Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kim Ji Young, Sinh Năm 1982

Kim Ji Young, Sinh Năm 1982 là cuốn sách kể về cuộc đời của một người phụ nữ bị chứng rối loạn tâm lí sau sinh, tên là Kim Ji Young. Câu chuyện mở đầu bằng những dòng giới thiệu về cô - ở thời điểm hiện tại. Nếu tinh ý, độc giả sẽ có thể nhận thấy ở nhiều phân đoạn, tác giả thường gọi cả họ tên của nhân vật chính, lặp đi lặp lại chứ ít dùng đại từ thay thế. Đó là vì trong tiểu thuyết này tác giả đóng vai trò là một nam bác sĩ tâm lí trị liệu cho Kim Ji Young, và phần đầu được viết dưới dạng hồ sơ bệnh án của bác sĩ, mô tả chi tiết về bệnh chứng của bệnh nhân. Những trang viết dần hé lộ về cuộc đời tưởng như rất đỗi bình thường của thiếu phụ trẻ, từ khi cô sinh ra đến khi lấy chồng rồi sinh con như bao người phụ nữ Hàn Quốc rất bình thường khác. Các triệu chứng kì lạ của Kim Ji Young xuất hiện sau khi cô sinh con, có những lúc dường như cô không phải là một Kim Ji Young thực sự, mà đã hóa thân thành những người phụ nữ khác, lúc thành mẹ cô, lúc lại thành người bạn gái cũ của chồng... Dường như cái vỏ thân xác Kim Ji Young cùng lúc có rất nhiều người khác nhau cùng tồn tại, có người còn sống và có người đã khuất, nhưng điểm chung nhất là họ đều là phụ nữ. Kim Ji Young như người phát ngôn hộ những người phụ nữ ấy những lời tự đáy lòng, nhưng bản thân họ thì có lẽ sẽ không bao giờ tự dám nói: “Ông thông gia, tôi xin mạn phép được nói điều này. Chỉ có nhà ông là có gia đình thôi sao? Chúng tôi cũng có gia đình chứ. Ba đứa nhà tôi cũng chỉ có ngày lễ tết mới có thể gặp mặt nhau. Bây giờ cuộc sống của đám trẻ đứa nào chẳng như vậy. Nhưng nếu con gái ông đã về thăm nhà rồi, thì cũng phải cho con gái chúng tôi về thăm nhà chứ”. Nghe những lời ấy, những người sống quanh cô sững sờ, thậm chí là bị sốc, bởi cô đã nói ra một cách khá thẳng thắn, đòi lại công bằng cho phụ nữ trước đặc quyền mà từ trước đến nay gần như cả xã hội vẫn mặc nhiên dành cho nam giới. Kí ức sâu đậm nhất về tuổi thơ của Kim Ji Young là vị sữa bột ngọt ngào: “...mỗi khi mẹ pha sữa cho em, cô lại ở bên cạnh dùng nước bọt thấm ướt ngón tay rồi chấm những hạt sữa bột rơi trên sàn để ăn. Đôi khi mẹ cô sẽ bảo cô ngửa đầu lên và mở miệng rộng, rồi đổ một thìa sữa bột ngọt ngào đậm đà lên lưỡi cô...” Vị sữa ấy sẽ không thể khiến cô nhớ đến vậy, nếu nó không đi kèm với chuyện hễ cô bị bà nội bắt gặp cảnh cô ăn sữa thì sẽ lập tức bị bà cho ăn đòn, khiến sữa phun ra cả miệng lẫn mũi. “Có thể hiểu rằng biểu hiện đó của bà có nghĩa là tại sao chúng mày ‘dám’ đụng vào đồ của cháu trai quý giá của tao. Em trai và những gì thuộc về em là quý giá nhất, không một ai có thể tùy tiện đụng tới bất cứ thứ gì, Kim Ji Young cũng chỉ là ‘không một ai’ trong con mắt của bà. Và cả chị gái cô cũng vậy...” Còn mẹ cô, một người phụ nữ lớn lên trong gia đình làm nông, học xong tiểu học thì ở nhà làm lụng để các anh em trai được đi học tiếp, lớn hơn chút nữa, bà vào làm việc cực nhọc trong xưởng dệt, cùng chị gái bán sức lao động lấy đồng lương còm cõi để tiếp tục nuôi các anh em trai đi học đại học, xây dựng sự nghiệp riêng, để rồi cuối cùng nhận ra rằng trong gia đình và sự nghiệp của những người kia, họ không có chỗ đứng, họ trắng tay. Sau tất cả, những người đàn ông được cả xã hội công nhận là đã “một tay nuôi sống gia đình”, đã gánh vác giang sơn, đã làm nên công to việc lớn, và dĩ nhiên là không hề nhắc đến đồng tiền mồ hôi nước mắt của hai người phụ nữ đổi lấy bằng cả thanh xuân. Những người phụ nữ nhận thấy điều ấy, nên họ phải tự tìm đường sống cho mình, tự đi học, tự xây dựng cuộc sống, sau khi lấy chồng lại tiếp tục guồng quay, sinh con đẻ cái, làm lụng nuôi mình, nuôi chồng, nuôi con. Guồng quay cuộc sống ấy chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu, quá quen thuộc đến nỗi cả xã hội coi đó là điều mặc nhiên phải thế, nam giới mặc nhiên được ưu tiên, còn phụ nữ mặc nhiên xếp hàng thứ yếu. Ngay từ khi còn là những đứa trẻ, họ đã được dạy như vậy, từ những việc nhỏ nhất: Xếp số ăn cơm thì con trai xếp trước, lớp trưởng cũng là con trai; bị quấy rối, sàm sỡ thì nạn nhân là người có lỗi... Một điều khá thú vị là những người phụ nữ được khắc họa trong tiểu thuyết này hiện lên rất đời thường, gần gũi, có thể bắt gặp hình ảnh họ ở bất cứ đâu trong cuộc sống, và họ không đối xử độc ác với nhau. Đây là một điều ít thấy, không có sự hãm hại, dèm pha, chơi xấu giữa những phận đàn bà như thường gặp trong các câu chuyện khác, mà chỉ thấy họ cố gắng để thấu hiểu và nâng đỡ nhau vượt qua đau khổ, tiếp tục duy trì cuộc sống: Cô giáo sau khi nghe học sinh khiếu nại đã đối xử công bằng và tạo điều kiện cho học sinh nữ hơn; người phụ nữ trên xe bus nhận ra mối nguy mà cô bé xa lạ trên xe bus muốn cầu cứu bà; người đồng nghiệp của Ji Young dám chống lại nạn quấy rối tình dục nơi công sở... Câu chuyện tưởng như bình thường mà hóa ra lại chẳng bình thường, bởi nó khiến chúng ta giật mình nhìn lại cuộc sống của chính mình, có phải chúng ta cũng là một Kim Ji Young? Có phải mẹ chúng ta cũng chẳng khác nào bà Oh Mi Sook? Có phải ta cũng đã từng gặp được người bênh vực chúng ta như người phụ nữ xa lạ trên xe bus? Và có khi nào ta tưởng như có thể phát điên, nếu không được bàn tay ai đó nắm lấy đồng cảm, như bà Oh Mi Sook khi nằm trên bàn phá thai?... Quả thực không phải ngẫu nhiên mà cuốn tiểu thuyết khá mỏng này lại có thể khiến cả xã hội Hàn Quốc xôn xao dậy sóng, thậm chí các sao lớn của làng giải trí Hàn Quốc cũng không đứng ngoài cuộc. Không chỉ dừng lại ở phong trào Metoo - phong trào ủng hộ những người phụ nữ từng bị quấy rối tình dục dũng cảm nói lên câu chuyện của mình, Hàn Quốc gọi nữ nhà báo Kang Kyung Hoon là “hung thần” của nhiều công ty cũng như nghệ sĩ của showbiz. Chính cô là người nắm giữ trong tay hàng loạt bằng chứng môi giới mại dâm, quay lén và rao bán phụ nữ, trẻ vị thành niên của ca sĩ bậc nhất xứ Hàn. Một lần nữa truyền thông Hàn Quốc lại đặt câu hỏi cho vị trí cũng như vấn đề an toàn trong môi trường sống dành cho phụ nữ. Hàng loạt các ngôi sao ngầm ủng hộ phong trào nữ quyền bằng việc chia sẻ các trích dẫn về cuốn sách Sinh năm 1982 - cuốn sách nữ quyền gây tiếng vang lớn tại Hàn Quốc, Nhật Bản. Nhà xuất bản Phụ nữ xin được giới thiệu tới độc giả cuốn tiểu thuyết nữ quyền dũng cảm và giàu tính nhân văn này, để nhận thức rõ hơn về vị trí của người phụ nữ cùng những bất công mà họ phải chịu đựng do tình trạng bất bình đẳng giới trong xã hội, cũng như khích lệ những người phụ nữ hãy sống dũng cảm hơn để đấu tranh cho cuộc sống của chính mình. Một số phản hồi, nhận xét của truyền thông Hàn Quốc “Trên thực tế, trong số những phụ nữ sinh năm 1982 ở Hàn Quốc thì Kim Ji Young là cái tên được đặt nhiều nhất. Sinh năm 1982, bây giờ đang ở độ tuổi giữa 30. Tựa đề Kim Ji Young born 1982 đã phản ánh được mục đích của tác giả khi viết cuốn tiểu thuyết này, đó là vẽ nên cuộc sống phổ biến của đại đa số phụ nữ đương đại”. (--Kim Go Yeon Ju, học giả về nữ giới--) “Tôi biết rất nhiều người phụ nữ cảm thấy mình trong đó. Thật sự rất đáng buồn khi họ thấy đồng điệu với nhân vật Kim Ji Young. Ước gì không ai thấy mình giống nhân vật đó!”  (--Noh Hong Chul, diễn viên--) “Mặc dù đây chỉ là một cuốn tiểu thuyết, nhưng câu chuyện bên trong rất chân thật. Tôi không thể ngừng đọc nó cho đến hết. Tôi biết chính xác những gì Kim Ji Young đã cảm nhận... biết đến từng giây mà cô ấy phải trải qua, từ bất hạnh, buồn đau và sợ hãi... Cho dù đó không phải là câu chuyện của tôi nhưng tôi vẫn cảm thấy Kim Ji Young như là một người bạn thân của mình. Và tôi chắc chắn rằng có rất nhiều Kim Ji Young đang sống xung quanh tôi.”  (--Park Shin Hye, diễn viên--) “Dành cho những người có hứng thú muốn hiểu hơn về tình cảnh của người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc hiện nay, cuốn tiểu thuyết nữ quyền mang tên ‘Kim Ji Young sinh năm 1982’ được viết bởi nhà văn Cho Nam Joo sẽ cho bạn thấy một cái nhìn tổng quan thực tế về vấn đề này. Cuốn sách này không giống như những cuốn sách thông thường, thiên về một chuỗi giai thoại ghép lại hơn là tiểu thuyết. Cốt truyện không mấy thú vị. Nhân vật chính Ji Young đến trường, có việc làm, lập gia đình, nghỉ việc và sinh con. Ngoài những điều thường nhật ra thì không còn gì xảy ra nữa. Nhưng đó mới chính là cốt yếu của toàn bộ câu chuyện. Tất cả những người phụ nữ đều là Ji Young. (Kim Ji Young là cái tên được đặt khá phổ biến cho con gái sinh năm 1982, vì thế đây cũng chính là tên của cuốn tiểu thuyết này) Ji Young không chiến đấu chống lại chế độ như một người vận động nữ quyền. Khi có một lão khách già nua phóng đãng bắt cô phải ra ngoài để đi uống rượu với lão thì cô sẽ không chọn cách đứng dậy, đổ ly nước lên đầu lão và rời đi. Mà cô sẽ vẫn ngồi yên và đưa ra những bình luận chính kiến của mình về phân biệt đối xử giới tính như những nữ công nhân trẻ khác cũng làm. Cơ bản thì cô cũng chỉ là phụ nữ trẻ tuổi bị cuốn vào một xã hội sống theo lối gia trưởng." (--Trích review từ dramasrok và được dịch lại từ IRAINvn--) Tôi luôn có cảm giác rằng Kim Ji Young đang thực sự sống ở đâu đó. Bởi cô ấy có quá nhiều điểm giống với những người bạn, những người chị và cả tôi. Lúc viết tôi luôn cảm thấy ngột ngạt và thương cảm cho Kim Ji Young. Nhưng tôi biết rõ cô ấy đã lớn lên như vậy, đã sống như vậy, không có cách thay đổi nào khác nên tôi cũng phải viết như vậy. Kim Ji Young luôn luôn thận trọng và nghiêm túc khi đưa ra quyết định và làm hết khả năng của mình vì sự lựa chọn đó, tôi nghĩ rằng cô ấy cần sự ủng hộ và đền đáp thỏa đáng. Chúng ta cần cho cô ấy nhiều hơn nữa những cơ hội và sự lựa chọn. Tôi có một cô con gái lớn hơn Ji Won năm tuổi. Con gái tôi nói lớn lên muốn làm nhà du hành vũ trụ, nhà khoa học và nhà văn. Thế giới của con tôi sẽ sống phải tốt đẹp hơn thế giới tôi đã sống, tôi tin vào điều đó và đang nỗ lực để hiện thực hóa điều đó. Tôi hi vọng tất cả những bé gái trên thế gian này sẽ có thể mơ ước nhiều hơn, mơ những giấc mơ lớn lao hơn. (--Cho Nam Joo--) Tác giả Cho Nam Joo Sinh năm 1978 tại Seoul. Tốt nghiệp khoa Xã hội học trường Nữ Ehwa và là biên kịch cho những chương trình truyền hình nổi tiếng như Sổ tay PD, Bất mãn zero, Truyền hình trực tiếp buổi sáng... trong suốt 10 năm. Các tác phẩm đạt giải thưởng: Tiểu thuyết Lắng tai nghe (giải thưởng văn học Munhakdongne, năm 2011) Vì Komaneji (giải thưởng văn học Hwangsanbyeon lần thứ 2, năm 2016). Dịch giả: Dương Thanh Hoài Tốt nghiệp khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc - Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội; tốt nghiệp thạc sĩ Kinh tế, Viện nghiên cứu Hàn Quốc học Trung Ương, Hàn Quốc. Các tác phẩm đã dịch, in và phát hành tại Nxb Phụ nữ: Tiểu thuyết: Lời nói dối hoa mỹ, Mây họa ánh trăng (tập 1), Cảm ơn tất cả Truyện thiếu nhi: Con chính là điều kỳ diệu, Mẹ nổi giận, Nàng công chúa giả vờ không biết mọi chuyện, Những chú ngựa của mẹ, Con là hạt giống nào vậy nhỉ, series Pretty girl - Là con gái... *** [Review Sách] "Kim Ji Young Sinh Năm 1982": Cuốn Sách Nữ Quyền Làm Bùng Nổ Trào Lưu "Metoo" Ở Hàn Quốc Hàn Quốc luôn được biết đến là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất khu vực châu Á. Tuy nhiên trái ngược lại với kinh tế giàu mạnh, xứ sở kim chi lại được đánh giá là quốc gia còn mang nặng tư tưởng phong kiến và phân biệt đối xử với phụ nữ. Trước những bất cập xã hội ấy thì cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 ra đời và gây chấn động Hàn Quốc. Cuốn sách nữ quyền này đã giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ tư tưởng lạc hậu và mở ra tương lai tươi sáng hơn cho những người phụ nữ đáng lý phải có được hạnh phúc. Em trai và những gì thuộc về em là quý giá nhất, không một ai có thể tùy tiện đụng tới bất cứ thứ gì, Kim Ji Young cũng chỉ là “không một ai” trong con mắt của bà. Và cả chị gái cô cũng vậy… Kim Ji Young Sinh sinh năm 1982 - người phụ nữ của một thế hệ Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 của tác giả Cho Nam Joo kể từ khi ra đời đã gây được tiếng vang lớn tại quê nhà Hàn Quốc. Cuốn sách xoay quanh hành trình trưởng thành, lập gia đình, đối mặt với định kiến xã hội của nhân vật Kim Ji Young. Cuộc đời của cô được đánh giá là được xây dựng dựa trên cuộc đời của người phụ nữ Hàn Quốc trong xã hội hiện đại nhưng vẫn còn tư tưởng phong kiến.    Họ Kim là một người rất phổ biến tại Hàn Quốc. Cái tên Ji Young là cái tên được đặt phổ biến cho các bé gái chào đời vào những năm 80. Có thể nói như là cái tên  này đại diện cho thế hệ phụ nữ chào đời trong những ngày tháng Hàn Quốc còn chưa có những luật cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Và cho đến tận ngày nay họ còn phải gánh chịu sự bất bình đẳng giới. Vì vậy khi viết cuốn sách này, Cho Nam Joo không định kể lại cuộc đời của một người phụ nữ mà bà muốn khắc họa cuộc đời của phần đông phụ nữ Hàn Quốc. Cho Nam Joo bộc bạch: Tôi luôn có cảm giác rằng Kim Ji Young đang thực sự sống ở đâu đó. Bởi cô ấy có quá nhiều điểm giống với những người bạn, những người chị và cả tôi. Lúc viết tôi luôn có cảm giác ngột ngạt và thương cảm cho Kim Ji Young. Nhưng tôi biết rõ cô ấy đã lớn lên như vậy, đã sống như vậy, không có cách thay đổi nào khác nên tôi cũng phải viết như vậy.   Những bất công xã hội bắt đầu đổ xuống cuộc đời của mẹ của Kim Ji Young, bà Oh Mi Sook. Thuở thiếu thời, bà Oh Mi Sook phải nghỉ học làm công nhân và dành dụm tiền làm thuê để nuôi những người anh và em trai của mình đi học. Không chỉ có bà mà những người phụ nữ sống ở thời đại đó đều vậy. Họ sẽ phải từ bỏ tương lai của mình chỉ vì họ là phụ nữ. Họ phải dành hết cả công sức của mình để tìm đến những điều kiện tốt đẹp nhất cho những người anh, em trai trong nhà. Sau đó những người em, anh của bà đều có công việc ổn định. Người anh cả của bà làm bác sĩ, em thứ làm cảnh sát và em út làm giáo viên. Nhưng sau đó thì họ cũng dần thành gia lập thất. Họ phải chăm lo cho gia đình của mình và không thể thể báo đáp công ơn của bà Oh Mi Sook nữa. Vì chỉ hết tiểu học nên bà có cuộc sống rất khó khăn. Sau khi bà Oh Mi Sook kết hôn thì bà sinh được hai đứa con gái là Kim Ji Young,  Kim Eun Young và một con trai. Những đứa con gái của bà được đối xử bình đẳng hơn thời của người mẹ. Kim Ji Young và chị gái Kim Eun Young được đến trường, được đi học và hưởng những quyền lợi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã có những sự cải cách mạnh mẽ điểm xóa bỏ sự bất bình đẳng giới. Nhưng điều này chỉ khá hơn so với trước đây nhưng không có nghĩa là xã hội Hàn Quốc đã hoàn toàn bình đẳng nam nữ. Những dấu hiệu của sự không công bằng giữa nam và nữ được khắc họa trong cuốn sách từ gia đình đến xã hội đều vô cùng chân thật. Lúc còn nhỏ chị em Kim Ji Young luôn phải dành những thứ tốt đẹp nhất cho em trai của mình. Ăn cơm cũng phải để em trai ăn trước, cặp sách đi học của em trai luôn lành lặn còn của hai chị em cô thì lại là đồ cũ. Tương lai và kỳ vọng của cả gia đình điều đặt lên vai của người con trai. Có lẽ tư tưởng "Con gái gả đi rồi như nước đã đổ đi" khó mà thay đổi được trong xã hội Hàn Quốc hiện đại. Ở trường học theo tỉ lệ lớp trưởng là nam chiếm tối đa. Dù các giáo viên ở đây có thói quen chọn ra mỗi lớp vài bạn nữ để chạy việc vì họ cảm thấy nữ sinh chăm chỉ hơn nhưng họ không chọn lớp trưởng là nữ. Trong những năm sau nhờ chính sách mới mà tư duy xã hội thay đổi, tỉ lệ lớp trưởng là nữ đã tăng dần. Những con số trong này vẫn chiếm rất ít so với tỷ lệ lớp trưởng là nam. Nhưng có lẽ những sự phân biệt ấy là rất là quá nhỏ so với những thái độ của mọi người khi những nữ sinh bị quấy rối. Hàng loạt những vụ quấy rối nữ sinh đến từ những kẻ lạ mặt thường xuyên đi lại quanh trường. Khi ấy những nữ sinh đã dũng cảm đứng lên tố giác những kẻ quấy rối thì lại phải chấp nhận những ánh mắt kỳ thị. Chỉ vì các cô bé đã dám nói lên những tội ác mà những người xấu đã làm mà bị xem là không biết xấu hổ. Vì cái tâm lý "tốt khoe xấu che" ấy mà những quyền lợi cơ bản nhất của những nữ sinh đã bị xâm phạm nghiêm trọng. Bất bình đẳng giới ảnh hưởng đến tương lai và cơ hội việc làm của phụ nữ Hàn Quốc Khác với Việt Nam, ở Hàn Quốc cơ hội việc làm không hề bình đẳng giữa nam và nữ. Phụ nữ có rất ít cơ hội việc làm, nhất là những công việc có chế độ đãi ngộ tốt. Lý do mà các doanh nghiệp đưa ra nhằm giải thích cho việc này là do người đàn ông có thể đảm đương được công việc tốt hơn. Họ không phải lo lắng về việc gia đình, chăm sóc con, chăm sóc cha mẹ già, họ không giống như phụ nữ. Phụ nữ sau khi lấy chồng phải chăm sóc cho cha mẹ chồng. Khi họ mang thai cần thêm chế độ đãi ngộ, họ phải nghỉ một khoảng thời gian để nuôi con. Khi con ra đời họ phải dành hết thời gian của mình để chăm sóc con nhỏ. Phần nhiều doanh nghiệp cho rằng phụ nữ có nhiều thứ phải lo nên họ không thể tập trung cho công việc được. Một lí do cũng quan trọng không kém là vì tư tưởng người đàn ông có năng lực, trí lực hơn người phụ nữ vẫn còn nặng trong xã hội xứ sở kim chi.   Trên một trang web thông tin tuyển dụng đã đưa ra kết quả điều tra tỷ lệ tuyển dụng lao động nữ khoảng 100 doanh nghiệp thì tỷ lệ này chỉ ở mức 29,6%[…] người ta vẫn nói rằng tỷ lệ nữ như vậy là khá cao! Trong 50 tập đoàn lớn thì có đến 44% trả lời rằng “nếu ứng viên có điều kiện tương tự nhau thì sẽ chọn ứng viên nam” và không một ai trả lời rằng “sẽ chọn ứng viên nữ”. Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 đã khắc họa rõ nét hình ảnh của người phụ nữ Hàn Quốc trong công việc. Kim Ji Young đã từng rất chật vật sau khi ra trường vì không tìm được việc làm. Trong một lần đậu vòng phỏng vấn cô đã rất vui vẻ và hy vọng. Nhưng sự hy vọng của cô đã nhanh chóng tan biến bởi câu hỏi tình huống mà bên công ty đưa ra: Cuối cùng một giám đốc nam tầm tuổi trung niên ngồi ở vị trí xa nhất nãy giờ chỉ gật đầu mà không nói gì đặt ra một câu hỏi: "Giả sử các bạn tới tham dự một buổi gặp đối tác. Tìm đối tác của các bạn lại cứ liên tục, như thế này, đụng chạm thân thể bạn. Ví dụ như khoác vai, hoặc sờ đùi. Những việc đại loại như thế. Các bạn hiểu chứ hả? Trong trường hợp như vậy các bạn sẽ làm thế nào? Bắt đầu từ Kim Ji Young đi." Câu hỏi này dành cho ba ứng viên cùng tham gia phỏng vấn là Kim Ji Young và hai ứng viên nữ khác. Cả ba người đều có phong thái lịch sự, nhã nhặn và có trình độ học vấn tốt. Vì trình độ ngang nhau nên ai được nhận vào công ty sẽ quyết định bởi câu trả lời tình huống này. Đây là một câu hỏi phản ánh tình trạng chung của nạn xem thường phụ nữ tại Hàn Quốc. Cả ba ứng viên đều đưa ra những câu trả lời khác nhau. Một ứng viên nữ thì nói rằng sẽ xem lại bản thân ăn mặc có không phải phép không và xin lỗi người quấy rối mình để bảo toàn công việc. Một ứng viên khác thì quyết liệt hơn nói rằng sẽ không tha cho hành vi quấy rối của người đối tác, sẽ truy tố đến cùng dù cho có bị đuổi việc. Còn Kim Ji Young thì nói rằng cô sẽ viện cớ đi vệ sinh hoặc lấy tài liệu để tránh thái độ của đối tác vừa không làm tổn hại đến lợi ích của công ty. Không lâu sau thì Kim Ji Young nhận được kết quả là mình đã trượt phỏng vấn. Cô cứ nghĩ rằng ứng viên đã kiên quyết từ chối hành động quấy rối sẽ là người được tuyển vào công ty. Vì cô ứng viên này quá dũng cảm. Tuy nhiên khi cô gọi điện hỏi nhân viên trong công ty rằng ai là người đậu thì câu trả lời là có ba đều trượt. Trong thực tế thì cách tốt nhất để giải quyết câu hỏi tình huống ấy chính là không tuyển nhân viên nữ. Như vậy sẽ không xảy ra những vụ quấy rối nhân viên nữ của đối tác. Từ đó giảm tối đa thiệt hại của công ty. Cuốn sách bán được hơn 1 triệu bảng làm sống dậy hashtag #metoo Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 bắt đầu nổi tiếng tại Hàn Quốc sau những vụ bê bối về những đường dây phát tán những đoạn clip nhạy cảm về phụ nữ của những nghệ sĩ nổi tiếng hàng đầu. Cùng với đó là việc phát hiện hàng trăm trang web đen quay lén phụ nữ. Điều này được thể hiện rõ trong cuốn sách khi nhà vệ sinh nữ trong công ty cũ của Kim Ji Young bị gắn camera quay lén và phát sáng lên mạng thì những người đầu tiên biết việc này đã không tố giác. Đó chính là những nam nhân viên đã xem những tấm ảnh này. Họ lén lút chuyền tay nhau xem mà không có một chút cảm giác tội lỗi. Sau khi sự việc được phơi bày, những nhân viên nữ đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Dù cố gắng vui vẻ khi đến công ty nhưng lúc nào cũng có cảm giác như sắp phát điên. Chỉ cần chạm vào một người không quen biết cũng có cảm giác như người ta đã xem ảnh của mình, ai đó cười thì nghĩ họ đang cười mỉa mình, lúc nào cũng thấy như tất cả mọi người đều biết mình. Các nhân viên nữ đa số đều phải uống thuốc, gặp bác sĩ tâm lý. Còn nữa, Jung Un vì uống thuốc ngủ mà phải cấp cứu đấy. Thậm chí có người đã nghỉ việc vì không chấp nhận được những sự sỉ nhục và xem thường ngầm ấy. Có lẽ khó tin nhưng một đất nước có nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc lại luôn tồn tại hàng trăm web đen có nội dung quấy rối phụ nữ. Và số lượng người xem những trang web này không hề nhỏ. Sự bất bình đẳng nam nữ này đã đẩy nhiều người phụ nữ vào cái chết. Sự việc rúng động gần đây là cái chết của nữ thần tượng Sulli. Sulli đã tự sát tại nhà riêng vì căn bệnh trầm cảm kéo dài. Nổi tiếng là một nghệ sĩ xinh đẹp nhưng Sulli thường xuyên bị cộng đồng mạng chỉ trích vì phong cách ăn mặc của mình. Thậm chí sau khi cô tự sát thì người đồng nghiệp Bang Min Ah đã lòng tỏ tiếc thương trên mạng thì lại bị một số người dùng tấn công bằng lời lẽ thô bỉ trên internet. Bên cạnh sự tiếc thương vô bờ thì sự ra đi tuyệt vọng của Sulli cũng khiến một bộ phận người mang tưởng phong kiến cảm thấy không có gì để tiếc. Sáu tháng sau ngày Sulli qua đời, bạn thân của cô là Goo Hara đã tự sát vì những sự xem thường phụ nữ và bất bình đẳng giới phải chịu đựng. Có thể thấy sự bất bình đẳng nam nữ đã gây ra những hậu quả tiêu cực. Đồng thời những định kiến ấy đã người phụ nữ đến bước đường cùng. Có thể thấy cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 không chỉ được viết ra để mở mang kiến thức như những cuốn sách khác. Cuốn sách được sinh ra để thức tỉnh và thay đổi xã hội. Kim Ji Young Sinh Năm 1982 đã bán được hơn 1 triệu bản tại Hàn Quốc và rất nổi tiếng tại Nhật Bản, Đài Loan và Việt Nam. Cuốn sách nổi lên và làm sống dậy trào lưu #Metoo rúng động Hàn Quốc. Đó là trào lưu "Tôi cũng vậy", "Tôi đã từng sống và bị quấy rối như vậy". Phụ nữ đã không còn e dè mà dũng cảm lên tiếng tố cáo những tội ác. Phụ nữ đã chịu đựng quá nhiều bất công nhưng từ nay sẽ không bao giờ yếu đuối. Càng không bao giờ từ bỏ ước mơ và tương lai của mình. Tấm bản đồ thế giới trong phòng của chị em Kim Ji Young chính là biểu tượng tươi đẹp cho tương lai của những người phụ nữ. Dẫu trải qua bao sóng gió họ vẫn luôn lạc quan và tin rằng bản thân sẽ vượt qua tất cả. Họ tin rằng sẽ vượt qua những định kiến khắc nghiệt để xây dựng lên ước mơ bằng chính đôi tay của mình.   Một vài miếng sticker hình trái tim màu xanh lá cây và xanh dương được dán lên tấm bản đồ cũ kỹ với những vệt gấp giấy. Những miếng sticker đó để biểu hiện vị trí những đất nước mà Kim Eun Young muốn đi, cô cũng đưa cho cả Kim Ji Young để dán trang trí sổ nhật ký nữa. Kể từ khi cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 xuất hiện thì Hàn Quốc nổi lên trào lưu cắt tóc ngắn và để mặt mộc. Họ sẽ không để bất cứ ai đánh giá mình dựa trên vẻ bề ngoài. Phụ nữ hiện đại Hàn Quốc không cần phải ép mình xinh đẹp bằng cách phẫu thuật thẩm mỹ hay trang điểm. Điều này đi ngược lại so với trước đây. Ở Hàn Quốc, phụ nữ không xinh đẹp mà không phẫu thuật thẩm mỹ thì khó mà xin được việc làm. Bất chấp định kiến họ sẽ luôn đấu tranh, vì họ tin rằng có một ngày không xa người phụ nữ trong xã hội Hàn Quốc sẽ được đối xử một cách công bằng và họ sẽ tìm được hạnh phúc. Cuốn sách Kim Ji Young Sinh Năm 1982 của Cho Nam Joo đã làm cảm động biết bao trái tim của những người ủng hộ xã hội công bằng và bình đẳng. Cuốn sách đã góp phần truyền động lực sống mạnh mẽ cho những người phụ nữ bị đối xử bất công ở xứ kim chi. Tìm ẩn trong từng trang sách ấy luôn là lòng tin về tương lai tươi đẹp hơn sẽ đến với họ vào một ngày không xa. Review bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn đón đọc Kim Ji Young, Sinh Năm 1982 của tác giả  Cho Nam Joo & Dương Thanh Hoài (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngày Đẹp Hơn Sẽ Tới - Chetan Bhagat
Ngày đẹp hơn sẽ tới là câu chuyện kể về hai chàng trai chơi thân với nhau từ thuở bé. Gopal – luôn ám ảnh về trình độ học vấn và xuất thân nghèo hèn – muốn sử dụng đầu óc để kiếm tiền. Raghav – một trí thức trẻ tài năng, đầy hoài bão – lại muốn sử dụng nó để tạo ra cuộc cách mạng thay đổi cả đất nước. Và, cả hai cùng yêu Aarti – cô gái trong sáng, lạc quan, giàu tình cảm. Giống như Ba chàng ngốc, đây cũng là câu chuyện về tình yêu và những vấn đề của những người trẻ tuổi, nhưng khác với Ba chàng ngốc lấy sự hài hước làm chủ đạo, Ngày đẹp hơn sẽ tới lại là cách nhìn khác về tuổi trẻ với chiều sâu, nhiều dằn vặt, phản tỉnh và một mối tình đầu có lẽ sẽ khắc khoải đến cuối đời. Đây là một trong những cuốn sách tôi đọc nhanh nhất –  trong một buối sáng lười biếng và thời tiết ảm đạm. Sách dễ đọc thường ít giá trị nhưng cuốn sách này là ngoại lệ. Nhìn người ngẫm ta. *** Chetan Bhagat là nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Ấn. Là một người luôn tâm huyết với các chủ đề về giới trẻ, về các vấn đề phát triển đất nước. Các cuốn sách của anh luôn là best seller và được chuyển thành nhiều bộ phim lớn của Bollywood. Bộ phim Ba chàng ngốc – là một phim điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm hư cấu nổi tiếng “Five Point Someone” của tác giả Chetan Bhagat – đã làm say đắm cho biết bao người trẻ tuổi và những người tâm huyết với những sự thay đổi mang tính tích cực. Tạp chi Time đã nhận xét tinh tế về Chetan Bhaquat: “Một  số nhà văn thành công trong việc biểu lộ tâm tư, số khác thành công trong việc bày tỏ quan điểm. Chetan Bhaquat làm được cả hai.” Một số tác phẩm của tác giả Chetan Bhagat được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Ba Chàng ngốc - Chetan Bhagat Ba Sai Lầm Của Đời Tôi - Chetan Bhagat Khi Yêu Cần Nhiều Dũng Cảm - Chetan Bhagat Ngày Đẹp Hơn Sẽ Tới .... Mời các bạn đón đọc Ngày Đẹp Hơn Sẽ Tới của tác giả Chetan Bhagat.
Manon Lescaut - Abbe Prevost
Đời văn của linh mục Prévost thật khác thường: người đương thời từng say mê chuyền tay nhau đọc những pho tiểu thuyết bề thế của Prévost, chăm chú lắng nghe những bài diễn giảng của ông. Nhưng đến đầu thế kỷ XIX, ánh hào quang của những áng văn đó đã lu mờ đi, những bài diễn giảng kia không còn hợp với khẩu vị của công chúng thời nay nữa. Và bản thân tên tuổi của Prévost chắc hẳn rồi cũng sẽ mai một, nếu ông không để lại tập Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô. Thiên truyện tuy chiếm một chỗ đứng hết sức nhỏ nhoi trong toàn bộ cái di sản văn chương khá đồ sộ của nhà văn, nhưng nó đã mang lại cho Prévost một vinh quang thực sự bất tử và đưa ông lên hàng những đại biểu lớn nhất của văn chương thế giới. Antoine Francois Prévost sinh ngày mồng 1 tháng Tư năm 1697 tại thành Eđen (tỉnh Arthur) trong một gia đình tư sản rất được trọng vọng. Hồi bé, cậu học tại quê nhà, trong một trường sơ học của dòng Jésuistes. Bước sang tuổi thiếu niên, Prévost đã được bố mẹ thu xếp để cậu con sẵn sàng dấn thân vào con đường phụng sự Chúa. Vừa chớm đến tuổi trưởng thành, năm 16 tuổi, ông đã là sinh đồ của một chủng viện dòng Jésuistes ở Paris. Tại đây, người ta đã nhanh chóng nhận ra những khả năng xuất sắc của chàng trai, nên chỉ hai năm sau (1715), Prévost đã được gửi tới thị trấn La Flèche, theo học tại một trong những cơ sở đào tạo lớn nhất thời bấy giờ – trường Henri IV. Theo chương trình học thì tại đây, Prévost sẽ phải nghiền ngẫm giáo lý, triết học và các khoa học nhân văn khác. Nhưng mới học chưa đầy một năm, chẳng rõ vì lý do gì, ông đã từ giã La Flèche, ra đi. Từ đó, Prévost bắt đầu dấn thân vào không biết cơ man nào là những cuộc phiêu lưu, để cho miệng thế đã không ngớt lời dèm pha, thêu dệt nên đủ mọi thứ chuyện trong suốt nhiều năm sau đó. Các nhà văn học sử đã phải tốn khá nhiều giấy mực mới đẩy lùi được những lời đơm đặt nhảm nhí, bôi lọ tiểu sử của Prévost. Nhưng chỉ cần tính riêng những điều không thể chối cãi được trong đời tư của nhà văn, ta cũng đủ thấy ông đã phải sống một cuộc đời hết sức phức tạp, đầy sóng gió và mâu thuẫn, nhất là trong những năm còn đang độ trẻ trung. Rời La Flèche, Prévost sung ngay vào quân đội, làm một anh lính thường. Tòng ngũ chưa đầy hai năm, ông lại muốn về lại với cuộc sống tu hành (năm 1719), nhưng đã bị cự tuyệt. Prévost tức tốc sang ngay La Mã, hy vọng rằng sẽ cạy cục được các đấng bề trên của dòng Jésuistes cho mình được quyền tái nhập, để tiếp tục học hành. Nhưng giữa đường, chẳng may ông thọ bệnh. Một viên sĩ quan đã đứng ra giúp đỡ Prévost, đưa ông vào nhà thương và lo liệu cơm nước, thuốc thang. Nhưng chẳng bao lâu sau ông mới vỡ nhẽ ra rằng viên sĩ quan nọ chẳng phải chỉ vì nhân từ mà cưu mang ông; trong thâm tâm, gã còn nuôi một ý định khác: dụ dỗ chàng trai quay lại với cuộc đời binh nghiệp. Các khoản chi phí ông ta bỏ ra cho Prévost, chẳng qua chỉ như là món tiền ứng trước để ít nữa sẽ khấu vào đồng lương chú lính trẻ. Bởi thế, gã buộc Prévost phải tiếp tục tòng ngũ như trước. Để khỏi tái đăng bất đắc đĩ, Prévost bỏ sang Hà Lan. Được ít lâu, ông lại quay về quê, sống với gia đình. Có lẽ đây chính là thời kỳ nhà văn phải nếm trải cuộc phiêu lưu, tương tự như cuộc phiêu lưu tả trong thiên truyện nổi tiếng sau này. Cũng giống như nhân vật chính cuốn truyện, Prévost đã nhất quyết đi theo người tình mình yêu say đắm, đang bị cảnh sát bắt giữ, nhưng giữa đường thì lăn ra ốm, không còn kịp theo chân đám tù nhân kia, và từ đó mãi mãi mất hút tăm tích người yêu. Đau khổ và tuyệt vọng, Prévost bèn tìm cách lánh đời, và ông lại quay về với kinh bổn, nhưng lần này không phải trong dòng tu cũ, mà của dòng Bénédictin, vốn nổi danh với những trước tác khoa học, nhất là sử học nói riêng, Sau một năm thụ huấn, Prévost làm lễ tuyên thệ (1721). Nhưng ông không sao kham nổi nếp sống câu thúc giữa bốn bức tường âm u, và lòng vẫn không nguôi nhớ nhung cảnh sống phóng khoáng ngày nào. Quan hệ giữa ông với các vị chức sắc cai quản dòng tu cứ trở nên ngày một rắc rối dần. Bởi thế, chỉ trong vòng bảy năm thôi (1721-1728), Prévost đã phải tám lần thay đổi nơi tu luyện. Đó chính là thời kỳ Prévost bắt đầu lao vào sáng tác. Tại các trai phòng của tu viện Blanc-Manto và Saint-Germain des Prés, ông đã hoàn thành bốn tập đầu bộ Ký sự của một trang quý tộc lánh đời, thiên tiểu thuyết đã được coi là tác phẩm đã làm rạng danh cho tác giả. Hai tập đầu thiên truyện ra mắt công chúng vào đầu năm 1728. Sự xuất hiện của hai tập tiếp theo, tập III và tập IV, trùng với thời kỳ xảy ra một bước ngoặt ghê gớm trong đời nhà văn: ông bí mật trốn khỏi tu viện, lên đường về Paris. Dòng tu Bénédictin mưu toan ỉm đi vụ xì-căng-đan đó, thuyết phục ông quay về, nhưng vô hiệu. Bởi thế, họ đã phải nhờ đến viên cục trưởng cảnh sát kinh thành can thiệp, yêu cầu bắt giữ vị tu sĩ bỏ trốn. Ngày 6 tháng Một năm 1728, cảnh sát kinh thành ký lệnh bắt giam. Nhưng đáng nực cười là trong đơn kiện, dòng tu Bénédictin đã ghi rõ ràng kẻ bị truy nã là tác giả bộ Ký sự của một trang quý tộc - thiên truyện đang làm xôn xao dư luận Paris lác bấy giờ. Chỉ mươi hôm sau, ngày 19 tháng Một, kiểm duyệt cũng đã ký lệnh cho phép in tập III và tập IV Ký sự của một trang quý tộc. Hay tin cửa ngục đang mở rộng để chờ mình, Prévost hối hả rời quê nhà, sang Anh. Từ đó lại bắt đầu một chặng đường luân lạc mới là đồng thời cũng là giai đoạn hoạt động sáng tác sôi nổi nhất của nhà văn. Prévost tha hương từ năm 1729 đến hết năm 1734. Có thời, ông đã phải làm gia sư cho một quý tộc Anh, nhưng phần lớn thời giờ và tâm huyết lại dành cho viết lách. Năm 1751, Prévost bỏ sang Hà Lan. Trong chuyến đi này, chắc hẳn nhà văn đã mang sẵn trong hành trang Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, và định đưa cho các nhà in ở Amsterđam xuất bản, Tuy nhiên, ngây ngất với những thành công tuyệt đỉnh của bộ Ký sự, các nhà kinh doanh sách Hà Lan chỉ muốn nhận từ tay ông những tập tiếp theo của bộ tiểu thuyết đó. Vì túng bấn, Prévost phải bắt tay viết tiếp hai tập nữa, mặc dù Ký sự hoàn toàn chẳng cần phụ thêm một dòng tục biên nào. Do nhu cầu thương mại, bộ tiểu thuyết đã được gắn thêm hai tập mới trong đó có một tập là Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, mặc dù chính tác giả cũng đã phải thú thực trong Lời tựa ở đầu sách rằng câu chuyện tả ở đây chẳng hề liên quan gì với những biến cố đã thuật lại trong Ký sự. Như thế là, thiên truyện nhỏ khiến cho danh tiếng của linh mục Prévost trở nên bất tử đã ra mắt độc giả lần đầu ngay từ năm 1751, với tư cách là phụ lục của bộ Ký sự của một trang quý tộc mà ngày nay đã hoàn toàn bị lãng quên. Các sáng tác của Prévost sở dĩ được nhiều người hâm mộ trước hết là do tính hấp dẫn của chúng. Các tác phẩm của ông hầu như trang nào cũng vẽ lên một biến cố rất đỗi lôi cuốn – khi thì cảnh bắt cóc hoặc giết người, khi thì một cuộc truy nã, và đâu đâu cũng đầy rẫy những sự trùng khớp hết sức tình cờ, hành động tả ở đây phần nhiều đều diễn ra tại những căn nhà ẩm thấp, những lâu đài âm u, những cánh rừng hoang vắng hoặc những xứ sở xa lạ. Trong các nhân vật chính, bao giờ cũng phải có mặt một con “quỷ dữ”, tâm địa hắc ám, hành tích đầy bí ẩn, hiện thân cho cái ác. Người đọc còn bị lôi cuốn bởi những nét mới lạ mà Prévost lồng vào tính cách các nhân vật: tiểu thuyết nào của ông cũng khắc họa những con người tâm can bị thiêu đốt bởi những khát vọng mãnh liệt, có thể nuốt chửng hết thảy mọi thứ trên đời và lí trí không sao cưỡng nổi. Và niềm khát vọng giữ vai trò chủ chốt ở đây phần nhiều đều là những mối tình say đắm. Tình yêu trong các sáng tác của linh mục Prévost là thứ khát vọng tiền định, bản năng, không sức nào kiềm chế nổi, và phần nhiều đều bi thảm – dẫn người ta đến cho tuyệt vọng, chỉ còn biết quyên sinh, lắm khi còn đẩy người ta đến chỗ lao đầu vào những tội ác rùng rợn. Đồng thời, các nhân vật của Prévost trước sau vẫn coi tình yêu là một thứ hạnh phúc cao cả, mà chỉ những ai có diễm phúc lớn may ra mới được nếm trải; và chính vì diễm phúc đó, người ta dám sẵn sàng vứt bỏ hết thảy mọi thứ. Với tư cách là nhà tâm lý học, Prévost vốn chịu ảnh hưởng của những kịch tác gia phái cổ điển là Corneille và Racine, tác giả của những vở bi kịch mà cái giữ vai trò chủ đạo bao giờ cũng là những khát vọng không sao kìm chế nổi. Nhưng nếu những tình cảm được khắc họa trong các tác phẩm đó đều là những tình cảm trừu tượng và là số phận của những đấng anh hùng huyền thoại hoặc những nhân vật lịch sử phi phàm (các bậc vua chúa, các vị tướng soái), thì trong các thiên tiểu thuyết của Prévost, những khát vọng kia đều bùng cháy lên trong tâm can những kẻ địa vị xã hội khiêm nhường hơn; và chính nhờ vậy mà phẩm giá của họ đều vượt lên trên cái mức bình thường. Bởi thế, khát vọng nào của các nhân vật do Prévost tạo dựng cũng đều xung khắc gay gắt với những nhân tố thông thường trong cuộc sống của người đời – điều kiện vật chất, nếp nghĩ và nếp sống của gia đình, những định kiến của thế tục, v.v… Năm 1734, Prévost mới được quyền về lại quê hương: Giáo hoàng gia ân cho nhà văn được tiếp tục thử thách đức tin tại các tu viện như trước. Năm 1736, một đại quý tộc có quyền hành nhất nước Pháp thời kỳ ấy là hoàng thân Conti đã mời Prévost sung vào đoàn tùy tùng của ông ta, giữ chức linh mục trong hoàng cung, Prévost nhận lời ngay, vì đây là một chức hữu danh vô thực – không phải gánh vác một trọng trách nào, mà cũng chẳng được hưởng một thứ bổng lộc nào – nhưng lại cho phép ông được sống ở bên ngoài tu viện, danh tiếng lừng lẫy của nhà văn lớn nhất đương thời đã khiến giới thượng lưu và các xa lông văn chương mở rộng cửa đón ông, Prévost lại có thêm nhiều bạn mới là nhiều người hâm mộ mới. Tuy nhiên, cũng chính vào thời kỳ đó, Prévost đã lại phải lìa bỏ quê nhà lần nữa. Số là vào những năm đó, giới thượng lưu Pháp vốn sính một hình thức thông tin lạ đời: xuất bản các tạp chí viết tay, loan truyền đủ mọi thứ tin tức, kể cả những tin đồn thất thiệt, lẫn những chuyện đơm đặt hồ độ, chẳng đếm xỉa gì đến sự thật, của các vương tôn, công tử nhàn nhã. Đám thư lại có hoa tay phụ họa vào, ngồi nắn nót chép những trang tạp chí nọ để gửi đến đám khách hàng đặt mua. Prévost đã quá khinh suất, bằng lòng giúp đỡ việc biên tập về văn phong cho một trong những tạp chí loại đó. Một vị quý tộc có thân thế bất đồ đã bị tờ tạp chí này vu khống, ông ta bèn ra lệnh bắt giam chủ bút. Các nhà chức trách bắt đầu mở cuộc điều tra. Đến khi đó biết được rằng Prévost có nhúng tay vào việc biên tập, thì viên cục trưởng cảnh sát liền yêu cầu ông phải rời ngay nước Pháp. Prévost lại phải lưu lạc ở chốn đất khách quê người một năm rưỡi nữa, lúc ở Bỉ, lúc ở Frankfurt. Mãi đến lúc về lại Pháp, ông mới bắt đầu được hưởng một cuộc sống yên hàn, và danh tiếng ông mới đạt đến đỉnh cao chói lọi. Từ đó, Prévost mới được biết thế nào là sự thư thái tâm hồn và sự no đủ về vật chất. Prévost vẫn không rời bỏ sự nghiệp sáng tác cho đến tận giây phút trút hơi thở cuối cùng. Ông mất ngày 25 tháng Một năm 1763 vì vỡ tim trong một lần dạo chơi quanh điện Chanteille, ở ngoại ô Paris. *** Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, như đã nói, ra mắt lần đầu vào năm 1731 ở Hà Lan với tư cách là phụ lục của tập VII bộ Ký sự của một trang quý tộc. Ở Pháp, kiệt tác này không được đánh giá cao ngay từ đầu, thành ra mãi đến năm 1733 mới được ấn hành. Tờ “Báo của cung đình và kinh thành Paris”, số ra ngày 21 tháng sáu năm 1733, đã đăng một mẩu tin như sau: “Mới đây, tập VII bộ Ký sự của một trang quý tộc đã ra mắt công chúng. Thiên truyện được viết tài tình và lôi cuốn đến mức ngay cả những kẻ bình thường cũng phải mủi lòng cho thân phận của một gã bịp bợm và một ả buôn phấn bán hương”. Nhưng chỉ ít lâu sau, các nhà chức trách kinh đô đã phải ký lệnh thu hồi và thiêu hủy quyển sách. Trong hồ sơ lưu trữ hiện còn giữ được biên bản tịch thu năm bản truyện của một chủ hiệu sách ở kinh thành và hai bản nữa của một chủ hiệu khác. Việc tịch thu sách trên thị trường dĩ nhiên không hề làm lu mờ danh tiếng của thiên truyện, và người đương thời vẫn háo hức chuyền tay nhau các ấn bản do nhiều nhà kinh doanh sách Hà Lan in ra, đang ồ ạt tràn vào đất Pháp tác bấy giờ. Việc cấm lưu hành Truyện hiệp sĩ đơ Griơ, coi đây là tác phẩm vô đạo đức, giữa lúc phong hóa suy đồi chưa từng thấy, giờ đây xem chừng rất khó hiểu. Nhưng có lẽ chính sự băng hoại đạo đức đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng không đánh giá đúng và không hiểu hết tư tưởng chính mà tác giả gửi gắm vào tác phẩm: người đương thời chỉ nhìn thấy ở đây câu chuyện về những cuộc phiêu lưu suồng sã, rẻ tiền của đôi trai gái hư thân mất nết. Đây là cách lý giải về nguyên nhân khiến người đương thời không đánh giá đúng thiên truyện của Prévost do chính A.I. Gertxen đưa ra. Sự cấm đoán đó đã thôi thúc Prévost đứng lên bảo vệ tác phẩm của chính ông trong tờ tạp chí “Đồng tình và phản đối” do bản thân nhà văn sáng lập và xuất bản từ năm 1735 – 1740. Prévost đã cố xoa dịu cái ấn tượng mạnh mẽ do tác phẩm gây ra và cải chính những lời quở trách mình là đã sáng tác ra một quyển sách “vô đạo đức”. “Công chúng đã đọc một cách say sưa tập cuối bộ Ký sự của một trang quý tộc, có in câu chuyện về cuộc phiêu lưu của hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô. Chúng tôi coi đây là một chàng trai có những thiên bẩm rực rỡ và sức lôi cuốn bất tận, say mê đến mức rồ dại một cô gái trẻ, vừa rất yêu chàng, nhưng vừa thích sống một cuộc đời phù hoa, trăng gió, hơn là đeo đuổi những hạnh phúc cao cả, có thể giúp cho người yêu bộc lộ hết những tài năng trời cho và làm rạng danh cho dòng dõi cao quý của chính chàng. Trước mắt chúng ta là một kẻ nô lệ bất hạnh của tình yêu; tuy nhìn thấy trước được mọi nỗi khốn đốn đang chờ mình, nhưng chàng trai không còn đủ sức để lẩn trốn chúng, đẩy lùi chúng; chàng đã hiên ngang đứng ra hứng chịu mọi nỗi khốn đốn ấy, mặc cho chúng giày vò mình, hoàn toàn chẳng đếm xỉa gì đến những phương sách khả dĩ giúp mình giành được một chỗ đứng dễ chịu hơn; tóm tại, đó là trang nam nhi vừa hư hỏng, vừa đạo đức, luôn đeo đuổi những ý định tốt lành, nhưng lại hành động một cách xấu xa, nếp cảm nghĩ thì rất đáng quyến rũ, nhưng hành vi thì đáng phỉ báng. Chẳng qua là một tính cách độc đáo. Tính cách của nàng Manông Lexcô lại càng độc đáo hơn. Nàng biết rõ thế nào là phải trái, thậm chí còn rất mực coi trọng lẽ phải, nhưng toàn làm những việc đáng chê trách. Nàng yêu tha thiết hiệp sĩ đơ Griơ, nhưng nỗi thèm khát cảnh giàu sang và hoa lệ đã khiến nàng phản lại những tình cảm của chính mình đối với chàng trai, chạy theo một gã tài chính lắm tiền. Phải làm chủ được một nghệ thuật thế nào mới có thể thu hút nơi cảm tình của độc giả, gợi lên nơi họ sự thông cảm đối với những bất hạnh mà cô gái hư thân mất nết này phải hứng chịu! Tuy cả hai đều là những kẻ hư hỏng, nhưng người ta vẫn thấy thương họ, vì thấy rằng sự hư hỏng ấy chung quy chỉ là hậu quả của sự yếu lòng và si mê; hơn nữa, ta cũng thấy rõ rằng trong thâm tâm, cả hai đều lên án gay gắt hành vi của chính mình và đều thừa nhận rằng cách cư xử như vậy là rất đáng chê trách. Xem thế đủ biết tuy miêu tả cái xấu, nhưng tác giả tuyệt nhiên không đem nó ra mà truyền giảng. Tác giả chỉ vẽ lên ở đây ảnh hưởng của những dục vọng cuồng si, đã khiến cho lý trí trở nên bất lực, khi mà con người bị cầm tù bởi nỗi bất hạnh là đem phó mặc lý trí của bản thân cho dục vọng thao túng…” Thiên truyện bị cấm lưu hành suốt hai chục năm dài đằng đẵng. Mãi đến năm 1735 mới lại được in ra, lần này thành hai tập mỏng, kèm theo không biết bao nhiêu sửa chữa, thậm chí còn đưa vào một tình tiết mới, tuy không hề làm thay đổi nội dung chính của câu chuyện. Từ đấy trở đi, Manông Lexcô mới giành được một chỗ đứng vững chãi trong các sáng tác xuất sắc nhất của văn chương thế giới xưa nay. *** Đề tài được Prévost luận giải trong Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô là thứ tình yêu tiền định, đủ sức nhấn chìm hết thảy mọi thứ ở đời. Đây là đề tài, như đã nói, vốn chiếm vị trí chủ chốt trong sáng tác của nhà văn. Nhưng khác với những bộ tiểu thuyết trường thiên của Prévost, cốt truyện vốn hết sức phức tạp và lắt léo, Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông là một áng văn bố cục cân đối và hài hóa khác thường. Nét đặc sắc ấy sở dĩ có được chắc hẳn, chính là do tính chất tự thuật của nó: cái bi kịch làm chất liệu của thiên truyện cũng chính là tấn bi kịch đầy xúc động mà tác giả đã nếm trải với tất cả tâm hồn mình một cách đủ sâu sắc, đến mức chẳng cần phải thêm thắt bất cứ một suy tưởng hay một biến cố hư cấu nào. Prévost đã dựng lên được một hình tượng về một “cô gái sa đọa”, có sức lôi cuốn mãnh liệt đến mức gần như lấn át hết hình ảnh của chàng hiệp sĩ chung tình của chính mình trong cảm thức của người đọc. Một chứng cứ, thoạt nhìn rất nhỏ nhặt, nhưng đầy sức thuyết phục, là: ngay từ đầu thế kỷ trước, các nhà kinh doanh sách đã tùy tiện “đổi” lại nhan đề tập sách từ Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô thành Truyện nàng Manông Lexcô và hiệp sĩ đơ Griơ; ít lâu sau, nữ nhân vật đã lấn át hẳn tên tuổi của chàng hiệp sĩ ở bìa sách: tên truyện, bây giờ chỉ còn vẻn vẹn ba chữ: Nàng Manông Lexcô. Mãi gần đây, các nhà xuất bản ở Pháp mới trở lại với cái tên cũ, do chính tác giả đặt cho quyển truyện, việc đảo ngược họ tên hai nhân vật tưởng chừng rất nhỏ nhặt, nhưng thực ra đã động chạm đến một vấn đề lớn: ai là nhân vật chính và tấn bi kịch, mà nhà văn muốn thuật lại với chúng ta trong tác phẩm, là bi kịch của người nào, và dĩ nhiên chẳng phải vô cớ mà Prévost đã để tên hiệp sĩ đơ Griơ lên ở đầu; chính chàng, hiệp sĩ đơ Griơ, chứ không phải Manông Lexcô, mới là nhân vật chính của tấn bi kịch trong truyện. Hơn nữa, mối xung đột được Prévost lồng vào các biến cố là ở đây tại chính là sự xung khắc gay gắt giữa hai tính cách: hiệp sĩ đơ Griơ và người con gái mà chàng say đắm yêu. Ví thử đơ Griơ cũng vô đạo đức như Manông thì cuộc hội ngộ giữa hai người chắc chắn sẽ chẳng kéo theo một tấn bi kịch nào: vì gắn bó số phận mình với Manông, chàng sẽ hóa thành một gã ma-cô tốt số; và với cái vẻ ngoài đầy quyến rũ của Manông, cuộc sống của họ rồi đây chắc hẳn sẽ trôi qua một cách êm ả trong no đủ, chẳng còn phải bận bịu, lo toan gì nữa… Vả chăng, cả người anh của Manông, lẫn bản thân nàng đều đã nhắc nhở hiệp sĩ nên đi theo chính con đường ấy. Nhưng toàn bộ sự tình chính là ở chỗ đơ Griơ và Manông là hai tính cách khác hẳn nhau; cả bản chất đạo đức, lẫn diện mạo tinh thần của cả hai đều rất ít có những nét chung. Bi kịch của đơ Griơ chính là ở chỗ chàng không thể chia sẻ với Manông một lý tưởng về tình yêu cao thượng, mà chỉ có nó mới đáp ứng được lòng mong mỏi của chàng; trong khi đó thì toàn bộ tấn bi kịch của Manông chung quy chỉ là sự thiếu thốn những điều kiện sinh hoạt vật chất. Nghe theo sự mách bảo của ý nguyện chính mình, Prévost đã thuật lại câu chuyện qua lời hiệp sĩ. Hình thức tự truyện cho phép nhà văn bộc lộ một cách hết sức sâu sắc và chân thực toàn bộ thế giới bên trong của nhân vật. Tấm lòng cao thượng bẩm sinh và nếp nghĩ quá thiên về lý tưởng đã không cho phép đơ Griơ nhận ra con người thực của Manông, chỉ họa hoằn lắm, và thường là vào lúc vắng bóng người yêu, đần óc chàng mới đủ sáng suốt để cảm nhận sự độc hại về đạo đức của chính mình, và càng nhận rõ được sự suy đốn đó sâu sắc bao nhiêu, chàng càng tin chắc thêm bấy nhiêu sự ươn hèn của bản thân và càng thấy rõ sẽ không còn biết lấy đâu ra sức lực nữa để mà chống trả, vì nghị lực chàng đã tiêu ma đi hết bởi lẽ vướng vào mối tình bất hạnh này. Trung thành với những lý tưởng cao cả của chính mình về tình yêu, hiệp sĩ đã cư xử với Manông như một hiện thân thuần khiết nhất của nữ tính, cần nhớ rằng trong suốt cuốn truyện, đơ Griơ đã không hề đã động lấy một lời về con người thể chất của Manông, về nét mặt của nàng. Đối với chàng, Manông là một thực thể tuyệt đối, hao hàm trong bản thân nó hết thảy mọi sự hoàn thiện. Và với tư cách một hiệp sĩ chân chính, đơ Griơ đã hiến thân cho thần tượng mình ngưỡng mộ hết thảy mọi thứ đang có – tên tuổi, địa vị xã hội, gia đình, bước đường công danh, cuộc sống sung túc; và nếu cần, sẵn sàng hiến luôn cả mạng sống của chính mình. Hình tượng của Manông, xét về các phẩm chất nghệ thuật, là một trong những hình tượng hoàn mỹ nhất của văn chương thế giới. Ở đây, nhà văn đã kết hợp được thành một thể thống nhất hai khía cạnh tương phản gay gắt – vẻ ngoài đầy sức quyến rũ và sự hạn hẹp về thế giới nội tâm của nữ nhân vật – bằng một tài nghệ phi thường đến mức người đọc luôn luôn bị quyền lực của hai tình cảm đối lập nhau chi phối: vừa thán phục và vừa căm giận. Tuy nhiên, cũng đừng quên rằng hình tượng Manông mà chúng ta cảm nhận ở đây là qua lời kể của đơ Griơ – một người thuật chuyện nhiệt thành đến mức khó có ai theo kịp. Đơ Griơ lúc nào cũng không tiếc lời biện hộ cho nàng và chỉ hãn hữu lắm mới cảm nhận được ít nhiều rõ nét những thói hư tật xấu của cô gái, Manông là một phụ nữ mất hết mọi nền nếp đạo lý, là một con người trí lực kém cỏi và tầm nhìn cực kỳ thiển cận, chật hẹp, cho nên sẽ rất lầm lạc, nếu khẳng định rằng cái ngự trị trong thiên truyện là ý niệm “tính người tối đa” (chelovecheskij maksimum). Không cần tuyên bố công khai rằng chủ nghĩa khoái lạc nhất thiết phải là bạn đồng hành cố hữu của thói xem thường các quy phạm đạo đức vẫn được xã hội chấp nhận, ta vẫn có quyền coi việc đánh đồng hình tượng Manông với ý niệm “tính người tối đa” là việc làm quá ư ngây thơ: tính người đâu phải chỉ thu gọn ở những bộ trang phục lộng lẫy, ở những bữa dạ tiệc thịnh soạn, ở những chiếc vé xem hát đắt tiền và những trò tiêu khiển miên man. Cội nguồn tạo dựng, ngay cả khi xét trong phạm vi của nữ giới đơn thuần đi nữa, cũng xa lạ đối với Manông. Ta không tài nào hình dung nổi nàng trong cương vị của một người mẹ, một người vợ, tảo tần nuôi con dạy cái và thu vén việc cửa nhà. Hơn nữa, Manông còn mang sẵn trong con người mình bản năng tàn phá – hễ tiếp cận với nàng, mọi thứ đều lập tức trở nên đồi bại. Ngay cả đám tôi tớ của Manông, do chứng kiến cảnh sống chung của nàng với đơ Griơ, cũng đã tiêm nhiễm phải những thói xấu của chủ: họ cũng lấy cắp tiền nong, tư trang của chủ, y hệt như nàng đã lấy cắp của đám khách làng chơi đến giải buồn. Manông không đủ sức mang lại hạnh phúc cho người nàng yêu: ngay cả khi đã đứng vững chân trên một mảnh đất chắc chắn như mối tình rất mực thủy chung của đơ Griơ đi nữa, nàng vẫn không sao xây dựng được một hạnh phúc lứa đôi bền chặt. Đến như tình cảm máu mủ, ruột rà, nàng cũng hoàn toàn xa lạ, Không như đơ Griơ, lúc nào cũng ngóng chờ được trở về sum họp với cha già, với người em, với người bạn thời thơ ấu, Manông không bao giờ tưởng đến gia đình và đả động đến gia đình. Ngay cả bạn gái, nàng cũng không có. Trong khi đơ Griơ bao giờ cũng canh cánh bên lòng hình ảnh người bạn Tibecgiơ, thậm chí cả khi hai người xa cách, thì Manông hoàn toàn chẳng có một ai để mà kết thân. Nàng không hề dành sẵn đất cho tình bằng hữu. Cần nhận thấy rằng trong thiên truyện của Prévost, từ phía đơ Griơ đã xuất hiện toàn những nhân vật chính diện (cha chàng, em chàng, Tibecgiơ, ông đơ T… – và thậm chí cả viên cai ngục ở nhà tù Priut nữa), thì từ phía Manông chỉ xuất hiệu toàn những nhân vật phản diện (anh nàng, đám khách làng chơi liên tục thế chân nhau). Manông tựa hồ như một thứ ma lực, chỉ lôi cuốn về phía mình toàn những cái xấu, cái ác, cũng rất đáng chú ý là hết thảy những kẻ “ngưỡng mộ” Manông, được nhà văn dựng lại trong truyện, đều chỉ đến với nàng không từ một động cơ nào khác, ngoài những dục vọng đê cấp; họ không hề ngờ vực mảy may nào sự thành công của chính họ, vì ai cũng thừa biết rằng nàng không phải là “món khó gần”. Không hề thấy một gã nào trong số họ đến với nàng là do những tình cảm chân thành thôi thúc. Nói cho công bằng, thì khi sang đến Mỹ, hành vi của Manông có phần ít đáng chê trách hơn lúc còn ở quê nhà. Nhưng vị tất đã có thể xem đây là kết quả của sự ăn năn hay sự cải hóa tự nhiên của tâm tính. Sang đất Mỹ thời ấy là cả một cuộc hành trình dài dằng dặc – hàng trăm cây số rong xé trên đất Pháp, thêm hai tháng trường lênh đênh trên thuyền buồm giữa đại đương, rồi điều kiện sống khắc nghiệt ở Tân thế giới, thân phận hèn kém của kẻ bị lưu đày, và những thiếu thốn, thua thiệt đủ mọi đường – tất cả những cái đó không thể không làm tổn hại đến sức mạnh tinh thần và thể chất của Manông. Sang đến Mỹ, nàng đã hóa thành một con người khác – đau khổ, kiệt sức, tuyệt vọng, từ bỏ hẳn lối sống buông thả và nông nổi ngày nào. Nét nổi bật của thiên truyện là Prévost đã miêu tả một cách tỉ mỉ lạ thường những đặc điểm về sinh hoạt của thời đại. Hành động tả trong truyện diễn ra đúng vào thời kỳ Trùng Hưng (1715 – 1723), khi mà xã hội Pháp say sưa lao vào một lối sống buông thả hoàn toàn, vào những năm chót cùng của triều đại Louis XIV dài lê thê. Cái ngự trị trong chốn cung đình là sự hà khắc và thói đạo đức giả. Không khí đó đã ảnh hưởng rất sâu đậm đến toàn bộ nếp sinh hoạt bên ngoài xã hội, sau ngày Louis XIV chết đi, ngôi báu đã lọt vào tay người chắt là Louis XV (vì cả con, lẫn cháu vua đều đã về chầu Chúa trước tổ phụ), bấy giờ mới chỉ là một cậu bé con thơ dại. Bởi thế, mọi quyền bính trong nước, trên thực tế, đều nằm trong tay quan nhiếp chính Philippe Orléans ham vui và nông nổi. Thần dân trong nước tức thì phản ứng ngay lại với bầu không khí tẻ nhạt, giả dối, từng chiếm địa vị thống trị dưới thời đức vua già lụ khụ ngày xưa, xã hội Pháp tức thì trút một hơi thở phào nhẹ nhõm và lao ngay vào cuộc sống ăn chơi, phè phỡn, cho bõ những ngày dài câu thúc, kiêng khem mới đây. Linh mục Prévost quả đã làm sống lại trong truyện một cách chính xác phi thường nhiều đặc điểm của nếp sống thời ấy. Các sử gia thời Trùng Hưng đều nhất trí thừa nhận rằng những tình tiết nhỏ nhặt, như thể thức lưu đày sang Mỹ những tù nhân bị khép tội phát vãng, địa điểm các sòng bạc và lề thói sát phạt của đám dân máu mê, những thể chế tồn tại trong các sở cẩm, các trại giam, cũng như các tửu điếm, v.v..., nhất nhất đều xác thực. Tác giả không tự cho phép mình bỏ qua bất cứ chi tiết nào từng được chứng kiến tận mắt. Bức tranh do nhà văn vẽ lại về cuộc sống thời bấy giờ quả chân xác đến mức khó lòng quở trách. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những xung đột được Prévost khắc họa ở đây đều chỉ tiêu biểu cho cái thời đại lịch sử ấy, bởi lẽ những trở lực ngăn cản đơ Griơ và Manông vươn đến hạnh phúc không chỉ đơn thuần là ở các thể chế xã hội thời Trùng Hưng, mà chính là ở tính cách của Manông. Nền văn chương thế kỷ XVIII vốn không thiếu gì những sáng tác miêu tả những trở lực do các thiên kiến của giai cấp quý tộc vô tư sản dựng lên trên bước đường đi đến hạnh phúc của các đôi nam thanh nữ tú, chỉ cần đơn cử ra đây một dẫn chứng: trong Nàng Héloise mới, hạnh phúc của Julie và Xanh Pré cũng đã sụp đổ, chung quy chỉ vì Xanh Pré xuất thân từ tầng lớp bình dân. Tấn bi kịch của đơ Griơ có một ngọn nguồn hoàn toàn khác, và không thể đã hết trách nhiệm lên đầu hoàn cảnh xung quanh, nói riêng là người cha già của hiệp sĩ. Ông thân của đơ Griơ chống lại cuộc hôn nhân giữa con mình với Manông không phải vì nàng xuất thân từ tầng lớp dân thường, mà chính vì nàng là một nhân cách suy đốn về đạo đức, không thể mang lại hạnh phúc cho con trai của chính mình, cha của đơ Griơ là một người từng trải, và hiểu được thế nào là nhân tình thế thái. Câu chuyện trốn nhà ra đi của Manông với con trai ông, người nàng mới quen biết qua loa, rồi hoàn cảnh diễn ra cuộc hội ngộ đó, và chắc hẳn chính số phản phúc của Manông, đã tố giác người tình khi vừa hay biết được rằng chàng không lấy đâu ra tiền để chu cấp cho mình – tất cả những sự kiện ấy đã giúp ông thấu hiểu được chân tướng của Manông và có đầy đủ mọi lý lẽ để chống lại cuộc hôn nhân. Không một ông cha hay bà mẹ nào, chẳng riêng gì ở thời Trùng Hưng, mà ở bất cứ thời đại nào khác, lại có thể tán thành với dự tính của một anh con trai mười bảy, do chính mình đứt ruột đẻ ra, đem gắn bó số phận với một cô gái giang hồ, chuyên ăn cắp vặt và toàn ngấm ngâm mưu mô những chuyện làm ăn gian lận. Tìm cách biện hộ cho Manông, xuê xoa hay nhắm mắt làm ngơ với những căn nguyên sâu xa của cái nhân cách tồi tệ đó có nghĩa là hạn chế bớt mức độ gay gắt, tính độc đáo và tầm bao quát của hình tượng ấy, do đó, không đánh giá hết chiều sâu tâm lý và tài nghệ của nhà văn. Người bạn hơn tuổi của đơ Griơ, chàng Tibecgiơ, được tác giả khắc họa như một người bạn mẫu mực, trung thành. Từ lâu rồi, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy: các nhân vật chính diện, nhất là trong văn chương thế kỷ XVIII, bao giờ cũng là những nhân cách kém sắc sảo, “nghèo nàn” hơn các nhân vật phản diện, Nhưng ở Tibecgiơ, đức khôn ngoan và lòng chung thủy trong hành vi tuyệt nhiên không làm hình tượng chàng trở nên mờ nhạt và vô vị. Tibecgiơ tuy kiên định trong đức tin, nhưng vẫn tỏ ra rất mực khoan dung đối với đơ Griơ; chàng rất nghiêm khắc, nhưng đồng thời vẫn rất người, ví thử Tibecgiơ chỉ là một anh chàng cố chấp, ti tiện và thông thái rởm, chỉ biết truyền giảng những bài học luân lý tẻ nhạt đơn thuần, thì không đời nào đơ Griơ lại quý trọng chàng đến thế, Tibecgiơ là người bạn chân tình, ngay thẳng, đầy lòng bao dung, nhưng không bao giờ tha thứ cho bạn về những việc làm nông nổi. Sự trung thành, tận tụy của chàng đã đạt đến đỉnh cao của đức xả thân: để cứu bạn, chàng sẵn sàng hy sinh hết thảy, theo chân bạn sang tận đến Mỹ, mặc đã chuyến đi ấy vào thời Prévost phải kéo đài hàng mấy tháng trường và phải trải qua bao nhọc nhằn, vất vả, thậm chí có khi phải mạo hiểm đến cả tính mạng nữa. Đơ Griơ đánh giá rất cao tình bạn giữa chàng và Tibecgiơ, chàng tin chắc rằng không một thử thách nào có thể bẻ gãy được mối quan hệ thân thiết đó. Tibecgiơ là người độc nhất mà đơ Griơ có thể cởi mở hết tấm lòng, và chính nhờ những cuộc tranh cãi tay đôi với Tibécgiơ, chàng đã lần gỡ được thực chất của mối tình say đắm mình đang đeo đuổi và tìm thấy lời giải đáp cho những câu hỏi đang dằn vặt tâm can. Trong những cuộc tranh cãi ấy, quan điểm của hai người hoàn toàn khác nhau, nhưng điều đó không hề cản trở họ hiểu nhau (nhất là Tibecgiơ đối với tâm tư của đơ Griơ). Lý lẽ do Tibecgiơ đưa ra, đơ Griơ hoàn toàn không thể chấp nhận được, vì những lý lẽ ấy chẳng những bao hàm cả sự kết án cách hành động của chàng, mà còn công khai bác bỏ hoàn toàn cái ảo tưởng của chàng về cuộc sống hạnh phúc với Manông. Dẫu sao, chàng hiệp sĩ bất hạnh cũng chẳng còn ai khác nữa để mà tâm sự: chàng biết rõ rằng người bạn ấy sẽ đem đến cho mình chẳng phải chỉ có những lời chỉ trích, mà còn có cả sự cảm thông, sự nâng đỡ và sự thấu hiểu. Nhân tiện cần ghi nhận rằng chưa bao giờ đơ Griơ đã thử cố trò chuyện với Manông về những đề tài thường xuyên được đề cập đến trong những cuộc tranh luận với Tibecgiơ. Trước ngày gặp Manông, đơ Griơ chắc hẳn vẫn luôn luôn chia sẻ các quan niệm của Tibecgiơ. Sự giống nhau đó chính là nền tảng của tình bạn giữa hai người, là cội rễ của sự kính trọng lẫn nhau giữa họ. Sự bất đồng quan điểm giữa đơ Griơ và Tibecgiơ chỉ là một chuyện nhất thời, và rất có thể sự bất đồng đó, nếu không hoàn toàn mất đi, thì ít ra cũng sẽ đỡ gay gắt hơn, một khi những thế lực chia rẽ họ mất tác dụng. Theo nhận định rất sắc sảo của nhà nghiên cứu văn học Arsen Usse, Tibecgiơ là lương tâm của hiệp sĩ đơ Griơ. Tài nghệ mà nhà văn đem ra để sáng tác nên Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô đã đưa thiên truyện không bao lăm trang này vào hàng những kiệt tác vĩ đại nhất chẳng những của văn chương Pháp, mà cả của văn chương thế giới. Thiên truyện được viết bằng một bút Pháp giản dị và hài hòa lạ thường; lời văn chuẩn xác, trong sáng và đầy âm hưởng, không nhường bước trước bất cứ một áng vấn mẫu mực ưu tú nào trong văn chương Pháp thời cổ điển và thời Khai sáng. Câu chuyện của đơ Griơ về những nỗi bất hạnh và đau khổ của chính chàng được thuật lại một cách chân thật, không chút khoa trương, không chút tô vẽ cốt gây ấn tượng; nhưng đằng sau cái vẻ ngoài kìm giữ đó, người đọc vẫn luôn cầm thấy một nỗi say mê sôi sục. Cả về phương điện bố cục nữa, thiên truyện cũng thật hoàn mỹ: ngay từ mấy trang đầu, tác giả đã đưa chúng ta đi thẳng vào diễn biến câu chuyện, và hứng thú của chúng ta vẫn không hề giảm sút mảy may cho đến lúc đọc dòng chót cùng tác phẩm. Nhưng công lao chủ yếu của linh mục Prévost dĩ nhiên là ở chỗ ông đã tạo dựng được hai hình tượng văn học thực sự bất hủ. Hiệp sĩ đơ Griơ là mẫu mực của một tình yêu rất mực thủy chung, của đức hy sinh và của lòng vị tha vô bờ hến. Nhà văn đã vẽ lên trước mắt chúng ta những tâm tư đau khổ và phức tạp của chàng trai một cách đầy thuyết phục đến mức ta sẵn lòng tha thứ hết cho chàng mọi lỗi lầm chàng đã phạm phải và luôn vững tin vào sự cao thượng và sự trong sạch về đạo đức của chàng. Còn hình tượng Manông thì thật khó tìm một điển hình văn học nào sánh ngang về sự hoàn mỹ trong văn chương thế giới xưa nay. Nhà văn đã ký thác nơi cô gái đầu óc trống rỗng, tâm hồn chai sạn, tầm mắt hạn hẹp và đạo đức đốn mạt ấy một vẻ quyến rũ mãnh liệt đến mức khiến ta suýt quên đi những thói hư tật xấu của nàng và sẵn sàng hâm mộ nàng cũng chẳng kém gì đích thân hiệp sĩ đơ Griơ. Arsen Usse đã nhận xét rất đúng rằng dù nhân tình của Manông có đông đến bao nhiêu đi chăng nữa, con số đó vẫn chẳng thấm tháp vào đâu so với đám người ngưỡng mộ cô nữ nhân vật mà linh mục Prévost đã dắt đến bên chân nàng. Thật vậy, đã hai thế kỷ trôi qua, nhưng Manông vẫn đầy sức quyến rũ. Từ các trang sách của nhà văn, tiếng cười say nồng của nàng vẫn vang vọng mãi không thôi và ánh mắt huyền bí, ranh mãnh của nàng vẫn lôi cuốn chúng ta như ngày nàng mới ra mắt. E. GUNST[1] Đức Dương dịch Mời các bạn đón đọc Manon Lescaut của tác giả Abbe Prevost.
Fulro Tập Đoàn Tội Phạm - Ngôn Vĩnh
Khối thống nhất dân tộc là sức mạnh quyết định sự sống còn của một quốc gia, nên chia rẽ dân tộc luôn là chính sách lớn của bọn xâm lược.   Tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp cũng là tám mươi năm dân tộc Việt Nam chống lại mọi âm mưu chia rẽ thâm độc: Đất nước phân thành ba kỳ; chế độ cai trị phức tạp (thuộc địa ở Nam, bảo hộ có vua ở Trung, bảo hộ không vua ở Bắc, “Hoàng triều cương thổ” ở Tây Nguyên, nhượng địa ở Đà Nẵng, quân quản ở Hà Giang…); chưa kể hàng loạt chính sách khác nhằm tạo ra hố ngăn cách sâu sắc giữa người Kinh với người Thượng, người Thượng với người Thượng, lương với giáo, tỉnh này với tỉnh kia, làng này với làng khác.    Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cách mạng giành lấy chính quyền và bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Chưa bao giờ khối thống nhất dân tộc được củng cố thành sức mạnh vô định và được toàn dân ý thức rõ ràng, khoa học như từ sau Cách mạng tháng Tám, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Vì vậy mà cũng chưa bao giờ bọn xâm lược phải chộp lấy “lá cờ dân tộc” vùng lên hùng hổ và loạn xạ như lúc này. Trong 8 năm chống Pháp đã diễn ra một loạt thủ đoạn chia rẽ xảo quyệt, rối rắm, thậm chí có khi liều lĩnh, bất chấp mọi lô - gich: xứ  Nam Kỳ tự trị, xứ Tây Nguyên tự trị, Liên bang Đại Thái, xứ Nùng tự trị, xứ Mường tự trị, v.v...    Đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp vào lúc mà những thủ đoạn thực dân lỗi thời và bọn việt gian nhẵn mặt không còn lừa bịp được ai. Cũng là lúc mà tinh thần dân tộc ăn sâu thành niềm tin vào lòng dân vì đã tỏ rõ sức mạnh vĩ đại của nó qua thử thách của cuộc kháng chiến thắng lợi.  Bắt buộc Mỹ phải phất lên “lá cờ dân tộc” dưới một hình thức mới: Trao nó vào những tay cầm cờ khác – và tung ra xung quanh một màn khói mù làm bằng trăm thứ thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hóa rắc rối.   Tây Nguyên, vùng sắc tộc phong phú và tập trung nhất của miền Nam, địa bàn chiến lược có lịch sử chống ngoại xâm kiên cường và bền bỉ, tất nhiên trở thành khu vực trọng yếu buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải dồn sức thống trị bằng được.   Cái gọi là FULRO –  Mặt trận thống nhất tranh đấu của các dân tộc bị áp bức – là lá cờ bịp mà đế quốc Mỹ và tay sai đã phất lên trước các sắc tộc Tây Nguyên suốt 20 năm chiếm đóng; và hiện nay không phải là không còn những thây ma thoi thóp mượn tiếng nó, cố phe phẩy những mảnh vụn tả tơi của nó, để tiếp tục phỉnh phờ những người chưa hiểu, mong kéo dài thêm cơn hấp hối nhau, bắt tay nhau, rồi trở mặt dìm nhau trong bể máu, tiếp tục thanh toán nhau đến đuổi kỳ được một bên ra khỏi Tây Nguyên màu mỡ…Họ như con rối mà đầu mối dây nằm trong tay những thế lực không bao giờ nhất trí về quyền lợi riêng: Mỹ, Pháp, ngụy quyền Sài Gòn và những kẻ theo đóm ăn tàn như Xi-ha-núc hay lớp chính khách cùng nhóm máu tương tự.    Những cuộc phiêu lưu mà chỉ có họ mới hiểu nguồn gốc sâu xa, còn người dân Thượng nghèo nàn lạc hậu chỉ cần tròng vào “lá cờ dân tộc” đã được đế quốc Hoa Kỳ quét lên một lớp vàng chói lóa, giúp họ dù quay quắt hướng nào cũng dễ tìm ra lời biện hộ đầy sự thật mê hoặc.    Duy chỉ có sự thật họ không lần nào dám nói lên là: Họ chưa tiến hành một trận đánh nhỏ nào để đem lại hạnh phúc thực sự cho người dân Thượng, Chàm. Họ chưa có giây phút nào hết căm thù cách mạng để cộng tác chân thành với Mặt trận giải phóng. Đó lại là sự thật rõ nhất về họ, cũng là sự thật cơ bản của đế quốc Mỹ.    FULRO, chung quy chỉ là một trò bịp lớn. Những âm mưu thâm độc và những hoạt động cơ hội “kiểu áp phe Hoa Kỳ”, những xâu xé trong nội bộ tầng lớp trên cầm đầu, những mâu thuẫn toàn cuộc và cục bộ đã phủ lên nó một vẻ bề ngoài chỉ dễ nhìn đối với những ai đứng xa, ngoài cuộc. Nhưng đối với chúng ta, chỉ cần có thì giờ và hoàn cảnh đi vào thực chất những kẻ cầm đầu và lần lại đường dây những biến động lớn đã xảy ra trên núi rừng Tây Nguyên trong 18 năm gây rối, thì sẽ không khó khăn gì mà không nhận ra bộ mặt thật của cái gọi là FULRO.   Cuốn sách này mong cung cấp cho bạn đọc một số tài liệu bước đầu sưu tập được để giúp bạn đọc tự mình nhận ra điều đó. Mời các bạn đón đọc Fulro Tập Đoàn Tội Phạm của tác giả Ngôn Vĩnh.
Biển Gọi - Hồ Phương
“Biển gọi” là câu chuyện kể về đoàn tàu không số, về một chiến sĩ có tên là Vũ và đồng đội của anh - những chiến sĩ hải quân, những thủy thủ trên những con tàu nhỏ nhoi, đơn độc, len lách tìm tòi, khai mở những con đường mới trên biển cả mênh mông, lạ lẫm và đầy sóng gió, giông bão, giữa sự vây bủa trùng điệp của quân thù. *** Hồ Phương là nhà văn quân đội, là “nhà văn của những dòng ngợi ca” như người ta vẫn thường nói. Tuy nhiên, khi viết “Biển gọi”, ông không chỉ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, không chỉ phác thảo gương mặt của những người anh hùng, miêu tả những hành động anh hùng mà ông còn có những trang viết bi tráng nói về sự hy sinh mất mát lớn lao của người lính. Tác phẩm tiêu biểu Vệ út (truyện) (1955) Vài mẩu chuyện về Điện Biên Phủ (truyện) (1956) Lá cờ chuẩn đỏ thắm (truyện) (1957) Thư nhà (truyện ngắn) (1948) Cỏ non (truyện ngắn) (1960) Trên biển lớn (truyện ngắn) (1964) Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng (ghi chép) (1964) Nhằm thẳng quân thù mà bắn (truyện) (1965) Chúng tôi ở Cồn Cỏ (ký sự) (1966) Kan Lịch (tiểu thuyết) (1967) Số phận lữ dù 3 ngụy Sài Gòn (ký) (1971) Khi có một mặt trời (truyện) (1972) Những tầm cao (tiểu thuyết - 2 tập) (1975) Phía tây mặt trận (truyện ngắn, ký) (1978) Biển gọi (tiểu thuyết) (1980) Cầm Sa (truyện ngắn) (1980) Bình minh (tiểu thuyết) (1981) Núi rừng yên tĩnh (truyện, ký in chung) (1981) Mặt trời ấm sáng (tiểu thuyết) (1985) Cỏ non (tuyển truyện ngắn) (1989) Đại đoàn đồng bằng (ký sự in chung) (1989) Anh là ai (tiểu thuyết) (1992) Ông trùm (truyện ngắn) (1992) Cánh đồng phía Tây (tiểu thuyết) (1994) Chân trời xa (tiểu thuyết) (1985) Huế trở lại mùa xuân (truyện ngắn) Yêu tinh (tiểu thuyết) (2001) Ngàn dâu (tiểu thuyết) (2002) Những cánh rừng lá đỏ (tiểu thuyết) (2005) Cha và con (tiểu thuyết) (2007) Mời các bạn đón đọc Biển Gọi của tác giả Hồ Phương.