Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Lạ Trên Tàu

Đã quen với những tay sát nhân máu lạnh, với những âm mưu tỉ mỉ được lên kế hoạch kĩ càng, độc giả hẳn sẽ cảm thấy ngỡ ngàng khi bước chân vào thế giới của Người Lạ Trên Tàu. Dưới ngòi bút bậc thầy của Patricia Highsmith, ngay cả những con người bình thường nhất cũng có khả năng phạm phải những tội ác ghê gớm nhất. Guy và Bruno, hai con người với tính cách hoàn toàn đối lập, tình cờ gặp nhau trên một chuyến tàu. Trong khi Guy là một kiến trúc sư tài hoa đang cố gắng li dị cô vợ hư hỏng, thì Bruno là một cậu ấm vô công rồi nghề, đang tìm cách thoát khỏi vòng kìm kẹp của cha mình. Sau một tối ngập trong rượu, Bruno bốc đồng đề nghị Guy và cậu ta giết người hộ nhau: Guy giết cha cậu ta và đổi lại cậu ta sẽ giết vợ Guy. Một phi vụ giết người hoàn hảo. Câu chuyện đi theo Guy và Bruno qua những âm mưu, giằng xé đạo đức, những mối quan hệ phức tạp và mối liên kết không thể phá vỡ dần hình thành giữa họ.  *** “Khi trở nên kích động, thì chỉ cần một chuyện nhỏ nhặt nhất thôi cũng có thể đẩy con người ta xuống vực thẳm.” Đây là một câu nói thấm đẫm triết lý trong “Người lạ trên tàu” – một lời phản biện mà Charles Bruno dành cho Guy Haines khi tranh cãi về việc trong cuộc đời sẽ có ít nhất một kẻ nào đó mà ta thực lòng muốn thủ tiêu để thấy hạnh phúc hơn. Quyển “Người lạ trên tàu” dường như đã bị người ta lãng quên bởi sự thành công của bộ phim chuyển thể. Sự xuất sắc của đạo diễn Alfred Hitchcock khi chuyển thể ít nhiều đã làm lu mờ đi tác phẩm gốc của Patricia Highsmith đến nỗi mà người không nghĩ đây là tựa của một quyển sách nữa. Thực lòng thì cuốn sách cực kỳ hay và bộ phim cũng thế nên tôi thích cả hai phiên bản này. Tôi nghĩ bạn cũng thử xem cả phim và sách để có cái nhìn đối chiếu hoàn thiện hơn. “Người lạ trên tàu” là câu chuyện về Guy Haines một anh chàng kiến trúc sư tài hoa và nhà xã hội học giàu có Charles Bruno. Hai người gặp nhau trên một chuyến tàu khi Guy đang về nhà để yêu cầu vợ là Miriam ly hôn để anh ta có thể kết hôn với Anne Morton – một người ăn chơi, giàu có và tự cho mình là trung tâm của vũ trụ. Trước đó, Miriam đã từng đồng ý ly hôn, nhưng lần này Guy có căn cứ để cho rằng Miriam đang mang thai và Guy tin chắc chắn rằng anh không phải là cha. Tuy nhiên, trong lòng Guy vô cùng băn khoăn về việc ấy và nghĩ rằng cô vợ sẽ gây ra nhiều rắc rối để làm chậm trễ tiến trình ly hôn. Những nỗi lòng ấy được tâm sự với Bruno và một kế hoạch kỳ quái đã được đề ra. Nếu Guy đồng ý giết cha của Bruno thì anh ta sẽ giết Miriam dùm Guy. Sở dĩ Bruno đưa ra lời đề nghị kinh dị này bởi vì đối với anh ta thì người bố ấy là nguồn gốc của mọi sự khốn khổ trong cuộc sống của anh ta. Kế hoạch này dường như có lợi cho cả hai bên vì một kẻ tiêu diệt được người thân đáng ghét còn một kẻ sẽ tiếp tục thuận lợi trong con đường hôn nhân. Tuy nhiên, Guy không phải là một kẻ giết người máu lạnh và khi nghe được lời đề nghị đó, anh chàng đã bị sốc vô cùng và ngay lập tức gạt bỏ ý tưởng điên rồ ấy rồi xuống tàu với quyết định sẽ không bao giờ gặp lại con người kia. Nhưng mọi chuyện không hề êm đẹp như ước muốn của Guy bởi không lâu sau đó, Miriam bị giết và nghiễm nhiên là Guy biết ai là kẻ thủ ác. Tự nhiên Guy bị cuốn vào trò chơi giết người ấy dù không hề mong muốn. Kịch bản “mèo vờn chuột” luôn được tận dụng hoàn hảo trong các tác phẩm của Highsmith và “Người lạ trên tàu” cũng không ngoại lệ. Những sự tuyệt vọng của Guy khi cố thoát khỏi trò chơi của Bruno đã mang lại sự kịch tính cho truyện. Một Bruno loạn trí và một Guy mâu thuẫn trong nội tâm cùng chơi một “game thú vị”. Mạch truyện sau đó cho thấy không hề có yếu tố lãng mạn trong “Người lạ trên tàu”. Anne Morton là kiểu phụ nữ muốn tạo ra một vỏ bọc hôn nhân hoàn hảo cho bản thân, và dường như cô ta chỉ cần biết bản thân có chút thích anh chàng đó và không mấy quan tâm việc người đàn ông ấy có yêu mình hay không. Guy, may mắn thay, lại là người rất yêu Anne. Anh ấy có tầm nhìn về sự nghiệp của mình và biết cha của Anne có ảnh hưởng lớn đối với sự thành bại trong tương lai. Nhưng, nếu Guy dính líu đến vụ giết Miriam, thì anh ta chỉ có thể nói lời tạm biệt với Anne và những khao khát về nghề nghiệp. Trong khi mối quan hệ giữa Guy và Anne không phải là điều gì quá thú vị thì mối quan hệ giữa Guy và Bruno ngày càng trở nên phức tạp và mơ hồ. Bruno rõ ràng có rất nhiều vấn đề và những vấn đề này cũng mở rộng sang lĩnh vực tình dục. Một người đàn ông quá loạn trí khi tham gia vào bất cứ điều gì lành mạnh và mối quan hệ kỳ lạ của anh ta với cha mẹ, đặc biệt là với mẹ anh ta, ngăn cản anh ta phát triển mối quan hệ dị tính hoặc đồng tính trong quá khứ. Tuy nhiên, sự tiến triển trong mối quan hệ giữa Guy và Bruno rất hấp dẫn, đặc biệt là khi chúng ta chứng kiến sự suy đồi về tình cảm và đạo đức của Guy. Một số người có thể xem anh ta như một nạn nhân nhưng tôi thì không vì Guy hoàn toàn tỉnh táo, và anh ta đủ nhận thức để phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Những câu văn trong “Người lạ trên tàu” mang lại cho tôi cảm giác vô cùng căng thẳng và hồi hộp, đôi khi không thể để đặt cuốn sách xuống ngay cả khi ngủ. Cảnh mà Bruno giết Miriam đặc biệt hồi hộp, và mặc dù tôi biết những gì sắp xảy ra, nhưng tôi thực sự không kịp chuẩn bị tinh thần cho tình cảnh đó. Đây là một cuốn sách miêu tả nội tâm nhân vật cực hay và phần lớn sự hồi hộp diễn ra trong tâm trí của Guy và Bruno. Highsmith khiến tôi hồi hộp và cắn móng tay vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo cả. Với cách miêu tả kỹ lưỡng, tỉ mỉ từng chi tiết giằng xé nội tâm của hai nhân vật, từ những ngôn ngữ, cử chỉ, hành động cho đến những suy nghĩ điên rồ bệnh hoạn của Bruno; từ những đau đớn tột cùng của Guy khi bị Bruno chi phối, làm ảnh hưởng trầm trọng đến gia đình, tình yêu, sự nghiệp của Guy, cái cách mà Guy khốn khổ, vật vã khi không thể thoát ra khỏi sự bủa vây của Bruno trong tâm trí cũng như cuộc sống… đối với nhiều độc giả ưa thích motif nhanh, cuốn, không quá chuyên sâu vào việc lột tả tâm lý nhân vật, ưa thích những đòn cân não, những vụ án máu me, những suy luận sắc bén, hoặc đơn giản là không thích những cốt truyện mà tác giả tiết lộ hung thủ ngay từ đầu, có thể sẽ cảm thấy nó là lê thê, rệu rã, mất kiên nhẫn, là không đúng với gu của mình. Nó là quá trình hình thành nên cái bản ngã độc ác của một con người, nó từ lương thiện, hiền lành, khi gặp đúng hoàn cảnh thích hợp, nó sẽ tha hóa, biến chất, trở thành một tên sát nhân qua ngòi bút tỉ mỉ, đôi khi pha chút hóm hỉnh, những ví von hài hước nhưng cũng không kém phần mỉa mai, nhạo báng của Patricia Highsmith. “Cái ác ghê gớm nhất bắt nguồn từ chính chúng ta – Jean Jacques Rousseau”. Đọc “Người lạ trên tàu” – một tác phẩm xuất sắc của Patricia Highsmith để có câu trả lời cho bạn nhé. *** “Người lạ trên tàu là một cuốn trinh thám đơn giản đến ngỡ ngàng. Không có những pha hành động nguy hiểm, không có những sát thủ máu lạnh, không có những âm mưu tỉ mỉ được lên kế hoạch kỹ càng. Không có những cú twist hay những pha đấu trí căng thẳng. Không có những màn suy luận sắc sảo. Tội phạm được lộ diện ngay từ đầu. Nhưng chính cái sự đơn giản đến ngỡ ngàng của Người lạ trên tàu lại khiến người đọc bị thu hút. Tác giả tập trung vào khai thác tâm lý của nhân vật khiến ta phải giật mình suy ngẫm. Việc giết người được diễn ra dưới một cách thức hết sức đơn giản, tầm thường không cần phải sắp xếp hay theo một kế hoạch nào cả. Thủ phạm trong Người lạ trên tàu cũng rất đặc biệt. Anh ta muốn trả giá cho hành động của mình nhưng các mối quan hệ phức tạp khiến anh ta giằng xé và đấu tranh.” (Binh Boog) *** Con tàu lao đi vùn vụt với guồng quay bất ổn đầy giận dữ. Nó phải dừng chân ở các trạm thường xuyên hơn, nơi nó sẽ nôn nóng đứng chờ trong giây lát rồi lại tiếp tục tấn công thảo nguyên. Nhưng biến động mà nó gây ra lại quá đỗi nhỏ bé. Thảo nguyên chỉ khẽ dập dờn, như một chiếc chăn hồng mênh mông bị rũ nhẹ một cách thờ ơ. Tàu chạy càng nhanh thì những chuyển động dập dờn ấy lại càng trôi nổi trong gió với vẻ nhạo báng. Guy rời mắt khỏi khung cửa sổ, tiếp tục ngồi dính chặt vào ghế. Miriam sẽ cố gắng trì hoãn vụ ly dị lâu nhất có thể, anh nghĩ thầm. Vì tiền, có khi cô ta còn chẳng muốn ly dị cũng nên. Cứ thế này thì liệu anh có thể thật sự cắt đứt với cô ta không? Anh bắt đầu nhận ra sự căm ghét đang dần làm tê liệt suy nghĩ của mình, tạo ra những lối rẽ nhỏ tối tăm trên con đường mà logic đã chỉ ra khi anh còn ở New York. Anh có thế cảm nhận Miriam đang ở trước mặt, không còn xa xôi, làn da hồng hào và rám nắng, đầy tàn nhang, phát ra hơi nóng bệnh tật, như thảo nguyên bên ngoài khung cửa sổ kia. Sưng sỉa và thô lỗ. Anh tìm thuốc lá trong vô thức, lần thứ 10 nhớ tới quy định không được phép hút thuốc trong toa cao cấp, nhưng cuối cùng vẫn rút ra một điếu. Anh gõ điếu thuốc lên mặt đồng hồ rồi xem giờ, như thể điều đó vẫn còn có ý nghĩa trong ngày hôm nay, 5 giờ 12 phút. Anh đút điếu thuốc vào khóe miệng trước khi đưa que diêm lên. Thế rồi que diêm trên tay được thay thế bằng điếu thuốc, anh hít vào từng hơi thật đều và chậm rãi. Hết lần này tới lần khác, đôi mắt nâu của anh rơi xuống vùng đất bướng bỉnh và hấp dẫn bên ngoài cửa sổ kia. Một bên cổ áo mềm mại hơi vểnh lên. Trên hình ảnh phản chiếu được ráng chiều in lên cửa kính, viền cổ áo trắng dọc quai hàm gợi lại phong cách ăn mặc của thế kỷ trước, cũng giống như mái tóc đen được vuốt cao, rũ xuống trên đỉnh đầu rồi thu gọn lại sau gáy. Mái tóc vuốt lên và đường dốc của chiếc mũi dài khiến vẻ ngoài của anh mang theo nét mạnh mẽ và bạo dạn, dù hàng lông mày ngang rậm rạp và khuôn miệng lại cho thấy sự trì trệ và bảo thủ. Anh mặc một chiếc quần vải flannel phẳng phiu, áo khoác sẫm màu rũ xuống trên cơ thể dong dỏng và có màu tím nhạt ở những nơi được ánh sáng chiếu vào, cà vạt len màu cà chua được thắt cẩn thận. Anh không nghĩ Miriam sẽ có bầu trừ phi cô ta muốn. Điều đó cũng có nghĩa là người tình của cô ta có ý định cưới xin. Nhưng vì sao cô ta lại gọi cho anh? Cô ta không cần sự có mặt của anh thì mới có thể nộp được đơn ly dị. Và vì sao anh cứ lặp lại những luận điệu ngu ngốc mà anh đã nghĩ tới cách đây 4 ngày khi nhận được thư của cô ta? 5 hay 6 dòng gì đó bằng nét chữ viết tay tròn trịa của Miriam chỉ nói rằng cô ta sắp có con và muốn gặp anh. Anh lập luận rằng việc cô ta có bầu sẽ đảm bảo cho vụ ly dị được tiến hành, nhưng vì sao lúc này anh lại thấy lo lắng cơ chứ? Điều khiến anh bị tra tấn nhất là ở một vùng đất sâu thẳm trong tâm hồn, anh thấy ghen tị vì cô ta đang mang thai con của một người đàn ông khác, nhưng lại từng bỏ đi đứa con của anh. Không, anh tự nhủ rằng chẳng có gì ngoài cảm giác xấu hổ khiến anh bực bội, xấu hổ vì anh đã từng yêu một người như Miriam. Anh dập tắt điếu thuốc lên mặt lò sưởi. Đầu thuốc lăn xuống chân và anh đá nó vào phía dưới lò sưởi. Hiện giờ, có rất nhiều thứ để hướng tới. Ly dị, công việc ở Florida - gần như chắc chắn Ban giám đốc sẽ duyệt các bản vẽ của anh và trong tuần này thôi, kết quả sẽ ngã ngũ - rồi cả Anne nữa. Bây giờ, anh và Anne đã có thể bắt đầu lên kế hoạch được rồi. Hơn 1 năm qua, anh đã chờ đợi, cáu bẳn, mong đợi chuyện này xảy ra để anh được tự do. Cảm nhận được sự hạnh phúc đang bùng nổ một cách dễ chịu, anh thả lỏng người trên chiếc ghế xa hoa. Thật sự, suốt 3 năm qua, anh vẫn mong chờ chuyện này xảy ra. Anh có thể trả tiền để ly dị, tất nhiên, nhưng anh chưa bao giờ gom góp được nhiều tiền tiết kiệm như lúc này. Không có nhiều phúc lợi vì anh không làm việc ổn định ở một công ty nào, khởi nghiệp là một kiến trúc sư chưa bao giờ là một điều dễ dàng và ngay cả bây giờ cũng vậy. Miriam chưa bao giờ đòi lấy thu nhập của anh, nhưng cô ta yêu sách anh theo cách khác, nói chuyện về việc anh ở Metcalf như thể họ vẫn còn tốt đẹp lắm, như thể anh tới New York chỉ để thể hiện bản thân và cuối cùng sẽ đưa cô ta tới cùng. Thỉnh thoảng, cô ta lại viết thư vòi tiền anh, những khoản tiền nhỏ thôi nhưng rất phiền nhiễu, anh vẫn gửi bởi vì cô ta có thể thản nhiên khởi động một chiến dịch chống lại anh ở Metcalf, mà mẹ anh thì vẫn đang ở đó. Một chàng trai trẻ tóc vàng, cao ráo, mặc bộ vest màu nâu đồng vừa ngồi phịch xuống chiếc ghế trống đối diện Guy và nở một nụ cười có phần thân thiện, sau đó dịch người vào trong góc. Guy liếc nhìn khuôn mặt nhỏ thó, xanh xao của cậu ta. Có một cái mụn lớn ở giữa trán cậu. Guy lại đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Chàng trai ngồi đối diện có vẻ đang đấu tranh xem nên bắt chuyện hay đánh một giấc. Khuỷu tay của cậu ta liên tục trượt dọc bục cửa số và mỗi khi hàng lông mi rậm rạp mở ra, đôi mắt xám đỏ quạch lại nhìn anh cùng với một nụ cười mỉm trên môi. Có lẽ cậu ta đang ngà ngà say. Guy mở sách ra đọc, nhưng đầu óc anh lại đi lang thang ngay sau một nửa trang giấy. Anh ngẩng lên khi hàng bóng đèn huỳnh quang trắng lập lòe chiếu xuống từ nóc toa tàu, ánh mắt vẩn vơ chạm vào một điếu xì gà chưa được châm đang xoay tròn lơ đãng bởi một bàn tay xương xẩu sau lưng ghế, sau đó anh nhìn vào hàng chữ viết hoa được lồng vào nhau đang lắc lư trên một sợi dây vàng mỏng vắt qua cà vạt của chàng trai ngồi đối diện. Hàng chữ ấy là CAB, chiếc cà vạt bằng lụa xanh lục, bên trên là những cây cọ chướng mắt màu da cam được vẽ bằng tay. Cơ thể thon dài mặc bộ đồ màu nâu đồng ấy đang nằm duỗi ra một cách ẻo lả, đầu ngả ra phía sau khiến cho cái nhọt lớn hoặc vết sưng trên trán kia trông như một ngọn núi lửa sắp phun trào. Đó là một khuôn mặt thú vị, dù Guy không biết vì sao. Trông nó chẳng già cũng chẳng trẻ, không thông tuệ cũng chẳng hoàn toàn ngu đần. Giữa vầng trán dô hẹp và quai hàm nhô ra, mọi thứ hõm xuống một cách nguyên thủy, hõm sâu nơi miệng hằn thành một đường thẳng, nhưng sâu nhất thì phải nói đến cái hõm xanh chứa hai mi mắt nhỏ hình vỏ sò. Da dẻ mịn như con gái, thậm chí là trơn nhẵn, như thể mọi bụi bẩn đã được rút sạch đế nuôi dưỡng cái mụn. Trong giây lát, Guy lại đọc sách. Các con chữ dần có ý nghĩa và bắt đầu xua tan sự lo lắng trong anh. Nhưng Plato* có thể giúp gì cho anh trong chuyện Miriam cơ chứ, một giọng nói trong lòng anh cất tiếng hỏi. Nó đã hỏi anh câu đó ở New York, nhưng anh vẫn mang cuốn sách theo, một cuốn sách cũ từ lớp triết hồi trung học, có lẽ là một sự tùy hứng để bù đắp cho việc anh phải tới gặp Miriam. *Plato (427 - 347 trước Công nguyên), là nhà đại hiền triết và nhà giáo dục của Hy Lạp cổ, đồng thời cũng là một trong các nhà tư tưởng quan trọng nhất, đã viết ra nhiều tác phẩm giá trị, tạo nên ảnh hưởng rộng lớn trong nền Triết học phương Tây. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, mắt chạm vào hình ảnh của chính mình đang vuốt phẳng cổ áo cong tớn. Anne luôn giúp anh làm việc đó. Đột nhiên, anh cảm thấy bất lực khi không có cô. Anh chuyển tư thế, vô tình va vào bàn chân duỗi ra của chàng trai đang ngủ, thích thú quan sát khi hàng lông mi của cậu ta nhíu lại rồi mở ra. Đôi mắt đỏ quạch hẳn đã tập trung nhìn anh từ nãy đến giờ qua hàng lông mi. “Xin lỗi,” Guy lầm bầm. “Không sao,” cậu ta nói, ngồi thẳng dậy và lắc đầu thật mạnh. “Chúng ta đang ở đâu?” “Đang vào Texas.” Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trên Tàu của tác giả Patricia Highsmith.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Có Gì Mãi Mãi - Sidney Sheldon.
Sách Nói Không Có Gì Mãi Mãi   Câu chuyện là cuộc đời của 3 nữ bác sỹ trẻ cùng làm việc tại một bệnh viện lớn ở San Fancisco, và khát vọng mãnh liệt của họ... Nữ bác sĩ Paige Taylor. Cô đã thề đó là cái chết không đau đớn, nhưng khi Paige được thừa hưởng một triệu đô la từ một bệnh nhân, thẩm phán gọi đó là một vụ giết người. Bác sĩ Kat Hunter. Cô đã thề không bao giờ để cho người đàn ông nào lại quá gần mình - cho đến khi cô chấp nhận thách thức một vụ cá cược chết người. Bác sĩ Honey Taft. Để làm việc trong y khoa, cô biết mình sẽ cần một cái gì đó còn hơn cả là người giỏi nhất mà Chúa Trời đã cho cô. “Không có gì mãi mãi” chạy đua từ những quyết định sống còn của một bệnh viện lớn ở San Francisco cho đến sự nóng hổi đầy căng thẳng của một phiên tòa xét xử vụ giết người. Nó sắp đặt những tham vọng và nỗi sợ hãi của những người chữa bệnh và những kẻ giết người, lòng ti tiện và sự hào hiệp của kẻ phản bội và những người yêu nhau… Khi câu chuyện lên đến cao trào, hướng tới đỉnh điểm không thể đoán trước, Sidney Sheldon lại một lần nữa chứng minh rằng không độc giả nào có thể thắng được một bậc thầy của sự kiện bất ngờ. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** SAN FRANCISCO Mùa xuân - 1995 Chưởng lý quận Carl Andrew đang cáu kỉnh: - Chuyện chết tiệt gì thế này? - ông ta nói. - Ba bác sĩ sống chung phòng và làm việc trong cùng một bệnh viện. Một người khiến cho bệnh viện suýt phải đóng cửa, người thứ hai giết bệnh nhân vì một triệu đô- la, còn người thứ ba thì lại bị giết. Andrew ngừng lại, hít một hơi rõ dài: - Mà lại rất là đàn bà! Ba con mụ bác sĩ trời đánh! Báo chí đãi đằng chúng cứ như những danh nhân. Nào Chương trình 60 phút. Nào thì phóng sự đặc biệt của Barbara Walters. Tôi không thể cầm một tờ báo hay tạp chí nào lên mà không phải nhìn ảnh hay đọc bài viết về chúng. Chẳng mấy đâu, rồi Hollywood sẽ tung ra một bộ phim biến ba con mụ này thành những nữ kiệt? Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu Chính phủ trưng mặt các ả lên tem bưu điện như Presley vậy. Ôi, lạy Chúa, thật chịu hết nổi! - Ông ta giáng một quả đấm xuống bức hình người đàn bà in trên bìa tạp chí Time. Dòng tít viết: "Bác sĩ Paige Taylor - Thiên thần từ bi hay đồ đệ của ác quỷ?" - Bác sĩ Paige Taylor, - giọng ông chưởng lý quận đầy ghê tởm. Ông ta quay sang Gus Venable, viên chánh công tố. - Tôi giao vụ này cho anh đấy, Gus. Tôi muốn kết án. Tội sát nhân. Phòng hơi ngạt. - Đừng lo, - Gus Venable trầm giọng, - cứ để nó cho tôi. Ngồi trong phòng xử án nhìn bác sĩ Paige Taylor, Gus Venable nghĩ: Cô ta lẩn tránh toà. Rồi ông ta tự cười mình. Không ai có thể lẩn tránh được toà. Cô ta dáng cao, thon thả, với đôi mắt nâu huyền nổi bật trên gương mặt nhợt nhạt. Một người quan sát thờ ơ chắc chỉ xem cô ta như một loại đàn bà quyến rũ. Người tinh ý hơn mới nhận thấy còn những điều khác. Đó là tất cả những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời cùng tồn tại trong cô ta. Nét hớn hở vui tươi của đứa bé thêm vào vẻ băn khoăn e lệ của tuổi hoa niên và sự khôn ngoan, nỗi đau khổ của đàn bà. Có một vẻ ngây thơ nơi cô ta. Cô ta là cô gái mà một người đàn ông có thể lấy làm hãnh diện dẫn về giới thiệu với cha mẹ mình, Gus nghĩ mỉa mai, nếu cha mẹ anh ta hợp gu với những tên giết người máu lạnh. Có một nét gì xa xăm, gần như huyền bí trong mắt cô ta, một vẻ gì đó nói lên rằng bác sĩ Paige Taylor đã lùi sâu vào nội tâm, tới một thời gian khác, một nơi chốn khác, xa khỏi phòng xử án lạnh lùng, cằn cỗi, nơi cô ta đã bị đẩy vào. Phiên xử diễn ra tại Toà Công lý San Francisco tôn nghiêm, cổ kính trên phố Bryant. Nơi đặt toà án tối cao và nhà tù tiểu bang là một công trình trông đầy hăm doạ, cao bảy tầng, bằng đá vuông, xám xịt. Khách đến dự phiên toà được lùa qua một dãy hành lang kiểm soát điện tử. Trên gác, tầng ba, là phòng xử án. Trong phòng 121, nơi xét xử những vụ giết người, ghế quan toà tựa sát mặt tường chính diện, đằng sau là lá cờ nước Mỹ. Bên trái là chỗ ngồi của bồi thẩm đoàn, chính giữa đặt hai bàn được ngăn bằng lối đi, một bàn dành cho luật sư bên nguyên, bàn kia dành cho luật sư bên bị. Phòng xử án đã chật ních phóng viên và đầy ắp loại khán giả say mê dự các phiên toà xử tai nạn giao thông trên đường cao tốc và tội giết người. Trong các phiên xử tội giết người, đây là vụ hấp dẫn nhất. Chỉ riêng Gus Venable, luật sư công tố, cũng đáng để xem rồi. Ông ta to cao lừng lững, với bờm tóc xám, chòm râu dê, và cung cách lịch lãm của một điền chủ miền Nam, mặc dù ông chưa bao giờ ở miền Nam cả. Ông có vẻ mặt ngơ ngác vô tư và bộ óc của một cỗ máy tính. Nhãn hiệu của ông ta, đông cũng như hè là bộ complê trắng khoác ngoài chiếc sơ- mi cổ hồ cứng đã lỗi thời. Alan Penn, luật sư của Paige Taylor, là sự tương phản với Venable, một con người rắn chắc, năng nổ, lừng danh bới tài gỡ tội cho các thân chủ của mình. Hai luật sư này không bao giờ thiếu cơ hội để đối mặt nhau trước toà án và quan hệ của họ là sự nể trọng nhau miễn cưỡng và ngờ vực nhau hoàn toàn. Venable ngạc nhiên khi thấy Alan Penn đến gặp ông vào tuần trước khi phiên xử bắt đầu. - Hãy cảnh giác với những tay thầy cãi có tài. - Anh đang mưu tính chuyện gì thế, Alan? - Nghe đây, tôi chưa bàn với thân chủ của tôi, nhưng giả sử, chỉ giả sử thôi, tôi có thể thuyết phục cô ta nhận tội để xin giảm án và đỡ cho nhà nước một khoản án phí, thì sao? - Anh định thương lượng với tôi đấy à, Alan? - Gus Venable với tay xuống bàn giấy, lục lọi - Chẳng thấy cuốn lịch chết tiệt của tôi đâu cả. Hôm nay ngày bao nhiêu nhỉ? - Mùng 1 tháng Sáu. Sao? - Khoan nào, tôi cứ tưởng phải là Giáng sinh cơ đấy nếu không anh đã chẳng hỏi xin một món quà như vậy. - Gus… Venable nhoài người về phía trước. - Anh biết không, Alan, bình thường thì tôi có thể bị anh thuyết phục rồi đấy. Nói thật, bây giờ tôi khoái đi câu ở Alaska hơn. Nhưng câu trả lời là không. Anh biện hộ cho một tên sát nhân tàn nhẫn đã vì tiền mà giết một người bệnh bất lực. Tôi đề nghị án tử hình. - Tôi nghĩ cô ta vô tội, và tôi… - Không, anh không nghĩ thế đâu. Và không ai có thể làm cho bất cứ ai nghĩ như thế. Trường hợp rõ mười mươi rồi. Khách hàng của anh tội lỗi như Cain 1 vậy. - Chưa đâu, chừng nào bồi thẩm đoàn chưa kết tội. - Họ sẽ, - Gus để một khoảng lặng, - họ sẽ kết tội thôi. Sau khi Alan Penn ra về, Gus Venable ngồi nghĩ lại về cuộc đối thoại vừa xảy ra. Việc Penn đến gặp ông là một dấu hiệu của sự thất bại. Penn hẳn đã hiểu mình ít có cơ thắng nổi vụ này. Venable nghĩ về những chứng cớ không thể chối bỏ mà ông đang nắm cùng các nhân chứng ông sẽ gọi ra thẩm vấn và ông thấy hài lòng. Không còn nghi ngờ gì nữa, bác sĩ Paige Taylor sẽ vào phòng hơi ngạt. .. Mời các bạn đón đọc Không Có Gì Mãi Mãi của tác giả Sidney Sheldon.
Bầy Chó Riga - Mankell Henning
“Bầy chó Riga”, cuốn sách thứ ba trong series truyện trinh thám của Henning Mankell, nhà văn trinh thám nổi tiếng Thụy Điển đã được Nhã Nam cho ra mắt bạn đọc Việt Nam. Nếu là người yêu thích truyện trinh thám, chắc chắn bạn đã biết đến Henning Mankell qua hai tác phẩm trước đây của dịch giả Cao Việt Dũng:  “Tường lửa” cuối năm 2006 và “Chậm một bước” giữa năm 2007.  Kể từ khi “Tường lửa”, tác phẩm đầu tiên của Henning Mankell - tác giả trinh thám hàng đầu Bắc Âu được Nhã Nam giới thiệu ở Việt Nam đến nay đã 4 năm, thời gian quá dài để chờ đợi một món quà quý giá. Tôi nhớ khi cho ra mắt “Tường lửa”, Nhã Nam đã thông báo cả ba tiểu thuyết hay nhất của Henning Mankell viết về thanh tra Kurt Wallander đã được Cao Việt Dũng chuyển ngữ và sẽ sớm ra mắt. Vậy mà phải mất gần 4 năm chúng ta mới tiếp tục được đón nhận thêm một luồng hơi thở mới của dòng văn trinh thám Bắc Âu... Nói như vậy để bạn thấy, tôi đã mong mỏi cuốn sách “Bầy chó Riga” này như thế nào. Thanh tra Kurt Wallander và các cộng sự phải đối mặt với một vụ án khá hóc búa: điều tra về cái chết của hai người chưa rõ tung tích trên một chiếc xuồng cứu hộ trôi dạt vào bờ biển Mossby Strand, Thụy Điển. Khi Wallander bắt đầu hướng mũi điều tra đến các nước Đông Âu thì ông nhận được thông tin từ Latvia. Thiếu tá Liepa, một quan chức cao cấp trong ngành cảnh sát của nước này được cử đến Thụy Điển để hỗ trợ công tác điều tra. Thời gian ngắn ngủi Liepa lưu lại Thụy Điển không ngờ cũng là lần gặp gỡ cuối cùng của Wallander với viên thiếu tá cận thị gầy gò nhưng để lại cho ông nhiều thiện cảm. Cái chết của Liepa do bị ám sát ngay sau khi quay về nước lại chính là nguyên nhân đưa Wallander lần đầu tiên đến với Latvia, đến với thủ đô Riga, nơi mà sau đó xảy ra rất nhiều biến cố không chỉ trong việc điều tra vụ án này mà còn cả với đời sống tình cảm của Wallander. *** Sống tại Thụy Điển thanh bình, Wallander hoàn toàn xa lạ với Latvia, nước láng giềng có chế độ chính trị đang trong giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ của những năm 1991-1992. Như tác giả bộc bạch trong phần Tái bút: “Đối với nhà văn, tự thân việc viết ra một cuốn sách với cốt truyện diễn ra trong một bối cảnh xa lạ là rất phức tạp”... Nhưng chính điều này đã cho thấy tài năng vượt bậc của tác giả Henning Mankell. Xuyên suốt trong gần 400 trang sách, bạn sẽ rất hồi hộp và nôn nóng muốn ngay lập tức cùng nhân vật chính, thanh tra Wallander nhanh chóng đi hết hành trình của cuộc điều tra. Cuốn sách không dàn xếp những tình huống giật gân, gay cấn; không đi sâu vào miêu tả chi tiết vụ án, cũng không kể lại tỉ mỉ những tội ác gây kinh hoàng, nhưng tác giả Henning Mankell đã hoàn toàn lôi cuốn người đọc. Và đây chính là thành công nhất của một tác giả trinh thám. Khác với hai cuốn sách trước mà bạn đọc đã biết, vụ án này diễn ra chủ yếu tại Riga, thủ đô của Latvia.  Tại đây, mặc dù ngôn ngữ bất đồng, hoàn toàn không có cộng sự và không có bất cứ mối liên hệ nào để có thể dẫn đường, chỉ với sự giúp đỡ của Baiba Liepa, vợ của thiếu tá Liepa và những người khác, bằng kinh nghiệm và tài năng Wallander đã dần dần vén tấm màn bí ấn xung quanh cái chết của viên thiếu tá đáng kính và hai kẻ xấu số được phát hiện tại bờ biển Mossby Strand, nơi khởi đầu của vụ án này. Cuộc điều tra ngoài phạm vi Thụy Điển đã góp phần phơi bày thực trạng hỗn loạn của xã hội Latvia đang trong cơn chuyển mình; sự lũng đoạn, tha hóa của ngành cảnh sát khi những người nắm giữ chức vụ quan trọng của bộ máy an ninh lại bị đồng tiền thao túng hay trở thành kẻ hai mang, phục vụ cho những mục đích chính trị riêng… Diễn biến khám phá vụ án cũng đồng hành cùng diễn biến tâm lý của Wallander. Bạn sẽ được chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật trong những tình huống cân não, hay đôi khi chỉ là những suy nghĩ miên man, những độc thoại về cuộc sống và hạnh phúc, sự đối diện với cái chết, với cuộc sống nhàm chán...  Trải qua một trong những sự kiện lớn lao, nguy hiểm nhất từng xảy ra trong cuộc đời, nhưng khi vụ án được khám phá, Wallander lại không được hưởng niềm vui chiến thắng. Tại Riga, trái tim tưởng như băng giá của ông được sưởi ấm bởi Baiba Liepa, vợ góa của người đồng nghiệp Latvia - người phụ nữ ngay từ lần gặp đầu tiên đã khiến ông không thể quên. Chẳng có một “kết thúc có hậu” nào bởi cuối cùng người phụ nữ ấy, rốt cục, có lẽ cũng chỉ là giấc mơ hạnh phúc của Wallander.  Gấp lại cuốn sách tuyệt vời này, tôi không thể không đặt ra một câu hỏi cho dịch giả Cao Việt Dũng và Nhã Nam: vụ án của “Bầy chó Riga” xảy ra 6 năm trước vụ án của “Tường lửa”, nơi mà bạn đọc Việt Nam đã được làm quen với thanh tra Wallander, với nỗi buồn cô đơn nhớ nhung Baiba Liepa của nhân vật chính. Có lý do nào giải thích cho sự hoán đổi thứ tự này không nhỉ? Phải chăng đây là chủ ý của dịch giả: để cho bạn đọc trước hết được làm quen với Wallander, người lúc nào cũng cô đơn và buồn bã, sau đó chúng ta mới được biết ông đã làm quen với người phụ nữ này như thế nào...   Dù thế nào chăng nữa, chắc chắn “Bầy chó Riga” và “Tường lửa”, “Chậm một bước” sẽ là món quà quý giá giành cho các bạn yêu sách. *** Bầy chó  Riga, cuốn thứ hai trong series tiểu thuyết trinh thám về Thanh tra Kurt Wallander, là nơi viên cảnh sát Thụy Điển gặp những sự việc và con người sẽ còn ám ảnh suốt phần đời còn lại của ông. Một lần hiếm hoi ra khỏi thành phố nhỏ bé của mình để nhận lấy một nhiệm vụ không ai hay biết, không đồng sự và không có chi viện, Wallander lúng túng trong nỗ lực xoay xở tại một đất nước vùng Baltic đang trong cơn chuyển mình hỗn loạn. Chỉ có thể dựa vào khả năng suy đoán, Wallander lần mò đi tìm một bằng chứng tưởng chừng như không tồn tại nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt với tương lai cả một đất nước. Và trên hành trình đầy sợ hãi ấy, ông đã gặp một người kể từ nay giữ một vị trí không thể phai mờ trong đời sống tình cảm của ông: Baiba Liepa. Bộ sách về Kurt Wallander đã khiến Henning Mankell đến với độc giả của trên 30 thứ tiếng, mang lại rất nhiều giải thưởng văn học (trong đó có giải Gold Dagger, giải The Glass Key, giải Gumshoe…); nhiều cuốn đã được dựng thành phim điện ảnh và phim truyền hình tại nhiều nước.  *** “Lối viết kiệm lời, cách xây dựng nhân vật tài tình, bầu không khí sôi sục và sự gay cấn lúc nào cũng mạnh mẽ.” - The Times Literary Supplement “Một câu chuyện về giới cảnh sát đầy lôi cuốn và suy tư, không cho người đọc buông sách xuống ngay từ trang đầu tiên.” - Irish Independent “Một câu chuyện đầy ắp văn hóa địa phương… Cốt truyện đủ chất bất ngờ, Wallander, như vẫn luôn luôn vậy, làm người ta rối trí và rất mực sắc sảo.” - Los Angeles Times Book Review Mời các bạn đón đọc Bầy Chó Riga của tác giả Mankell Henning.
Ký Ức Nửa Đêm - Sidney Sheldon
Sách Nói Ký Ức Nửa Đêm   Cuốn tiểu thuyết Kí ức nửa đêm mô tả quá trình phục hồi trí nhớ và quay trở lại xã hội thượng lưu của cô gái Catherine. Đan xen vào đó là những câu chuyện tình tay ba, những vụ thanh toán lẫn nhau cũng như con đường tiến thân đầy tội lỗi của những ông chủ như Constantin Demiric. Tất cả chỉ xoay quanh việc thỏa mãn dục vọng cùng những khát khao quyền lực, tiền bạc của con người. Thế nhưng rồi tất cả đều phải trả giá cho chính mình, gieo nhân nào gặt quả ấy. Là tác giả của rất nhiều cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trong năm, nữ văn sĩ Mỹ Sidney Sheldon luôn được người đọc chào đón nồng nhiệt mỗi khi một cuốn tiểu thuyết của bà xuất hiện. Ký ức vốn tập trung những điều có thật và cả sự tưởng tượng về những việc xảy ra trong quá khứ. Ký ức của Catherine chất chứa nỗi đau và cả niềm hạnh phúc. Cô đã bị người chồng phản bội, bị trở thành mục tiêu oan uổng cho những mưu mô thấp hèn. Một điều lạ là những kẻ xấu liên can đến cô đều bị giết. Họ âm mưu thanh toán lẫn nhau để rồi cuối cùng bị giết bởi chính âm mưu của mình. Còn Catherine, người phụ nữ xinh đẹp với ước mơ đơn giản, chỉ mong cầu một mái ấm và một tình yêu chân chính. Cô như con nai vàng giữa bầy sói dữ. Tuy nhiên, cuối cùng cô đã sống sót nhờ vào những hình ảnh của ký ức. Nó như một lời cảnh báo cho những gì sắp xảy ra quanh cô. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Sheldon tâm sự: “Tôi cố gắng viết những tác phẩm để người đọc không thể đặt chúng xuống. Tôi viết để khi người đọc đọc tới cuối chương, họ phải đọc thêm một chương nữa”. Giải thích lý do tại sao có quá nhiều phụ nữ là các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông, Sheldon nói: “Tôi thích viết về những người phụ nữ tài giỏi, và quan trọng hơn, là họ vẫn đầy quyến rũ, nữ tính. Phụ nữ có một sức mạnh vô cùng to lớn - đó là nét quyến rũ và người đàn ông không thể làm gì nếu thiếu điều này”. Không giống như những nhà văn khác thường sử dụng máy chữ hoặc máy tính để viết tác phẩm, Sheldon thường đọc ra 50 trang truyện mỗi ngày cho thư ký hay máy thu âm ghi lại. Sau đó, ông sửa bản sáng tác vào ngày hôm sau và cứ tiếp tục công việc như vậy cho tới khi tác phẩm của ông dài từ 1.200 tới 1.500 trang. Sheldon nói: “Tôi đọc và sửa lại bản viết cuối cùng từ 12 tới 15 lần. Có thể tôi chỉ dùng cả năm để sửa lại bản viết đó”. Sidney Sheldon sinh ngày 11/2/1918 tại Chicago, Illinois dưới tên Sidney Schechtel, trong một gia đình có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Ông bắt đầu việc viết lách ngay từ khi còn rất nhỏ. Lên 10 tuổi, cậu bé Sheldon đã kiếm được 10 USD cho một bài thơ. Thời trai trẻ, Sheldon từng làm nhiều nghề để kiếm sống trong khi là sinh viên tại Northwestern University và tham gia một nhóm chuyên viết những vở kịch ngắn. *** Đêm nào, nàng cũng nằm mơ, la hét rồi tỉnh dậy. Nàng cảm thấy như đang lênh đênh ở giữa mặt hồ rộng lớn trong cơn giông tố khủng khiếp, có một người đàn ông và một người đàn bà đang đè đầu nàng dìm xuống nước băng giá để cho nàng chết đuối. Mỗi lần bừng tỉnh như vậy tâm hồn hoảng loạn, nàng cố lấy lại hơi thở và mồ hôi toát ra đầm đìa. Nàng không biết nàng là ai và nàng không còn trí nhớ về dĩ vãng. Nàng nói tiếng Anh - nhưng nàng cũng chẳng biết nàng là người nước nào và vì sao nàng lại đến đây, đất Hy Lạp này, sống trong tu viện Carmelite nhỏ bé, nơi đã che chở cho nàng. Rồi thời gian cứ trôi đi, những ký ức quá khứ cứ thoáng hiện như nhử trêu nàng, những ý nghĩ mơ hồ, những hình ảnh mờ ảo hiện lên rồi lại tan đi nhanh chóng không cho nàng tóm chặt được nó, giữ nó và ngắm nghía nó. Những hình ảnh đó xuất hiện đột nhiên ở một lúc nào đó chộp vào đúng lúc nàng không có chút đề phòng, và làm nàng lẫn lộn hết cả. Lúc mới đầu, nàng còn tự đặt ra những câu hỏi. Các bà xơ ở Carmelite rất tử tế và hiểu nàng nhưng hình như họ được lệnh phải im lặng, và chỉ có một người được phép nói với nàng là Xơ Theresa, người nhiều tuổi nhất và là Mẹ Bề trên yếu đuối. - Xơ có biết con là ai không? - Không, con của ta ạ, - Xơ Theresa trả lời. - Làm sao con lại được đến nơi đây? - Ở chân những quả núi kia có một cái làng tên là Ioanina. Con ở trong một con thuyền nhỏ lênh đênh trên mặt hồ khi trời giông bão, cái năm ngoái ấy. Con thuyền đang chìm nhưng nhờ ơn Chúa, hai trong các xơ của con đã thấy và cứu sống con. Họ đã mang con về đây? - Nhưng… trước đó, con từ đâu đến hở Xơ? - Xin lỗi con, ta không biết. Nàng không thể thoả mãn với những điều đó. - Đã có ai hỏi gì về con? Đã có người nào muốn tìm con? Xơ Theresa lắc đầu. - Không có ai cả, con ạ. Nàng muốn oà khóc vì thất vọng. Nàng lại cố nhớ một lần nữa. - Báo chí… họ phải có chuyện về việc ta mất tích. - Như con biết. Chúng ta không được phép liên hệ với thế giới bên ngoài. Chúng ta phải theo ý của Chúa, con ạ. Chúng ta phải cám ơn Người về những ban ơn của Người. Con còn sống. Và đó là tất cả những gì mà nàng có thể biết được. Thời gian đầu, nàng quá yếu đuối để có thế hiểu được những điều đã xảy ra với mình, nhưng dần dà, sau nhiều tháng qua đi, nàng đã lấy lại được nghị lực và sức khỏe. Khi nàng đã khỏe hơn để có thể đi loanh quanh, suốt ngày nàng cúi mình trong khu vườn đầy hoa thuộc phần đất của tu viện, dưới ánh sáng ấm cúng đã toả khắp Hy Lạp như trong một thiên đường huyền ảo, với cả những làn gió nhẹ thổi qua, mang theo hương vị thơm ngon của những quả chanh và những chùm nho. Bầu không khí ở đây thật thần tiên và tĩnh mịch, tuy vậy nàng vẫn cảm thấy không yên. Ta đã bị lạc, nàng nghĩ vậy và chẳng ai chú ý. Tại sao? Ta có làm điều gì độc ác chăng? Ta là ai? Ta là ai? Ta là ai? Những hình ảnh lại tiếp tục xuất hiện, không theo một đòi hỏi nào cả. Một buổi sáng, nàng chợt tỉnh vì nhìn thấy mình trong buồng với một người đàn ông trần truồng đang cởi quần áo nàng. Phải chăng là một giấc mơ? Hay có điều gì đã xảy ra trong quá khứ đối với nàng? Người đàn ông đó là ai? Có phải rằng nàng đã lấy một người nào đó trước đây? Nàng đã có chồng rồi ư? Nàng không mang nhẫn cưới. Trong thực tế nàng không có một sở hữu gì khác ngoài những lệnh theo thói quen ở Carmelite mà Xơ Theresa đã ban cho nàng, một cái ghim cài áo, một con hoàng anh có đôi mắt mầu ngọc bích và sải cánh rộng. Nàng chỉ là một người vô danh, một người lạ sống giữa những kẻ lạ. Chẳng có ai giúp đỡ nàng, không có nhà nghiên cứu tâm thần nào có thể bảo cho nàng rằng trí óc của nàng đã bị rối loạn, và chỉ có thể yên ổn nếu ngăn cách hẳn với quá khứ khủng khiếp. Và rồi những hình ảnh lại đến, nhanh hơn và nhanh hơn. Cứ như là trí óc của nàng tự dưng rơi vào một trò chơi ghép hình vĩ đại, với các tấm hình rời rạc phải xếp vào đúng chỗ của nó. Nhưng những tấm hình này chẳng có nghĩa gì cả. Nàng như thấy một cảnh trường quay chật những người mặc quân phục. Họ như đang chuẩn bị làm một cuốn phim. Ta có là một diễn viên không? Một người lính đưa cho nàng một bó hoa. Cô phải trả tiền cho những bông hoa này đấy nhé, anh ta cười. Sau đó hai đêm, nàng lại mơ về cùng một người đàn ông. Nàng đã chào tạm biệt người đó tại sân bay, và khi tỉnh dậy, nàng đã thổn thức vì đã để mất ông ta. - Không còn có những giấc mơ thanh bình những lần sau đó. Toàn là mộng mị. Đó là những mảnh vụn của đời nàng, quá khứ của nàng. Ta phải tìm ra ta là ai. Hiện ta là ai. Và vào lúc nửa đêm, đột nhiên, một cái tên lóe ra trong tiềm thức nàng - Catherine - tên mình là Catherine Alexander. ... Mời các bạn đón đọc Ký Ức Nửa Đêm của tác giả Sidney Sheldon.
Sứ Giả của Thần Chết - Sidney Sheldon
Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"..., đã từ trần ở tuổi 89. Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Sheldon tâm sự: “Tôi cố gắng viết những tác phẩm để người đọc không thể đặt chúng xuống. Tôi viết để khi người đọc đọc tới cuối chương, họ phải đọc thêm một chương nữa”. Giải thích lý do tại sao có quá nhiều phụ nữ là các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông, Sheldon nói: “Tôi thích viết về những người phụ nữ tài giỏi, và quan trọng hơn, là họ vẫn đầy quyến rũ, nữ tính. Phụ nữ có một sức mạnh vô cùng to lớn - đó là nét quyến rũ và người đàn ông không thể làm gì nếu thiếu điều này”. Không giống như những nhà văn khác thường sử dụng máy chữ hoặc máy tính để viết tác phẩm, Sheldon thường đọc ra 50 trang truyện mỗi ngày cho thư ký hay máy thu âm ghi lại. Sau đó, ông sửa bản sáng tác vào ngày hôm sau và cứ tiếp tục công việc như vậy cho tới khi tác phẩm của ông dài từ 1.200 tới 1.500 trang. Sheldon nói: “Tôi đọc và sửa lại bản viết cuối cùng từ 12 tới 15 lần. Có thể tôi chỉ dùng cả năm để sửa lại bản viết đó”. Sidney Sheldon sinh ngày 11/2/1918 tại Chicago, Illinois dưới tên Sidney Schechtel, trong một gia đình có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Ông bắt đầu việc viết lách ngay từ khi còn rất nhỏ. Lên 10 tuổi, cậu bé Sheldon đã kiếm được 10 USD cho một bài thơ. Thời trai trẻ, Sheldon từng làm nhiều nghề để kiếm sống trong khi là sinh viên tại Northwestern University và tham gia một nhóm chuyên viết những vở kịch ngắn. Sheldon từng thú nhận ông suýt tự tử vào năm 17 tuổi. Năm 17 tuổi, Sheldon quyết định thử vận may tại Hollywood. Công việc ban đầu duy nhất mà Sheldon nhận được là đọc kịch bản phim tại Universal Studio với giá 22 USD/ tuần. Trong khi đó, ban đêm ông viết kịch bản phim riêng của mình và bán lại cho Universal với giá 250 USD. Sau thế chiến thứ 2, từ một phi công của Lực lượng không quân Mỹ, Sheldon giải ngũ và về làm việc cho sân khấu kịch Broadway - nơi đánh dấu những bước đi quan trọng trong sự nghiệp viết văn của ông. Cũng tại đây, Sheldon nhận giải Tony award cho kịch bản hay nhất cho “Redhead”. Với hơn 300 triệu ấn bản được bán, Sheldon không chỉ là một trong những nhà văn “lão làng” của Mỹ mà còn có ảnh hưởng lớn trong nền văn học thế giới. Ông từng đoạt giải Oscar với kịch bản hay nhất cho phim “The Bachelor and the Bobby-Soxer” (1957), giải Tony Award cho vở nhạc kịch “Rehead” (1957) nổi tiếng của sân khấu kịch Broadway và giải Emmy cho “Dream of Jeannie” (1967) Tại Việt Nam, nhiều tác phẩm của Sheldon đã được dịch và xuất bản như “Âm mưu ngày tận thế”, “Bầu trời sụp đổ”, “Người lạ trong gương”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai”, “Kế hoạch hoàn hảo”, “Cát bụi thời gian”…. *** Tiểu thuyết kiếm cơm của Sidney Sheldon, như những cái nồi hơi ướt át sẽ tan nhanh vào không khí, chẳng đọng lại được gì nhiều cho mai sau. Nhưng trước khi qua đời, ông vẫn được coi là một trong những nhân vật kiệt xuất cuối cùng của thời kỳ hoàng kim trong nền văn học bình dân Mỹ.   Lần cuối cùng tôi gặp Sidney Sheldon là khi ông tham gia một bữa tiệc sang trọng tại Beverly Hills. Tôi còn nhớ, hôm đó, một tác giả có tuổi đã tẽn tò bước đến bên ông, cúi đầu, bày tỏ sự kính trọng của mình rồi rụt rè đưa cho nhà văn bậc thầy một bản thảo cuốn sách mới viết về cái chết của một ngôi sao Hollywood.   Hai người họ đều xúng xính trong những bộ trang phục cầu kỳ và được là ủi kỹ. Với lối chưng diện đó, Sheldon xứng đáng được gọi là "bảnh bảo" - một từ ông rất thích dùng trong các tiểu thuyết của mình. Nhưng ánh mắt của những thực khách có mặt tại bữa tiệc không nấn ná lâu ở Sheldon, người ta còn mải bàn luận về điều gì đó vừa đọc được trên tạp chí In Touch.   Sheldon có thể là một tài năng bậc thầy trong việc phóng các tiểu thuyết của mình lên bảng xếp hạng best-seller nhưng ngày hôm đó, ông thực sự không nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý. Những ai đã đọc sách của Aimee Bender, Dave Eggers và Nick Hornby tất nhiên sẽ không bao giờ đọc bất cứ thứ gì Sheldon viết. Nhưng tôi tự hỏi, không biết bao nhiêu người say mê Mật mã Da Vinci từng lén lút mở những "chiếc nồi hơi" mà Sheldon "sản xuất" ra. Sheldon qua đời, nghĩa là thời đại huy hoàng của nền văn học bình dân Mỹ mất đi một trong những cây bút cuối cùng.   Sinh năm 1917, Sheldon thuộc về một thế hệ nhà văn tôn sùng (và cả ghen tỵ nữa) với những tên tuổi nổi tiếng trên văn đàn Mỹ như Steinbeck và Hemingway. Nhưng họ cũng là những người sẵn sàng dựa vào chút tài năng của mình để biến văn đàn thành một sàn kinh doanh nhằm hốt bạc. Thực chất, mẫu hình của Sheldon là Irving Wallace và Harold Robbins. Và những cụm từ được dùng nhiều nhất trong các điếu văn dành cho ông như "ướt át, vô giá trị" đã chứng tỏ, ông là tác giả điển hình của những cuốn tiểu thuyết được người ta ưỡn ẹo đọc trên bãi biển hoặc cạnh các bể bơi.   Những trang viết của Sheldon chưa từng làm hài lòng các nhà phê bình chân chính. Không một đứa con tinh thần nào của ông cơ hồ sống được thêm 100 năm nữa kể từ thời điểm này. Có chăng, lúc đó, ông chỉ còn được người ta nhắc đến như một ví dụ điển hình cho những tác giả từng lọt vào danh sách best-seller của Mỹ. Chính vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi trong bộ sưu tập giải thưởng của Sydney Sheldon, dù đã có giải Oscar và Tony, sẽ không bao giờ có thể có thêm một Pulitzer. Nhưng con số 300 triệu bản sách của ông được tiêu thụ tại 180 quốc gia không hẳn là con số vô nghĩa.   Ít nhất, Sheldon cũng phải có những ảnh hưởng nhất định trên văn đàn Mỹ. Dan Brown có thể phá vỡ kỷ lục cũ của Sheldon với cuốn Mật mã Da vinci 53 tuần năm trên bảng xếp hạng best-seller nhưng Brown chắc chắn mắc nợ người đàn ông đã tạo ra cái mà các nhà phê bình gọi là "thứ rác rưởi lắm người đọc".   Sheldon học ở trường đời nhiều hơn là ở các trường học. Dù trải qua rất nhiều nghề nhưng viết lách vẫn là mục đích hướng tới của ông. Từ một người đọc bản thảo với thu nhập 17 USD mỗi tuần, ông dần trở thành một tác giả kịch bản, nhà văn. Trước khi chết, tải sản của ông lên tới 3 tỷ USD - một con số mà cả Dan Brown lẫn J.K. Rowling đều khó lòng mà theo kịp.   Thế nhưng, ở tuổi 17, sau khi đã trải qua rất nhiều lỗi lầm trong đời. Bi quan với khả năng trở thành nhà văn của mình, Sidney Sheldon rơi vào trầm cảm và đã tìm cách tự vẫn. Nhưng bố ông kịp xuất hiện trước khi nhà văn kịp nhấm nháp một lô thuốc ngủ với rượu whisky. Nếu không, thế giới sẽ không biết đến một "hiện tượng Sidney Sheldon".   Mời các bạn đón đọc Sứ Giá của Thần Chết của tác giả Sidney Sheldon.