Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn
Đánh thức con người phi thường trong bạn” là cuốn sách giúp người đọc khám phá giá trị tiềm ẩn của bản thân để tạo nên những kết quả chính mình không ngờ đến. Cuốn sách được viết bởi Athony Robbins – một nhân chứng sống, một ngưỡi đã tìm được sự phi thường trong chính con người mình. Tác giả của cuốn sách, Anthony Robbins từng là một đứa trẻ sống trong cảnh cô đơn vì bố mẹ ông ly dị từ sớm, mẹ ông tái hôn 2 lần. Năm 1994, Anthony Robbins phát hiện mình có một khối u ở tuyến yên, điều đó khiến tay chân ông phát triển không bình thường. Tuy vậy, ở độ tuổi 24 Anthony Robbins đã là triệu phú, sự nghiệp của ông cũng ghi đầy dấu tích khi ông là một doanh nhân thành đạt, sáng lập, điều hành 9 công ty và là một trong những tác giả có sách bán chạy nhất toàn cầu. Ông từng cố vấn cho các chuyên viên quản trị của IBM, AT&T, American Express, McDonnell-Douglas. Đem tất cả tâm huyết và khát khao giúp người khác thay đổi, Anthony Robbins chia sẻ tất cả những gì là bí quyết thành công của mình trong cuốn sách “Đánh thức con người phi thường trong bạn”. Ông nói: “Tôi thực sự tin tưởng trong mỗi chúng ta có một con người phi thường đang say ngủ. Tôi viết quyển sách này chỉ với một nguyện vọng, mong sao nó sẽ trở thành một tiếng gọi lay tỉnh, thách thức những ai vẫn còn nhiệt tâm với cuộc sống, giúp họ khai thác nguồn sức mạnh mà tạo hóa đã ban tặng”. Để “Đánh thức con người phi thường trong bạn”, Anthony Robbins đã nghiên cứu và chia sẻ 3 nguyên tắc nền tảng tạo ra sự thay đổi bền vững. Đó là: Nâng tầm bản thân, Thay đổi niềm tin hạn hẹp về bản thân, Thay đổi chiến lược. Ông cũng chia kỹ năng cuộc sống ra làm 5 khía cạnh để người đọc có thể dễ dàng cải thiện và phát triển: Làm chủ cảm xúc, Làm chủ cơ thể, Tạo dựng và duy trì mối quan hệ, Quản lý tài chính, Làm chủ thời gian. *** Đã đến lúc bắt đầu sống cuộc đời bạn hằng mong muốn. Sau đây là những hướng dẫn ban đầu giúp bạn làm được điều đó. Anthony Robbins là bậc thầy trong lĩnh vực phát triển bản thân và nổi danh tại Mỹ nhờ sự kết hợp của năng lượng cá nhân và kỹ năng marketing. Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn xuất bản năm 1991 và ý tưởng viết quyển sách này đến với Robbins khi ông đang ngồi trên máy bay trực thăng để đến buổi hội thảo đã cháy vé của mình. Ông nhìn xuống toà nhà mà mười năm trước ông từng làm lao công và nhớ lại anh chàng Robbins thời đó: thừa cân, không xu dính túi và cô đơn. Giờ đây, khi đã là triệu phú, có hôn nhân viên mãn và thân hình cân đối, ông nhận ra mình đang sống cuộc đời mơ ước. Robbins biết cuộc đời ông chính là cách quảng bá tốt nhất cho sản phẩm của ông. Sức mạnh của ngôn từ Lập trình Ngôn ngữ Tư duy (NLP) – nền tảng của các phương pháp mà Robbin đã áp dụng – được John Grinder và Richard Bandler khám phá ra đầu tiên và dựa trên nghiên cứu về cách ngôn ngữ, cả có lời lẫn không lời, ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Giả thuyết là chúng ta có thể kiểm soát hệ thần kinh, nên hành động của ta, dù có vẻ tự nhiên, thực chất là được lập trình. Điểm mấu chốt khác là nếu mô phỏng hành động và hành vi của người thành công, chúng ta cũng sẽ gặt hái được kết quả tương tự.   Robbins đã làm rất tốt việc cải tiến và quảng bá NLP đến công chúng. Quyển sách này khơi gợi trí tưởng tượng người đọc bằng cách đặt ra những câu hỏi và vẽ ra những khả năng trong tâm trí của họ, đồng thời đưa ra các bước thực tế để đạt mục tiêu.  Nguyên tắc nỗi đau và niềm vui Robbins xem nỗi đau và niềm vui như những động lực chủ chốt giúp định hình cuộc sống. Chúng ta có thể để nó kiểm soát mình hoặc thấu hiểu nó nhằm mang lại lợi ích cho bản thân. Việc liên kết nỗi đau hoặc niềm vui với một hoạt động hoặc suy nghĩ có thể giúp chúng ta thay đổi con người mình. Không phải sự việc mà chính niềm tin về ý nghĩa của sự việc đó mới là yếu tố định hình cuộc sống chúng ta. Cách ta nhìn nhận thế giới, một khi được thay đổi, có thể thay đổi gần như toàn bộ cuộc sống chúng ta. Mọi sự tiến bộ của loài người xảy ra thông qua việc đặt câu hỏi chất vấn giới hạn hiện tại. Câu hỏi chất lượng sẽ mang đến cho bạn câu trả lời chất lượng. Hãy sử dụng sức mạnh ngôn từ để thay đổi suy nghĩ và hành động. Hiểu rằng “các lãnh đạo thường đọc sách” và đọc sách giúp chúng ta nhận ra những khác biệt quan trọng dựa trên kinh nghiệm của người khác. Hãy xác định và viết ra thành tựu bạn muốn đạt được và vẽ nên một tương lai đẹp đẽ đến mức bạn buộc phải hiện thực hóa nó. Bạn phải tập trung vào đích đến, thay vì nỗi sợ. Hãy đưa ra quyết định và hành động, thay vì chỉ ngồi đó mơ ước. Tìm hiểu các nguyên tắc hiện tại và đặt ra những nguyên tắc mới giúp bạn sống cuộc đời mình muốn. Vượt qua nỗi hoài nghi hợp lý Thông điệp của Robbins có sức hấp dẫn to lớn vì ta đều tin rằng chúng ta có nhiều khả năng hơn người khác nghĩ. Mọi người thường bác bỏ và cho rằng ý tưởng của chúng ta vô lý và thiếu thực tế. Chúng ta được dạy rằng ta không thể làm điều trái tim mách bảo, và rồi ta xem điều đó là một thực tế. Tuy nhiên, Robbins cho rằng người thành công thật sự sẽ không chấp nhận làm người an phận.  Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn được mệnh danh là “ca phẫu thuật thẩm mỹ cho tâm trí”, nghĩa là nếu bạn không hạnh phúc với bản thân thì hãy thay đổi. Ý tưởng đó nghe có vẻ xa vời hoặc thậm chí là khó chịu đối với một số người, nhưng cũng có thể là phao cứu sinh cho những người khác.  Đừng quên làm mới là nền tảng của văn hoá Mỹ và Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn có lẽ không thể tồn tại ở bất kỳ nơi nào khác. Hãy xem quyển sách như một “Nữ thần Tự do” trong ngôn từ.  *** Anthony Robbins sinh năm 1960 và lớn lên ở vùng ngoại ô nghèo Los Angeles. Năm 17 tuổi, ông bị mẹ đuổi khỏi nhà vì quá “mạnh mẽ”. Là người từng đọc hơn 700 quyển sách về phát triển bản thân, ông biết đến Lập trình Ngôn ngữ Tư duy (NLP) vào năm 1983 và bắt đầu con đường quảng bá thương hiệu của mình về phương pháp này. Ông trở thành triệu phú năm 24 tuổi, sau đó bị trắng tay và cuối cùng gầy dựng lại tất cả. Robbins hiện là chuyên gia tư vấn kỹ năng hàng đầu nước Mỹ. Ông từng tư vấn cho Bill Clinton, Andre Agassi, Mikhail Gorbachev và Công nương Diana. Công ty của ông tổ chức các buổi hội thảo trên toàn thế giới và tổ chức của ông hỗ trợ người trẻ, người lớn tuổi và người vô gia cư.  Mời các bạn đón đọc Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn của tác giả Anthony Robbins.
Bạn Đỡ Ngu Ngơ Rồi Đấy
BẠN VẪN TƯỞNG: Bạn là một sinh vật của logic và lý trí. SỰ THẬT LÀ: Bạn là một sinh vật có lý trí và khả năng tư duy logic, nhưng lại thường xuyên thất bại trong việc sử dụng chúng theo những cách vô cùng dễ đoán. Đ ây là cuốn sách về sự tự ảo tưởng và cũng đồng thời là khúc ca khen ngợi nó. Bạn thấy đó, giống như ngón tay hay ngón chân vậy, và đó cũng chính là điều mà chúng ta sẽ khám phá tại đây. Sự tự ảo tưởng nhé, không phải là các loại ngón đâu. Bạn thường tự cho rằng mình thông minh, giỏi giang, là con người lý trí và đầy ắp những ý tưởng huy hoàng, với tổ tiên là những người đã sáng chế ra môn đại số và bánh quy gừng. Bạn được sinh ra với niềm kiêu hãnh có sẵn, và rồi, niềm kiêu hãnh ấy lớn dần lên thành sự tự cao tự đại. Nó là một điểm yếu, tồn tại dưới muôn hình vạn trạng ở loài người, mà đây là tôi đang giả định rằng bạn là con người. Nếu bạn là một chú chó siêu thông minh, sinh vật ngoài hành tinh hay một nhà sử học robot tới từ tương lai, thì tôi xin lỗi; mời bạn vui lòng nhảy thẳng sang Chương Một. Còn nếu không phải, hãy đọc tiếp để tiến tới sự giác ngộ nhé. Trí óc con người rõ ràng là lớn và mạnh mẽ hơn nhiều so với trí óc của bất kỳ loài vật nào khác, đó là điều mà toàn bộ giống loài của chúng ta đã nhận ra trong suốt chiều dài lịch sử. Chính bạn có lẽ cũng từng nghĩ tới điều này khi tới thăm sở thú hoặc khi chứng kiến một con chó tự đánh nhau với chân sau. Loài người dường như là đỉnh cao tuyệt đối của sự tiến hóa, hay trái ngon cuối cùng trong sự vận động của vũ trụ. Đây thực sự là một ý tưởng khá thú vị. Ngay từ khi chúng ta còn chưa có giày trượt patin và Salvador Dalí1, thì nhiều nhà tư tưởng vĩ đại đã đắm mình trong niềm tin đó rồi. Và đương nhiên là, ngay khi vừa mới chuẩn bị tận hưởng suy nghĩ ấy, bạn lại vô tình gửi cho sếp một email đáng ra phải gửi tới bác sĩ hậu môn hoặc đọc được tin về việc pizza nhồi xúc xích đã trở thành món ăn thịnh hành nhất hiện nay. Có một thực tế là cứ mỗi khi bạn chiêm nghiệm về loài người và bắt đầu cảm thấy tự hào, thì ngay sau đó, bạn sẽ phải đối mặt với hàng loạt những điều ngớ ngẩn có khả năng lập tức đập tan hoàn toàn cảm giác kiêu hãnh bạn vừa có. Sự thật là bộ não con người tạo ra một trí óc đầy thiếu sót. Có những việc bạn làm chẳng giỏi và sẽ chẳng bao giờ thành thạo được. Bằng chứng cho sự vụng về của bạn hiện hữu ở mọi nơi. Máy tính, giấy nhớ, danh sách việc cần làm, sổ ký quỹ, đồng hồ báo thức - có hàng trăm nghìn sáng chế và ứng dụng được tạo ra cùng hàng loạt các ngành nghiên cứu tồn tại để bù đắp cho những khiếm khuyết của não bộ. Cuộc bàn luận của chúng ta về những nghiên cứu khoa học với chủ đề tự ảo tưởng có lẽ nên được dẫn dắt bởi khái niệm về định kiến. Vậy hãy cùng bắt đầu bằng câu chuyện ngắn kể lại lần đối đầu thứ ba mươi mốt giữa Đại học Dartmouth và Đại học Princeton trên sân bóng bầu dục nhé. Trận đấu này đã là bệ phóng cho vô vàn cuộc thám hiểm trí óc con người, và bạn sẽ được tham khảo một số nghiên cứu ngay khi đoạn văn này kết thúc. Cùng được thành lập vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, Dartmouth và Princeton là hai trường thuộc Ivy League - tập hợp những trường đại học danh giá ở miền Đông Bắc Mỹ. Có lẽ bạn cũng đã nghe danh sáu ngôi trường còn lại rồi: Brown, Columbia, Cornell, Harvard và Yale. Đối với phần lớn người dân Mỹ thì Ivy League gần như đồng nghĩa với những con người “xịn sò”. Tên của những ngôi trường này luôn là thứ mà người ta mong muốn được viết vào sơ yếu lý lịch. Tuy vậy, Ivy League lại khởi nguồn từ thuật ngữ các phóng viên thể thao sử dụng để miêu tả tám ngôi trường ở khu vực New England vốn hay đối đầu nhau, chủ yếu là trong các môn thể thao, và hầu như trong tất cả các lĩnh vực khác. Vào năm 1951, Dartmouth và Princeton chạm trán trong trận bóng cuối cùng của mùa giải đối với cả hai trường. Princeton đã toàn thắng trong tất cả các trận tính tới thời điểm đó. Ngôi sao của đội, Dick Kazmaier, đã được đăng hình lên trang bìa của tạp chí Time và sau này trở thành cầu thủ cuối cùng từ Ivy League được nhận cúp Heisman. Đây là trận đấu quan trọng đối với cả hai đội, và đó là lý do mà Princeton gần như đã phát điên trong hiệp hai, sau khi một cầu thủ Dartmouth làm vỡ mũi Kazmaier. Trong hiệp bóng tiếp theo, một cầu thủ Princeton đã đạp gãy chân đối thủ từ Dartmouth. Trận đấu trở nên vô cùng khốc liệt, cả hai đội đã liên tục phạm lỗi cho tới khi Princeton chiến thắng với tỷ số chung cuộc 13-0. Hai nhà tâm lý học Albert Hastorf tại Dartmouth và Hadley Cantril tại Princeton sớm nhận ra một điều khác thường: Sau trận đấu, những bài tường thuật được in trên hai tờ báo trường dường như viết về hai phiên bản khác nhau của sự thật và chúng cạnh tranh với nhau để trở thành phiên bản chính thức. Một năm sau đó, hai nhà tâm lý học đã công bố một nghiên cứu mà hiện giờ được nhiều người coi là xuất phát điểm tuyệt vời để bàn về sự tự ảo tưởng. Hastorf và Cantril nhận ra rằng cách tờ báo trường và bản tin dành cho cựu sinh viên trường Princeton tường thuật lại trận đấu khiến Dartmouth trông như một đội bóng gồm toàn những kẻ đầu gấu chuyên chơi bẩn. Cùng lúc đó thì tờ báo trường Dartmouth lại có những bài viết vừa biện hộ cho những chấn thương của đối thủ do đội bóng trường mình gây ra, vừa đưa ra những bình phẩm về sự tệ hại trong chiến thuật của Princeton. Theo lời của các nhà nghiên cứu thì hai bên đã nhớ về hai phiên bản khác nhau của trận đấu. “Vậy điều gì sẽ xảy ra khi sinh viên từ hai trường được xem lại trận bóng?” Hai nhà nghiên cứu đặt câu hỏi. “Rõ ràng ký ức của họ là khác nhau, nhưng nếu ta phát lại trận đấu cho họ xem thì sao? Liệu cách nhìn của họ có khác nhau kể cả trong thời gian thực?” Để trả lời điều này, các nhà khoa học đã lấy một cuộn băng ghi hình toàn bộ trận đấu, chiếu cho sinh viên của cả hai trường, và yêu cầu những sinh viên này đánh dấu những thời điểm họ phát hiện ra cầu thủ phạm lỗi kèm theo độ nghiêm trọng của lỗi đó. Ngoài ra, các sinh viên cũng phải trả lời một bảng câu hỏi nữa. Vậy kết quả thế nào? Trong buổi xem lại, sinh viên trường Princeton tin rằng trận đấu mà họ đang xem đã diễn ra một cách thô bạo và kém văn minh, nguyên nhân chính, tất nhiên, là do đội Dartmouth. 90% sinh viên Princeton đã nhận định rằng Dartmouth là bên khơi mào cho những hành động phi thể thao. Họ cũng đánh dấu số vụ phạm lỗi của Dartmouth nhiều gấp đôi số lỗi từ các cầu thủ Princeton, đồng thời cho rằng lỗi do đội bóng trường mình gây ra nhẹ hơn nhiều so với lỗi của đối thủ. Thế nhưng, sinh viên của trường Dartmouth lại thấy những điều hoàn toàn khác. Họ không cho rằng trận đấu đã diễn ra một cách thô bạo quá mức, mà lại là “kịch tính và công bằng”. Đa số các đối tượng nghiên cứu từ Dartmouth nhận định cả hai đội bóng đều có lối chơi rắn, và sinh viên Princeton chỉ đơn giản là đang giận dữ vì ngôi sao bên đội họ bị chấn thương. Họ đã đánh dấu số lần phạm lỗi gần như đều nhau cho cả hai đội, và nhìn chung là tự chấm cho đội mình ít lỗi hơn khoảng một nửa so với con số do các sinh viên Princeton đưa ra. Các nhà khoa học giải thích hiện tượng này là do, mặc dù xem cùng một cuộn phim, nhưng mỗi người lại thấy một trận đấu khác nhau. Chúng ta mang theo mình những phiên bản khác nhau của thực tế, của sự thật, và đều bị ảnh hưởng bởi lòng trung thành. Bài học lớn từ trận đấu giữa Princeton và Dartmouth chính là: Chỉ cần một khác biệt nhỏ của các biến số là có thể thay đổi toàn bộ cục diện. Những sinh viên đã xem trận đấu, không quan trọng là họ có tới sân vận động hôm thi đấu thật hay không, đã trải nghiệm hai phiên bản khác nhau của thực tế, mặc dù về mặt lý thuyết, thì họ là những người gần như giống nhau: Những sinh viên tại trường nam sinh trong nhóm Ivy League giữa những năm 1950, về cơ bản, họ thuộc chung nhóm sắc tộc và có cùng địa vị xã hội. Vì là sinh viên, họ thuộc chung một nhóm tuổi. Đều là các công dân ở miền Đông Bắc Mỹ, họ có nhiều điểm chung trong các quan điểm văn hóa và tôn giáo. Điều khác biệt duy nhất là ngôi trường họ chọn để theo học. Kết quả nghiên cứu cho thấy nếu bạn có thể vặn ngược đồng hồ và đổi chỗ cho các sinh viên đó, thay đổi ngôi trường họ học, thì trải nghiệm về trận đấu của họ cũng sẽ thay đổi theo. Đây là lúc mà định kiến dẫn dắt bạn tới với chủ nghĩa hiện thực ngây thơ (naive realism) - một khái niệm rất cũ trong triết học vốn đã bị khoa học đập chết ăn thịt từ lâu. Câu hỏi đặt ra như sau: Liệu tôi có thấy thế giới như thực tế nó vốn vậy? Dựa theo chủ nghĩa hiện thực ngây thơ thì câu trả lời là có. Nếu nhìn vào lịch sử loài người thì mãi cho tới khá gần đây, lý thuyết bạn-thấy-sao-thì-thực-tế-là-vậy này vẫn được khá nhiều người bảo vệ. Thế nên, nếu ví dụ về trận đấu Princeton-Dartmouth chưa đủ sức thuyết phục bạn, thì tôi sẽ phải đập tan lý thuyết này trước khi tiếp tục chủ đề của chúng ta. Là một con người hiện đại, hẳn bạn cũng biết các bộ phim thực chất chỉ là những bức ảnh tĩnh thay đổi nhanh hơn so với tốc độ xử lý của não mà thôi. Khi nhìn một bông hoa, bạn nên hiểu rằng thứ bạn đang thấy đây không giống thứ mà một con bướm nhìn thấy. Nếu ta được nhìn qua đôi mắt của côn trùng, thì thế giới các loài hoa sẽ trở thành một vụ nổ điên rồ của các ảo giác. Căn phòng khách tắt đèn tối om vốn khiến bạn không thể đi lại được vào ban đêm lại là sân chơi bình thường với chú mèo cưng. Và nếu đã từng chiếu một chiếc đèn laser gần lũ mèo, thì hẳn bạn cũng nhận ra những gì diễn ra trong cái đầu nhỏ bé của chúng không giống với những điều diễn ra trong bộ óc của bạn. Bạn biết thế giới không hoàn toàn giống với những gì bạn thấy, và chỉ cần một trò lừa thị giác điêu luyện là có thể ngay lập tức chứng minh điều đó. Chủ nghĩa hiện thực ngây thơ vốn rất... ngây thơ. Như việc các ngôi sao lúc nào chẳng hiện diện trên bầu trời, nhưng ánh sáng mạnh từ Mặt Trời tràn qua bầu khí quyển khiến chúng bị lu mờ vào ban ngày. Giả như bạn ném một hòn đá xuống mặt hồ, tiếng động sẽ làm cho con cóc và con cáo phải ngoái đầu nhìn, nhưng những gì chúng thấy không phải những gì bạn nhìn được. Mỗi sinh vật sẽ được trải nghiệm một phiên bản độc đáo của thực tế dành riêng cho hệ thần kinh của nó. Con cóc, con cáo và con người đều cùng trải nghiệm một thứ có thật, nhưng phản ứng thì lại khác nhau bởi hình ảnh hiện tượng ấy trong tâm trí mỗi loài đã được thay đổi. Sự nhận thức của bạn không phải là duy nhất, và nguồn thông tin đầu vào hoàn toàn có thể bị làm cho sai lệch, bởi vậy, hình ảnh trong đầu bạn không phải thứ đáng tin. Đó là một khái niệm khá đơn giản, và có lẽ bạn cũng đã từng suy ngẫm về nó. Nhưng như nghiên cứu về trận bóng ở trên đã chỉ ra, chủ nghĩa hiện thực ngây thơ còn tồn tại ở một mức độ khác khó chấp nhận hơn nhiều. Giống như hầu hết mọi người, bạn thường không đặt câu hỏi về nó, và nó cứ thế tồn tại trong hầu hết tất cả những cái đầu trên địa cầu này. Nhìn quanh một chút rồi đọc tiếp nhé. Những thứ bạn vừa thấy trong tâm trí mình không được tạo ra bởi các vật thể ngoài đời thực. Chúng không phải là kết quả đơn thuần của ánh sáng được thu vào mắt. Tất cả những gì bạn thấy, nhớ lại và cảm nhận, 100% đều được tạo ra bởi những phản ứng hoá học trong hộp sọ, nghĩa là chúng có thể bị ý thức ảnh hưởng, sửa đổi, lược bỏ, hay biến tấu theo bất kỳ cách nào trong quá trình xây dựng lại thực tế từ các thông tin thu nhận được từ bên ngoài và có sẵn bên trong. Theo lời của nhà tâm lý học Daniel Gilbert, thì ký ức, nhận thức và trí tưởng tượng đều chỉ là những biểu trưng chứ không phải là bản sao của thực tế. Ký ức kém chính xác nhất khi được ngẫm nghĩ nhiều, và ít chính xác nhất khi bị động vào. Hai sự thật này khiến lời khai nhân chứng trở thành thứ, về cơ bản, là vô nghĩa. Thế nhưng đó không phải điều nhiều người có thể chấp nhận. Hai nhà tâm lý học Dan Simons và Christopher Chabris đã công bố một nghiên cứu vào năm 2011 cho thấy 63% những người được hỏi tại Mỹ tin rằng ký ức hoạt động như một cuộn phim, và 48% cho rằng ký ức là vĩnh cửu. Khoảng 37% cho rằng lời khai nhân chứng đủ để làm bằng chứng cần thiết duy nhất cho việc kết tội. Những phát hiện đó đã khiến các nhà tâm lý học và thần kinh học bàng hoàng, bởi vì không điều nào đúng cả. Bạn không có khả năng ghi nhận mọi thứ bạn thấy, thậm chí bạn còn không có khả năng nhận thức được hết tất cả các thông tin đi vào não bộ. Chỉ những thứ bạn chú ý mới được thu nhận qua tai và mắt. Ký ức cũng không phải là cuộn phim. Khoảnh khắc mà nụ hôn đầu đời của bạn kết thúc, ký ức về nó bắt đầu nhạt phai. Mỗi lần bạn nhớ về sự kiện đó, nó sẽ được tái tạo trong trí óc theo những cách khác nhau, chịu ảnh hưởng bởi tình trạng hiện tại và tất cả những trải nghiệm khác mà bạn đã nhận được kể từ thời điểm đó, cộng với những chi tiết sai lầm bạn có thể thêm thắt vào. Ngày nay, ngành tâm lý học đã biết được rằng bạn thường xuyên đưa ra những dự đoán và quyết định dựa trên những hình mẫu tâm lý và ký ức có sẵn. Hơn nữa, bạn còn tự cho rằng những hình mẫu và ký ức đó là chính xác. Cứ mỗi một nghiên cứu mới ra đời, sự thật lại càng rõ ràng: Hình mẫu tâm lý và ký ức của bạn có lỗ hổng, không hoàn hảo và dễ bị xuyên tạc. Từ đó có thể suy ra, những dự báo và quyết định của bạn cũng đầy sai lầm. Bạn luôn đánh giá quá thấp khả năng tự đánh lừa bản thân của mình, và nhận thức của bạn có thể bị thay đổi hoàn toàn bởi những nhân tố nội tại. Cuốn sách này sẽ cho bạn thấy mình không những không hề thu nhận và xử lý thông tin về thực tại một cách thụ động, mà còn chủ động tham gia vào việc tạo nên vũ trụ của riêng mình. Những nghiên cứu trong một thế kỉ gần đây đã cho thấy bạn và tất cả mọi người vẫn tin vào một dạng của chủ nghĩa hiện thực ngây thơ. Bạn vẫn nghĩ rằng mặc dù các thông tin mà bạn tiếp nhận có thể không hoàn hảo, nhưng những suy nghĩ và cảm nhận cá nhân của bạn thì đáng tin cậy và dễ đoán. Chúng ta đã biết: Bạn không bao giờ cảm nhận được một thực tế “khách quan”, và bạn cũng sẽ không bao giờ biết được bao nhiêu phần trong thực tế chủ quan của mình là giả, đơn giản bởi vì bạn không có bất kỳ trải nghiệm nào khác ngoài những sản phẩm do trí óc của chính mình tạo ra. Mọi chuyện từng xảy ra với bạn đều diễn ra bên trong hộp sọ. Ngay cả cảm giác về cánh tay cũng được tạo ra bởi bộ não. Bạn có thể cảm thấy và nhìn thấy tay mình đang ở trước mặt, nhưng đó có thể cũng chỉ là ảo giác. Cánh tay, thực chất, nằm trong đầu bạn. Mỗi bộ não tạo ra phiên bản về thực tế riêng của mình, về cơ bản là giống nhau, nhưng cũng vô cùng khác biệt và có không ít những chi tiết sai sót. Trong bài nghiên cứu của mình, Hastorf và Cantril còn nói rằng nếu đi sâu phân tích hơn nữa, thì trận đấu đó thậm chí còn không tồn tại. Giống như đĩa salad, về bản chất, chỉ là một đống rau củ hổ lốn được cắt nhỏ, trận đấu nói trên cũng chỉ là một chuỗi các sự kiện diễn ra trong khoảng thời gian giữa hai lần bấm của một chiếc đồng hồ đếm ngược. Dĩ nhiên là các vận động viên đã thực hiện hàng loạt hành động, và khán giả thì nhận biết được một vài trong số những điều đang xảy ra, nhưng nói cho cùng, trận đấu cũng chỉ là một ý tưởng, một khái niệm xã hội mà thôi. Trong hàng tỷ những sự kiện đã xảy ra ngày hôm đó, Cổ động viên của hai đội đã đặt nặng ý nghĩa của một nhóm sự kiện xảy ra tại một địa điểm và gọi tên là trận đấu bóng. Ý nghĩa được định hình bởi xã hội đó giúp những người quan sát định nghĩa trải nghiệm của mình. Khác với hầu hết mọi thứ trên đời, các môn thể thao sở hữu những hàng rào đẹp đẽ của luật lệ và ranh giới, chúng diễn ra trong một không gian xác định với các hành động đã được phân công rõ ràng. Nhờ vậy, chúng ta dễ dàng đồng thuận với nhau về những điều xảy ra trong khoảng thời gian được quy định. Ấy thế mà người ta vẫn thường xuyên cãi vã, dù rằng mọi thứ đã được thu hình và chiếu lại đúng y như những gì đã diễn ra. Thực tế không đơn thuần chỉ là thứ đi vào đôi mắt và nảy lung tung trong đầu bạn. Bạn tự thay đổi nhận thức của mình một cách vô thức, thậm chí ngay cả khi nó đang xảy ra. Đây là một thông tin vô cùng hữu ích khi được áp dụng vào chiến tranh, chính trị, các xu thế xã hội, kinh tế và tất cả những thứ vĩ mô khác có ảnh hưởng tới đời sống, mà không được lịch sử ghi chép lại một cách hoàn hảo. Bạn thấy đó, thông minh là một trạng thái phức tạp và dễ bị hiểu sai hơn nhiều so với những gì bạn nghĩ. Trong phần lớn các trường hợp, bạn hầu như không thể hiểu rõ đầu cua tai nheo của sự việc. Nếu coi đó là việc kiếm cơm hàng ngày thì hắn là bạn đã chết đói từ lâu rồi. Bạn tưởng mình là một con người có lý trí, bình tĩnh cân nhắc mọi mặt của cuộc sống trước khi đưa ra các quyết định và lựa chọn, và mặc dù đôi khi có vấp váp, về cơ bản, bạn vẫn làm tốt bổn phận này của mình, nhưng thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Bạn tồn tại trong trạng thái thận trọng giả tạo. Bạn cực tệ trong việc tự giải thích bản thân, và bạn cũng không nhận thức được mức độ nghiêm trọng của điểm yếu này. Nói cho chính xác, bạn thậm chí còn cảm thấy ngược lại. Bạn luôn tự tin một cách vô lý về nhận thức của bản thân, kể cả khi những giới hạn của bạn đã bị hé lộ. Chính tại nút giao của sự ngạo mạn và yếu đuối, nơi kết hợp đẹp đẽ của tính quả quyết và sự bất toàn này, chúng ta sẽ bỏ chút thời gian thảo luận với nhau. Đây sẽ là cuộc thám hiểm một số ảo giác thú vị nhất đã được khoa học xác định và đo đạc, những thứ cần phải có trong cuốn “hướng dẫn sử dụng cơ thể người” – cũng giống như những thông tin về chất béo chuyển hóa và chất gluten2 vừa được giới khoa học bổ sung vậy. Trong cuốn sách này, bạn sẽ được giới thiệu về một vài khiếm khuyết trong tâm trí con người, cách mà bộ não vẫn nói dối bạn, cách mà nó ăn gian, biến đổi và bẻ cong thực tế, và lý do tại sao bạn vẫn luôn cho chân vào những cái bẫy đó hết lần này tới lần khác. Vậy rốt cuộc, chúng ta sẽ tìm hiểu những gì đây? Chà, thường thì bạn không nắm rõ nguồn gốc của cảm xúc, suy nghĩ, hành vi và ký ức của mình. Nhưng thay vì hoảng loạn và sợ hãi, bạn lại sở hữu một bộ đồ nghề khổng lồ gồm vô số mẹo vặt và kỹ năng; nhờ chúng, bạn sáng tạo ra những bối cảnh giúp cuộc sống dễ hiểu hơn, và rồi, bạn tin luôn vào những bối cảnh mình vừa phát minh ra. Từ năm này qua năm khác, đống bùi nhùi đó dần trở thành câu chuyện cuộc đời bạn. Một trong những dụng cụ này là sự tự nghiệm. Để sống sót, tổ tiên chúng ta đã phải suy nghĩ và phản ứng nhanh trước các tình huống. Sự tự nghiệm là công cụ biến những ý tưởng lớn và phức tạp thành những ý nhỏ, dễ xử lý hơn. Nó giải thích những điều xảy ra trong thế giới xung quanh theo cách đơn giản nhất, cho phép bạn tiếp tục cuộc sống mà không bị phân tâm quá nhiều. Khi cần giải quyết vấn đề và ra quyết định, bạn có nhiều công cụ tự nghiệm khác nhau để biến những thứ phức tạp trở thành vô cùng đơn giản. Ví dụ, bạn sử dụng sự tự nghiệm cảm xúc để đưa ra các quyết định xoay quanh việc một người, một vấn đề hay tình huống mang tới cho bạn cảm xúc tiêu cực hay tích cực. Tay ứng cử viên cho chức thị trưởng làm bạn cảm thấy ghê sợ? Thôi, đừng bỏ phiếu cho hắn. Bà bác sĩ kia đã chọn màu xanh nước mũi để sơn tường phòng khám ư? Bạn sẽ không bao giờ tới đó nữa. Sự tự nghiệm xuất hiện ở những lúc bạn không ngờ nhất, như khi bạn cân nhắc xem có nên ủng hộ tiền cho những người làm quảng cáo về lũ chó mèo bị ngược đãi và bỏ rơi không. Khi suy nghĩ về việc ký séc, bạn không đặt câu hỏi về tính chính thống của tổ chức này, về khả năng những con vật có thể phục hồi, hay về lịch sử tài chính của họ. Thay vào đó, bạn chỉ để ý tới việc hình ảnh những con vật bị hành hạ kia có khiến bạn buồn hay không. Câu hỏi đó dễ trả lời hơn rất nhiều, và từ đó, bạn tự cho rằng mình cũng đã giải quyết xong những câu hỏi phức tạp hơn ở trên. Thuật giả kim cho tâm trí này được áp dụng lên mọi mặt trong cuộc sống, từ việc cân nhắc xem có nên bỏ việc hay không cho tới việc lựa chọn ứng cử viên sáng giá cho chức Tổng thống. Những câu hỏi rắc rối phức tạp thường biến hình thành những bài thử cảm xúc, và cảm xúc lại vốn là thứ chẳng đáng tin bao giờ. Khi sử dụng sự tự nghiệm, bạn có xu hướng cho rằng mình đang cân nhắc một cách logic, nhưng thực ra là bạn đã đi đường tắt mà chẳng thèm ngoái đầu nhìn lại. Một chướng ngại vật khổng lồ khác trong trí óc bạn là tập hợp những khuôn mẫu suy nghĩ vô cùng dễ đoán mang tên thiên kiến nhận thức. Thiên kiến là xu hướng suy nghĩ theo một chiều nhất định dù rằng có tồn tại những phương án khác tốt tương tự hay thậm chí là tốt hơn. Lấy ví dụ nhé, bạn có xu hướng rẽ phải mỗi khi bước vào tiệm tạp hóa mặc dù rẽ trái cũng không khác gì cả, như vậy là bạn có thiên kiến rẽ phải trong hành vi của mình. Hầu hết mọi người đều có chung thiên kiến này, và bởi vậy, các cửa hàng lớn đều tận dụng triệt để điều này trong việc thiết kế và trưng bày sản phẩm. Hầu hết tất cả các thiên kiến nhận thức đều có sẵn một cách tự nhiên, nên dù bạn có được sinh ra ở Ai Cập hay Alabama, vào năm 1902 hay năm 2002 đi chăng nữa, thì bạn vẫn mang trong mình một bộ sưu tập những thiên kiến nhận thức như tất cả mọi người. Các nhà khoa học cho rằng hầu hết các thiên kiến đều là cơ chế thích nghi, nghĩa là qua hàng triệu năm tiến hóa, chúng là chốn ẩn nấp đáng tin cậy khi bạn không chắc về cảm xúc của mình hay không biết cần phải hành động ra sao. Một ví dụ nữa là thiên kiến nhận thức muộn: Nó khiến bạn tin mình luôn đoán đúng về tương lai, bởi vì bạn tưởng bở rằng mình đã làm được điều đó cả đời rồi. Sự thật phũ phàng là bạn rất tệ trong việc tiên đoán tương lai, nhưng lại cực giỏi trong việc viết lại các ký ức của bản thân sao cho chúng có vẻ như là bạn đã đúng ngay từ đầu. Ngoài ra, bạn còn sở hữu thiên kiến xác nhận, thứ khiến bạn luôn tìm kiếm các thông tin củng cố cho thế giới quan của bản thân, trong khi tránh xa hoặc bỏ lỡ những thông tin đối nghịch. Qua thời gian, bạn tạo nên một cái bong bóng, mà mọi thứ trong đó có vẻ hoàn toàn phù hợp với những niềm tin có sẵn của bạn. Sự tự nghiệm cho phép bạn suy nghĩ và hành động nhanh hơn, còn thiên kiến lại khiến bạn hành xử theo những cách vốn vẫn giúp các loài linh trưởng tồn tại. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, sự tự nghiệm và thiên kiến nhận thức luôn phải đứng trước những thử thách, và đó là lúc bạn lôi các loại ngụy biện ra. Ngụy biện xuất hiện trong các cuộc tranh cãi. Bạn thường vào cuộc với một kết luận đã có sẵn trong đầu, rồi cố gắng chứng minh rằng kết luận đó không hề ngu ngốc. Cách bạn biện luận cho điều này thường phụ thuộc vào khả năng bẻ cong logic để làm mọi thứ khớp với nhau. Ta cùng xem một ví dụ cụ thể nhé: Có thể bạn cho rằng bánh mì kẹp xúc xích là thứ đồ ăn chế biến công nghiệp đáng kinh tởm, và bạn không thể tin nổi là em họ của mình đang cho con ăn cái món đó, vì không ai được phép bắt trẻ con ăn thực phẩm mất vệ sinh hết. Vậy là bạn vừa mới đưa ra một lập luận đầy ngụy biện, bởi giả định của bạn nằm ngay trong câu đầu tiên: Bánh mì kẹp xúc xích là thứ kinh tởm. Luận điểm của bạn chẳng chứng minh được gì cả. Nó thậm chí còn chẳng hề nói gì đến độ ghê tởm của thứ thịt nghiền lẫn mỡ bọc trong lớp màng ăn được. Bạn mới chỉ nói lên một niềm tin của bản thân, và cho biết nó là nguyên nhân cho một suy nghĩ nhất định. Bạn có thể nhìn rõ chân tướng của phép ngụy biện này bằng cách sắp xếp câu như sau: “Không ai được ép trẻ con phải ăn thứ thực phẩm mà tôi cho là kinh tởm”. Bạn thường xuyên bị lẫn lộn trong đám logic của bản thân, và cuối cùng thì nhất nhất bẻ cong từ ngữ để làm thế giới khớp với những định kiến của riêng mình. Những ngụy biện thiếu logic, sự tự nghiệm rối rắm và các thiên kiến nhận thức đầy sai lầm cùng hợp lực với một loạt những hiện tượng kỳ lạ khác tạo nên cách tiếp cận vấn đề tệ hại mà bạn vẫn dùng để làm rõ mọi việc trong cuộc sống. Bạn chỉ có khả năng tập trung chú ý vào rất ít thứ một lúc, vậy mà bạn lại cảm thấy mình có thể nhìn được hết mọi thứ xuất hiện trước mắt hay nghe được mọi tiếng động gần tai. Ngay cả khi bạn có chú ý, thì những giác quan này cũng vẫn có rất nhiều hạn chế và không hề hoàn hảo. Rồi bạn dùng những thông tin thu thập được qua các giác quan đó, thêm thắt những thứ vốn không có thật và loại bỏ những thứ bạn không muốn chấp nhận, để xây dựng nên “thực tế”. Thêm vào phương trình này sự phức tạp, rộng lớn của hệ thống cảm xúc và trực giác, bạn có thể thấy được độ lệch lạc trong cái nhìn của mình về thực tế và sự thay đổi theo từng phút giây của nó. Độ lệch lạc đó được chuyển thành những ký ức kém chính xác và không hoàn thiện, lại còn xuống cấp dần sau mỗi lần xem lại. Chất hồ dính – bản năng kể chuyện nằm sâu trong mỗi con người - giữ cho mớ thông tin sai lệch hỗn độn này gắn kết với nhau. Chính khả năng này giữ cho bạn tỉnh táo và cân bằng, dù rằng những câu chuyện bạn tự kể cho bản thân có thể khác xa sự thật. Mặc dù bạn rất dễ phạm sai lầm, mắc phải định kiến, dễ bị lừa, cũng như thường xuyên đi lừa người khác, và hình ảnh bản thân trong tâm trí bạn không thực sự khớp với thực tế, nhưng bạn vẫn sống tốt. Ít nhất là trong phần lớn các trường hợp. Nhưng như vậy cũng tạo ra một vấn đề nghiêm trọng, nhất là khi các chính trị gia, các vị giám đốc điều hành và những người có quyền lực thay đổi cách thế giới vận hành bắt đầu lợi dụng điều này. Họ ném ra những luận điểm ủng hộ hay phản đối một thứ gì đó dựa trên những ảo tưởng tạo ra bởi sự bất toàn trong tâm trí và giác quan của bạn. Trong các ngành khoa học thần kinh, tâm lý và kinh tế, những khiếm khuyết lớn trong tâm trí con người đã được biết tới từ khoảng năm mươi năm nay. Nỗ lực nghiên cứu trong các ngành đó vẫn đang tiếp tục được xúc tiến, nhưng về cơ bản thì hầu hết những gì khoa học đã tìm ra về vấn đề này vẫn nằm dưới cái mũ học thuật. Bạn rất may mắn khi được sống trong thời kỳ mà các kiến thức vốn bị coi là cao siêu bắt đầu len lỏi vào những cuộc hội thoại thường ngày. Và đó chính là mục đích của cuốn sách bạn đang cầm trên tay đây: tiết lộ phần nào kiến thức về những khuyết điểm của bạn để chúng có thể được sử dụng một cách tốt nhất. Trong những điều chúng ta sắp nói tới đây, một số sẽ liên quan tới cấu tạo của não bộ, số khác liên quan tới những ảnh hưởng văn hóa, và có cả những thứ dính dáng tới các thói quen đã có từ xa xưa. Bộ não trong hộp sọ của bạn được tạo nên qua quá trình tiến hóa, và thế giới của tổ tiên bạn chứa đầy những tình huống mà ngày nay bạn không cần phải đối mặt nữa. Tuy vậy, não bộ của bạn vẫn không ngừng đề phòng. Nếu bạn đang ngủ và bị ai đó ném sợi dây thừng vào người, thì cũng chẳng mất gì mà không hốt hoảng, la hét và giãy dụa (tất nhiên là vẫn cố gắng giữ cho quần không bị ướt). Nếu đó là một con rắn độc, thì phản ứng như vậy rất có ích. Thử nghĩ mà xem, sẽ nguy hiểm làm sao nếu lần nào bị đánh thức bởi vật giống con rắn, bạn cũng chỉ ngáp ruồi và nhẹ nhàng gạt nó qua một bên. Qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm, những sinh vật không hoảng hốt trước sự xuất hiện của các vật thể giống-rắn đã không sống sót được đủ lâu và đẻ được nhiều con cái như những con người có phản ứng này, và bởi vậy, bạn thừa hưởng sự sợ hãi đó, cùng với nỗi sợ những thứ nhiều chân bò loằng ngoằng đáng ghê tởm, độ cao, những nơi tăm tối và người lạ. Bạn được lập trình để biết sợ những kẻ khủng bố hơn sợ đồ nội thất, mặc dù nếu nói về mặt thống kê thì mỗi năm, số người mất mạng vì bị ghế sofa và TV đổ đè lên người còn nhiều hơn là vì khủng bố. Khi bạn nhận thức được rằng thế giới đã nhào nặn nên tâm trí bạn chính là thế giới mà bạn đủ kỹ năng đương đầu nhất, thì cũng dễ hiểu tại sao những thứ như động cơ xe hơi, chế độ giảm cân hay công thức làm bánh soufflé lại khó nắm bắt tới vậy, và đó là còn chưa kể tới các loại thuốc nội soi và vật lý lượng tử đấy. Đây không phải là cuốn sách về những hiện tượng tâm lý bất thường. Nó nói về những thứ bình thường trong tâm lý, những thứ thông thường, mặc định được cài sẵn trong bộ não của mỗi con người, từ các nhà khoa học chế tạo tên lửa, các nguyên thủ quốc gia đến các bà cô ở văn phòng, người dùng lịch in hình mèo cho những công việc cá nhân và lịch in hình các chàng lính cứu hỏa cho những buổi họp công chuyện. Bạn nghĩ thấy tận mắt thì sẽ đáng tin, rằng những suy nghĩ của bạn luôn dựa trên những bản năng đáng tin cậy và những phân tích hợp lý, và dù đôi khi cũng mắc sai lầm, về cơ bản, bạn vẫn là người điều khiển đầy thông minh và luôn tập trung cao độ của hệ thần kinh phức tạp nhất Trái Đất. Bạn tin khả năng của mình rất tốt, trí nhớ của mình rất tuyệt hảo, suy nghĩ của mình rất hợp lý và luôn mang tính ý thức cao, câu chuyện của đời của mình là thành thật và chính xác, tính cách của mình thì vững vàng không đổi và không chê vào đâu được. Nhưng sự thật phũ phàng là bộ não luôn nói dối bạn. Bên trong hộp sọ là một âm mưu to lớn và sâu rộng với mục đích giữ cho bạn không thể lật mở những sự thật về bản thân cũng như về khả năng thực của mình. Chính sự tự tin không đáng có mà bạn sở hữu đã thay đổi cách bạn hành xử, tạo nên cánh cửa sau cực lớn và dễ mở, chào đón những tên lừa đảo, các nhà ảo thuật, nhân viên quan hệ công chúng, các nhà quảng cáo, những tên giả khoa học, những kẻ buôn bùa chú và vô số những người khác nữa. Bạn có thể học được rất nhiều về bản thân khi nhìn từ góc độ của những người có khả năng nhìn thấu hành động và biết cách thao túng tính khờ dại của bạn: Hãy học từ chính những khiếm khuyết và thất bại của bản thân. Nhờ vào một cách tiếp cận mới trong bộ môn tâm lý học, các nhà khoa học đã bắt đầu vẽ được bức tranh toàn cảnh về những lỗi lầm và khiếm khuyết trong mỗi con người. Cuốn sách này là bộ sưu tập gồm một số ảo tưởng thú vị nhất được phát hiện từ trước tới nay. Tôi hy vọng rằng khi đọc, bạn cũng sẽ được giác ngộ như tôi khi phát hiện ra chúng. Hãy coi đây là chiến dịch gây sốc và tạo sự kinh ngạc được thiết kế để giúp bạn cảm thấy kết nối hơn với cộng đồng loài người. Chúng ta cùng hội cùng thuyền cả thôi, và đây là những chướng ngại tâm lý chung mà ai cũng sở hữu. Hãy sử dụng những thứ bạn học được trong cuốn sách này để mở lòng hơn với người khác và để thành thực hơn với bản thân. Bạn không thông minh lắm đâu, nhưng có những cách tưởng chừng như vô lý, nhưng lại hiệu quả và thú vị vô cùng sẽ giúp bạn đỡ ngu ngơ hơn đấy. Cùng bắt đầu nào. Mời các bạn đón đọc Bạn Đỡ Ngu Ngơ Rồi Đấy của tác giả David McRaney.
Sứ Giả Yêu Thương - Mattie J. T. Stepanek
Câu chuyện cảm động về một cậu bé với phẩm chất tốt đẹp đã chạm đến hàng triệu trái tim, và đấu tranh không ngừng nghỉ vì hòa bình. Di sản của cậu sẽ tiếp tục được lan tỏa khắp thế giới cho đến hôm nay và mai sau. Oprah Winfrey đã gọi Mattie Stepanek là “niềm cảm hứng”; nhà thơ Mỹ Maya Angelou tài ba cảm thấy rất tâm đầu ý hợp với thi sĩ trẻ này; và Tổng thống Jimmy Carter đã miêu tả cậu bé là “con người xuất chúng nhất mà ông từng biết”. Giờ đây, cả thế giới sẽ có dịp thấu hiểu cuộc đời của một nhà thơ, một sứ giả hòa bình, và một triết gia. Cậu bé ấy - tuổi nhỏ, vóc người mảnh khảnh, phải đối mặt với nhiều thử thách về sức khỏe thể chất - vẫn dám nói với đời rằng, “Dù đời có ép uổng, làm tổn thương và đe dọa tôi đến mức nào, tôi vẫn sống trọn vẹn với đời. Tôi sẽ tìm được cảm giác bình an trong cơn bạo bệnh. Tôi sẽ tìm được niềm vui trong tận cùng đớn đau. Tên tôi là Mattie Stepanek và tôi sẽ là sứ giả yêu thương.” Mattie Stepanek không lớn lên như cỏ dại; cháu vươn lên như một thân cây với gốc rễ vững vàng bám sâu vào lòng đất. Jeni Stepanek - người đã chứng kiến các con mình chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, chứng kiến con trai mình, nhà thơ bé nhỏ, dũng cảm chiến đấu từng ngày để được sống, để được thấy ánh mặt trời, và bản thân chị cũng đang mang trong người căn bệnh tương tự – chính là gốc rễ của niềm khao khát sống ấy. Chị như thân cây bám chặt vào đất. Chị truyền cho các con mình sức mạnh; chị nuôi dưỡng và là tấm gương để con trai, nhà thơ nhỏ tuổi, noi theo. Và giờ đây, chị mang đến cho chúng ta tác phẩm Sứ Giả Yêu Thương: Di Sản của Mattie J.T. Stepanek và Những Khúc Tâm Ca. Trong Sứ Giả Yêu Thương, Jeni Stepanek chia sẻ những tình tiết cảm động và riêng tư về cuộc đời của Mattie. Khi Mattie chào đời với một chứng bệnh loạn dưỡng cơ hiếm gặp, người ta khuyên Jeni nên đưa con vào viện chăm sóc trẻ em và “đợi chuyện gì đến sẽ đến”. Thế nhưng, Jeni đã nuôi nấng một đứa trẻ sau này đã biến những khó khăn trắc trở trên đường đời thành thông điệp của hòa bình và hy vọng. Mặc dù phải đương đầu với hoàn cảnh bản thân bị bệnh nặng, mẹ tật nguyền, bố mẹ ly hôn, anh chị mất sớm, nhưng Mattie chưa bao giờ nản lòng nhụt chí. *** "Sứ Giả Yêu Thương" - Tác giả Jeni Stepanek và Larry Lindner Cuốn sách chia sẻ những tình tiết cảm động và riêng tư về cuộc đời của Mattie. Khi Mattie chào đời với một chứng bệnh loạn dưỡng cơ hiếm gặp, người ta khuyên Jeni nên đưa con vào viện chăm sóc trẻ em và “đợi chuyện gì đến sẽ đến”. Thế nhưng, Jeni đã nuôi nấng một đứa trẻ sau này đã biến những khó khăn trắc trở trên đường đời thành thông điệp của hòa bình và hy vọng. Mặc dù phải đương đầu với hoàn cảnh bản thân bị bệnh nặng, mẹ tật nguyền, bố mẹ ly hôn, anh chị mất sớm, nhưng Mattie chưa bao giờ nản lòng nhụt chí. "Sau “Ba ơi mình đi đâu”, sau ” Trên bục giảng” thì đây là cuốn sách tiếp theo mang đến một cách nhìn thật khác. Vẫn là những nỗ lưc phi thường, là nụ cười đè nén nỗi đau, là sự vật lộn chống chọi với sự thống khổ, của trái tim cứ bị bóp nghẹn hàng ngày. Và cuốn sách này cho chúng ta nhìn thấy thêm một tình yêu được nhân rộng khắp nơi. Rằng cái gì xuất phát từ trái tim sẽ đến được với trái tim. Tôi cứ suy nghĩ mãi về cảnh mấy mẹ con không có việc làm, không có nguồn thu nhập, nhưng vì lòng tốt ở khắp mọi nơi nên họ đã được giúp đỡ để có nhà ở, để có thể tới bệnh viện định kỳ, và nhờ đó đã duy trì được sự sống của một nhà thơ tuổi nhỏ mà tâm hồn không hề nhỏ. Cậu bé ấy là thiên thần, thiên thần của tình yêu thương, đã gắn kết được bao con người, đem đến bao nụ cười cho mọi người xung quanh. Tựa đề có nói rằng đến những người mạnh mẽ nhất cũng sẽ phải rơi nước mắt. Nhưng tôi không nghĩ thế, những người cảm nhận được tình yêu của cậu bé có thể sẽ không khóc, mà sẽ mỉm cười bởi đó chính là thông điệp mà cậu bé muốn mang tới với mọi người. Người ta mỉm cười với hạnh phúc, đôi khi mỉm cười có thể trào nước mắt, nhưng đó là nước mắt hạnh phúc, bởi cậu bé là sứ giả của yêu thương cơ mà". ------------- Nguồn: Sương sớm Mời các bạn đón đọc Sứ Giả Yêu Thương - Mattie J. T. Stepanek của tác giả Jeni Stepanek & Larry Lindner.  
Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP - Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy - Tập 2
NLP – Neuro Linguistic Program – Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy – là bộ môn khoa học về hoàn thiện bản thân với những phương pháp hiệu quả nhất, giúp cho bạn có thể trở thành người xuất chúng. Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP là khai thác những khả năng tiềm ẩn trong tư duy bằng cách thay đổi tận gốc của hành vi. Bất luận bạn là ai, đang ở hoàn cảnh nào, Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP sẽ giúp bạn có được sự tự tin để đương đầu với thách thức. Tư duy con người phức tạp hơn bất cứ thứ gì chúng ta đã tìm thấy trong vũ trụ này. Nhưng quan trọng hơn hết là chúng ta có thể tinh chỉnh, thay đổi và chuyển hóa tư duy bằng những công cụ khoa học nhưng đơn giản đến không ngờ, nhằm mang lại một cuộc sống hạnh phúc và thành công hơn. Vậy bạn đã từng nghe đến NLP (Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy)? John Grinder và Richard Bandler - hai giáo sư tại đại học Santa Cruz (Mỹ) - được xem là những người sáng lập ra bộ môn khoa học của sự thay đổi - NLP (Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy) - để cải thiện kỹ năng con người. Những người sáng lập ra NLP nhận thấy rằng, mỗi người chúng ta không phản ứng trực tiếp với thế giới chung quanh. Trước tiên, chúng ta dùng những gì thu nhận được từ thế giới bên ngoài trong quá trình sống và lớn lên để lập trình cho bộ não của mình, rồi cứ thế mà hành động hoặc phản ứng theo các chương trình đã được cài sẵn đó. Ví dụ, một người nhiều lần “thử thời vận” phát biểu trước đám đông đều gặp phải những lời chê bai, phản bác: “Vậy mà cũng đòi ăn đòi nói”. Theo phản xạ tự nhiên, anh sẽ vô tình lập trình mình thành “kẻ bất tài trong khâu ăn nói” ngay bên trong tâm trí mình. Từ đó, anh lại càng trở nên căng thẳng và kém cỏi hơn trong việc phát biểu trước đám đông. Đó là một chương trình “độc hại” đã vô tình bị cài vào đầu anh ta. Nếu học được cách thay đổi những chương trình cài sẵn đó, anh ta mới thay đổi được, và thậm chí còn vươn lên. NLP không hề giống bất cứ một phương pháp nào mà bạn từng biết trước đây. Nó nhằm vào việc thay đổi tận gốc của hành vi, tức thay đổi lối tư duy dẫn đến hành vi. Cuộc sống, năng lực cũng như trình độ đều là hệ quả của cách chúng ta suy nghĩ. Việc thay đổi tận gốc vì vậy là điều bắt buộc nếu một người muốn nâng cao bất cứ kỹ năng nào, hoặc thay đổi các thói quen đã bám rễ của mình. Bạn có bao giờ gặp phải những vấn đề sau đây trong hoạt động quan trọng nhất để hạnh phúc và thành công trong xã hội loài người: GIAO TIẾP - Người khác không hiểu hoặc hiểu sai ý bạn? - Người đối thoại với bạn không thực sự tập trung vào những gì bạn nói? - Cuộc nói chuyện không diễn ra theo cách bạn muốn? Bên cạnh đó, bạn có bao giờ gặp phải những vấn đề sau đây trong CUỘC SỐNG - Bạn thường không điều khiển được cảm xúc của mình cho phù hợp: lo lắng những lúc cần phải tự tin, nóng vội trong những tình huống cần sự kiên nhẫn, - Bạn có cảm giác những mục tiêu mình đặt ra đôi lúc khá mơ hồ hoặc không phù hợp? Để giải quyết tất cả những vấn đề trên,“Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP” (tập 1) sẽ giúp bạn: •  Biết cách tạo sự chú ý, gây ấn tượng tốt và kết nối tốt hơn với người đối diện. •  Có thể “đi guốc trong bụng”người khác thông qua việc đọc hiểu những biểu hiện trong hành vi của người khác. •  Biết cách dẫn dắt, hướng người đối điện đến một nhận thức, suy nghĩ hoặc hành động theo cách bạn muốn. •  Khám phá những năng lực tiềm ẩn của riêng bạn. •  Sử dụng neo cảm xúc để “triệu tập” được những cảm xúc tích cực (tự tin, động lực, quyết tâm,) một cách tức thì. •  Cách thức để thay đổi tâm thế ngay lập tứcchỉ bằng thay đổi nhỏ. •  Cách thức để nâng cao giá trị bản thân mình trong mắt người khác một cách đơn giản. •  Phân biệt được rõ ràng đâu là ước mơ và đâu là mục tiêu, cũng như tiến nhanh hơn đến mục tiêu của mình. •  Đặt mục tiêu thông minh và phù hợp với riêng bạn, để không chỉ tiến nhanh mà còn tiến đúng hướng. “Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP” (tập 1) là quyển cẩm nang cho trí não, dựa trên những nguyên tắc về Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy – Neuro Linguistic Programming (viết tắt là NLP). Nó chỉ ra một số kỹ thuật - tất cả đều hết sức đơn giản - để học cách điều khiển tâm trí, giúp chúng ta “tái lập trình” bản thân. Bạn có thể làm mọi thứ: chuyển hướng, tiến lên, thực hiện những gì bạn mơ ước, giải quyết những khó khăn, thay đổi thói quen và lật sang một trang khác. Bởi vì NLP tập trung giải quyết những vấn đề trước mắt, thay vì đào bới lại quá khứ, thế nên kết quả đạt được rất nhanh, có khi ngay lập tức, gần như một phép lạ! Nếu bạn có một cái đèn pin nhưng lại không có pin, bạn sẽ chẳng thấy đường mà đi trong đêm tối. Nếu bạn có pin nhưng vẫn không biết cách lắp pin vào đèn thì bạn cũng chẳng khiến đèn sáng lên được. Để soi sáng con đường mình đi, bạn cần một cái đèn pin, pin và một vài lời hướng dẫn. Quyển sách này sẽ cung cấp cho bạn những lời hướng dẫn ấy. Những thứ còn lại bạn đã có sẵn rồi. Bạn đã sẵn sàng chiếu sáng phía trước, bước đi và mở lối cho cuộc đời mình chưa? NLP – Neuro Linguistic Program – Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy – là bộ môn khoa học về hoàn thiện bản thân với những phương pháp hiệu quả nhất, giúp cho bạn có thể trở thành người xuất chúng. John Grinder và Richard Bandler là hai giáo sư tại đại học Santa Cruz (Mỹ) được xem là những người sáng lập ra Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy (LTNNTD) để cải thiện kỹ năng con người, tạo những mô thức hành xử hoàn hảo. Những người sáng lập ra LTNNTD đã nhận thấy rằng, mọi người không phản ứng trực tiếp với thế giới chung quanh họ. Trước tiên, họ dùng những gì thu nhận được từ thế giới bên ngoài trong tiến trình sống và lớn lên để lập trình cho bộ não của mình, rồi cứ thế mà phản ứng theo các chương trình đã được cài sẵn đó. Ví dụ, một người đã từng thất bại trong nhiều lần “thử thời vận” nói chuyện trước công chúng, rồi những người chung quanh chê bai “có vậy mà cũng đòi ăn nói”, tự nhiên họ sẽ lập trình cho mình là “kẻ bất tài trong khâu ăn nói”. Nếu học được cách thay đổi những chương trình cài sẵn đó, họ mới thay đổi được “thế giới của họ”. Không ai là khiếm khuyết cả, chỉ có các chương trình cài đặt bị khiếm khuyết mà thôi!. Các chương trình cài đặt bên trong ấy, do đâu mà hình thành? Thưa rằng, nó hình thành dựa trên những điều mà các giác quan thu nhận được từ thế giới bên ngoài với ba yếu tố căn bản sau: • Hình ảnh • Âm thanh • Cảm xúc Và mỗi người, tùy cách thu nhận ba yếu tố căn bản trên đã tạo ra thế giới của mình. Vậy để có thể thay đổi thế giới của mình, bạn phải thay đổi cách bạn xử lý hình ảnh, âm thanh và cảm xúc mà bạn tiếp nhận được. Nếu một thiên tài, một chuyên gia, một người thành cô đã làm được điều này, điều kia, thì bạn cũng có thể nhanh chóng học được cách làm của họ thông qua việc khám phá cho được những chương trình cài đặt trong bộ não của họ rồi bắt chước theo thôi. Ứng dụng của Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy: LTNNTD không hề giống bất cứ một phương pháp nào mà bạn từng biết trước đây. Nó nhằm vào việc thay đổi tận gốc của hành vi, tức thay đổi kiểu suy nghĩ dẫn đến hành vi. Tất cả các kết quả cuộc đời, năng lực cũng như trình độ đều là hiển thị của cách chúng ta suy nghĩ. Việc thay đổi tận gốc vì vậy là điều bắt buộc nếu một người muốn nâng cao bất cứ kỹ năng nào đó, hoặc thay đồi các thói quen đã bám rễ của mình. (Biên tập lại từ nguồn Marketing Magazine) *** Cảm nhận của độc giả T ôi đã quan tâm theo dõi công việc của Anné Linden trong hơn 20 năm qua và tôi biết bà là một nhà huấn luyện NLP (Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy) lão luyện và giàu kinh nghiệm. Tôi rất vui mừng khi biết cuối cùng bà đã chọn được cách chia sẻ những hiểu biết và suy nghĩ của mình với nhiều người hơn bằng việc cho ra đời quyển sách này. Nếu bạn chưa quen với NLP thì quyển sách này sẽ giới thiệu một cách đơn giản nhưng đầy đủ tất cả những gì mà bạn muốn biết. Anné viết rất dễ hiểu và thể hiện vốn hiểu biết của bà trong từng trang sách. Julian Russel, Huấn luyện viên cấp cao, Công ty tư vấn PPD A nné Linden là một nhà giáo bậc thầy, một tấm gương xuất chúng. Với cách viết vô cùng giản dị và trong sáng, bà đã mang đến cho độc giả những nguyên tắc hiệu nghiệm của việc thay đổi. Bà khiến cho NLP trở nên dễ tiếp cận và tôi rất lấy làm vui mừng và nôn nóng giới thiệu quyển sách của bà đến tất cả sinh viên, đồng nghiệp và bạn bè của tôi. Chúng tôi chắc chắn sẽ đưa tác phẩm này vào hiệu sách Learning Alliance của mình.   Tiến sỹ Rev. Joyce Liechenstein, Phó giám đốc, One Spirit Learning Alliance and One Spirit Interfaith Seminary, Thành phố New York, www.joyceliechenstein.com     C húc mừng tác phẩm “Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP” của Anné Linden được tái bản. Quyển sách được viết bằng lòng nhiệt thành, với phong cách trò chuyện nhẹ nhàng và sẽ là quyển cẩm nang để bạn tìm hiểu về NLP cũng như hiểu rõ hơn về bản thân mình. Bà đã tận dụng các kỹ năng của một diễn viên và một nhà giáo để mang đến cho bạn đọc nhiều lựa chọn phong phú về những bài tập thực tiễn, những lời gợi ý, những câu hỏi, mẩu chuyện, ẩn dụ sâu xa và thậm chí cả những màn kịch ngắn... tất cả khiến cho khái niệm NLP trở nên sống động trong đời thực. Đây là một quyến sách hướng dẫn thú vị có kết cấu chặt chẽ về NLP và quan trọng không kém, quyển sách chú trọng đến việc khám phá và học hỏi kiến thức về NLP đối với mỗi cá nhân. Bề dày kinh nghiệm 20 năm trong lĩnh vực NLP của tác giả chắc chắn sẽ tỏa sáng cùng với sự chân thành, tính sáng tạo và niềm đam mê không bao giờ tắt. Một quyển sách tuyệt vời dành cho mọi người, những người mới biết đến khái niệm NLP, những người xem việc tìm hiểu về NLP như cách phát triển bản thân và cả những người thích thú đón nhận những ví dụ có thật, sống động và nhiều màu sắc minh chứng cho tác dụng lớn lao của NLP trong cuộc sống - và dành cho cả những người muốn được nhiệt tình khích lệ trải nghiệm NLP. Judith Lowe, PPD Learning, Luân Đôn       M ột quyển sách đẹp. Nó không chỉ đong đầy suy nghĩ sâu sắc, mà còn được thể hiện bằng văn phong tao nhã và lôi cuốn nhất. Chỉ những người thật sự thông suốt về một chủ đề nào đấy mới có thể viết trôi chảy và đầy phong cách như thế. Anné Linden chắc chắn là một bậc thầy như vậy. Chỉ với cách viết đầy lôi cuốn cũng đã đủ để bạn say sưa đọc nó. Đối với tôi, đây là tất cả những gì về NLP... quyển sách này chắc chắn là một ví dụ xuất sắc.   Sue Knight, tác giả của NLP at Work (NLP trong Công Việc),   Nhà tư vấn, đào tạo và huấn luyện viên quốc tế, www.sueknight.co.uk       T hông thường, mỗi khi tôi cố giải thích các khái niệm phức tạp của NLP cho những người không rành về tâm lý học, tôi nhận được một trong hai phản ứng. Một là “ánh mắt khó hiểu” của những người cảm thấy điều tôi nói quá sức rắc rối. Phản ứng còn lại là sự hăng hái của những người chập chững bước vào và xem NLP là con đường phát triển bản thân. Cả hai dạng người này đều cần một phương pháp tiếp cận dễ hiểu về NLP, để giúp họ nhận ra những ứng dụng của NLP trong việc giao tiếp cực kỳ hiệu quả, tiếp cận nguồn lực, gặt hái kết quả, biến thất bại thành thông tin phản hồi, có thêm nhiều lựa chọn và linh hoạt hơn trong những tình huống thường nhật. “Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP” của Anné Linden (viết cùng Kathrin Perutz) chính là lời giải đáp.   “Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP” chính là “quyển sách hướng dẫn cho não bộ”, nó cho phép người đọc “tận dụng tối đa sức mạnh và nguồn lực sẵn có”. Quyển sách này được chia làm bảy phần, mỗi phần nói về một giả định cơ bản của NLP:   • Ý nghĩa của giao tiếp chính là phản hồi mà bạn nhận được. Phần này nói về việc giao tiếp hiệu quả trong các mối quan hệ cá nhân: tạo sự kết nối, kỹ năng quan sát, cách thức biểu hiện và diễn đạt (ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ), thời gian hoạt động và thời gian chết, sự tương đồng và khác biệt, kỹ năng đồng điệu và dẫn dắt người khác.   • Bạn có tất cả những nguồn lực bạn cần . Phần này hướng dẫn cho độc giả cách tiếp cận các nguồn lực của chính mình và nâng cao sở trường cũng như tài năng của họ. Những công cụ NLP cần thiết trong việc này là giác quan nội tại, neo, thiết lập phản ứng cho tương lai và ngôn ngữ cơ thể.   • Thành công là khả năng đạt được những kết quả mong muốn . Trong phần này, quyển sách đào sâu vào việc thiết lập mục tiêu, giá trị sống, kết quả, động lực, sự suy xét về môi trường và chiến lược.   • Bạn có thể chuyển thất bại thành thông tin phản hồi . Phần này là những định hướng về mặt triết học trong lĩnh vực chuyển hóa ý nghĩa của thất bại - để khám phá về việc học hỏi, để nhìn thấy những cơ hội mới ẩn chứa trong mỗi thất bại, và để nhận ra rằng điều tốt đẹp tồn tại song song, hoặc bất chấp, những điều tồi tệ.   • Tấm bản đồ không phải là một vùng đất . Trong phần khám phá vẻ các mô thức ngôn ngữ này, Anné Linden sẽ hướng dẫn cho chúng ta về Phương thức Meta - cách đặt câu hỏi để có câu trả lời cụ thể và đầy đủ ý nghĩa.   • Có một ý định tích cực đằng sau mỗi hành vi . Ở mục này, quyển sách nêu ra những hành vi vô thức của chúng ta và cách kiểm soát chúng bằng việc hiểu rõ “từng phần”, ý định tích cực và chuyển hóa ý nghĩa.   • Luôn có nhiều lựa chọn . Chủ đề của phần này là sự linh hoạt. Linden đưa ra những công cụ cho sự thay đổi: chuyển đổi giác quan và khuôn mẫu can thiệp.       Kết luận :   Quyển sách này khiến NLP trở nên dễ chấp nhận đối với những đối tượng không chuyên - những người đơn giản chỉ muốn áp dụng NLP vào cuộc sống thường ngày. Linden lồng những bài hướng dẫn vào những mẩu đối thoại vui vẻ cùng những câu chuyện mẫu, ví dụ và ẩn dụ. “Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP” là quyển cẩm nang hàng đầu dành cho những ai bắt đầu tìm hiểu NLP.   Tiến sĩ Judith E. Pearson là chuyên gia tư vấn, nhà thôi miên và nhà huấn luyện NLP được chứng nhận. Bà mở văn phòng riêng tại Springfield, bang Virginia. Bà cũng vừa xuất bản quyển The Weight, Hypnotherapy and You Weight Reduction Program: An NLP and Hypnotherapy Practitioner’s Manual. Địa chỉ trang web của bà là www.engagethepower.com .     ​​Mời các bạn đón đọc ​Phát Huy Tiềm Năng Cùng NLP - Lập Trình Ngôn Ngữ Tư Duy - Tập 2 của tác giả Anné Linden & Kathrin Perutz.