Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tự Tạo Tương Lai Của Chính Mình
Tự Tạo Tương Lai Của Chính Mình - Cách Làm Chủ 12 Nhân Tố Then Chốt Của Sự Thành Công: Brian Tracy hiện là một trong những diễn giả chuyên nghiệp và cũng là nhà doanh nghiệp thành công nhất trên thế giới. Tracy khởi đầu với một vài khó khăn. Ông rời trường trung học khi chưa tốt nghiệp và đã làm những công việc lao động chân tay cho đến khi ông bắt đầu tự hỏi, "Tại sao một vài người lại thành công hơn những người khác?" các câu trả lời ông tìm thấy được đã thay đổi cuộc đời ông, và cũng sẽ thay đổi cả cuộc đời của bạn. Những gì Tracy tìm thấy là tất cả những người thành công đều đi theo một quá trình đã được chứng mình. Ông đã chia điều đó ra thành 12 nhân tố quan trọng để đi tới thành công không giới hạn. Mỗi một nhân tố trong số đó hoàn toàn không thể thiếu được đối với bất cứ ai muốn có được tìm năng trọn vẹn trong một thế giới mà khả năng hầu như vô tận. Mỗi một nhân tố thành công được giải thích một cách chi tiết, hoàn chỉnh với các ví dụ và các trường hợp nghiên cứu. Ngoài ra, Tracy mang đến cho bạn các bài tập cụ thể mà bạn có thể sử dụng ngay để thực hiện từng nguyên tắc trong cuộc sống của bạn. Tự tạo tương lai của chính mình sẽ cho bạn thấy cách thiết lập các mục tiêu, giải phòng sự sáng tạo vốn có, và giúp bạn vượt qua được các trở ngại trên đường đi của mình. Bạn sẽ học được cách phân biệt các kỹ năng quan trọng cần phải có để làm chủ lĩnh vực và cách để có được sự hộ trợ của những người quan trọng nhất trong công việc và đời sống cá nhân của bạn. Brian Tracy cho bạn thấy cách để chịu trách nhiệm hoàn toàn về chính bạn và môi trường sống của bạn, trở thành chuyên gia trong lĩnh vực của bạn, đạt được sự độc lập hoàn toàn về tài chính, và phát triển các thói quen của những người thành đạt. Cuốn sách này dành cho những ai có tham vọng muốn tiến nhanh hơn về phía trước. Nó cũng mang lại những khám phá tốt nhất đựơc rút ra từ hàng ngàn cuốn sách và các bài báo, được kết hợp với công việc là một nhà tư vấn và nhà đào tạo cho hơn 500 công ty và hơn hai triệu ngừơi ở 23 nước của Brian Tracy. *** Brian Tracy là một nhà hùng biện, diễn thuyết, tư vấn chuyên nghiệp và là Chủ tịch Tập đoàn quản lý nguồn nhân lực Brian Tracy International, có trụ sở tại Solana Beach, San Diego. Ông đại diện cho hình ảnh những con người biết vượt qua những khắc nghiệt của cuộc sống để đạt đến thành công đỉnh cao. Để có thể đúc kết được những bài học kinh nghiệm cho mình và cho người khác, Brian đã phải trải qua vô vàn khó khăn. Vì mưu sinh, ông phải rời trường trung học khi chưa tốt nghiệp và bắt đầu bươn chải với những công việc lao động phổ thông trong nhiều năm liền. Ông rửa chén bát, bốc xếp gỗ, đào giếng khoan, làm công nhân trong nhà máy và phụ khuân vác cỏ khô đến các nông trường và trang trại chăn nuôi gia súc. Vài năm sau, ông bước chân vào nghề bán hàng và dần thành danh trong giới kinh doanh. Ba mươi tuổi, ông mới bắt kịp nền học vấn đã phải bỏ dở trước kia khi theo học chương trình MBA tại một trường đại học lớn. Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, cộng với kiến thức từ quá trình học tập và ý thức nỗ lực phấn đấu không ngừng, ông đã thăng tiến qua nhiều vị trí khác nhau ở 22 công ty thuộc nhiều lĩnh vực. Năm 1981, ông bắt đầu nói chuyện và truyền đạt những nguyên tắc thành công của mình tại các cuộc hội thảo chuyên đề trên khắp nước Mỹ. Đến nay, các chương trình này đã được đưa vào giáo trình giảng dạy cho các doanh nghiệp toàn Hoa Kỳ và trên thế giới, với 20 ngôn ngữ và tại 38 quốc gia. Ông còn là nhà tư vấn và giảng viên cho hơn 500 tập đoàn trên thế giới. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy nhất như The 100 Absolutely Unbreakable Laws of Business Success (100 quy luật bất biến để thành công), Eat That Frog! (Để hiệu quả trong công việc), Hire and Keep The Best People (Tuyển dụng và đãi ngộ người tài), Getting Rich Your Own Way, Create Your Own Future, Be a Sales Superstar, Advanced Selling Strategies, The 21 Success Secrets of Self-Made Millionaires,... Brian cho rằng bất cứ cá nhân nào cũng có những năng lực tiềm ẩn to lớn chưa được khám phá. Do đó, ông tin tưởng mọi người đều có thể tiến xa hơn nữa và nhanh chóng tiếp cận mục tiêu của mình, chỉ cần họ biết học hỏi và rèn luyện những phương pháp, kỹ năng và chiến lược mà những người thành đạt đi trước đã từng áp dụng. Qua những buổi diễn thuyết, thảo luận, ông luôn tập trung vào việc xóa bỏ trạng thái thất vọng, bi quan và cảm giác kém tự tin ẩn sâu trong mọi người để hướng đến một tương lai tươi sáng với nhiều thành công rực rỡ. Brian Tracy thường xem mình là một "độc giả chiết trung", nghĩa là không bị bó hẹp vào một tín ngưỡng, một dòng tư tưởng đặc biệt nào cả. Ông không nghĩ bản thân mình là một nhà nghiên cứu khoa học, mà chỉ là một người đi thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau sau đó tổng hợp đúc kết chúng lại thành những bí quyết, kinh nghiệm hữu ích dành cho thế hệ theo sau ông. Brian hiện đang sống hạnh phúc cùng với vợ và 4 người con tại thành phố San Diego, California. Mỗi năm, ông tổ chức thuyết trình khoảng hơn 100 lần cho hơn 300 ngàn thính giả đồng thời tham gia hoạt động kinh doanh tại 17 nước. Tác phẩm: 100 Quy Luật Bất Biến Để Thành Công Trong Kinh Doanh Tự Tạo Tương Lai Của Chính Mình Thuật Tuyển Dụng Và Sa Thải Để được trọng dụng & đãi ngộ Thuật hùng biện Thuật tổ chức hội họp Tư Duy Tích Cực Đánh Thức Tiềm Năng Làm Giàu Theo Cách Của Bạn Chinh Phục Mục Tiêu Bí Quyết Tuyển Dụng và Đãi Ngộ Người Tài 12 Tuyệt Kỹ Bán Hàng Điểm Khủng Hoảng Thuật Đàm Phán Thuật Quản Trị Thuật Marketing Thuật Lãnh Đạo Thành Công Tột Đỉnh Thuật Ủy Quyền và Giám Sát Thuật Thúc Đẩy Nhân Viên Thuật Quản Lý Thời Gian Thuật Bán Hàng Kết Thúc Bán Hàng: Đòn Quyết Định Kinh doanh bằng Tâm lý ...   Mời các bạn đón đọc Tự Tạo Tương Lai Của Chính Mình của tác giả Brian Tracy.
Tư Duy Tối Ưu
Những lời khen ngợi quyển sách “tư duy tối ưu” N ếu bạn ưa thích 7 Thói quen để thành đạt, bạn cũng sẽ thích quyển Tư duy tối ưu. Cách tiếp cận dựa vào nguyên tắc của Covey đối với quản trị thời gian thực sự đem đến cho bạn “cái la bàn” để chỉ ra điều gì là thực sự quan trọng trong cuộc đời.” - Nolan D. Archibald Chủ tịch &CEO Công ty Black & Decker “Với sự sâu sắc và sức lôi cuốn, Tư duy tối ưu chiếu ánh sáng chói lọi vào tình cảnh mờ mịt của các kỹ thuật quản trị thời gian. Thay vì chỉ nhìn vào từng mẩu của cuộc sống, nay chúng ta nhìn thấy toàn bộ cả bức tranh. Quyển sách này giống như một đòn bẩy có thể giúp bạn thay đổi thực sự cuộc sống của mình.” - Scott DeGarmo Tổng biên tập tạp chí Success “Thiết thực, giàu trí tuệ bậc nhất chính là nội dung cuốn sách mới nhất của Stephen Covey, Tư duy tối ưu. Một quyển sách bạn cần phải đọc vì sự vững bền của gia đình bạn!” - Robert H. Schuller Giáo sĩ Nhà thờ Crystal “Những thành công lớn nhất trong cuộc đời tôi có được là dựa vào các nguyên tắc làm thay đổi cuộc đời mà Stephen Covey đã chỉ ra trong cuốn Tư duy tối ưu.” - Steve Young Cầu thủ bóng bầu dục nổi tiếng của Mỹ “Điều chúng ta tin tưởng sẽ định hình cuộc sống của chúng ta! Điều khác biệt của cuốn Tư duy tối ưu là ở chỗ nó cho chúng ta thấy con tim dẫn dắt chúng ta đến đâu và vì sao lương tâm của chúng ta là cái la bàn chỉ đường cho chúng ta đi đến thắng lợi. Hãy đọc cuốn sách này để nung nấu ngọn lửa sống có ý nghĩa của bạn!” - Anthony Robbins Tác giả cuốn Unlimited Power *** N ếu làm việc chăm chỉ hơn, tài tình hơn và nhanh nhẹn hơn mà vẫn không có kết quả, thì chúng ta phải làm cách nào? Nếu bạn phải dừng lại và suy ngẫm về “những ưu tiên số một” trong đời - một vài điều bạn cho là quan trọng nhất - thì đó là những điều gì? Liệu bạn có thực sự dành đủ sự quan tâm, sự tập trung và thời gian cho chúng không? Qua thực tế công việc tại Trung tâm Lãnh đạo Covey (Covey Leadership Center), chúng tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người từ khắp mọi nơi trên thế giới, và nhận được nhiều ấn tượng tốt. Họ là những người năng động, chăm chỉ, có năng lực, chu đáo và quyết tâm tạo ra sự khác biệt. Tuy vậy, những người này luôn có những trăn trở lớn hàng ngày khi họ cố gắng dành ưu tiên cho điều quan trọng nhất. Thực ra, việc bạn chọn đọc cuốn sách này là dấu hiệu cho thấy bạn cũng có thể là một trong số những người đang có cùng tâm trạng đó. Tại sao những điều quan trọng nhất đối với chúng ta lại thường không được ưu tiên trước hết? Nhiều năm qua, chúng ta được trang bị các phương pháp, kỹ thuật, công cụ và kiến thức để quản lý và kiểm soát tốt thời gian của mình. Chúng ta cũng được dạy rằng nếu không ngừng làm việc nhiều hơn, học hỏi cách làm việc tốt hơn và nhanh hơn, sử dụng thiết bị hay công cụ mới, hoặc lưu trữ hay tổ chức hồ sơ theo một cách đặc biệt nào đó thì chúng ta sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Vì thế, chúng ta tìm mua những cuốn sổ công tác mới, tham gia một lớp học mới hay đọc một cuốn sách mới. Chúng ta cố gắng học mọi thứ, ứng dụng mọi thứ, chúng ta nỗ lực nhiều hơn nữa, nhưng rốt cuộc điều gì đã xảy ra? Hầu hết những người chúng tôi gặp cho rằng kết quả đạt được chỉ là tích thêm sự bực bội và phạm thêm nhiều sai lầm. • Tôi cần có thêm nhiều thời gian! • Tôi muốn hưởng thụ nhiều hơn. Tôi chỉ chạy loanh quanh và chẳng bao giờ có thời gian cho riêng mình. • Bạn bè và gia đình luôn đòi hỏi ở tôi nhiều hơn – nhưng làm sao tôi có thể đáp ứng cho họ? • Tôi luôn gặp khủng hoảng vì sự chần chừ, nhưng tôi chần chừ vì luôn gặp phải khủng hoảng. • Tôi không giữ được sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống cá nhân. Cứ như tôi đang cướp thời gian của việc này để làm việc kia, điều đó chỉ làm cho mọi việc tồi tệ hơn. • Căng thẳng quá! • Có quá nhiều chuyện phải làm - và chuyện nào cũng cần cả. Tôi phải lựa chọn làm sao đây? Phương pháp quản trị thời gian truyền thống cho rằng nếu làm việc với hiệu suất cao hơn, thì cuối cùng bạn sẽ kiểm soát được cuộc sống của mình, và việc tăng cường kiểm soát sẽ đem lại cho bạn sự bình yên và thỏa mãn mà bạn mong muốn. Chúng tôi không đồng ý với ý kiến đó. Đặt hạnh phúc của chúng ta dựa vào khả năng kiểm soát mọi thứ là điều vô nghĩa. Trong khi chúng ta có thể kiểm soát việc lựa chọn hành động của mình, chúng ta lại không thể kiểm soát được những hậu quả do hành động của chúng ta gây ra. Các quy luật khách quan hay các nguyên tắc phổ quát mới quyết định các hậu quả đó. Do vậy, chúng ta không kiểm soát cuộc sống của chúng ta; mà các nguyên tắc làm điều đó. Chúng tôi cho rằng ý tưởng này lý giải cho những nỗi thất vọng của nhiều người về cách “quản trị thời gian” trong cuộc sống. Trong cuốn sách này, chúng tôi trình bày một phương pháp quản trị thời gian hoàn toàn khác. Đó là quan điểm dựa vào nguyên tắc. Nó ưu việt hơn so với các chỉ định của phương pháp truyền thống, như là phải nhanh hơn, mạnh hơn, khôn ngoan hơn và nhiều thứ khác. Thay vì đưa cho bạn một chiếc đồng hồ khác, phương pháp này sẽ đem đến cho bạn một cái la bàn - vì rằng xác định đúng đích đến mới là điều quan trọng hơn so với việc bạn đi nhanh như thế nào. Về một phương diện nào đó, cách tiếp cận này rất mới mẻ; nhưng ở một góc độ khác, nó không có gì xa lạ. Nó bám rễ sâu vào các nguyên tắc cổ điển, có tính muôn thuở, trái ngược với cách tiếp cận nóng vội, đốt cháy giai đoạn, cách làm giàu nhanh mà không cần bỏ công sức như vẫn được quảng bá trên vô số sách báo nói về cách quản trị thời gian hiện hành và về “sự thành đạt”. Chúng ta đang sống trong một xã hội hiện đại đề cao các kỹ thuật đi đường tắt, đốt cháy giai đoạn. Tuy nhiên chất lượng cuộc sống không phải là cái có thể đạt được bằng sự nóng vội hay đi đường tắt. Không có con đường tắt như thế! Nhưng có một con đường khác dẫn đến thành công. Con đường đó dựa vào các nguyên tắc đã được minh chứng trong suốt quá trình lịch sử. Nếu có thông điệp nào được rút ra từ chân lý này, thì đó là: một cuộc sống có ý nghĩa không phải là vấn đề tốc độ nhanh hay chậm hoặc hiệu suất cao hay thấp. Vấn đề là bạn đang làm gì và vì sao bạn làm điều đó, chứ không phải bạn làm nhanh tới mức nào. Vậy bạn có thể đặt kỳ vọng gì từ cuốn sách Tư duy tối ưu này: - Trong Phần I – “Chiếc đồng hồ và cái la bàn”, chúng ta sẽ xem xét khoảng cách - mức độ không phù hợp giữa cách sử dụng thời gian của chúng ta với những điều thực sự quan trọng đối với ta. Chúng ta sẽ đi vào phần mô tả ba “thế hệ” quản trị thời gian truyền thống, gồm cả mô thức hiện hành về hiệu suất và sự kiểm soát, và bàn luận vì sao cách tiếp cận thuần túy dựa vào “chiếc đồng hồ” này thực sự làm gia tăng khoảng cách - mức độ không phù hợp đó. Chúng ta sẽ xem xét sự cần thiết của tư duy mới - thế hệ quản trị thời gian thứ tư - một tư duy hoàn toàn khác với tư duy của các thế hệ trước. Chúng tôi khuyên bạn nên kiểm tra lại cách sử dụng thời gian của mình, xem bạn chỉ chạy theo những việc thuần túy “khẩn cấp” hay có quan tâm đến những điều thực sự “quan trọng” đối với cuộc đời của bạn. Chúng ta cũng sẽ xem xét những hậu quả do “thói quen khẩn cấp” gây ra. Cuối cùng, chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu “những điều quan trọng nhất” - tức là những nhu cầu cơ bản của con người và những năng lực cần thiết để sống, yêu thương, học hỏi và để lại một di sản cho thế hệ sau - và làm thế nào để ưu tiên cho điều quan trọng nhất, nhờ sử dụng cái la bàn nội tâm để điều chỉnh cuộc sống của chúng ta phù hợp với các hiện thực theo hướng “chính Bắc” đích thực chi phối chất lượng cuộc sống của chúng ta. - Trong Phần II – “Giữ cho điều quan trọng luôn là quan trọng”, chúng ta sẽ nghiên cứu quy trình tổ chức Phần tư thứ II - quy trình 30 phút mỗi tuần, chỉnh đồng hồ phù hợp với hướng của la bàn, giúp bạn chuyển trọng tâm từ “tính khẩn cấp” sang “tầm quan trọng”. Chúng tôi sẽ nêu khái quát trước để bạn hình dung ra các lợi ích tức khắc, sau đó sẽ đi sâu vào từng phần của quy trình để bạn thấy rõ sự phong phú mà quy trình này có thể đem đến cho cuộc đời của bạn. Cụ thể, chúng ta sẽ xem xét: • Làm thế nào nhận diện sứ mệnh của bạn và tạo lập một viễn cảnh tương lai mạnh mẽ đem lại ý nghĩa và mục đích và trên thực tế, trở thành ADN của cuộc đời bạn. • Làm thế nào tạo ra sự cân bằng và sự hiệp lực giữa các vai trò khác nhau trong cuộc sống của bạn. • Làm thế nào xác lập và đạt được các mục tiêu dựa trên các nguyên tắc để đem lại chất lượng cao nhất cho cuộc sống. • Làm thế nào giữ vững quyết tâm luôn ưu tiên cho điều quan trọng nhất. • Làm thế nào để hành động chính trực vào những thời khắc quyết định - nghĩa là tỉnh táo và khôn ngoan để xác định đúng “ưu tiên cho điều quan trọng nhất” là bám giữ kế hoạch cũ hay thay đổi nó... và để có thể làm bất cứ điều gì bạn cho là đúng với niềm tin và sự thanh thản. • Làm thế nào để biến các tuần lễ của bạn thành một vòng xoắn ốc không ngừng đi lên trong học tập và trong cuộc sống. - Trong Phần III – “Sức mạnh của sự đồng tâm hiệp lực”, đề cập đến các vấn đề và tiềm năng của quan hệ tương thuộc trong thực tế - chiếm tới 80% thời gian hoạt động của chúng ta - một lĩnh vực gần như bị lãng quên hoặc không được đề cập thích đáng trong cách quản trị thời gian truyền thống. Chúng ta sẽ xem xét sự khác biệt giữa quan hệ tương tác giao dịch và quan hệ tương tác biến đổi với những người khác. Thay vì coi người khác như những nguồn lực, qua đó chúng ta khai thác để thu được kết quả nhiều hơn thông qua sự trao quyền, chúng ta sẽ xem xét cách thức tạo ra sự hiệp lực có sức mạnh nhờ cùng chung một khát vọng và những thỏa thuận hiệp lực. Chúng ta cũng sẽ xem xét vấn đề trao quyền - tức “chuyển dịch điểm tựa” đến vị trí xa nhất của đòn bẩy - và những điều mà bạn có thể làm để thúc đẩy sự trao quyền cho cá nhân và tổ chức, và dùng nó làm chất xúc tác tạo ra sự biến đổi trong mối quan hệ với gia đình, với tập thể đồng nghiệp hay với các tổ chức xã hội. - Trong Phần IV – “Sức mạnh và sự bình yên của lối sống dựa vào nguyên tắc”, chúng ta sẽ tham khảo một số ví dụ có thực từ cuộc sống, và tìm hiểu vì sao cách tiếp cận của thế hệ quản trị thời gian thứ tư có thể làm chuyển biến thực sự chất lượng cuộc sống hàng ngày của bạn và tính chất của những việc bạn làm. Phần kết luận của cuốn sách tập trung vào các nguyên tắc để sống bình yên và làm thế nào để vượt qua những trở ngại chủ yếu để mang lại cho bạn một cuộc sống mỹ mãn, vui vẻ và có ý nghĩa. Để thu được hiệu quả nhất từ cuốn sách này, bạn nên đọc có chiều sâu - nghĩa là liên hệ với bản thân mình, với khuôn mẫu đã được dạy dỗ, với động cơ của mình, để xem đâu là “điều quan trọng nhất” đối với bạn, và bản thân bạn đại diện cho điều gì. Đây là một quá trình đấu tranh nội tâm ở mức cao. Khi đọc cuốn sách này, chúng tôi khuyên bạn nên thỉnh thoảng dừng lại và lắng nghe tiếng nói từ cả khối óc lẫn con tim của mình. Khi đã thấm nhuần và hiểu sâu sắc về sự tự ý thức, bạn sẽ có sự thay đổi. Khi đó, bạn sẽ nhìn thế giới với đôi mắt khác. Bạn sẽ nhìn các mối quan hệ với cái nhìn khác. Bạn sẽ nhìn thời gian một cách khác. Bạn sẽ nhìn bản thân mình khác trước. Chúng tôi tin rằng cuốn sách này sẽ giúp bạn có sự tăng tiến vượt trội trong việc tạo ra một cuộc sống có chất lượng cho bản thân và những người xung quanh. Chúng tôi cám ơn bạn đã xem xét những cách thức mà chúng tôi tin là tốt hơn. Từ những kinh nghiệm của mình, chúng tôi tin rằng những nguyên tắc đúng đắn mà cuốn sách này nêu ra sẽ giúp bạn có được cuộc sống yên bình và thành đạt. Sức mạnh bắt nguồn từ các nguyên tắc. Chúng tôi tin rằng nội dung cuốn sách này sẽ giúp bạn thoát khỏi sự ràng buộc của chiếc đồng hồ và khám phá ra cái la bàn của chính mình. Chiếc la bàn này sẽ giúp bạn sống, yêu thương, học tập, và để lại một di sản lớn và lâu bền với niềm vui bất tận. - Stephen R. Covey Mời các bạn đón đọc Tư Duy Tối Ưu của tác giả Stephen R. Covey.
Sống Để Hạnh Phúc
C uốn sách là một chuỗi những cuộc trò chuyện giản dị của cô Nguyễn Hoàng Ánh về nỗi bất an của xã hội này: Trăn trở làm người, tìm ra được giá trị của bản thân, và mục đích chúng ta sống. Ta mong đợi và gửi gắm rất nhiều vào giáo dục Việt Nam, nhưng chúng ta cũng buộc phải tìm cách tự trả lời những câu hỏi trước cánh cửa cuộc đời. Du học, bằng cấp, niềm say mê, ước mơ trên ghế giảng đường, cuộc sống náo nhiệt từ facebook và tâm hồn cô quạnh của giới trẻ... Mỗi bài viết trong Born to be happy đều có khả năng khơi gợi bạn tự tìm ra nhiều cách trả lời khác nhau cho cuộc sống phía trước! Cô Nguyễn Hoàng Ánh kêu gọi giới trẻ ước mơ, và băn khoăn về những vị phụ huynh mãi không chịu trưởng thành. Cuộc sống học đường trong cuốn sách thực ra là một hành trình tự định vị bản thân, dũng cảm trải nghiệm sống, không ngừng mơ ước của tác giả. Cô Ánh được rất nhiều sinh viên Đại học Ngoại Thương yêu quý, cũng là người dẫn dắt, tạo cảm hứng, khích lệ rất nhiều bạn trẻ - trong đó có tôi - vững tin vào cách mình sống và cống hiến. Đọc sách và dũng cảm lên, vì chúng ta vốn sinh ra để sống hạnh phúc! TRANG HẠ *** Speak English? Yes, You can! N hà tôi có truyền thống “sính ngoại ngữ” nên học lung tung cả. Ông ngoại tôi rất giỏi chữ Nho, ông từng là dịch giả tron g cuốn Tuyển tập Thơ Đường . Sau đó, ông cũng phải “vứt bút lông đi giắt bút chì”, chuyển sang học tiếng Pháp theo thời thế. Và ông cũng biết tiếng Pháp đủ để làm việc với người Pháp, thậm chí đọc sách, làm thơ bằng tiếng Pháp. Bố mẹ tôi học tiếng Pháp từ nhỏ, lớn lên lại phải học tiếng Nga, mẹ tôi sắp về hưu còn học tiếng Anh vì tiếng Nga hết thời. Tôi hồi nhỏ tất nhiên học tiếng Nga, có năm học tiếng Pháp, tiếng Anh (học phổ thông thì cũng chả ăn thua gì), rồi học tiếng Tiệp. Cái vụ học tiếng Tiệp khiến cho tôi thấy cách dạy ngoại ngữ của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Cả một năm trời chúng tôi cắm đầu học ngữ pháp, từ vựng, không biết nghe nói, tài liệu đọc nghèo nàn và buồn chán nên có học 10 năm cũng không bằ ng một năm ở nước ngoài. Cùng lớp tôi có anh bạn rất chăm chỉ, mỗi ngày học thuộc lòng một trang từ điển, ai cũng khâm phục. Tôi vốn không chăm chỉ nên nhìn anh khâm phục nhưng theo không nổi. Đến khi qua Tiệp mới thấy anh gặp tây vẫn không mở miệng ra được, ngoài sách chuyên môn ra thì đọc không hiểu gì, tôi cũng phần nào tự an ủi mình. Nhưng làm thế nào để tiếp xúc với người nước ngoài quả là không đơn giản. Hồi đó tâm lý “ngại tây” vẫn rất phổ biến, đại sứ quán quy định muốn đi chơi với người nước ngoài, kể cả thăm thầy cô giáo phải báo cáo đơn vị trưởng để đơn vị trưởng cử người đi kèm. Chính vì vậy tuy ở nước ngoài nhưng trừ lúc đến lớp, đa phần sinh viên chỉ giao tiếp với bạn bè Việt, thành ra nghe nói vẫn rất kém. Hầu hết còn rất lười đọc, tôi vẫn nhớ sự thất vọng não nề của mình khi đùa hỏi một siêu sao đã ở Tiệp bốn năm là “literatura” (văn học) là gì, anh bảo là không biết, chỉ biết “doporučená literatura” là “tài liệu tham khảo” vì giáo viên luôn nhắc cụm từ này. Không thể học theo những người đi trước nên tôi học bằng cách đọc nhiều sách (hệ thống thư viện của Praha thật tuyệt vời) và giao tiếp nhiều với người xung quanh. Nhờ vậy chỉ sau một năm tôi có thể nghe giảng hiểu hầu hết, đọc đủ loại sách từ chuyên môn đến thời trang, nấu ăn, tiểu thuyết… không cần tra từ điển. Còn nhớ có lần tôi gọi điện cho một anh bạn người Tiệp làm ở một công ty xuất nhập khẩu, gặp đồng nghiệp của anh ta. Sau đó anh đồng nghiệp bảo bạn tôi là “Tao biết nó là người nước ngoài nhưng không nghĩ nó là dân châu Á mà cứ nghĩ là Ba Lan hay Nga gì đó vì ngữ âm của nó không Á chút nào”. Chính vì quá gắn b ó với tiếng Tiệp như vậy nên tôi rất đau lòng khi sau sáu năm sống với nó, ăn ngủ, thậm chí nằm mơ với nó, về Việt Nam lại phải bỏ xó. Khi về trường công tác, tôi phải lựa chọn học lại tiếng Nga hoặc tiếng Anh. Hồi đại học, tôi được học tiếng Anh là ngôn ngữ thứ ba, bên cạnh tiếng Nga và tiếng Tiệp. Tiếc là kiểu dạy cũ với một giáo viên không yêu nghề khiến tôi càng không có cảm tình với thứ ngôn ngữ “nói một đằng viết một nẻo” ấy. Chỉ vì bạn trai mà tôi đi học tiếng Anh ở trung tâm, may là được học theo giáo trình Kernel, các bài khóa là truyện trinh thám hấp dẫn, và được giáo viên dạy hay nên tôi trở nên yêu thích tiếng Anh hơn. Kết quả là hết khóa tôi đã có bằng C tiếng Anh với một vốn từ vựng và ngữ pháp kha khá nhưng đã chia tay bạn trai. Dù sao vẫn phải cảm ơn chàng, nếu không thì không biết bao giờ tôi mới có cơ hội bổ túc tiếng Anh. Tình cảm qua đi nhưng kiến thức thì còn mãi. Đến lúc ấy tôi đã nhận thức được tầm quan trọng của tiếng Anh và quyết tâm nâng cao nó. Biết là mình không hợp kiểu học cũ nên tôi tham gia khóa học TOEFL đầu tiên của Hà Nội để luyện kỹ năng nghe, học qua bài hát… Nhưng do tôi đã quá gắn bó với ngôn ngữ Slave 1 nên đọc, viết tạm được nhưng hễ mở miệng là nói tiếng Tiệp. Nhớ lại kinh nghiệm cũ, tôi tăng cường đọc sách và tìm cách giao tiếp với người nước ngoài. Đầu những năm 90, người Mỹ ở Hà Nội khá ít và xã hội cũng còn nghi kỵ phụ nữ qua lại với người nước ngoài. May là ở trường tôi có một số giáo viên tình nguyện người Mỹ, nên tôi chọn một ông có vẻ dễ gần, nhờ ông ấy hàng tuần ngồi nói chuyện với tôi theo một chủ đề nào đó khoảng một tiếng. Nhờ trời gặp được ông giáo rất cởi mở, thông cảm, thậm chí không lấy tiền (vì tôi lúc ấy nghèo kiết xác), cũng không bắt bẻ gì cả mà để tôi tự nói thoải mái, chỉ hỏi lại khi không hiểu. Thầy còn khuyến khích tôi giữ nguyên cách diễn đạt tự nhiên, chỉ sửa từ hay phát âm thôi. Nghĩ lại cũng thấy tôi can đảm, chồng đi học xa mà vợ ở nhà hồn nhiên ra quán cà phê ngồi buôn với tây suốt một học kỳ (vì không dám đưa ông ấy về nhà hay về phòng ông ấy), cho đến khi thầy về nước. Nhưng chính nhờ vậy tôi đã đủ khả năng đăng ký tham gia các khóa học ngắn hạn, các hội thảo bằng tiếng Anh để nâng cao chuyên môn. Khóa học bài bản duy nhất của tôi là bốn tháng học tiếng Anh dự bị Master cho sinh viên nước ngoài ở Anh. Giáo viên dạy tôi đã nh ận xét là tôi nói lưu loát, tư duy bằng tiếng Anh chứ không vừa nói vừa dịch, từ vựng tốt nhưng ngữ pháp chưa tốt. Tôi bảo ngữ pháp tôi sẽ cố gắng, nhưng phát âm có cần sửa không? Bà ấy bảo, bạn nói không sai, không hay nhưng dễ hiểu. Các bạn là dân châu Á, lại học tiếng Anh muộn như vậy thì không cần để ý làm gì. Ngay dân Anh cũng mỗi vùng nói mỗi khác nên không cần quá lo, quan trọng là dám nói. Chính nhờ những lời khích lệ ấy của bà giáo và của rất nhiều bạn bè nước ngoài khác, tôi là giáo viên 6x hiếm hoi có thể tạm sống bằng tiếng Anh. Nhớ nhất là lần đầu tiên phải thuyết trình bằng tiếng Anh ở hội thảo nước ngoài, sáng hôm ấy tôi tỉnh dậy sớm, mồ hôi toát ra đầm đìa, nghĩ mình không thể nói được. Tôi cứ ôm lấy bài viết, đọc đi đọc lại, lúc lên bục tự dưng từ cứ tự tuôn ra, thậm chí còn pha trò được. Công việc đưa tôi đi qua châu Âu, châu Mỹ, châu Á và tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra châu lục coi trọng tiếng Anh nhất lại là… châu Á. Người châu Âu lục địa hay Canada nói nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng Anh, tỷ lệ dân nhập cư ở Mỹ rất cao nên họ chỉ dùng tiếng Anh khi đi học, đi làm chứ về nhà lại dùng tiếng mẹ đẻ. Và có đi ra nước ngoài mới thấy, tiếng Anh đã quốc tế hóa như thế nào. Tiếng Anh của người Pháp khác của người Ý, người Đức, Singlish khác Chinglish hay Japanese English… Theo kinh nghiệm của tôi, phát âm tiếng Anh gồm hai phần: phát âm và ngữ điệu. Người học bắt buộc phải tra từ điển để có cách phát âm tương đối đúng (vì trọng âm và âm gió thì rất khó chính xác hoàn toàn nhưng chữ cái thì phải đọc đúng) nhưng ngữ điệu thì rất khó sửa, nhất là với những người học tiếng Anh khi đã lớn tuổi hoặc xuất thân từ hệ ngôn ngữ quá khác biệt như tiếng Nhật, Hàn hay Trung Quốc. Thành ra người Anh – Mỹ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn người nước ngoài khi dùng tiếng Anh vì không quen được với những biến thể ấy. Tất nhiên tôi cũng từng bị một số bạn, thường là người trẻ, chỉ trích là phát âm không hay, không chuẩn. Hễ các bạn ấy chỉ ra phát âm nào sai thì tôi sửa ngay nhưng khi bàn về ngữ điệu thì tôi kệ. Không phải vì tôi nghĩ mình hay ho gì mà chỉ vì với tôi việc ấy đã quá muộn, trong khi tôi phải dành thì giờ làm việc khác. Tất nhiên tôi cũng ước ao nếu được học tiếng Anh tử tế sớm hơn thì sẽ dễ dàng hơn. Vì vậy từ nhỏ tôi đã cho con đi học ở trung tâm ngoại ngữ của nước ngoài để con được chuẩn bị tốt hơn mình. Thời gian sống ở Hàn cho tôi thấy việc can đảm nói quan trọng thế nào. Người Hàn làm việc với người Mỹ từ lâu nên bố mẹ đầu tư rất nhiều cho con đi học tiếng Anh. Người Hàn rất chăm chỉ nên thi IELTS hay TOEFL kết quả rất cao nhưng mỗi khi bị hỏi bằng tiếng Anh, trên mặt họ thể hiện rõ một sự căng thẳng và vì thế họ nói rất kém. Hóa ra, họ sợ bị đánh giá là nói không hay nên không dám nói ra, kết quả là nói ngày càng tệ. Trong khi tại các hội thảo quốc tế, ta sẽ thấy nhiều chuyên gia nổi tiếng nói tiếng Anh rất thường, miễn là hiểu được và có nội dung tốt thì họ vẫn được hoan nghênh. Sau khi đã thử học sáu thứ tiếng, dù không có kết quả gì hoành tráng lắm nhưng tôi đã hiểu ra, nếu không phải là chuyên gia ngôn ngữ thì ngôn ngữ nào với bạn cũng chỉ là công cụ. Hãy mạnh dạn sử dụng nó, sai thì sửa, miễn hiểu được nội dung chuyên môn tốt là tốt rồi. Đừng để những nhận xét tủn mủn cản đường bạn. Nhưng tất nhiên, nếu bạn định dạy ngoại ngữ thì đây không phải lời khuyên dành cho bạn. Mời các bạn đón đọc Sống Để Hạnh Phúc của tác giả Nguyễn Hoàng Ánh.
Sống Cho Tuổi Đôi Mươi Duy Nhất
S ống cho tuổi đôi mươi duy nhất là chia sẻ kinh nghiệm trưởng thành cho các bạn trẻ, giúp các bạn vững tin hơn vào bản thân mình và mạnh dạn theo đuổi ước mơ, để khi bước qua tuổi trẻ ngoảnh đầu nhìn lại, bạn thấy mình đã sống thật ý nghĩa và hạnh phúc. Tuổi đôi mươi là những năm tháng đặc biệt nhất của cuộc đời. Lúc bạn tuổi đôi mươi, bạn bỡ ngỡ khi đứng trước một thế giới rộng lớn có rất nhiều điều muốn trải nghiệm và khám phá. Bạn tò mò khi phát hiện ra một thế giới ẩn sâu bên trong bạn mà bạn chưa hiểu hết. Bạn vụng về, bạn ngốc nghếch, bạn không hoàn hảo… Không sao cả! Rồi bạn sẽ trưởng thành nhanh thôi, bạn sẽ lớn khôn hơn từ chính những gì bạn trải qua. Bạn sẽ là người viết nên câu chuyện của chính mình. Dẫu có lúc câu chuyện đó là một bầu trời u ám, nhưng nếu kiên nhẫn đến cùng bạn sẽ thấy bầu trời xanh tươi sáng. Đôi lúc bạn quên mất ước mơ thuở bé và giấu đi khát vọng của mình chỉ để tạm hài lòng với cuộc sống bạn đang có. Nhưng biết đâu một ngày bạn sẽ buồn vô hạn vì đã trốn trong vỏ bọc không thuộc về mình. Nếu bạn nhận ra tất cả những điều mà bạn không thuộc về, tại sao bạn vẫn chấp nhận chịu đựng cho ngày tháng dần qua? Cuộc đời không cho chúng ta cơ hội để làm lại và tuổi trẻ thì không thể trở lại thêm lần nữa. Chúng ta chỉ sống một lần duy nhất! Nếu không thay đổi bây giờ, ngay lúc này, thì là bao giờ? SỐNG – Trân trọng giới thiệu! *** Tâm sự của tác giả - một người trẻ như bạn Bạn thân mến! M ình là một người trẻ đang ở lưng chừng tuổi đôi mươi. Cũng như bạn, mình đang miệt mài theo đuổi đam mê của bản thân. Bạn hãy hình dung, theo đuổi đam mê giống như bạn đang viết một cuốn sách vậy. Mỗi ngày trôi qua bạn đem từng ý tưởng triển khai trên những trang giấy và mong ngóng đến ngày nó hoàn thiện. Khi bạn xuất hiện trên cuộc đời này, chính là lúc bạn bắt đầu bước từng bước nhỏ trong một hành trình dài trên đường đời của bạn. Trên con đường ấy, có lúc bạn chạy hăm hở, có lúc bạn bước thong dong, có lúc bạn kiễng chân đi rón rén. Mỗi dấu mốc bạn vượt qua đều để lại cho bạn một bài học quý giá và tuổi đôi mươi chính là dấu mốc đáng nhớ nhất trong cuộc đời. Khi bạn ở tuổi đôi mươi, bạn bắt đầu bước vào giai đoạn trưởng thành của đời người, dù trước đó không lâu bạn vẫn nghĩ mình chỉ là một đứa trẻ. Bạn phải đối mặt với những điều trước đây chưa bao giờ xuất hiện. Người ta thường nói “Tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất của cuộc đời”, nhưng bất kể thời điểm nào khi bạn vẫn yêu cuộc sống, thế giới xung quanh vẫn đem lại cho bạn nguồn cảm hứng bất tận thì đó vẫn là khoảng thời gian đẹp nhất, chứ không riêng gì tuổi trẻ. Nhưng chỉ khi trẻ bạn mới có nhiều đặc quyền hơn hết. Giống như mùa xuân là khởi đầu của một năm, tuổi trẻ là thời điểm bắt nguồn của những điều tươi sáng, là lúc con người bạn đã phát triển hoàn thiện cả về thể chất và tư duy. Đặc biệt khi bạn trẻ, cho dù bị vấp ngã bạn vẫn có thể nhanh chóng đứng lên để bước tiếp vì đôi chân bạn đang rất dẻo dai, niềm yêu sống của bạn đang tràn căng trong lồng ngực. Tuy nhiên, ở tuổi trẻ ấy bạn sẽ không tránh khỏi cảm giác hoang mang xen chút sợ hãi khi nhìn ra xung quanh, nhận thấy mỗi bạn trẻ có một hướng đi riêng. Người chọn giải pháp an toàn là kết hôn, sinh con, chăm sóc gia đình. Người chọn công việc ổn định, sáng đến cơ quan tối trở về nhà, đều đặn và không có nhiều trở ngại, cuộc sống chỉ gói gọn trong những mối quan hệ quen thuộc, những điểm đến không xa lạ. Một số người kiên trì theo đuổi giấc mơ của mình. Không giống số đông khác, họ chấp nhận đi một con đường gian nan hơn, hào hứng hơn với những điều bí ẩn ở phía trước. Còn với bạn, sự lựa chọn của bạn là gì? Khi bạn nhận ra rằng cuộc sống này không chỉ có màu hồng, không chỉ là những câu chuyện cổ tích, cứ mơ mộng, cứ chờ đợi rồi sẽ có những điều tốt đẹp thì có lẽ đó là lúc bạn đã trưởng thành. Bạn sẽ trải qua những thất vọng, thất tình, thất nghiệp, cùng vô vàn những điều khác khiến bạn chán nản và mất niềm tin. Bạn ạ, dù bạn độc thân, bạn chưa có công việc phù hợp thì cũng không sao cả. Điều quan trọng là bạn cần có một sức khỏe tốt và hãy bắt tay lên kế hoạch cho cuộc đời mình. Nghiêm túc thay đổi thái độ, quyết tâm theo đuổi mục tiêu thì bạn sẽ chạm đến ước mơ thôi. Có người tuy đã sống những năm dài tháng rộng nhưng lại chưa từng một lần can đảm sống cho chính mình. Họ chỉ tồn tại theo dòng chảy thời gian. Bạn cũng sẽ như vậy sao? Bạn không xác định được cuộc đời mình sống để chờ đợi điều gì. Bạn dựa vào những khuôn mẫu xã hội để sống. Bạn sợ những lời chỉ trích của những người không quen. Bạn sợ mình khác đi… Đừng sợ hãi! Không gì đáng tiếc bằng việc chỉ sống rồi chết đi như một kẻ vô danh trong chính cuộc đời mình. Có thể những phép nhiệm màu trong truyện cổ tích không còn xuất hiện để an ủi bạn nữa, nhưng tự bạn có thể tạo nên điều kỳ diệu. Bạn tuyệt vời hơn những gì bạn nghĩ đấy! Hãy quên việc phải cư xử để làm hài lòng người khác, quên việc phải làm theo những gì người khác cho là đúng và quên luôn cả những lời nhận xét không mấy tốt đẹp của họ về bạn. Bạn không có trách nhiệm phải sống để làm hài lòng quan điểm của đám đông. Bạn hãy tự mình cởi bỏ những chiếc áo gò bó không thuộc về mình và quẳng nó sang một bên rồi chọn lấy cho mình một chiếc áo khiến bạn thoải mái nhất. Bạn là ai, chỉ bạn mới là người hiểu rõ. Bạn muốn trở thành người như thế nào? Những gì khiến bạn hạnh phúc? Tất cả đều do chính bạn quyết định. Tuổi trẻ của bạn được tạo nên từ những dấu ấn bạn đã trải qua. Dấu ấn ấy có thể là một cuốn sách hay bạn từng đọc, những kiến thức bạn được tiếp cận, những miền đất bạn đặt chân đến, những người bạn gặp trên mỗi bước đường... tất cả dấu ấn ấy đều giúp bạn trưởng thành hơn mỗi ngày. Để bắt đầu tìm một đường đi cho riêng bạn là điều không dễ dàng. Tuy nhiên, có một câu người trẻ chúng ta thường hay nói: “Cứ đi rồi sẽ đến, cứ gõ cửa sẽ mở”, chẳng phải mỗi con đường có được đều là do đi mãi mà thành sao? Vì thế bạn hãy tự tin, bản lĩnh, lạc quan và chuẩn bị hành trang thật tốt để lên đường nhé! Hãy kiên trì hành động để biến giấc mơ của bạn thành sự thật! Mời các bạn đón đọc Sống Cho Tuổi Đôi Mươi Duy Nhất của tác giả Denley Lupin.