khác được. Từ quan niệm này, các nhà hậu hiện đại tái hiện cái chết không hề giống những cái chết trước đó. Trong Thành phố quốc tế, nhân vật Eric trước khi đối đầu với phát đạn kết thúc đời mình đã được xem xét toàn bộ tiến trình dẫn đến cái chết của mình thông qua chiếc đồng hồ cá nhân có màn hình theo dõi anh và anh biết cái chết đang diễn ra với mình như thế nào. Tháng 7 năm 2007 tờ New York Time in bài phỏng vấn DeLillo. Nhà văn đã trả lời Mark Binelli trong lần phỏng vấn cho tờ Guernica, về việc viết về cuộc khủng bố kinh hoàng ngày 11 tháng 9, cũng như việc thường xuyên đưa những yếu tố kinh dị chết người như đám mây độc treo lửng lơ trên bầu trời trong tác phẩm Âm thanh trắng… DeLillo cho biết: “Đấy thực sự là nỗi kinh hoàng. Thực tế là việc tôi quyết định viết ngay vào giữa sự kiện đã không khiến nó dễ dàng hơn. Tôi không muốn viết một cuốn tiểu thuyết mà những cuộc tấn công xảy ra vọt qua vai phải của nhân vật và tác động đến một vài sinh mạng theo cách từ xa. Tôi muốn ở trong ngọn tháp và ở trong máy bay. Tôi không bao giờ tư duy về các cuộc tấn công theo cách hư cấu nói chung, chí ít là trong vòng ba năm. Ngày 11 tháng 9 tôi đang viết cuốn Thành phố thế giới và tôi đã phải dừng lại mất một khoảng thời gian và tôi quyết định viết một bài tiểu luận. Về sau, sau khi kết thúc Thành phố thế giới, tôi bắt đầu nghĩ về một tác phẩm khác trong vòng vài tháng khi tôi bắt đầu phác thảo ý tưởng về cuốn Người rơi. Hình ảnh nhân vật hiện lên qua cái nhìn thị giác: một người đàn ông mặc veston và thắt cà vạt, mang túi xách, bước qua cơn bão khói và tro tàn. Tôi chẳng hình dung thêm được gì ngoài những điều đó. Rồi mấy ngày sau, hóa ra là tôi nhận thức được cái túi xách đó không phải của ông ta. Điều đó như thể khởi đầu cho một chuỗi ý tưởng dẫn đến việc xếp đặt những từ ngữ thực sự lên trang giấy”(2). Như thế, dẫu không trực tiếp viết về cuộc khủng bố 11 tháng 9, nhưng dư âm của cuộc khủng bố vẫn in đậm trong tác phẩm của ông. Nạn khủng bố không còn là chuyện viễn tưởng, là sản phẩm của hư cấu đơn thuần. Đấy là một thế giới mà yên bình chỉ là tạm thời, còn bạo loạn và chết chóc là nhân tố thường trực. Dường như, DeLillo không hề có tham vọng lấy cái bất ổn để hướng đến sự bình ổn của cuộc đời. Ông có vẻ như nhìn cuộc hỗn loạn đó bằng con mắt giễu cợt, có phần bi đát khi con người đánh mất đi sự tự chủ, đánh mất đi chính bản thân mình trong cái mớ bòng bong quyền lực và tiền bạc do chính họ tạo nên. Khi được hỏi ông có cảm nghĩ gì về những cách thức hành động bạo lực cực đoan trong thời đại hiện nay, DeLillo đáp: “với những kiểu chủ nghĩa cực đoan như thế, một mặt con người ta phải hiểu nguồn gốc của nó. Mặt khác, đa phần nguyên nhân dường như không được lưu ý và bị làm cho mơ hồ bởi môi trường sống của thời đại. Anh biết, tôi từng tham gia diễu hành phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cùng với hàng ngàn hàng ngàn người khác. Nhưng tôi hoàn toàn không hiểu những quả bom được đặt trong những phòng thí nghiệm khoa học hay trong những tòa nhà văn phòng”(3)1 Lê Huy Bắc Review *** Anh mất ngủ thường xuyên hơn, không chỉ một, hai lần mà tới bốn, năm lần một tuần. Anh đã làm gì khi điều này xảy ra? Anh không muốn đi dạo trong ánh bình minh lên. Anh không có bạn bè thân thiết để quấy quả bằng một cú điện thoại. Có gì để nói bây giờ? Chỉ là một sự tĩnh lặng, không đối thoại. Anh thử đếm cừu để rủ cơn ngủ đến nhưng chỉ thành ra tỉnh táo hơn mà thôi. Anh đọc sách khoa học và thi ca. Anh thích khoảng trống của những câu thơ, và trật tự con chữ nổ bùng trên trang giấy. Thơ ca làm anh ý thức được rằng mình đang còn tồn tại. Trong khoảnh khắc, thơ ca hé lộ ra những điều mà bình thường anh không bao giờ để ý tới. Đây chính là sắc thái của những dòng thơ, chí ít là đối với anh, hàng đêm, hàng tuần dài đằng đẵng, hơi thở này tiếp nối hơi thở khác, trong căn phòng xoay ở tầng trên cùng của ngôi nhà ba căn hộ. Có một đêm anh đã thử ngủ đứng trong phòng thiền, nhưng không đủ điêu luyện, và đắc đạo để làm được như vậy. Anh đành bỏ qua giấc ngủ và đi vòng quanh cho cân bằng, một đêm tĩnh mịch không trăng sao khi mà mọi sức mạnh đều trở nên cân bằng với nhau. Đây là cách tốt nhất để làm giảm căng thẳng, một quãng ngưng nhỏ sau những cảm giác bồn chồn. Một câu hỏi không có lời đáp. Anh cố uống thuốc ngủ và thuốc an thần nhưng chúng khiến anh bị lệ thuộc và đẩy anh vào tâm đường trôn ốc kín. Mọi việc anh làm đều là tự ám ảnh và giả tạo. Những ý nghĩ màu xám phủ một bóng đen đáng sợ. Anh đã làm gì? Trên chiếc ghế bành bọc da, anh đã không tham khảo một nhà phân tích nào. Freud xong rồi, tiếp theo sẽ là Einstein. Đêm nay anh đọc cuốn Học thuyết đặc biệt bằng tiếng Anh và tiếng Đức, nhưng rồi cuối cùng anh lại quăng sách sang một bên, cố gắng dồn mọi quyết tâm để nói ra một lời có thể làm tắt ngấm mọi chân lý. Xung quanh anh không có gì tồn tại. Chỉ có âm thanh văng vẳng trong đầu anh, trong tâm trí anh lúc này. Khi anh chết, đối với anh, đây không phải là tận cùng, chỉ có thế gian này là chấm dứt mà thôi.   Anh đứng cạnh cửa sổ và ngắm nhìn ánh bình minh. Từ đây có thể nhìn ra những cây cầu, những con đường hẹp đang yên giấc và phía xa kia là thành phố, là khu ngoại ô lấp lánh làm thành một đường viền ngăn cách bầu trời và mặt đất, mà chỉ có thể miêu tả rằng đó là một không gian sâu thẳm. Anh không biết mình muốn gì. Đêm vẫn trôi trên sông, chỉ còn một phần của đêm thì đúng hơn, và những làn khói xám đang bốc lên từ ống khói phía bờ xa. Anh tưởng tượng ra cảnh những cô gái điếm rời khỏi những góc phố sáng ánh đèn, rũ rũ mái tóc mỏ vịt, một mánh khóe cũ rích với việc khởi đầu bằng vài động tác quyến rũ, anh tưởng tượng ra những chiếc xe tải lăn bánh ra khỏi khu chợ, những chiếc xe tải ra khỏi bến bốc dỡ hàng. Những thùng xe chở đầy bánh mỳ đang đi qua thành phố và lác đác vài chiếc ô tô tách ra khỏi đám hỗn loạn đó, len lỏi trên những đại lộ, còi xe bấm đến chói tai. Cảnh tượng huy hoàng nhất vẫn là những cây cầu bắc ngang qua sông được viền một vừng đông đang bắt đầu nhô lên. Anh quan sát hàng trăm con mòng biển đang bay theo chiếc xà lan lắc lư dọc dòng sông. Chúng có những trái tim mạnh mẽ và phóng khoáng, anh biết rõ điều này, tương phản với kích thước cơ thể chúng. Đã có lần anh say mê nghiên cứu những chi tiết phong phú về bộ môn giải phẫu loài lông vũ. Những con chim có bộ xương rỗng tuếch. Anh đã tìm thấy những thông tin cực kỳ bất ngờ trong suốt cả nửa buổi chiều. Anh đã không biết mình muốn gì, nhưng giờ thì anh nhớ ra rồi. Anh cần phải đi cắt tóc. Anh còn nấn ná thêm một lúc để ngắm nhìn một chú mòng biển đang chao lên, lượn xuống, để ngưỡng mộ loài chim, để luôn nghĩ về chúng và để cố gắng tìm hiểu, thậm chí để có thể cảm nhận được những nhịp đập rộn rã trong trái tim đói khát của một loài chim ăn xác chết. ❃ Anh khoác bộ com lê lên mình và thắt cà vạt. Bộ com lê cọ vào khuôn ngực nở nang quá mức của anh. Anh bước qua căn nhà có bốn mươi tám phòng. Mỗi khi cảm thấy do dự và phiền muộn, anh lại sải bước qua phòng bơi, phòng khách, phòng tập thể thao, qua bể nuôi cá mập và phòng chiếu phim. Anh dừng lại trước cửa chuồng của chú chó borzoi và trò chuyện với nó. Anh rẽ vào khu nhà sau. Ở đó, anh thường làm công việc khảo sát thị trường tiền tệ và xem xét các bản nghiên cứu. Chỉ sau một đêm, đồng yên tăng hơn cả mong đợi. Anh quay lại khu phòng khách bằng bước chân chậm rãi và dừng lại ở từng phòng, từ từ hấp thụ những gì đang hiện hữu tại đó, quan sát và lưu giữ từng tia, từng sóng hạt năng lượng. Tranh treo trên tường chủ yếu là những mảng màu, những khối hình học lớn thống trị toàn bộ những căn phòng và khiến cho không gian bên trong căn nhà trở nên im lặng lạ thường. Bên trong căn nhà ẩn chứa sự căng thẳng và hồi hộp của một không gian cao ngất ngưởng, nó đòi hỏi sự im lặng ngoan đạo để được nhìn và cảm nhận một cách đúng đắn. Khách đến nhà thường không biết cách thưởng thức những bức tranh yêu thích của anh, đó là những bức họa màu trắng khó hiểu, những vệt màu được phết bằng dao vẽ. Tác phẩm bộc lộ sự lợi hại khi nó không còn mới. Sự mới mẻ không còn ẩn chứa nguy hiểm nữa. Anh đi xuống khu hành lang lát đá cẩm thạch bằng chiếc thang máy cá nhân tự động chơi bản nhạc của Satie1. Tuyến tiền liệt của anh không cân xứng. Anh bước ra ngoài, băng qua đại lộ, rồi quay lại và đứng đối diện với tòa nhà nơi anh sống. Anh cảm thấy mình đang cận kề với nó. Đó là tòa nhà tám mươi chín tầng, một số nguyên tố, được gói gọn trong cái vỏ bọc tầm thường là những tấm kính loang loáng màu ánh đồng. Chúng có chung một cạnh hoặc một ranh giới, tòa nhà chọc trời và con người. Với độ cao chín trăm feet, nó là tòa nhà cao nhất thế giới. Tòa nhà được thiết kế theo hình chữ nhật kiểu cũ mà người ta chỉ có thế biết được kích cỡ của nó qua những bản báo cáo. Ngày này qua ngày khác nó tự bộc lộ vẻ tầm thường đến tột cùng của mình. Vì lý do này mà anh yêu thích nó. Anh thích đứng ngắm nhìn nó mỗi khi cảm giác uể oải và hư ảo xâm chiếm lấy anh. Mời các bạn đón đọc Thành Phố Quốc Tế của tác giả Don Delillo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Mùa Đông Ở Stockholm
Đã bao giờ trong cuộc sống này, chúng ta muốn bật ra một câu hỏi tan nát cõi lòng rằng, vì sao chúng ta không được yêu thương như tình yêu chúng ta đã cho đi? Có thể là câu hỏi ấu trĩ, ích kỷ, trẻ con, nông cạn, quá xấu hổ để thốt ra nhưng có lẽ nó thật sự tan nát cõi lòng khi buộc phải vang lên. Trong Một mùa đông ở Stockholm, Agneta Pleijel có đưa ra một trích đoạn: “NÀNG CÔNG CHÚA bị giam trên chòi cao, nàng công chúa trên quả núi thủy tinh của mình, bị vua cha yểm bùa. Không một kẻ cầu hôn nào tìm ra lời giải cho câu đố, không một ai trong số bọn họ đưa nổi con ngựa của mình tới đỉnh những thành vách trơn nhẫy. Đó là điều mà câu chuyện kể khẳng định. Nhưng có phải nàng công chúa đã bị vua cha yểm bùa hay không? Chị không nghĩ như vậy. Cha chị là một con người tốt bụng và hiểu biết lẽ phải.” Một câu chuyện cổ quen thuộc. Rapunzel? Cha? Hay là mẹ? Có lời yểm bùa nào cản ngăn hạnh phúc? Hay là chính chúng ta? Khi gấp lại trang cuối cùng của Một mùa đông ở Stockholm, tôi chợt nhận ra trong cơn xao động dữ dội của lòng mình, tôi không những không rơi nước mắt mà còn mỉm cười. Tôi đã muốn kể ngay lập tức về quyển sách này cho một số người thân quen, báo cho họ biết sự tồn tại của câu chuyện trên trang giấy, những dòng chữ bộc bạch chân thành mà một phụ nữ khác đã viết nên: một vài người chị, một vài người em gái và có lẽ cả một vài người bạn gái nữa. Bởi vì họ – tất cả những người phụ nữ dịu dàng ấy – đã bị nghiền vụn trước một thế giới mà tình yêu thương giống như “thế giới bơi trong đàn cá y như đàn cá bơi trong đại dương”. Một cuốn sách tràn đầy tính nữ. Tính nữ chảy tràn như cách Agneta Pleijei viết về nước tuyết tan tù đọng dưới những bước chân lữ khách của một mùa đông vùng cực bắc lạnh giá. Tinh khiết nhưng lần hồi bị vấy bẩn, bị khuấy lên dữ dội và tung toé nhưng chậm rãi lắng lại trong sự tĩnh lặng soi bóng bầu trời. Những người phụ nữ đã vỡ tan thành từng mảnh từ thẳm sâu đáy lòng nhưng cũng như một trò chơi xếp hình nếu nhìn quá gần hay quá xa đều không thể dễ dàng nhận ra những khớp nối hay mép viền. Mà chúng thì luôn tồn tại. Một mùa đông ở Stockholm cũng là một tác phẩm có cấu trúc phân mảnh như vậy. Cuốn này là những mảnh vỡ, giống như pha lê, như bụi lân tinh, như những cánh hoa hồng rơi rụng, như những bông tuyết trắng rất mềm rất nhẹ. Tác phẩm đa dạng đến nỗi dưới con mắt nghiên cứu người ta có thể khảo sát nó từ nhiều góc độ phê bình khác nhau, từ phân tâm với những giấc mơ tràn đầy hình ảnh, tái dựng huyền thoại với các biểu tượng kinh điển, những câu chuyện cổ tích, v.v… đến phê bình nữ quyền với quá nhiều những thăm dò tinh tế vào địa hạt của mối quan hệ về giới. Một quyển sách mỏng giống như cánh cửa nhỏ mở vào một thế giới nội tâm trùng điệp, như chiếc hang thỏ đã dẫn bước Alice đến với Wonderland. Nhưng từ một cách tiếp cận gần gũi hơn, đây là lời tự thuật của nhân vật nữ chính – một nhà trí thức, một giáo sư thành đạt ở độ tuổi trung niên – người đã ly hôn hai lần và có mối quan hệ tình ái với một người đàn ông đã có vợ. Cô kể về tất cả những gì cô có thể kể, dường như không theo một trật tự nào ngoài sự phức tạp ngẫu nhiên của hồi ức. Chính từ các dữ kiện và sự ngẫu nhiên sắc sảo ấy, Một mùa đông ở Stockholm vì vậy không chỉ là câu chuyện tuyến tính giả lập về một đời người. Nó chính là bản vẽ về nội hàm bên trong toà thành của một người phụ nữ. Hay nói cách khác, nó chính là chân dung đa chiều của một người nữ. Chúng ta sẽ không chỉ thấy Agneta Pleijei tạo nên một bức tranh sống động từ câu chữ. Thay vào đó, bà đổ xuống trang giấy một làn nước lấp lánh, uốn lượn và mềm mại như cực quang Bắc cực. Làn nước ấy vừa sâu hun hút, vừa dịu dàng, ngây thơ lại có lúc hoang dại, bén nhọn, kiến tạo nên sự sống và cũng hàm chứa sức mạnh hủy hoại chính bản thân mình. Thật hiếm có một cuốn sách nào có thể đem đến nhiều sự chia sẻ chân thành đến vậy dành cho phái nữ với những đối thoại thẳng thắn về mối quan hệ trong gia đình, về cách tìm kiếm tình yêu thương. Sự thật cay đắng nhưng sự thật cần được nói ra, để hiểu với nhau rằng, chẳng có ai đơn độc. Cũng chẳng ai là có lỗi. “MỘT TRUYỆN CỔ TÍCH Một đứa trẻ khi mới ra đời là một cái bánh xe quay tít. Khi mọi người chất lên nó những gánh nặng, đứa bé trở thành một con lạc đà. Nó đi vào sa mạc. Ở đó nó gặp sự giận dữ của nó: đó là con sư tử. Lạc đà và sư tử giao chiến với nhau. Lạc đà chiến thắng. Đúng lúc ấy, nó bị biến trở lại thành đứa bé. Và đứa bé trở thành một cái bánh xe, xoay tròn lăn đi, tự do, trong thế giới.” Tôi đã tự hỏi, nếu con sư tử chiến thắng thì sao? Nhưng rồi tôi đã hiểu, chiến thắng đi kèm thất bại và thất bại cũng quan trọng như chiến thắng vậy, bởi vì đó chính là kết quả. Cuộc sống này quan trọng chính vì nó sẽ có và cần có điểm kết thúc. Chúng ta, là những con lạc đà, khuân trên lưng nỗi đau của tình thương, một món nợ truyền đời, chạy qua chạy lại trên sa mạc, đánh nhau với sư tử, “dọn cho mọi người thịt của chính mình để cho họ ăn chán ăn chê”. Nhưng “nỗi đau là cá thể”. Và rốt cuộc thì, người ta phải học cách thua trước cuộc đời để được tự do. Chiễm Phong (c) ReadingCafe.wordpress.com *** Nguyên Nguyên's review Dec 09, 2016 Một quyển nhật ký, chính xác là vậy. Tôi vẫn chưa định hình hoàn toàn cảm xúc của mình sau khi đọc về cuộc đời người phụ nữ ấy.  Những câu chữ nhẹ nhàng, lơ lửng, trôi đi nhanh chóng như 1 dòng nước uốn lượn, quanh co có khi rối tung ở 1 chỗ, tưởng như phập, lụa đứt. Một mùa đông u ám ở Stockholm, cùng với 1 nỗi lòng cũng đầy rẫy những vết nứt tưởng chừng chẳng bao giờ có thể lấp lại. "Một đứa trẻ khi mới ra đời là một cái bánh xe quay tít. Khi mọi người chất lên nó những gánh nặng, đứa bé trở thành một con lạc đà. Nó đi vào sa mạc. Ở đó nó gặp sự giận dữ của nó: đó là con sư tử. Lạc đà và sư tử giao chiến với nhau. Lạc đà chiến thắng. Đúng lúc ấy, nó bị biến trở lại thành đứa bé. Và đứa bé trở thành một cái bánh xe, xoay tròn lăn đi, tự do, trong thế giới.” Đứa trẻ ấy bị đè lên vai với cảm xúc của quá nhiều người, oằn mình chịu đựng làm sao cho vừa lòng tất cả. Một gia đình tan vỡ, những vết nứt sâu không thấy đáy. Mà họ, lại đổ nỗi đau ấy lên 1 đứa bé quá đỗi tinh linh. Một đứa bé mang trong mình tình thương vô tận, để rồi nó cứ đi phân phát chỉ hi vọng cũng nhận lấy 1 chút gì đó yêu thương. Nhưng cuối cùng nhận lại, là sự phản bội, khinh thường, giận dữ, xấu xa.  Tôi lúc trước, vẫn luôn sợ hãi cái cảm giác mình cho đi quá nhiều nhưng người khác lại không thật lòng với mình. Đó là 1 sự đáng sợ, sợ hãi lòng tin bị vùi dập, sợ hãi không vừa lòng, sợ bản thân mình là 1 cái gì đó sai trái. ừ, chị ấy cũng vậy, cũng phải chịu sự đè nén tâm hồn như vậy. Tôi cứ nghĩ cái kết sẽ khác. Nhưng không, kết rẽ theo chiều hướng bất ngờ. Nhưng mà nghĩ lại, chính như thế mới đúng, tự do lòng, tự do thân thể, mới là hạnh phúc đích thực. *** Cái tên ấy nghe thật khác lạ ở miệng anh: êm ái hơn, nhẵn nhụi hơn. Lưỡi anh trượt qua những phụ âm chướng ngại, quyện các nguyên âm lại với nhau, trơn tuột như gió lùa qua các cây hạt dẻ. Sau này, khi còn một mình, chị thử lặp lại cách anh đọc tên thành phố đó mà không được. Cả cái tên lẫn thành phố làm chị sợ: SARAJEVO Xe buýt ở Stockholm phô ra ghê sợ hình ảnh những đàn ông đàn bà trong cảnh cùng quẫn, những đứa trẻ với ánh mắt tố cáo, và bên dưới là một tài khoản ngân hàng viết bằng những con số lớn, đen sẫm: đó là lời kêu gọi cứu trợ. Hai người đi sang bên kia đường; anh đưa tay che mặt. Anh bảo không thể tưởng tượng được là những hình ảnh nói lên sự khủng khiếp của nạn đói trong thế giới thứ ba kia lại là đến từ chính nước anh. Anh đã nói như vậy: “Đất nước tôi”. Tháng Mười một, tuyết trên hè tan ra bẩn thỉu, xe buýt làm bắn nước lên gấu quần, lên giày khách qua đường. Hai người đi đến chân ngôi nhà nơi anh vẫn ngồi viết, nằm trong khu Vasastan, mé thành phố mà chị rất ít khi lui tới. Gian phòng lạnh lẽo. Mùi khói thuốc phảng phất, lửng lơ, đọng lại. Bên cạnh ghế là một lò sưởi điện. Trên bàn, một chiếc máy xử lý văn bản anh mượn của ai đó, một máy in và một máy fax kiểu cổ. Trên gờ cửa sổ, một chiếc máy cát-xét nhỏ và tiếng đàn viôlôngxen. Nhạc Bach qua tiếng đàn Pablo Casals. Những cát-xét này anh mang từ nhà đến: tôi cần nghe thứ nhạc này khi suy nghĩ. Dải giấy từ chiếc máy in chạy ra. Anh đi lại trong phòng, tay đút túi, vẻ bồn chồn, chị cảm thấy thế. Vậy là chị đã khá hiểu anh để có thể cảm thấy nỗi lo âu đó. STOCKHOLM THÁNG MƯỜI MỘT: Một thành phố bắc cực trôi giạt, bầu trời xám nâu, những ngôi nhà nghiêng ngả từ từ lún xuống và mất hút dưới mặt đất. Một vầng đỏ lựng loé lên nhoáng một cái trong cái hẽm giữa mầu đen của mặt đất và mầu đen của bầu trời. Ánh đèn nê-ông nhợt nhạt bên kia cửa kính xe buýt như những lời kêu cứu bi ai. Stockholm tháng Mười một thật khó tả, một tấm khăn liệm quắng vào mùa đông. I HAVE BEEN CALLING FOR MORE THAN ANHOUR…[1] Điện thoại chắc đã đổ chuông lâu rồi chị mới nghe thấy và chạy vội đến trả lời, vấp cả vào dây cắm của chiếc máy hút bụi, rồi vào mấy thùng bìa, chồng sách, đôi ván trượt tuyết, gậy hốc-cây, những quả bóng đá, chồng đĩa hát, túi quần áo, đống báo, tất cả những thứ lỉnh kỉnh chị đã lôi ra từ trong tủ, mắc áo, ngăn kéo. Chị rủa to. Bên ngoài, trời đen kịt. Nhưng căn phòng tràn ngập ánh sáng. Thế lại tốt. Rất sáng, các ngọn đèn đều được bật lên hết. Thoạt tiên, chị không nhận ra ai gọi. Một giọng lạ. BUT IT’S ME! [2] Chị lấy chân đẩy một thùng bìa sang một bên, lấy ra từ đống lộn xộn một chiếc ghế đẩu rồi ngồi xuống. Nhận được một cuộc điện thoại của ai đó sau bao nhiêu năm trời không gặp mặt. Ai đó mà ta không còn nghĩ được nghe lại tiếng nói trên cõi đời này. Đúng thế, chị đã nói chuyện điện thoại lâu, dễ đến một tiếng đồng hồ. Sau đấy, chị cho chạy máy hút bụi. Anh làm gì ở Stockholm, anh đã nhập cư rồi ư? Anh giễu cợt sự bối rối của chị. Không đâu, anh không nhập cư vào đây. Mấy gã kiểm tra hộ chiếu đã rất cảnh giác khi anh đặt chân tới Thụy Điển, họ đã xem xét giấy tờ của anh rất kỹ và hỏi anh rất nhiều. Trong khi anh nói, chị thấy gương mặt anh hiện lên dần dần, như một bức ảnh hiện dần lên trong khay thuốc hiện hình: đôi mắt trong, có lẽ là mầu xám, chị không nhớ nữa, vành môi sắc nét, khóe miệng nhục cảm hoặc giễu cợt; chị đã sống qua một đêm với người đàn ông này, lâu lắm rồi. Từ bao nhiêu năm nay rồi? Mười một năm, anh nói thế. PHI TRƯỜNG SKOPJE. Có ai đó, một trong những người chủ trì hội nghị, đã đưa chị ra đấy, hôn lên má chị và trao cho chị một món quà kỷ niệm: một chiếc lọ gốm nhỏ quai khum khum. Qua cửa kiểm soát hộ chiếu xong, chị dựa lưng vào tường nhìn những hành khách khác, khuỷu tay tì lên lan can sắt chạy xung quanh phòng đợi. Nóng ngột ngạt. Nhiều người lao động nhập cư trở lại sau một chuyến về thăm quê hương; hành lý gồm nào là túi xách, thùng bìa, một số ngồi bệt xuống đất, ghế nào cũng có người ngồi cả rồi. Bên kia những tấm kính bụi bậm, có thể thấy cây cối khô cằn, kiệt quệ vì nóng, rễ cây khẳng khiu. Skopje đấy: chị còn nhớ những bài báo đăng sau ngày động đất năm 1963, hình ảnh những đống gạch đổ nát, những con người vô gia cư, những xác chết. Thành phố bị tàn phá trong vài giây đồng hồ. Giờ đây, người ta đã xây dựng lại rồi. Hiện đại, với những khu chung cư rẻ tiền sơn trắng kiểu trại lính. Chị đến từ Struga, nơi diễn ra hội nghị: một khách sạn rộng mênh mông; các nhà thơ từ khắp thế giới đến ngâm thơ vào ban tối, giữa quầng sáng của những ngọn đèn rọi, trên một chiếc cầu bắc ngang giữa sông. Người dân trong vùng, đàn ông lẫn đàn bà, đến nghe thơ, nằm ngồi ngoài bãi cỏ trên bờ sông cao trong đêm tối. Chị cũng vậy, ngồi trên một mảnh báo gấp lại, hai tay bó lấy gối, nghe được cả tiếng nước róc rách, để mặc cho ý nghĩ lang thang và thử nghe hiểu mấy từ tiếng nước ngoài trong lúc lời dịch song song vang lên trong loa phóng thanh. MƯỜI MỘT NĂM TRƯỚC. Tuy mọi người có hơi bị mê muội vì cái nóng và rượu vang, người ta vẫn nói chuyện không ngớt xung quanh những chiếc bàn gỗ dưới những vòm cây lớn; tiếng nói cứ rì rào, bay lên trời. Những ngôn ngữ thiểu số là những cái túi ký ức của nhân loại, một vị giáo sư ở Ljublijana đã nói vậy khi so sánh một cách bóng bẩy với đặc điểm địa lý của nơi họ đang ở, cách hồ Ohrid không xa, một trong những vùng trũng nhất thế giới, dấu vết của biển Egée từ thế mioxen muộn, với những chi lưu ngầm trong lòng đất và hệ động vật biển duy nhất của nó: một cái nôi cho những mô hình tiếp hợp nguyên thủy của tự nhiên. Một hôm, cảm thấy cần yên tĩnh, chị đã trốn đi và một mình đi xe ô tô đến tận Ohrid, một thành phố đẹp mà chị nghĩ có lẽ chị sẽ muốn trở lại sau này; những bậc thang dốc đứng bằng đá, những ngôi nhà trắng nhỏ xíu nằm giữa những bụi cây nhỏ tỏa hương từ những bông hoa đỏ và trắng, và ở mé dưới rất xa là mặt hồ xanh thẳm lặng như tờ. Chị đã đến thăm một bảo tàng sàn nhà đen xỉn, trên tường trang trí đầy tranh và tượng thánh: những con mắt u tối với cái nhìn soi mói, bàn tay giơ lên trong một động tác tiêu biểu, ngón giữa và ngón cái chạm vào nhau; có một con bướm vàng bay lạc vào giữa những bức tranh, ở mảnh sân có những chiếc bàn trống trơ, trước một bục biểu diễn bỏ không, chị đã uống một ly rượu vang trắng. Trời ngả về chiều, bóng đổ dài. Vài ba đứa trẻ chơi đá bóng, gió nhè nhẹ thổi, thật dễ chịu. ... Mời các bạn đón đọc Một Mùa Đông Ở Stockholm của tác giả Agneta Pleijel & Hoàng Cường (dịch).
Giờ Đức văn
Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).
Tìm Em Nơi Anh
Đây là cuốn tiếp theo sau "Gọi em bằng tên anh" (Call me by your name). Những nhân vật gặp lại, và câu chuyện nhiều năm sau, khi họ đều đã lớn tuổi hơn và có những ngã rẽ riêng trong cuộc đời mình. Tác giả chia sẻ thêm về quyết định viết tiếp câu chuyện: "Tôi vẫn luôn đau đáu về câu chuyện dang dở trong Gọi em bằng tên anh. Dù là người tạo nên các nhân vật và cuộc đời họ, tôi không thể ngờ rằng chính các nhân vật lại khiến tôi trăn trở về những xao động của tình yêu - điều mà tôi không hay biết cho đến khi hoàn thiện cuốn sách. Bộ phim điện ảnh chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết đã giúp tôi nhận ra rằng mình muốn được trở lại với Elio và Oliver và tiếp tục đồng hành với 2 con người ấy". Find Me được chia làm bốn phần: Tempo, Cadenza, Capriccio và Da Capo, như một bản nhạc lôi cuốn có nhịp điệu và hơi thở riêng, cùng những đoạn phóng túng ngẫu hứng nói lên tiếng lòng người chơi. Tempo Phần đầu tiên được thuật lại bởi lời của Samuel "Sami" Perlman, cha của Elio Perlman. Mười năm sau các sự kiện của Call Me By Your Name, Sami Perlman gặp một người phụ nữ trẻ tuổi tên là Miranda khi đi tàu đến Rome. Hai người nhanh chóng trở nên thân thiết và bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn. Trong khi ở Rome, cặp đôi đến thăm người cha ốm yếu của Miranda, tham dự một buổi thuyết trình công khai do Sami tổ chức và gặp được Elio. Cadenza Phần thứ hai được thuật lại bởi lời của Elio. Năm năm sau, Elio làm giáo viên dạy piano ở Paris. Tại một buổi hòa nhạc, anh gặp một người đàn ông lớn tuổi tên là Michel, và họ bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn. Họ đến thăm ngôi nhà thời thơ ấu của Michel ở vùng nông thôn nước Pháp, và kết thúc mối quan hệ vài tuần sau đó bởi cuối cùng, người cũ trong trái tim anh không thể thay thế. Capriccio Phần thứ ba được thuật lại bởi lời của Oliver. Vài năm sau, Oliver làm giáo sư tại một trường cao đẳng ở New Hampshire. Anh ấy đã lập gia đình và có con, nhưng trong thâm tâm lại nuôi dưỡng nỗi nhớ về khoảng thời gian anh ấy ở bên Elio khi còn là sinh viên đại học. Anh ấy đoàn tụ với Elio ở Ý, và họ kết nối lại một cách lãng mạn. Mặc dù cha của Elio đã chết, ông vẫn có một đứa con với Miranda, đặt tên theo Oliver - Ollie Nhỏ. Da Capo Phần cuối cùng được thuật lại bởi lời của Elio. Elio và Oliver lại ở cùng nhau, cùng nuôi dưỡng Ollie Nhỏ, em trai cùng cha khác mẹ của Elio. Phần kết này diễn ra không lâu sau các sự kiện trong Capriccio. *** Sau thành công của "Gọi em bằng tên anh'', André Aciman viết tiếp câu chuyện của Elio và Oliver với những ngã rẽ riêng trong đời. Nếu Gọi em bằng tên anh (tên gốc: Call Me By Your Name) để lại nhiều nuối tiếc cho mối tình giữa cậu trai 17 tuổi Elio và học giả người Mỹ Oliver thì Tìm em nơi anh (tên gốc: Find Me) như một giấc mơ với cái kết trọn vẹn mà André Aciman dành cho hai người. Cuộc đào bới hạnh phúc Có những thứ ở hiện tại chúng ta không biết sẽ trở thành kỷ niệm đến khi ta đánh mất. Kỷ niệm là thứ nuôi nấng ta khi ngày nào đó ta dạt vào một bến bờ sâu thẳm của miền ký ức. Dịu ngọt, đắng cay, dữ dội, bồng bột, cuồn cuộn hòa vào dòng chảy hiện thực nhiều đau đớn. 10 năm trước, cuộc dạo chơi cùng thần ái tình mang cả ''cậu bé đào'' Elio cùng bạch mã hoàng tử Oliver đi ngược xuôi trên dòng thời gian. Họ kiếm tìm nhau bất chấp sự nối dài phi lý về mặt thời gian để gặp nhau sau 10 năm trong Tìm em nơi anh. Hay lùi về tận 20 năm nơi quảng trường nhỏ đối diện tượng đài Piave để kể cho nhau nghe về hai thanh niên hạnh phúc biết bao trong vài tuần ngắn ngủi trong Gọi em bằng tên anh. Tìm em nơi anh được xem là phần hậu truyện, tiếp nối câu chuyện nổi tiếng trước đó và được chia làm 4 phần: Tempo, Cadenza, Capriccio và Da Capo. Mốc thời gian giữa các phần không đi theo thứ tự và cũng không tuân theo những gì đã diễn ra ở cuốn sách trước. Mỗi phần cũng được kể lại bằng lời của nhiều nhân vật. "Nhạc trưởng" André Aciman dẫn dắt độc giả vào giai điệu hạnh phúc của một giao hưởng đầy ngẫu hứng. Những cuộc đời được tái sinh từ những cuộc đời khác, hạt giống tình yêu lại một lần nữa nảy mầm sau nhiều năm ngủ đông cô độc. Đó là Samuel "Sami" Perlman - cha của Elio - đưa người đọc đến mối tình say đắm của ông. Đó là Elio 10 năm sau cuộc chia ly với Oliver nhưng vẫn không thể ngừng thương nhớ người cũ. Đó còn là Oliver dù đã kết hôn nhưng trong thâm tâm vẫn nuôi dưỡng nỗi nhớ đong đầy về quá khứ. Và cuối cùng khi họ ở cùng nhau, họ tìm thấy tâm hồn mình quay trở về tháng ngày mùa hè cuồng nhiệt ở Italy. Cuốn sách là hành trình đi tìm chất xúc tác để xảy ra phản ứng hóa học cho một Elio trưởng thành sau 10 năm và sự tỉnh thức của Oliver sau giấc ngủ vùi dưới bức bình phong mang tên gia đình. Dường như ''một nửa mùa hè, vẫn còn những dở dang'' nới rộng bằng cách xóa đi dấu chấm hết trong Gọi em bằng tên anh, tiếp tục cuộc đào bới hạnh phúc và trao đi cái kết trọn vẹn cho độc giả sau hàng năm mong đợi. Bước ra ánh sáng để tìm lại hạnh phúc Trong tiểu thuyết Đừng tự dối mình của Philippe Besson có một nhân vật từng nói về người yêu đồng giới của mình: ''Đến cuối cùng, anh ấy cũng sẽ che giấu con người mình suốt cả đời. Cho dù anh đã bỏ đi thật xa, cho dù đã có tham vọng sống một kiếp tồn tại mới, anh vẫn lại đối diện với những bản tính của anh, nỗi hổ thẹn của anh, không có khả năng yêu lâu dài. Tôi nghĩ đến những người mình đã thấy trong những dịp gặp gỡ ở hiệu sách, những người đàn ông từng thừa nhận đã tự dối mình, đã sống dối gian từ rất nhiều, rất nhiều năm qua, trước khi chấp nhận sống vui vẻ, trước khi rời bỏ tất cả để bắt đầu lại từ đầu (những người đàn ông ấy sẽ tự nhận ra khi đọc những dòng này). Họ đã không có dũng khí''. Nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở tiểu thuyết Gọi em bằng tên anh thì tác giả André Aciman và Philippe Besson giao nhau ở cùng một điểm khi xây dựng nên một nhân vật đồng tính. Oliver của André Aciman chính là đại diện cho rất nhiều người đồng tính ngoài xã hội, ẩn mình và giấu đi giới tính thật của mình khi họ lấy việc lập gia đình, sinh con đẻ cái là tấm khiên che chắn sự kỳ thị của xã hội. Tìm em nơi anh chính là liều thuốc xoa dịu khi tác giả viết tiếp một đoạn kết hạnh phúc cho một dấu chấm hết đầy phũ phàng của những mối tình đồng tính. Là sự an ủi cho cậu bé Elio năm nào dám sống thật với giới tính của mình và cũng chính là sự cứu chuộc sau những lần đớn hèn trong quá khứ, không dám đối mặt và nắm bắt hạnh phúc của Oliver. Độc giả có thể tiếp cận tiểu thuyết Tìm em nơi anh bằng một hướng mới khi xem phần hậu truyện này hoàn toàn độc lập với câu chuyện trước đó. Bắt đầu bằng câu chuyện của ông Samuel Perman khi phải lòng một cô gái trẻ, như một dấu gạch nối để tiếp tục với chuyện tình của chàng nhạc công Elio cùng người đàn ông lớn tuổi và kết bằng việc quay về mối tình đầu của Elio và Oliver. Dù tiếp cận bằng cách nào đi nữa, câu chuyện của André Aciman luôn tập trung vào thấu hiểu và cảm thông. Bước ra ánh sáng để đi tìm hạnh phúc của người đồng tính chưa bao giờ dễ dàng dù ở thời đại nào. André Aciman đã viết phần hậu truyện không chỉ làm hài lòng độc giả với một cái kết đẹp cho cuộc tình của Elio và Oliver mà ông còn mang lại một khoảng lặng, một thập kỷ của đời người để nhận ra hạnh phúc đích thực từ những sai lầm tuổi trẻ. *** André Aciman   Sinh ngày 2 tháng 1 năm 1951) là một nhà văn người Mỹ. Sinh ra và lớn lên ở Alexandria, Ai Cập, ông hiện là giáo sư nổi tiếng tại Đại học Trung tâm Đại học Thành phố New York, nơi ông dạy lịch sử của các lý thuyết văn học và các tác phẩm của Marcel Proust.Aciman trước đây đã từng dạy viết văn bản sáng tạo tại Đại học New York và văn học Pháp tại Princeton và Bard College. Năm 2009, ông là nhà văn đặc biệt tại Đại học Wesley. Ông là tác giả của một số tiểu thuyết, bao gồm cả Call Me by Your Name (chiến thắng trong hạng mục Gay Fiction tại Lambda Literary Award 2007) và một hồi ký năm 1995, Out of Egypt, đoạt giải Whiting Award. Mặc dù ông được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Call Me by Your Name, nhưng Aciman đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2019, cuốn sách hay nhất của ông là cuốn tiểu thuyết Eight White Nights. *** Sao cau có vậy? Tôi nhìn em lên tàu ở ga Florence. Em mở cửa và, khi đã vào trong khoang tàu, nhìn quanh một vòng, ném chiếc ba lô vào chỗ ngồi còn trống cạnh tôi. Em cởi chiếc áo khoác da, đặt xuống quyển sách bìa mềm đang đọc dở, cất một chiếc hộp vuông màu trắng lên học hành lý rồi ngồi phịch xuống chỗ ngồi chéo với tôi, vẻ bồn chồn cáu kỉnh. Dáng vẻ ấy như thể em vừa mới cãi nhau nảy lửa vài phút trước khi rời đi và vẫn giận dỗi bởi những lời lẽ đắng cay mà chính em hoặc người kia thốt ra trước khi cúp máy. Chú cún của em, bị kẹp giữa hai mắt cá chân cùng một sợi dây buộc đỏ quấn quanh tay chủ, dường như cũng bồn chồn chẳng kém. “Buona, ngoan nào bé,” cuối cùng em lên tiếng, mong làm nó bình tĩnh, “buona, ngoan,” nó vẫn ngọ nguậy cố chui ra khỏi vòng kìm kẹp. Sự hiện diện của nó khiến tôi thấy phiền, và bất giác tôi khước từ chuyện bỏ chân xuống hoặc nhích ra để nhường chỗ cho nó. Nhưng em có vẻ chẳng bận tâm tới tôi hay cử chỉ từ chối ấy. Thay vì vậy, em lục tìm trong ba lô ra một chiếc túi nhựa mỏng, lấy ra hai cái bánh nhỏ xíu hình xương cho chú cún, đặt lên lòng bàn tay và xem nó liếm hết. “Brava, giỏi lắm.” Con chó dịu xuống trong chốc lát, em hơi nhổm người lên để chỉnh áo, sửa thế ngồi một hai lần, rồi rơi vào một kiểu ngẩn ngơ buồn bã, nhìn chằm chằm ra khung cảnh Florence khi tàu bắt đầu rời khỏi ga Santa Maria Novella. Em vẫn giận, và có lẽ trong vô thức, em lắc đầu, một lần, hai lần, rõ ràng đang rủa cái người khiến em bực tức trước khi đi. Trong thoáng chốc em mang vẻ tuyệt vọng đến cùng cực đến nỗi dù đang chú mục vào quyển sách trước mặt, tôi bắt gặp bản thân mình đang cố nghĩ ra điều gì đó để gợi chuyện, để giá có thể giúp dịu lại cơn bão đang chực chờ dâng trào trong cái góc nhỏ bé tít gần cuối toa này. Rồi tôi lại đổi ý. Nên để người ta yên và quay lại việc đọc của mình thì hơn. Nhưng khi tôi bắt gặp em cũng đang nhìn mình, chẳng ngừng được, tôi buột hỏi: “Sao cau có vậy?” Chỉ đến khi nói ra rồi tôi mới nhận ra câu hỏi ấy hoàn toàn không phù hợp để hỏi người lạ trên tàu, nhất là một người có vẻ sẵn sàng bốc hỏa trước sự trêu ngươi nhỏ nhất. Em nhìn tôi với vẻ lúng túng và hằn học hiện lên trong mắt, báo hiệu trang ngôn từ sắp xổ ra nhắc tôi nhớ lấy vị trí của mình. Lo thân mình đi lão già. Hoặc: Liên quan tới ông sao? Hoặc bĩu môi: Đồ khốn! “Không, không cau có, chỉ nghĩ ngợi thôi,” em bảo. Tôi giật mình bởi sự nhẹ nhàng, gần như hối tiếc trong giọng điệu em nói, nếu em bảo tôi cút xéo đi thì tôi còn thấy ít bất ngờ hơn. “Chắc là nghĩ ngợi khiến tôi trông thế.” “Kể cả khi cô nghĩ điều vui à?” “Không, khi vui thì khác,” em trả lời. Tôi mỉm cười nhưng không nói gì thêm, cảm thấy hối hận với câu đùa nông cạn và hợm hĩnh vừa rồi. “Nhưng chắc dù sao cũng vẫn hay cau có,” em nói thêm, chấp nhận với một điệu cười đầu hàng. Tôi tỏ lời xin lỗi vì nói năng khiếm nhã. “Không sao,” em bảo, nhìn ngắm phong cảnh miền quê bắt đầu trải ra bên ngoài cửa sổ. Vậy cô là người Mỹ đúng chứ, tôi hỏi. Đúng là thế. “Tôi cũng vậy,” tôi nói. “Nghe giọng ông là tôi nhận ra ngay,” em mỉm cười. Tôi giải thích rằng mình đã sống ở Italy gần ba mươi năm rồi, nhưng chắc có cả đời cũng chẳng thể mất đi giọng bản xứ. Rồi tôi hỏi, em bảo đã chuyển tới đây cùng cha mẹ từ khi mười hai. Chúng tôi đều đang đi Rome. “Công việc à?” tôi hỏi. “Không, không phải công việc. Thăm cha tôi. Ông không khỏe.” Rồi, ngước mắt lên nhìn tôi: “Nên mới cau có, chắc vậy.” “Nghiêm trọng không?” “Tôi nghĩ là có.” “Tôi rất tiếc,” tôi bảo. Em chỉ nhún vai. “Đời mà!” Và rồi, đổi tông giọng: “Thế còn ông? Công việc là hay đi thăm thú?” Tôi cười bởi câu hỏi nhại và nói tôi được mời đến để làm buổi đọc sách cho sinh viên đại học. Nhưng tôi cũng ghé thăm con trai mình, nó sống ở Rome và lát sẽ đón tôi ở ga. “Hẳn là một cậu bé ngoan.” Mời các bạn đón đọc Tìm Em của tác giả André Aciman.
Thành Phố Và Lũ Chó
Lũ chó trong Thành phố và lũ chó là danh xưng mà học viên các lớp trên của Trường Quân sự Leoncio Prado “tặng” cho các học viên lớp mới vừa chân ướt chân ráo bước vào trường năm đầu. Và đám lính tò te ấy, lũ “chó con”, ngơ ngác, sợ sệt, “chửa biết gì”, rất nhanh chóng được nếm mùi vị thật của Trường Quân sự, mùi bạo hành, thứ bạo hành mà khi chúng lớn hơn, bản thân trở thành học viên lớp lớn, chính chúng sẽ đem áp dụng với đám “chó con” nhỏ tuổi hơn. Những năm niêu thiếu quan trọng nhất của “lũ chó” đã trôi qua trong môi trường nghiệt ngã của ngôi trường quân sự, một nhà tù để chúng trưởng thành về mọi mặt, cả mặt sáng và mặt tối. Tình yêu, tình dục, tình bằng hữu, ý thức về trung thực, trách nhiệm và phẩm giá, tất cả rồi sẽ nảy nở và hình thành trong cái lò lửa đó, theo cách giống như tất cả chúng ta song cũng theo một cách riêng, rất riêng của lũ “chó con” trường quân sự dưới ngòi bút duyên dáng, sinh động, sục sôi khí lực của một trong những nhà văn hàng đầu Mỹ latinh.   Khi Thành phố và lũ chó được ấn hành lần đầu tiên ở Peru vào năm 1962, tác phẩm đã  gây xì căng đan đến độ có một ngàn bản sách đã bị đốt trong một buổi lễ chính thức diễn ra tại Trường quân sự Leoncio Prado. Cũng năm đó, cuốn sách được trao giải Biblioteca Breve, một giải thưởng tặng cho tác phẩm hư cấu hay nhất bằng tiếng Tây Ban Nha.     ***********     Nhận định   “Cuốn tiểu thuyết đầy bạo lực nhất của Mario Vargas Llosa” - Lời bình của ấn bản tiếng Tây Ban Nha, NXB Alfaguara *** LỜI GIỚI THIỆU Năm 1962, khi còn là bản thảo, Thành phố và lũ chó[1] đã được nhận Giải thưởng Thư viện Ngắn gọn của Nhà xuất bản Seix Barral, cho đến hiện nay vẫn là một trong những nhà xuất bản danh tiếng nhất Tây Ban Nha và Mỹ Latinh. Ngay khi vừa được xuất bản, năm 1963, cuốn tiểu thuyết đã được trao giải thưởng của Giới phê bình Tây Ban Nha và gây nên chấn động chưa từng thấy trong dư luận xã hội và trong giới học giả, nhanh chóng được dịch ra ba mươi thứ tiếng và ngày nay được đánh giá là tác phẩm kinh điển trong nền văn học không chỉ của đất nước Perú mà còn của Mỹ Latinh nói chung. Trong nền văn học bằng tiếng Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh, nhà văn nổi tiếng người Guatemala, Miguel Angel Asturias, giải thưởng Nobel Văn chương năm 1967, và nhà văn người Cuba, Alejo Carpentier, được coi là những người khởi đầu và đặt nền móng lý luận cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (realismo mágico hoặc realismo maravilloso), một khám phá độc đáo của văn học Mỹ Latinh hiện đại[2]. Còn nhà văn Perú Mario Vargas Llosa lại là một trong những người đi tiên phong, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách tân thi pháp tiểu thuyết, mà vấn đề cốt lõi là sử dụng thời gian đa tuyến, một kỹ thuật hết sức mới mẻ thời bấy giờ, đồng thời cũng sáng tạo ra những kỹ thuật kể chuyện có hiệu quả để nắm bắt và phản ánh hiện thực như mê cung của đất nước ông. Trong Thành phố và lũ chó, thời gian đa tuyến được tác giả sử dụng thông qua kỹ thuật tự sự đa chủ thể: thời gian “trong cốt truyện” thông qua chuyện kể của ngôi thứ ba (người kể chuyện) theo diễn biến từ đầu đến cuối - từ khi học viên Cava bị Nhóm bạn giao cho việc ăn cắp đề kiểm tra môn hóa, vô tình làm vỡ cửa kính, nhà trường phạt các học viên gác đêm hôm đó không được đi chơi ngoài trường vào thứ Bảy và Chủ nhật; quá bức xúc, học viên Arana (Nô Lệ) liền tố giác khiến Cava bị đuổi học, rồi bản thân Nô Lệ sau đó bị bắn chết trong cuộc diễn tập quân sự… Bên cạnh đó là thời gian “ngoài cốt truyện”, diễn ra qua lời kể của các nhân vật chính: Trăn, Alberto (tức Nhà Thơ), Báo Đen gồm những hồi ức về gia đình, bản thân (ngược chiều với thời gian cốt truyện, kể về những sự việc đã qua, một thứ flashback), thời gian tâm lý gồm tình yêu chớm nở, tình cảm với con chó cái… Toàn bộ cuốn tiểu thuyết được chia làm hai phần và phần vĩ thanh, mỗi phần có tám chương, mỗi chương thường có bốn hoặc năm phân đoạn, hai chương có đến mười phân đoạn. Một phần ba cuốn tiểu thuyết (ba mươi sáu trong số tám mươi mốt phân đoạn) được kể ở ngôi thứ nhất dưới dạng độc thoại nội tâm của ba nhân vật chính với thời gian và không gian bị đảo lộn, xáo trộn, khiến cốt truyện dù đơn giản cũng trở nên ly kỳ, hấp dẫn. Các đoạn độc thoại này không được nói rõ của nhân vật nào, độc giả phải tự luận ra, hơn nữa chúng lại kết hợp rất khéo léo, khi thì trực tiếp khi thì gián tiếp với ngôi thứ ba, kỹ thuật kể chuyện này được M. Vargas Llosa tự gọi là “phương pháp bình thông nhau”, ví dụ trong đoạn độc thoại sau đây của Alberto: “Mình có thể sẽ đi mà nói với bố, bố ơi cho con hơi mươi đồng sol đi và ngay bây giờ mình đã thấy rõ, hai mắt bố sẽ đẫm lệ và bố sẽ cho mình bốn mươi hoặc năm mươi đồng, nhưng việc đó sẽ chẳng khác gì nói với bố, con tha thứ cho những việc bố đã làm với mẹ và bố vẫn có thể cứ làm ba cái trò đĩ thoã của mình đi với điều kiện là phải tiếp tục cho con tiền thưởng hậu hậu vào.” Dưới chiếc khăn quàng bằng len của mẹ cho từ mấy tháng trước, đôi môi của Alberto cử động liên tục mà không hề phát ra âm thanh nào… Cấu trúc phức tạp này đòi hỏi nhà văn phải vững tay nghề và, cùng với một cốt truyện ly kỳ, cấu trúc này đã giữ được mạch hồi hộp thích thú cho độc giả và buộc họ phải tham gia tích cực vào diễn biến của câu chuyện, phải chăm chú theo dõi, tự sắp xếp lại không gian và thời gian của các lời kể thì mới có thể nắm chắc được nội dung. Yếu tố kỹ thuật kể chuyện này hoàn toàn mới lạ trong nền tiểu thuyết Mỹ Latinh thời kỳ đó, và trở thành yếu tố kỹ thuật cơ bản của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Và chính Mario Vargas Llosa là một trong những người đầu tiên vận dụng nhuần nhuyễn ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình. Ngoài ra, khả năng sử dụng ngôn ngữ đời thường, kể cả những từ lóng, thậm chí thô tục của lứa tuổi mới lớn; nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật; sự kết hợp hài hòa giữa những trang miêu tả các sự kiện đầy bạo lực với những trang hết sức trữ tình về tình yêu của những thanh niên mới lớn, tình yêu thuở học trò, những trang miêu tả sương mù bảng lảng đầy chất thơ và chất u ám tăm tối ở khu vực La Perla nơi trường quân sự được xây dựng và ẩn hiện thường xuyên chất hài hước chế giễu sâu cay; tất cả làm nên giá trị nghệ thuật độc đáo và hết sức mới mẻ của tác phẩm này. Nét mới mẻ và độc đáo còn ở ngay nội dung tác phẩm. Thành phố và lũ chó là bản cáo trạng lên án nền giáo dục quân phiệt, quan điểm phân biệt chủng tộc, đẳng cấp xã hội, triết lý kẻ mạnh áp chế kẻ yếu còn ngự trị trong xã hội và trong trường quân sự. Là di sản của chế độ thực dân-phong kiến của Tây Ban Nha, chế độ gia trưởng, vai trò các trưởng lão, các thủ lĩnh (Caudillo) còn tồn tại lâu dài trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản. Các thế lực quân sự, nhằm đào tạo ra một thế hệ quân nhân mù quáng tôn thờ chế độ gia trưởng, chế độ độc tài quân sự, đã lập ra hệ thống trường quân sự nơi nền giáo dục dựa trên chính bạo lực và dối trá, nơi triết lý kẻ mạnh ngự trị trên hết. Bằng chính trải nghiệm của bản thân, Vargas Llosa đã đề cập đến một đề tài hết sức mới mẻ: nền giáo dục quân phiệt đầy bạo lực. Và Trường Quân sự Leoncio Prado cũng chính là xã hội Perú thu nhỏ với mọi tệ nạn xã hội, đầy rẫy tệ phân biệt chủng tộc, phân biệt đẳng cấp xã hội, nguồn gốc văn hóa. Lên án nền giáo dục bạo lực đối với thế hệ thanh niên mới lớn trong trường quân sự, Thành phố và lũ chó cũng mang tính dự báo và kết án chế độ độc tài quân sự đã hình thành ở một số nước và sau đó, suốt thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước, đã thống trị một cách tàn bạo ở hầu hết các nước Mỹ Latinh. Đây cũng là một đề tài được nhiều nhà văn nổi tiếng, từ M Angel Asturias, Alejo Carpentier, Augusto Roa Bastos, Ernesto Sabato… đến G. García Márquez đều đã viết và đạt thành tựu quan trọng. Nhưng nếu các nhà văn khác viết về các nhà độc tài, các trưởng lão, thì Vargas Llosa khai thác đề tài nền giáo dục, đào tạo ra bọn độc tài. Thành phố và lũ chó còn hấp dẫn bởi vì lần đầu tiên văn chương đề cập đến đời sống tinh thần và vật chất của lứa tuổi mới lớn trong trường quân sự, tình bạn, tình yêu. Họ là nạn nhân của một xã hội thối nát, của lối giáo dục tàn bạo, nên sống buông thả, bài bạc, đĩ điếm, ăn trộm, vô kỷ luật, tàn nhẫn với nhau, theo đuổi lối sống tình dục bản năng của tuổi chưa trưởng thành (tình dục đồng giới, tình dục với thú vật như gà mái, chó cái), thậm chí còn gây tội ác. Vargas Llosa mạnh dạn bóc trần những tệ nạn đó, lên án và chế giễu chua cay những kẻ đại diện cho chế độ xã hội dựa trên bạo lực và giả dối. Lập trường chống chế độ quân phiệt, chống giai cấp tư sản, chống tư tưởng ỷ thế kẻ mạnh, chống bạo lực tàn bạo của Vargas Llosa trong tác phẩm này đã làm cháy lên tinh thần phản kháng và thức tỉnh ý thức phải đổi mới trong xã hội Perú, như García Márquez từng nói:”… đảo ngược hẳn lại thực tế.” Mới mẻ, đặc sắc từ đề tài, quan điểm tiếp cận thực tế đến phong cách, nghệ thuật kể chuyện cùng những yếu tố kỹ thuật mới, Thành phố và lũ chó được liệt vào một trong những tác phẩm văn học mở đầu cho cuộc bùng nổ của tiểu thuyết Mỹ Latinh. Cùng với Gabriel García Márquez, Julio Cortázar, Carlos Puentes, Mario Vargas Llosas được coi là những nhà văn xuất sắc nhất của Mỹ Latinh từ nửa cuối thế kỷ XX cho đến hiện nay. M. Vargas Llosa sinh ở Arequipa, Perú, năm 1936, cho đến năm lên mười mới biết mặt bố vì trước đó bố mẹ ông đã ly thân. Từ chỗ được mẹ yêu chiều, khi về sống với bố và mẹ lúc này đã tái hợp, ông phải đối mặt với thái độ hà khắc của bố, từ đó nảy sinh xung đột bố- con, và nỗi khát khao được sống tự do. Ông bị đưa vào học Trường Quân sự Leoncio Prado. Chính trong môi trường bạo lực này, tố chất và năng khiếu văn chương của ông đã được nảy nở: ông viết thư hộ cho bạn, viết truyện tình bán cho bạn học. Ngay khi ra trường, ông tham gia viết báo và nhận ra sự nghiệp đời mình chỉ có thể gắn với chữ nghĩa. Năm 1953 ông vào học ở khoa Văn và Luật trường Đại học San Marcos và bắt đầu viết truyện ngắn; năm 1959 các truyện này được tập hợp trong tập Các vị chỉ huy, giành giải thưởng Leopoldo Alas. Sau đó, ông yêu và kết hôn cùng Julia Urquidi, người dì dâu của chính ông. Năm 1955, cùng với vợ, ông sang châu Âu học tập theo học bổng Javier Prado và lấy bằng Tiến sĩ Triết học và Văn chương; đồng thời tìm thấy môi trường thích hợp cho hoạt động văn học. Những chi tiết trong tiểu sử này đã được ông đưa vào một số tiểu thuyết nổi tiếng như Lầu xanh (La casa verde, 1966), Đối thoại trong quán La Catedral (Conversacion en La Catedral, 1969) và Dì Julia và nhà văn quèn (La tía Julia y el escribidor, 1977, hai cuốn sau đã được dịch ra tiếng Việt). Ngoại trừ một giai đoạn có tham gia hoạt động chính trị, thậm chí là ứng viên tổng thống năm 1990, phần lớn cuộc đời cho đến hiện nay ông dành cho văn học và báo chí. Ông có sức sáng tạo mạnh mẽ: hàng chục tiểu thuyết nổi tiếng như Pantaléon và các nữ du khách (Pantaleón y las visitadoras, 1973); Cuộc chiến tranh nơi tận cùng thế giới (La guerra del fin delmundo, 1981), Câu chuyện của Mayta (Historia de Mayta, 1984), Ai đỡ giết Palomino Molero? (iQuién mató a Palomino Molero?, tiểu thuyết hình sự, 1986), Người nói chuyện (El hablador, 1987), Ca ngợi người mẹ kế (Elogio de la madrastra, 1988), Người Lituma ở dây Andes (Lituma en los Andes, 1993), Những quyển vở của ông Rigoberto (Los cuadernos de don Rigoberto, 1997), Lễ hội của dê (La fiesta del chivo, 2000), Thiên đường nơi góc phố (El paraíso en la otra esquina, 2003), và ở tuổi 70, năm 2006, lần đầu tiên ông viết cuốn tiểu thuyết tình yêu Trò nghịch của gái hư (Travesuras de la nina mala). Ngoài ra ông còn một số lượng rất lớn sách tiểu luận về văn học, triết học, chính trị và nhiều tác phẩm sân khấu. Năm 2010 vừa qua, Mario Vargas Llosa được trao giải thưởng Nobel Văn chương. Bên cạnh đó, ông từng đoạt tất cả các giải thưởng quan trọng nhất ở đất nước Perú và các nước nói tiếng Tây Ban Nha: giải thưởng Cervantes, giải thưởng Hoàng tử Asturias về văn chương - hai giải thưởng danh giá nhất trong các nước nói tiếng Tây Ban Nha - giải thưởng của các nhà xuất bản quan trọng nhất Barral và Planeta, giải thưởng của các nước khác của Mỹ La tinh, của Ý, Pháp, Mỹ, Anh, Đức… Và, như ông tự nói: giải thưởng lớn nhất trong đời chính là niềm đam mê và lòng quyết tâm theo đuổi nghề văn. Lê Xuân Quỳnh   *** "Thành phố và lũ chó" là tác phẩm đầu tay của nhà văn người Tây Ban Nha gốc Peru Mario Vargas Llosa - người đoạt giải Nobel Văn học 2010. Bối cảnh của câu chuyện là trường quân sự có thật mang tên Leoncio Prado ở Lima, Peru. Tại đây, những đứa trẻ 14-15 tuổi đã phải nhập học và trải qua cuộc sống lính khắc nghiệt. Những năm tháng quan trọng nhất trong thời niên thiếu của lũ trẻ sống dưới dưới sự tàn khốc của chế độ quân phiệt Peru. Những học viên mới của trường bị gọi là “chó con”. Chúng phải trải qua thử thách là những trò hành hạ mà lũ “chó con” năm trước áp đặt. Trong môi trường khép kín và đầy thiết quân luật, trường học trở thành nơi lũ trẻ đe nẹt, hành hạ lẫn nhau. Ngoài ra, đây cũng trở thành nơi chúng hút hít và vụng trộm giải tỏa những nhu cầu sinh lý của những cậu trai đang lớn. Nội dung chính của tác phẩm tập trung vào một hội nhóm bí mật của đám học viên năm thứ tư. Chúng thường tổ chức các vụ trộm cắp, trao đổi những phi vụ bí mật trong trường. Một lần, Cava, một trong ba thành viên của nhóm, nhận nhiệm vụ đánh cắp đề thi môn Hóa. Vụ việc vỡ lở, toàn bộ học viên của khóa bị cấm trại cho đến khi tìm được thủ phạm. Cava bị một học viên khác trong trường tố giác và sau đó là những kế hoạch trả thù của nhóm hội bí mật với người bạn học này. Tác phẩm từng gây chấn động lớn trong xã hội ngay khi ra đời năm 1963 vì lên án chế độ quân sự của Peru. Đã có cả nghìn bản sách bị chính các sĩ quan của ngôi trường này đốt bỏ. Tuy nhiên, cuốn sách cũng được đánh giá cao về giá trị văn chương và đã đoạt giải Biblioteca dành cho tác phẩm hư cấu hay nhất của giới phê bình Tây Ban Nha. Nhà văn Mario Vargas Llosa khi ấy mới 23 tuổi. Song Ngư *** Đã từng lướt qua không biết bao nhiêu lần và cũng đã từng muốn mua không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào cũng đang trong lúc cạn ngân sách nên đành bấm bụng quay đi. Sau một hồi quên lãng thì lại đọc ké hết cả quyển trong quán Cà phê. Và cảm xúc sau khi đọc xong là Cực kì muốn đọc lại. Đau đớn thay là khi ấy Quyển này đã hết hàng, còn đau đớn hơn nữa khi biết là không hề có bản Ebook. Và vì không có Ebook, cũng không có Sách trong tay, thế nên bài Review này cũng không có bất cứ dẫn chứng nào. Mà cũng đừng ai hỏi bạn chẻ có quyển này hay không, hay hỏi mượn, hay đại loại là hỏi mua ở đâu, đơn giản là vì bạn chẻ cũng đang kiếm chỗ mua đây. FULL: AZW3 EPUB MOBI PDF