Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cò Súng Tử Thần

“Cò súng tử thần” là một tiểu thuyết trinh thám kể về nhân vật chính “James Bond” đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế lại là một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế. James Bond đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ để biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ, đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế là lại một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là lúc cả thế giới đã bão hòa. Mặt trời đã xuống tới đường chân trời, luồng ánh sáng đỏ mềm mại trườn trên lớp sóng triều, phía cao tít bên trên đàn chim đang vẽ nên những hình kỷ hà ngẫu nhiên trên bầu trời quang. Gió đã ngừng thổi và cái nóng buổi chiều trở nên ngột ngạt, ngập trong khói xăng và bụi. Xuyên qua bầu không khí đó, chiếc Crosley màu lam bất ngờ còn lại một mình chạy theo đường 13, hướng từ biển vào đất liền. Crosley là một chiếc xe nhỏ, xấu, mũi dài, khoang vuông, thân đã bị gỉ sét ăn thủng. Người lái xe, đang gập người trên vô lăng, mắt không rời khỏi con đường phía trước, đã mua nó với giá ba trăm đô la. Tay bán hàng thề thốt rằng chiếc xe có thể chạy sáu mươi cây số chỉ với ba lít xăng và còn có thể tăng tốc lên tám mươi ki lô mét một giờ. Tất nhiên là hắn nói dối… với hàm răng hoàn hảo và nụ cười thân thiện của một con phe tỉnh lẻ. Chiếc Crosley chẳng tăng tốc được thêm chút nào ngay cả trên đường lao dốc, nữa là ở đây, gần với bờ Đông Virginia, nơi địa hình đã trở nên bằng phẳng suốt nhiều cây số. Người lái xe có thể là một giáo sư hoặc một thủ thư. Gã có vẻ ngoài của một kẻ chủ yếu sống trong nhà với làn da xanh xao, những ngón tay ám nicotine và cặp kính theo thời gian đã từ từ chìm vào mũi cho đến khi trở thành một phần vĩnh viễn của khuôn mặt. Tóc gã đã thưa, lộ ra những vết đồi mồi trên trán. Gã là Thomas Keller. Mặc dù hiện đang mang hộ chiếu Mỹ, gã sinh ra tại Đức và vẫn nói tiếng mẹ đẻ trôi chảy hơn nói thứ tiếng của đất nước đã nuôi nấng gã. Không rời tay lái, Keller lật tay liếc nhìn chiếc đồng hồ quân sự Elgin 16 chân kính mà gã mua tại một cửa hiệu cầm đồ ở Salisbury, gần như chắc chắn bị vứt lại đó bởi một quân nhân đang gặp vận đen. Gã rất đúng giờ. Gã nhìn thấy lối rẽ ngay phía trước và bật xi nhan. Sau một giờ nữa thôi, gã nghĩ, gã sẽ có đủ tiền để mua một chiếc xe tử tế và một chiếc đồng hồ tử tế - đồng hồ Thụy Sĩ, tất nhiên, có thể là Heuer hoặc Rolex gì đó - và cuối cùng, một cuộc sống tử tế. Gã dừng lại trước một quán ăn, một cái hộp đẹp đẽ màu bạc trông như vừa mới lấy ra từ sau xe tải. Tên quán - Lucie - được uốn bằng đèn neon hồng ngay trên bốn món ăn đã định hình nền ẩm thực Mỹ đối với hầu hết cư dân của nó, bất kể là họ sống ở bang nào: Bánh kẹp, Xúc xích, Sữa lắc và Khoai chiên. Gã ra khỏi xe, áo sơ mi hơi bị dính vào lớp vỏ bọc ghế bằng nhựa vynil, và nhặt áo khoác để trên ghế trước. Gã đứng lặng một lúc trong không khí ấm nóng, lắng nghe một đoạn nhạc phát ra từ chiếc máy hát tự động, và nghĩ đến hành trình đã đưa gã đến đây. Thomas Keller vừa tốt nghiệp với tấm bằng vật lý và kỹ sư thì gặp được thứ rồi sẽ trở thành niềm đam mê lớn của đời gã. Chuyện xảy ra tại rạp Harmonie ở Sachsenhausen nơi gã cùng một cô gái xinh đẹp tới để xem bộ phim mới của Fritz Lang, Frau im Mond, Người đàn bà trên mặt trăng. Bộ phim bắt đầu được năm phút là gã đã quên tiệt cô gái, và vì thế, cả hy vọng được sờ soạng cô sau đó ngoài bãi đỗ xe của rạp. Thay vào đó, cảnh trên màn hình chiếu một quả tên lửa nhiều tầng đang rời khỏi quỹ đạo trái đất đã đánh thức thứ gì đó bên trong gã và từ đó trở đi hoàn toàn chiếm lĩnh gã. Có thể nói rằng gã đã được phóng đi, bằng một sức mạnh không thể cưỡng lại, đầu tiên là tới Đại học Tổng hợp Berlin, sau đó tới Verein für Raumschiffahrt - Hiệp hội Du hành Không gian - và cuối cùng là tới bờ biển Baltic và cảng biển Peenemünde. Khi đó, nghiên cứu tên lửa của Đức đã có tiến bộ hơn hẳn, vì mặc dù Hiệp ước Versailles bị nhiều người căm ghét đã đặt ra rất nhiều hạn chế đối với việc phát triển vũ khí nhưng du hành không gian lại được miễn trừ. Điều này tạo thuận lợi cho quân đội Đức, họ đã nhanh chóng nhận ra rằng tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng được phóng đi từ một bệ phóng tạm thời và tương đối đơn giản, có thể bay xa và nhanh hơn nhiều loại đạn pháo, đem tải trọng thuốc nổ của nó đến mọi thành phố lớn ở châu Âu. Keller ba mươi sáu tuổi khi gã gặp người phụ trách chương trình không gian của Đức: kỹ sư tên lửa (và là một thành viên SS-Sturmbannführer) Wernher von Braun. Con trai của một bá tước Phổ, von Braun xuất thân từ một gia đình đã từng tham chiến từ thế kỷ 13 và chưa bao giờ đánh mất những đặc trưng quý tộc của mình. Ông ta luôn đi lại khệnh khạng, quát mắng tất cả những ai tranh cãi với mình và có thể trở nên thô bạo lạnh lùng khi rơi vào một tâm trạng nhất định. Nhưng đồng thời ông ta lại vô cùng đam mê công việc, luôn đòi hỏi những điều tốt nhất từ bản thân và từ những người xung quanh. Keller kính trọng ông ta vậy nhưng cũng sợ hãi không kém. Tất nhiên, trong thời gian đó một tay hạ sĩ người Áo đã lên nắm quyền và nước Đức đang có chiến tranh. Nhưng chẳng có chuyện gì thực sự làm Keller quan tâm. Cũng giống như nhiều học giả và các nhà vật lý khác, những người bạn hiếm hoi, gã không quan tâm nhiều đến thế giới xung quanh, và nếu như Hitler lại chuyển tiền - mười một triệu mác Đức trích từ Không lực và quân đội - vào các thiết bị đánh chặn bằng tên lửa và tên lửa đạn đạo thì gã sẵn sàng lờ đi những mối bận tâm kém hấp dẫn khác của đảng Quốc xã. Thực sự là khi cuối cùng đã đến được Peenemünde, lúc những quả tên lửa V-2 đầu tiên rời bệ phóng vào mùa hè năm 1944, gã chưa từng nghĩ đến sự chết chóc và tàn phá mà chúng sẽ đem đến với trọng tải một tấn của mình. Gã là một nghệ sĩ và đây là tấm toan của gã. Việc ngắm nhìn các vụ phóng đã cho gã một giây phút xuất thần tinh khiết: những đám mây khói trắng đầy những tia lửa nhỏ từ bộ đánh lửa đột nhiên đổ xô lại với nhau thành một ngọn lửa đỏ rực rỡ, dây cáp bung ra và một tạo vật xinh đẹp, lịch lãm được tung lên bầu trời. Những rung động xuyên qua gã. Làn da gã dường như sống dậy, gã cảm thấy phấn khích khi biết rằng mình là một trong số ít các kỹ thuật viên đã giúp tạo ra nó, rằng các động cơ sẽ tạo ra công suất đáng kinh ngạc 800.000 mã lực và rằng tên lửa sẽ sớm đạt được năm lần tốc độ của âm thanh. Đám dân thường London sẽ không thể biết gì về sự hoàn hảo, về thiên tài vĩ đại của thứ vũ khí đã giết họ. Thường thì Keller không thể kiềm chế được mình. Gã rơi những giọt lệ của niềm vui thuần khiết. Một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc, Keller tự hỏi không hiểu gã có phải đối mặt với hậu quả nhất định nào đó hay không. Thực ra gã đã có mặt khi von Braun đầu hàng người Mỹ và sau đó bị họ thẩm vấn vì cũng nằm trong Danh sách Đen nổi tiếng, mật danh dành cho các nhà khoa học và kỹ sư Đức có vai trò quan trọng đặc biệt. Nhưng gã không quá lo lắng. Những gì von Braun và nhóm của ông ta đã tạo ra quá có giá trị đối với Đồng minh và gã tin rằng công việc của họ bằng cách nào đó vẫn sẽ được tiếp tục. Gã đã đúng. Hai người họ được thả cùng một ngày. Cùng với hơn một chục nhà khoa học và kỹ thuật viên khác họ đã được đưa ra khỏi nước Đức trên cùng một chuyến bay, và cuối cùng đã tới Fort Bliss, một căn cứ quân sự Mỹ gần Al Paso, nơi mà với những ông chủ mới và trong một số trường hợp ít ỏi khác - nhân thân mới, họ lại tiếp tục công việc từ đúng chỗ trước đó họ đã bị ngắt quãng một cách thô bạo. Giờ Keller năm mươi tư và đã đi gần hết sự nghiệp. Gã sống ở Mỹ đã mười hai năm nhưng chưa bị ai nhận nhầm là người Mỹ. Gã có diện mạo và hình thể của một người nước ngoài, vụng về và chậm chạp. Lối nói chậm rãi và nặng khẩu âm luôn tiết lộ nguồn gốc của gã ngay khi gã bắt đầu mở miệng. Cũng chẳng quan trọng lắm. Chiến tranh đã đủ xa rồi. Người ta cũng chẳng còn quan tâm nữa. Vả lại, trong ý thức gã đã đồng hóa theo cách tốt hơn - và điều đó làm cho gã hoàn toàn thỏa mãn. Ba năm sau khi đến Mỹ, gã lấy một cô tiếp viên Mỹ bán cocktail mà gã gặp ở El Paso làm vợ và hai người họ chuyển đến sống trong một ngôi nhà phong cách thuần Mỹ gần Salisbury, bang Maryland. Keller được thuê làm giám sát viên tổng hợp trong Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân (NRL) tại bãi phóng tên lửa của cơ quan này trên đảo Wallops. Gã vừa ra khỏi văn phòng một giờ trước. Giờ thì gã đã đến nơi. Gã bước vào quán và ngay lập tức cảm thấy cái mát lạnh của điều hòa không khí, đúng lúc máy hát tự động phát một bài mới của Everly Brothers. Tạm biệt tình yêu Tạm biệt hạnh phúc… Keller không quan tâm đến âm nhạc Mỹ nhưng gần như không thể thoát được giai điệu này suốt mấy tháng nay. Gã cảm thấy lời bài hát có vẻ lạc quẻ một cách lạ lùng, vì gã đến đây với hy vọng và kỳ vọng vào điều hoàn toàn trái ngược. Người gã đến gặp đang chờ gã ở đúng chỗ mà hắn đã nói, cái bàn cạnh cửa sổ góc. Hắn mặc bộ vét hiệu Brooks Brothers, áo sơ mi cài hết cúc và đi giày lười, kiểu trang phục thường xuyên của hắn. Hắn đến sớm. Trên mặt bàn có một tờ báo và hắn đã điền được một phần trò ô chữ. Keller biết đến hắn với tên gọi Harry Johnson, nhưng gã không chắc đấy có phải tên thật của hắn hay không. Gã giơ tay chào, hơi lúng túng bước trên nền gạch đỏ trắng đến phía bên kia của cái bàn. Đến phút cuối gã mới nhận ra mình đã quên khoác áo vét. Thôi kệ, đằng nào thì cũng đã quá muộn. Gã quyết tâm không làm gì tỏ ra thiếu chuẩn bị hoặc vụng về. Gã đặt cái áo lên ghế bên cạnh. “Anh thế nào, Keller?” Johnson nói đều đều, giọng Manhattan. “Tôi ổn, cảm ơn anh.” Harry Johnson trẻ hơn gã đến mươi mười lăm tuổi, nhưng trông lại có vẻ già dặn hơn với khuôn mặt dài quá mức, má đầy nếp nhăn và mái tóc bạc cắt ngắn. Hắn đang xoay cái bút bi giữa những ngón tay. Trên một ngón tay, hắn đeo chiếc nhẫn vàng có khắc hình. “Thủ đô của Venezuela là gì?” hắn hỏi. “Sao cơ?” Keller sửng sốt. “Thứ chín từ trên xuống, thủ đô của Venezuela. Từ bảy chữ cái bắt đầu bằng chữ C.” “Tôi không biết,” Keller cáu kỉnh nói. “Tôi không chơi ô chữ.” “Này, không sao. Tôi chỉ hỏi thôi mà.” Johnson rời mắt khỏi ô chữ. “Thế nào, xong rồi chứ?” Lần này thì Keller hiểu ý hắn. Đây là lần thứ tư họ gặp nhau. Keller vẫn nhớ lần đầu tiên, một cuộc gặp có vẻ như tình cờ trong một quán rượu trung tâm Salisbury. Johnson bằng cách nào đó đã ở đó, ngay ghế bên. Không thể biết được hắn vào từ lúc nào. Họ đã nói chuyện với nhau. Johnson nói hắn là một doanh nhân, cũng có thể đúng là vậy thật nhưng thực sự thì nó cũng gần như chẳng có ý nghĩa gì. Hắn có vẻ phấn khích khi biết Keller là một nhà khoa học ngành tên lửa và sau ly thứ hai - Johnson đòi được trả tiền - hắn đưa ra một loạt câu hỏi đầy quan tâm nhưng vô hại, không có gì khiến cho gã phải nghi ngờ. Đương nhiên mọi thứ đã được sắp xếp từ trước. Hắn đã biết tất cả về Keller từ trước khi họ mở miệng nói chuyện với nhau. Đến cuối buổi tối hai người đã thu xếp gặp nhau lần nữa. Sao lại không cơ chứ? Johnson là một người bạn tốt, và khi ra về hắn gần như vô tình nói rằng mình có thể đề nghị việc này. “Có thể kiếm cho anh một ít tiền. Mới chợt nghĩ vậy thôi. Lần sau ta trao đổi nhé.” Nhưng đến lần sau đó hắn không nói gì. Họ so sánh vợ con, gia đình, lương lậu, khát vọng. Toàn là những câu chuyện của đàn ông, mặc dù người nói chính vẫn là Keller. Chỉ đến lần thứ ba khi họ đã hiểu nhau rõ hơn thì Johnson mới đưa ra lời đề nghị của mình. Đáng ra khi đó Keller phải tới gặp cảnh sát, hoặc hợp lý hơn nữa là phòng An ninh Hải quân ở phía Nam đảo Wallops. Tất nhiên là gã không làm thế. Johnson, hay những người đứng sau hắn, đã chọn Keller vì họ biết gã sẽ không làm thế. Có khi họ đã tìm hiểu gã nhiều tháng trời rồi. Chính xác thì họ là ai? Keller không quan tâm. Cũng chính chứng chỉ nhìn tầm gần này đã giúp gã qua được cuộc chiến. Gã không có nhu cầu nhìn toàn cảnh. Không quan trọng. Gã đơn giản chỉ tập trung vào đề nghị được đặt ra cho mình và hai trăm năm mươi ngàn đô la, miễn thuế, mà gã có thể có được nếu như làm theo đề nghị đó. Gã đồng ý gần như ngay lập tức và chỉ cần một buổi gặp nữa để thảo luận chi tiết. Rất thẳng thắn. Điều mà gã được đề nghị làm không hề dễ dàng. Nó cần có sự hiểu biết sâu sắc về cơ học chất rắn và ứng suất kéo - nhưng đó chính là lĩnh vực chuyên môn của gã. Và sau khi gã đã đo đếm tỉ mỉ mọi yếu tố thì bản thân công việc này vẫn là một vấn đề. Nhưng may mắn thì gã cũng sẽ có được bốn hoặc năm phút một mình. Có rủi ro đáng kể - nhưng phần thưởng cũng lớn. Đó là tính toán ban đầu của gã. “Thế là xong rồi chứ?” “Phải.” Keller gật đầu. “Nhiệm vụ hóa ra lại dễ hơn tội tưởng nhiều. Tôi từng được vào xưởng lắp ráp trong lúc tập dượt cứu hỏa.” Gã dừng lời. Gã đã lộ ra sự nhiệt tình quá mức và khiến điều gã đã làm được có nguy cơ mất giá. “Tất nhiên là tôi phải làm nhanh. Người ta luôn luôn tăng cường an ninh trong khi chuẩn bị phóng. Và phải làm rất cẩn thận. Có khả năng, anh hiểu chứ, người ta sẽ đi kiểm tra vào phút chót. Việc tôi làm cần phải… unsichtbar.” Gã tìm từ trong tiếng Anh. “Tàng hình.” “Động cơ sẽ hỏng chứ?” “Không. Nhưng nó sẽ không hoạt động tử tế. Lượng thuốc phóng được bơm vào buồng đốt sẽ không đủ. Tôi đã giải thích điều đó cho anh rồi. Kết quả sẽ đúng như mong muốn.” Hai người cùng im lặng khi hầu bàn đưa cà phê và nước lạnh đến. Hai cuốn thực đơn để mở trước mặt. Họ không có ý định ăn uống gì. “Thời điểm phóng thì thế nào?” Johnson hỏi. Keller nhún vai. Gã không thích cà phê. Gã đã nốc hết bao nhiêu lít món này từ khi đến Mỹ, trong lúc hút thuốc và làm việc thâu đêm? Gã đẩy cái cốc sang một bên. “Vẫn còn mười hai ngày nữa từ hôm nay. Tôi đã xem dự báo. Thời tiết tốt. Nhưng thời tiết thì không bao giờ chắc chắn được. Hướng và tốc độ gió rất quan trọng, và nếu như điều kiện không thích hợp thì…” Gã hạ giọng bỏ lửng câu nói. “Nhưng đấy không phải chuyện tôi quan tâm. Tôi đã làm điều anh yêu cầu. Anh có đem tiền không?” Người đàn ông kia không nói gì. Hắn nhìn chằm chằm gã người Đức. Sau đó hắn chìa tay ra và gỡ cặp kính mát gài trên túi áo phía trước. Đó là tín hiệu cho thấy công việc của họ đã kết thúc. “Dưới gầm bàn có một cái cặp.” “Còn tiền thì sao?” “Trong đấy hết.” Johnson toan ra về nhưng Keller ngăn hắn lại. “Tôi phải nói với anh một chuyện,” gã nói. “Quan trọng đấy.” Gã đã tập dượt điều sắp nói. Gã khá tự hào về cách nói mà gã đã nghĩ ra, về việc gã đã suy nghĩ điều đó thật kỹ càng. “Tôi sẽ không đếm tiền. Tôi sẽ coi như đã đủ. Nhưng đồng thời, tôi phải cảnh báo anh. Tôi không biết ai thuê anh, tôi không quan tâm. Rõ ràng là anh làm việc cho những người nghiêm túc. Nhưng một phần tư triệu đô là rất nhiều tiền. Cược đặt rất cao. Và vì sự an toàn của bản thân mình anh có thể chọn cách bịt miệng tôi lại. Không phải khó lắm, phải không? Theo tôi hiểu, có thể trong cái cặp ấy có thuốc nổ và tôi có thể chết trước khi ra đến xe. Hoặc có thể sẽ có tai nạn giao thông.” “Thế nên tôi muốn anh biết rằng tôi đã ghi lại tất cả những gì xảy ra giữa chúng ta với nhau và tất cả mọi thứ tôi được yêu cầu thực hiện. Không những tôi miêu tả anh, tôi còn chụp ảnh. Tôi mong là anh sẽ tha thứ cho sự lừa đảo nhỏ này của tôi, nhưng tôi chắc chắn anh sẽ thông cảm cho tình thế của tôi. Tôi cũng ghi lại thông tin về xe của anh, biển số xe. Tất cả những thứ đó được gửi ở chỗ một người bạn của tôi và gã đã được dặn là sẽ chuyển tất cả cho cơ quan có thẩm quyền nếu có điều gì đó đáng ngờ xảy ra cho tôi. Anh hiểu tôi nói gì chứ? Sẽ không có chuyện tên lửa bị hỏng nữa. Và dù cảnh sát phải tốn chút thời gian để tìm ra anh thì họ cũng đã biết về sự tồn tại của anh và sẽ theo anh mãi mãi.” Johnson yên lặng nghe hết. Keller nói xong Johnson ngờ vực chằm chằm nhìn gã. Đó là lần đầu tiên hắn thể hiện cảm xúc thực của mình. “Anh nghĩ chúng tôi là ai?” hắn hỏi. “Anh nghĩ chúng tôi là gangster à? Tôi phải nói với anh, Tom, anh đọc nhầm loại sách rồi. Chúng tôi yêu cầu anh cung cấp cho chúng tôi một dịch vụ. Anh cung cấp cho chúng tôi dịch vụ đó và anh đã được trả tiền. Nhân tiện mà nói, anh nhầm rồi. Một phần tư triệu đô cũng không phải quá nhiều trong chuyện này. Anh sẽ gặp lại chúng tôi chỉ trong trường hợp anh không làm như chúng ta đã thỏa thuận - và nếu đúng như vậy, trong trường hợp ấy, cuộc sống của anh rất có thể sẽ bị nguy hiểm một chút. Nhưng cho dù anh không tin chúng tôi thì chúng tôi vẫn có niềm tin tuyệt đối nơi anh.” Hắn ném vài đồng xu ra bàn để thanh toán tiền cà phê, cuộn tờ báo lại rồi đứng lên. “Tạm biệt.” “Chờ đã…” Keller cảm thấy xấu hổ. “Caracas,” gã nói. “Caracas?” “Ô chữ còn thiếu của anh. Thủ đô Venezuela.” Johnson gật đầu. “Tất nhiên rồi. Cảm ơn anh.” Keller nhìn hắn đi khỏi. Đúng là bài phát biểu của gã có chút khoa trương, được lấy cảm hứng từ mấy bộ phim gã từng cùng xem với vợ. Và nó cũng không thật. Không có bản ghi nào về những gì đã xảy ra, không có ảnh, không có người bạn nào đang chờ để đến gặp cảnh sát. Gã chỉ nghĩ rằng sự đe dọa này có thể là đủ để bảo vệ mình khi cần. Liệu gã có sai không? Liệu gã có tự biến mình thành thằng ngốc không? Sau đó gã nhớ đến tiền. Gã mò mẫm dưới gầm bàn và cảm thấy các khớp tay mình va phải thứ gì đó đặt sát tường. Cái cặp! Gã kéo nó ra và bật khóa, hé mở vừa đủ để có thể liếc vào trong. Có vẻ có đủ tiền trong đó: tiền năm mươi đô, được buộc thành cọc gọn gàng. Gã đóng cặp, khoác áo vét lên rồi vội vã ra ngoài. Không có dấu hiệu nào của Harry Johnson ngoài bãi đỗ. Gã ra xe, ném chiếc cặp vào ghế trước rồi chui vào xe. Mất hai mươi phút để gã lái xe về đến nhà, nơi gã biết Gloria đang chờ gã. Nghĩ đến Gloria, gã mỉm cười và thư giãn một chút sau tay lái. Xét cho cùng, mọi thứ đều là cho nàng. Nàng trẻ hơn gã mười lăm tuổi, thấp và hơi mũm mĩm theo cái cách làm gã thấy phấn khích, ngực và hông lúc nào cũng căng đầy dưới lớp quần áo. Khi hai người gặp nhau thì nàng đã ở giữa độ tuổi hai mươi, và khi gã kể với nàng về mình thì nàng thấy rạo rực. Này là một người đàn ông được đưa lậu từ châu Âu đến, làm việc cho một cơ sở nghiên cứu tuyệt mật chế tạo tên lửa không gian. Nó giống như tình tiết trong những cuốn sách bìa mềm nàng thích đọc, và mặc dù thực ra gã là người Đức, thiếu hấp dẫn và đôi khi có những yêu cầu làm nàng đau, điều đó có vẻ cũng chẳng quan trọng gì. Họ đã hạnh phúc khi lấy nhau và cả hai đã cùng quyết định chuyển lên phía Bắc, chọn Salisbury vì gần đảo Wallops. Họ đã mua nhà và cùng chọn nội thất. Nhưng từ đó trở đi mọi việc giữa họ đã không còn mấy tốt đẹp. Họ không thể có con, nàng thì phát chán vì ngôi nhà, vì cái công việc quản lý một nhà hàng địa phương hầu như không có khách trừ những ngày cuối tuần. Nàng không muốn nghe bất cứ điều gì về tên lửa và dạo này nàng chỉ miễn cưỡng đến xem các vụ phóng. Nhưng Keller vẫn còn yêu nàng. Dĩ nhiên là gã si mê nàng. Theo một cách nào đó, gã coi nàng như biểu tượng cao nhất về vị thế, sự công nhận đối với công trình của đời người. Nàng là một người vợ Mỹ. Gã xứng đáng có nàng. Gã kể với nàng về người bạn mới của mình, Harry Johnson, về đề nghị gã nhận được. Có nằm mơ gã cũng không dám nhận nếu như không có sự chấp thuận của nàng. Gã mừng là gã đã làm như vậy. Tiền cược là vô cùng cao. Gã sẽ phạm một tội ác mà nếu bị phát hiện gã sẽ bị kết tội phản quốc. Nhưng ngay từ đầu Gloria đã tỏ ra quyết tâm hơn cả gã, thúc giục gã khi lòng dũng cảm của gã không còn. Hàng tuần nay hai người họ đã trao đổi về tương lai mà họ sẽ xây dựng cùng nhau, về việc họ sẽ làm gì với số tiền, họ phải thận trọng để không tiêu hết nó quá sớm ra sao. Keller thấy hình như vợ gã đã biến đổi. Giờ thì gã nhớ lại được nàng như thế nào khi lần đầu tiên gã để mắt đến nàng. Tất cả năng lượng và lebensfreude - sức sống - của nàng đã quay trở lại. Và nàng lại khôi phục được sự thèm khát giường chiếu, hiến dâng cho gã với sự buông thả như trong đêm tân hôn của họ. Nàng đang đợi gã ngoài cửa căn nhà gỗ một cửa sổ. Đó là một ngôi nhà như bước thẳng ra từ catalogue nhà đất với khu vườn gọn gàng phía trước và dãy hàng rào màu trắng. Keller đỗ xe trên lối vào nhà và lại với nàng, tay xách cặp. Họ hôn nhau trên ngưỡng cửa. Nàng mặc chiếc váy hoa ban ngày, chiết eo. Mái tóc vàng óng của nàng đổ những lọn xoắn lên vai. Ngay lúc đó Keller thèm muốn nàng hơn bao giờ hết. “Anh làm được rồi,” nàng nói. “Phải.” “Anh đếm chưa?” “Ở đây cả mà. Không cần.” “Anh phải đếm chứ.” “Mình có thể đếm trong nhà.” Họ cùng nhau vào nhà, vào phòng khách gọn gàng có sofa, bàn cà phê và chiếc ti vi phủ tấm che cửa lật. Họ mở cặp và đếm tiền. Gloria đứng tì vai và mông vào gã, gã vòng tay ôm nàng. Khi đã chắc chắn mọi thứ đều ổn, nàng vặn người hôn má gã. “Em đã để sâm banh sẵn trong tủ lạnh rồi đấy,” nàng nói. Gã theo nàng vào bếp, đứng đó trong khi nàng lục lọi ngăn kéo. “Không thấy cái mở nút chai chết tiệt ấy đâu cả,” nàng nói. Hắn lại chỗ nàng, và chỉ khi tới nơi thì hắn mới nhớ ra là để mở sâm banh thì đâu có cần đến mở nút chai, và đó cũng là lúc nàng quay lại còn gã thì cảm thấy có cái gì đó đè vào mình. Gã cúi nhìn và thấy, không thể nào như vậy, một cái cán dao thò ra từ bụng mình. Hẳn phải có nhầm lẫn gì rồi. Không thể như thế được. Nhưng khi ngẩng lên và nhìn thấy mắt nàng thì gã biết đây chính là sự thật. Gã cố gắng cất tiếng nhưng máu đã ộc ra từ cơ thể, và cùng với nó là hơi thở và sự sống của gã. Vẫn còn ôm lấy nàng, gã khuỵu xuống, rồi, khi nàng bước sang một bên, gã đổ vật xuống sàn. Gloria nhìn xuống gã và rùng mình. Không phải cảnh tượng máu gã tràn trên lớp vải sơn làm ả ghê sợ. Mà là ký ức về đôi bàn tay gã trên thân thể ả, mùi chua chua trong hơi thở của gã. Chẳng còn gì nhiều để làm. Ả đã mua sẵn xăng. Ả vẩy xăng lên tay chồng đã chết, lên bếp, phòng khách, cầu thang. Rồi ả lấy chiếc va li, đóng gói vài thứ định mang theo và đổ tiền vào trong. Cuối cùng, ả bật diêm. Ả lấy chiếc Crosley của chồng, cho dù đấy là một cái xe kinh khủng. Ít nhất thì ả cũng có thể trông chờ vào nó để đến California, nơi ả dự tính sẽ bắt đầu cuộc đời mới. Ả đi tới cuối con phố và rẽ ra đường lớn mà không nhìn lại. Và thế là không nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên khi chúng bùng lên phía sau mình và làn khói đang lan tỏa vào không khí ban đêm.   Mời các bạn đón đọc Cò Súng Tử Thần của tác giả Anthony Horowitz & Phạm Hồng Anh (dịch).  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tượng Thần Sụp Đổ
Trong buổi yến tiệc tổ chức tại Cung điện, Hoàng tử George bị bắt quả tang đang ôm thi thể của Guinevere - vị phu nhân trẻ xinh đẹp của Hầu tước Anglessey. Trên cổ nàng đeo một sợi dây chuyền bằng bạc mặt đá xanh. Chủ nhân trước của nó là mẹ của Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin. Bà đã đeo nó vào ngày bà mất, cách đó 17 năm. Bị ám ảnh bởi quá khứ, Sebastian quyết định điều tra cả vụ ám sát phu nhân Hầu tước Anglessey lẫn bí ẩn về cái chết của mẹ mình. Những manh mối dẫn anh đi từ cung điện xa hoa tới những khu ổ chuột ở London, từ ngôi nhà thanh lịch của nạn nhân ở Mayfair đến một quán trọ tồi tàn ở Smithfield. Cho đến khi một vụ án mạng nữa xảy ra, Sebastian phát hiện ra đằng sau tất cả những chuyện này là một âm mưu đen tối không chỉ đe dọa đến những người thân của anh mà còn có nguy cơ lật đổ cả nền quân chủ. *** C.S. Harris (tên thật là Candice Proctor) là tác giả của hơn 20 cuốn tiểu thuyết. Bà có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực lịch sử châu Âu và cũng là tác giả của những cuốn sách lịch sử nghiên cứu về phụ nữ trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Sách của bà có mặt khắp nơi trên thế giới và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Một trong những series nổi tiếng nhất của Harris là Sebastian St. Cyr. Nhân vật trung tâm của tựa sách này là Sebastian, một quý tộc người Anh. Anh hiểu rõ sự rối ren trong tầng lớp thượng lưu và đồng thời cũng dành lòng trắc ẩn cho những con người khốn cùng trong xã hội. Tượng thần sụp đổ (tựa gốc: When Gods Die) là một tựa sách trong series Sebastian St. Cyr. Câu chuyện bắt đầu khi thi thể Guinevere – vị phu nhân trẻ tuổi, xinh đẹp của Hầu tước Anglessey già nua – đang nằm trong tay Hoàng tử George, vị hoàng thân nhiếp chính ăn chơi của nước Anh. Tác phẩm: Tượng Thần Sụp Đổ Khi Thiên Thần Sợ Hãi Lời Nguyền Của Người Cá ... *** Chuyện gì sẽ xảy ra khi vị thần trong lòng ta chết đi? Khi ta có một người là cả mặt trăng, mặt trời và các vì tinh tú trong thế giới của ta, thế rồi một ngày ta lại phát hiện ra m Charles – lãnh chúa Jarvis, người nắm thực quyền trong bóng tối – nghi ngờ có âm mưu đằng sau vụ án này nhằm vào Hoàng gia để đảo chính. Sebastian St. Cyr quyết định điều tra vụ giết người vì nạn nhân đeo một món đồ trang sức lạ mắt có ý nghĩa rất đặc biệt với anh. Cùng với những trợ thủ đắc lực, Sebastian dần khám phá ra bí ẩn đằng sau vụ án mạng và món đồ trang sức đặc biệt kia. C.S. Harris đã tạo nên một nước Anh thế kỷ 19 hết sức sống động. Từ vẻ hào nhoáng của tầng lớp quý tộc đến sự nghèo khổ đến khó tin ở những khu ổ chuột, dưới ngòi bút của Harris, tất cả dần hiện lên qua từng trang sách. Ngoài ra, tất cả các nhân vật đều được khắc họa chi tiết, giúp người đọc nắm bắt được nội dung. Dù có rất nhiều nhân vật nhưng mạch truyện không bị rối. Trong từng chương, các tình tiết và manh mối được khéo léo hé lộ, người đọc sẽ không thể rời mắt. Không những thế, câu chuyện sẽ đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, đặc biệt là về danh tính hung thủ và động cơ đằng sau. Tượng thần sụp đổ không chỉ xoay quanh hành trình phá án căng thẳng mà còn lồng ghép những câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng. Sebastian và Kat Boleyn yêu nhau sâu đậm nhưng không thể đến được bên nhau do rào cản địa vị. Kat cũng có những bí mật của riêng cô. Tình yêu của Guinevere dành cho người bạn thời ấu đã khiến cô mất mạng. Tuy nhiên, chủ đề lớn nhất của tác phẩm chính là sự phản bội. Niềm tin của Guinevere dành cho người mà cô yêu mến nhất đã khiến cô trả giá bằng mạng sống. Sebastian cũng phải đối diện với nỗi đau trong quá khứ cũng vì người anh luôn yêu thương và tôn trọng. Người con gái anh yêu cũng giấu những bí mật động trời. Review Hương Ly *** Một nhà văn luôn mang ơn rất nhiều người và điều này đặc biệt đúng với tôi và cuốn sách này, một cuốn sách mà trước khi được phát hành đã phải trải qua một khoảng thời gian vô cùng khó khăn sau khi cơn bão Katrina càn quét và phá hủy mảnh đất quê hương tôi - New Orleans. Tôi vô cùng cảm kích: Biên tập viên của tôi, Ellen Edwards, người đã hết lòng thông cảm và luôn cố gắng hết sức để có thể hợp tác làm việc với tôi bất chấp những gián đoạn vì bão, di tản và tái xây dựng, cũng như đã luôn đưa ra những lời khuyên sáng suốt và sâu sắc. Cuốn sách sẽ không thể đủ đầy được như hôm nay nếu không có chị. Cảm ơn chị. Con gái tôi, Samantha, người đã không ngại ngần đón cả một gia đình ba thế hệ với năm con mèo về căn hộ sinh viên Baton Rouge bé xíu của mình và con gái Danielle của tôi, người đã ngủ trên một chiếc ghế gỗ nhiều tuần mà không một lời phàn nàn. Hai đứa đều là những chiến binh kiên cường. Mẹ tôi, bà Bernadine Wegmann Proctor, người đã cho phép chúng tôi đến chiếm cứ căn nhà gỗ một tầng may mắn thoát khỏi lũ quét của bà vô thời hạn và chị gái tôi, Penelope Williamson, vì đã ở bên lúc chúng tôi cần chị nhất. Cảm ơn hai người. Emily và Bruce Toth (và Beauregard và Ngài Fussy), những người đã hào phóng mở rộng cánh cửa ngôi nhà Baton Gouge của họ cho rất nhiều thành viên gia đình chúng tôi cùng hai chú mèo và người đại diện của tôi, Helen Breitwiezer. Những người bạn như Ed và Lynn Lindahl, Paula và Adriel Woodman đã cho chúng tôi mượn nhà của họ từ Beverly Hills cho tới Arizona và cả Alabama. Tấm lòng hào phóng của các bạn làm tôi vô cùng cảm động. Cảm ơn các bạn. Tất cả những người bạn và gia đình thân thích đã liên lạc với tôi trong những ngày tối tăm điên rồ sau trận đại hồng thủy để bày tỏ tình cảm và tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho tôi. Đặc biệt cảm ơn những người bạn cũ Tom Hudson, Nick Fielder và Tony Lutfi, những người bạn từ nước Úc xa xôi Virginia Taylor, Trish Mullin và Gill Cooper và cả anh họ tôi, Greg Whitlock. Mọi người đã giúp tôi nhiều hơn những gì mọi người tưởng tượng. Ben Woodman, người đã bỏ ngang kì nghỉ Giáng sinh của mình để gỡ lớp cách nhiệt cùng những tấm ván gỗ đã mốc meo và Jon Stebbins, người không chỉ dành hết thời gian rảnh của mình hết tuần này đến tuần khác để giúp chúng tôi xây lại ngôi nhà mà còn vực tinh thần của chúng tôi dậy lúc chúng tôi chán nản nhất. Những người bạn như vậy thật sự là hiếm có khó tìm. Các thành viên của hội Nhà văn Wordsmiths họp mặt thứ Hai hàng tuần, Kathleen Davis, Elora Fink, Charles Gramlich, Laura Joh Rowland và Emily Toth, những người vẫn cố giữ liên lạc, dù cho ban đầu chỉ có thể thực hiện qua e-mail. Tôi thực lòng cảm kích trước tấm lòng, những cuộc trò chuyện và sự cổ vũ của các bạn nữa. Cảm ơn. Và cuối cùng, là chồng tôi, Steve Harris, người không chỉ là một cặp bài trùng trong việc dựng cốt truyện với tôi mà còn là một vị phù thủy tài ba với máy móc. Có lẽ em đã không sống nổi qua cơn bão Katrina lẫn những ngày sau đó nếu không có anh bên mình. Cảm ơn anh. Mời các bạn đón đọc Tượng Thần Sụp Đổ của tác giả C. S. Harris.
Mai Hương và Lê Phong
"Đọc truyện trinh thám của Thế Lữ có thể thấy tuy mức độ đậm nhạt khác nhau trong từng tác phẩm nhưng chi tiết này, chi tiết khác đều gợi liên tưởng mạnh mẽ đến những truyện tiêu biểu nhất làm nên tên tuổi Edgar Poe... Mở đầu và chứng cứ cũng như cách phá án đều phảng phất các truyện nêu trên của Poe. Mọi bí mật đều được phanh phui nhờ vào tài quan sát, phán đoán tâm lý nhân vật và những giả thuyết lập luận chặt chẽ logic của nhà thám tử nghiệp dư chứ không phải những thanh tra nhà nước, cảnh sát trưởng chuyên nghiệp. Cuối cùng hung thủ phải lộ mặt đúng như tiên đoán của Dupin, hay Lê Phong. Ở phần kết thúc truyện, việc tập họp đông đủ mọi người để công bố tên hung thủ tương tự như trong Mi cũng là một con người." (Hoàng Kim Oanh) *** Lê Phong một phóng viên chuyên mảng phóng sự của báo Thời thế, có trụ sở tại Hà Nội. Phong là người nhanh nhẹn, vui vẻ, có đôi mắt sáng, linh động, có tài quan sát. Với tài năng đó, Lê Phong thích tham gia vào các vụ án bí ẩn và khám phá các sự thật bị che giấu. Lê Phong là người hâm mộ Sherlock Holmes và áp dụng phương pháp suy luận của Holmes để suy luận. Cộng sự với Lê Phong là Văn Bình, là nhân vật đóng vai trò ghi chép lại quá trình điều tra vụ án.   Với truyện trinh thám, Thế Lữ đã sáng tạo ra cặp nhân vật thám tử Lê Phong và Mai Hương – một chàng và một nàng - được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích. Họ là những người thông minh, có óc phán đoán và khả năng suy luận cao. Họ say mê nghề nghiệp, họ quyết liệt trong việc truy tìm cái ác để bảo vệ và đề cao cái thiện. Nhưng cũng cần phải nhìn ra rằng, cặp nhân vật Lê Phong và Mai Hương chính là hiện thân cho kiểu con người lãng mạn có tính lý tưởng của Tự Lực văn đoàn: trẻ trung, được giáo dục theo mô hình châu Âu, yêu tự do dân chủ, yêu khoa học và luôn hướng tới sự tiến bộ xã hội. ” “    Học tập, vay mượn mô hình tiểu thuyết trinh thám phương Tây, cả Thế Lữ và Phạm Cao Củng đều xây dựng những series truyện về các thám tử như thám tử Lê Phong (Thế Lữ), thám tử Kỳ Phát (Phạm Cao Củng). Cả hai thám tử đều thông minh, lý trí, giỏi suy luận, phán đoán và lập luận logic để điều tra phá án. Thông qua hai thám tử, người đọc dễ dàng nhận thấy dáng dấp thám tử Sherlock Holmes của Conan Doyle. Điều này cũng không có gì là lạ, khi mà quá trình hiện đại hóa văn học đòi hỏi mọi thể loại phải diễn ra gấp rút, phải nhanh chóng đưa văn học Việt Nam hiện đại bước vào quỹ đạo của văn học thế giới. Thành công của Thế Lữ và Phạm Cao Củng là điều đáng ghi nhận và trân trọng. *** Mai Hương và Lê Phong gồm có: 1. Người Phải Chết 2. Người Thiếu Nữ Kỳ Dị 3. Phóng Viên Và Trinh Thám 4. Mỹ Châu Và Trọng Thủy 5. Tin Dữ Trong Giây Nói 6. Ta Còn Gặp Nhau 7. Mặt Đối Mặt 8. Cái Bóng Theo Hình 9. Những Chuyện Kín Của Cô Mai Hương 10. Lê Phong Nổi Giận 11. M.H: Mai Hương 12. Lý Tuyết Loan 13. Năm Bộ Sách Quý 14. Trá Hình 15. Mắc Bẩy 16. Những Phút Cuối Cùng Của Lê Phong 17. Thế Rồi... 18. Những Câu Chuyện Lạ Lùng Của Lê Phong 19. Con Chim Xanh 20. Mai Hương Và Lê Phong *** Thế Lữ, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ) là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và Máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Truyện của Thế Lữ, theo cách xếp quen thuộc được chia làm 3 thể loại chính: truyện kinh dị (Vàng và Máu, Bên đường Thiên Lôi), truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm...) và truyện lãng mạn núi rừng (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh). *** Trời lạnh nhưng nắng ráo. Ánh mặt trời buổi sáng tươi cười gội xuống những chòm lá cây thu, tươi cười chiếu lên các mặt tường cao lộng lẫy, vuốt ve màu áo của những cô nhan sắc đi cạnh những cậu lịch sự, và soi lấp loáng những xe hơi tối tân đang đỗ ở trước Đông Dương đại học đường. Lớp dinh cơ nghiêm trang yên lặng này hôm đó bỗng như nhuộm màu trai trẻ. Một người thiếu niên ăn mặc chải chuốt quần áo "flanelle"xám, đầu trần mượt láng, tay đeo một chiếc máy ảnh contax nhỏ, nhanh nhẹn bước lên thềm. Chàng ta vui vẻ chào bọn người đứng tụ họp ở bên cửa chính, nhẹ nhàng len qua mấy bọn người khác, lúc vào tới"phòng đợi" .-một cái phòng trống trơn rất cao và rất rộng-Chàng ta đứng ghé vào cần bên phảI là cửa giảng đường. Hai tay xoa vào nhau ra chiều thích ý, người thiếu niên lẩm bẩm: -Mình đã tưởng đến muộn thế mà chưa có gì. Ngoắt quay ra, chàng ta nhìn mấy ông giáo sư, mặc áo rộng đen bằng đôi mắt kính cẩn, nhưng hơi có vẻ ranh mãnh khôi hài rồi lại nhìn mấy người sinh viên trường y học đứng gần đấy. Họ đạo mạo trong bộ lễ phục mới và khấp khởi sượng sùng như mấy chú rể đến nhà tân nhân. Đó là mấy ông y khoa bác sĩ mới đỗ kỳ vừa rồi. Những tiếng nói chuyện vang lên . Câu chuyện phần nhiều nói về cuộc phát bằng long trọng đầu tiên ở nước Việt Nam và về bài luận án rất có giá trị của Trần Thế Đoàn một người đỗ đầu y khoa bác sĩ. Mấy người trông đây trông đó tỏ ý ngạc nhiên: - Gần chín giờ rồi. Mà này, anh có thấy Đoàn đâu không? -Không, có lẽ chưa đến. -Sao bây giờ chưa đến nhỉ? Anh này có vẻ một danh nhân muốn cho mọi người chờ đợi mình... Mấy tiếng cười lanh lảnh ở gần đó. Người thiếu niên chú ý thì thấy một cô thiếu nữ đang đọc tấm bảng yết tên những nhà tân khoa. -Trần Thế Đoàn. Cái tên nghe lạ nhỉ. Rồi cô hỏi một người bên cạnh: - Người thế nào anh biết không? -Biết. Người còn trẻ lắm, giỏi trai nữa. Anh Đoàn không có vẻ một nhà thông thái như các cô tưởng đâu. - Thế chúng tôi tưởng thế nào? Anh chỉ hay nói mò. Một nhà thông thái cũng như người thường chứ sao? Mà nhà thông thái bây giờ có lẽ lại lịch sự hơn các anh nữa. Nhưng không để ý đến vẻ náo động ấy, người thiếu niên cứ đi đi lại lại một cách lơ đãng, thỉnh thoảng đứng lại biên mấy chữ lên một cuốn sổ tay. Rồi lại thản nhiên lững thững đi trong phòng như đi giữa chỗ vắng. Tuy vậy, ai nhận kỹ, cũng thấy đôi mắt anh ta vẫn tinh nhanh và quan sát từng cử chỉ của mọi người, quan sát rất chóng nhưng rất chu đáo. Nét mặt linh động với cái miệng mím lại chốc chốc thoáng qua một nụ cười tỏ ra anh đương nghĩ đến một chuyện gì, mà chuyện ấy hẳn là vuilắm. Đi tới cạnh bọn phóng viên, họ đến đó để làm bài tường thuật, người thiếu niên bỗng trông ra ngoài đường, vẻ mặt sáng hẳn lên, rối vội vã như có việc khẩn cấp vô cùng, anh chàng chạy ra cửa, ở đó, người ta đang dồn lại bắt tay một người mới đến, hấp tấp và lúng túng trong bộ Smoking mới may. Người thiếu niên đến trước mặt người kia lễ phép nói: -Thưa ông, nếu tôi không nhầm, ông chính là ông Trần Thế Đoàn? Người mặc Smoking nhã nhặn thưa: - Vâng, chính tôi. - Còn những ba phút nữa mới mở cuộc phát bằng, vậy tôi muốn xin ông ba phút ấy. - Nhưng... - Ông đừng từ chối, ông Toàn quyền chưa đến. Tôi có một việc rất quan trọng muốn thưa với ông. Rồi dìu Đoàn vào một góc phòng, người thiếu niên mỉm cười rút sổ tay đưa mắt nhìn Đoàn và nói: - Xin ông thứ lỗi cho, tôi biết ông vội lắm, nhưng ông còn đủ thời giờ. Tôi là một người đi nhặt tin cho báo "Thời Thế" và muốn phỏng vấn ông ở đây. Đoàn có vẻ ngạc nhiên và tỏ ý khó chịu: -Ông phỏng vấn tôi? - Vâng, tôi biết ông vẫn khiêm tốn, ông không ưa việc vô ích ấy, và không nhận cho ai phỏng vấn bao giờ. Nhưng báo "Thời Thế" là một báo đứng đắn rất xứng đáng được truyền những lời quý hóa của một nhà thông thái của quốc dân. Không để Đoàn ngắt lời, người thiếu niên lại nói: -Vả lại cuộc phỏng vấn sẽ rất nhanh chóng. Hai phút là cùng. Tôi sẽ đề tựa là: "Cuộc phỏng vấn vội vàng hai phút với bác sĩ Đoàn, tác giả tập luận án về những ánh sáng trong sự kinh nghiệm của y học Đông Dương". Thưa ông, những điều dẫn chứng trong y lý đó là do sách tây dịch hay ông đọc trong nguyên bản? Giọng nói thành thực và đôi mắt vui vẻ của người thiếu niên, khiến bác sĩ Đoàn không nỡ cự tuyệt. Đoàn ôn tồn đáp: -Tôi đọc toàn ở các sách Tàu. -Tôi cũng đoán thế. Nhưng chữ nho ông mới học, hay trước kia ông đã học rồi. . . Trần Thế Đoàn đáp: -Tôi tưởng điều đó có quan hệ gì... - Có chứ, xin ông cứ cho biết... - Tôi cần phải khảo cứu đến các sách Tàu nên mới để tâm học cẩn thận, trước kia thì không. -Đó là một điều chưa báo nào biết mà nói đến. Ngoài việc y học, ông còn để tâm đến khoa học nào khác nữa không -Có,có vật lý học và hóa học tôi vẫn chuyên chú đến, có hai khoa ấy giúp ích cho những cuộc nghiên cứu của tôi sau này rất nhiều, nhưng bây giờ hết giờ rồi, nếu ông muốn, tôi xin đáp sau khi về nhà . Người thiếu niên bỗng hỏi một câu đột nhiên: - Lúc nãy ông ở nhà viết một bức thư dài phải không ? Ông cần viết đến nỗi chút nữa thì lỡ mất một việc quan trọng là hôm nay có cuộc phát bằng long trọng. Đoàn kinh ngạc nhìn người thiếu niên thì anh ta tiếp: - Mà lại vừa nhận được một bức thư lạ, một bức thư làm cho ông bối rối có phải không?   Mời các bạn đón đọc Mai Hương và Lê Phong của tác giả Thế Lữ.
Lê Phong
"Đọc truyện trinh thám của Thế Lữ có thể thấy tuy mức độ đậm nhạt khác nhau trong từng tác phẩm nhưng chi tiết này, chi tiết khác đều gợi liên tưởng mạnh mẽ đến những truyện tiêu biểu nhất làm nên tên tuổi Edgar Poe... Mở đầu và chứng cứ cũng như cách phá án đều phảng phất các truyện nêu trên của Poe. Mọi bí mật đều được phanh phui nhờ vào tài quan sát, phán đoán tâm lý nhân vật và những giả thuyết lập luận chặt chẽ logic của nhà thám tử nghiệp dư chứ không phải những thanh tra nhà nước, cảnh sát trưởng chuyên nghiệp. Cuối cùng hung thủ phải lộ mặt đúng như tiên đoán của Dupin, hay Lê Phong. Ở phần kết thúc truyện, việc tập họp đông đủ mọi người để công bố tên hung thủ tương tự như trong Mi cũng là một con người." (Hoàng Kim Oanh) *** Lê Phong một phóng viên chuyên mảng phóng sự của báo Thời thế, có trụ sở tại Hà Nội. Phong là người nhanh nhẹn, vui vẻ, có đôi mắt sáng, linh động, có tài quan sát. Với tài năng đó, Lê Phong thích tham gia vào các vụ án bí ẩn và khám phá các sự thật bị che giấu. Lê Phong là người hâm mộ Sherlock Holmes và áp dụng phương pháp suy luận của Holmes để suy luận. Cộng sự với Lê Phong là Văn Bình, là nhân vật đóng vai trò ghi chép lại quá trình điều tra vụ án.   Với truyện trinh thám, Thế Lữ đã sáng tạo ra cặp nhân vật thám tử Lê Phong và Mai Hương – một chàng và một nàng - được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích. Họ là những người thông minh, có óc phán đoán và khả năng suy luận cao. Họ say mê nghề nghiệp, họ quyết liệt trong việc truy tìm cái ác để bảo vệ và đề cao cái thiện. Nhưng cũng cần phải nhìn ra rằng, cặp nhân vật Lê Phong và Mai Hương chính là hiện thân cho kiểu con người lãng mạn có tính lý tưởng của Tự Lực văn đoàn: trẻ trung, được giáo dục theo mô hình châu Âu, yêu tự do dân chủ, yêu khoa học và luôn hướng tới sự tiến bộ xã hội. ” “    Học tập, vay mượn mô hình tiểu thuyết trinh thám phương Tây, cả Thế Lữ và Phạm Cao Củng đều xây dựng những series truyện về các thám tử như thám tử Lê Phong (Thế Lữ), thám tử Kỳ Phát (Phạm Cao Củng). Cả hai thám tử đều thông minh, lý trí, giỏi suy luận, phán đoán và lập luận logic để điều tra phá án. Thông qua hai thám tử, người đọc dễ dàng nhận thấy dáng dấp thám tử Sherlock Holmes của Conan Doyle. Điều này cũng không có gì là lạ, khi mà quá trình hiện đại hóa văn học đòi hỏi mọi thể loại phải diễn ra gấp rút, phải nhanh chóng đưa văn học Việt Nam hiện đại bước vào quỹ đạo của văn học thế giới. Thành công của Thế Lữ và Phạm Cao Củng là điều đáng ghi nhận và trân trọng. *** Tổng hợp tất cả các truyện của Thế Lữ thuộc serie Lê Phong. Đây là một trong những truyện trinh thám đầu tiên của Việt Nam, viết từ năm 1935, xoay quanh một phóng viên có tài trinh thám... Gồm 6 truyện được đăng trên báo Ngày Nay:  - Lê Phong phóng viên - Những nét chữ - Mai Hương và Lê Phong - Lê Phong làm thơ - Đòn hẹn - Gói thuốc lá *** Thế Lữ, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ) là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và Máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Truyện của Thế Lữ, theo cách xếp quen thuộc được chia làm 3 thể loại chính: truyện kinh dị (Vàng và Máu, Bên đường Thiên Lôi), truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm...) và truyện lãng mạn núi rừng (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh). *** Một cách xin việc kỳ khôi Ngày nào cũng vậy, cứ đúng mười một giờ sáng là anh ta đã có mặt trong phòng khách tòa báo. Anh ta nói là muốn giáp mặt ông chủ nhiệm để hỏi một việc cần lắm. Việc cần ấy, chúng tôi đã biết: Anh ta muốn xin làm một phóng viên. Ông chủ nhiệm tiếp anh ta có một lần rồi bảo tôi: - Ít ra họ cũng phải hiểu rằng ở đây có thừa người rồi, phóng viên không phải là người khó kiếm đến thế. Hôm sau, anh ta lại đến, rồi hôm sau nữa: lần nào ông chủ nhiệm cũng không có nhà. Nghĩa là ông chủ nhiệm vẫn có nhà, nhưng không muốn anh ta quấy rầy mãi. Chúng tôi hễ cứ thấy đồng hồ đánh mười một tiếng là lại nhìn nhau cười. Xuống phòng khách ngó xem thì tôi đã thấy anh ngồi vần cái mũ trong tay, hỏi tôi một cách lo ngại: - Hôm nay hẳn ông chủ nhiệm lại đi vắng? - Vâng, ông ấy vừa mới ra xong. Anh ta mỉm cười một bên mép rồi đứng lên thong thả bước ra, ngừng lại toan hỏi tôi một câu, nhưng bỗng đội mũ đi thẳng. Sau cùng anh ta không đợi ở phòng khách nữa, lèn đứng ngay ngoài cửa tòa soạn, đợi có người vào là vào theo liền. Anh ta vừa mới nói: - Thưa ông... Thì ông chủ nhiệm ngắt lời: - Thưa ông, người ta không bao giờ nên tự tiện quá đến thế. Ở đây không phải là một cửa hàng. - Nhưng đây là một tòa báo. - Nhà báo không phải để mở cửa cho hết thảy mọi người. Anh ta khẩn khoản: - Vâng, tôi biết thế này là đường đột quá, nhưng xin ông cho biết rằng tôi muốn làm phóng viên, mà nhất là trong tòa báo ông. Người ta cần phải chọn mặt mà gửi vàng. Tôi muốn đem tài của mình dùng cho báo ông trước nhất... - Nhưng tôi biết tài ông to đến bực nào? - Ông cứ dùng thử xem. - Dùng thử xem!... (Ông chủ nhiệm đã thấy nóng tai). Không, chúng tôi không thiếu người, ông có lòng muốn giúp, xin cảm ơn. Nhưng tôi không... tôi chưa thể nhận ông được. Trong lúc ông chủ nhiệm cau mày cúi xuống đọc những bản thảo trên bàn thì anh ta lại nói: - Tôi chắc ông sẽ vừa lòng khi thấy những việc tôi làm sau này... Ông cứ giao việc cho tôi xem... Mà nếu ông cần biết ngay học thức của tôi... Không nhịn nữa, ông chủ nhiệm nói gọn một câu: - Thưa ông... tôi đi vắng. Chàng thiếu niên sẽ mỉm một nụ cười mai mỉa, nét mặt vẫn tươi tỉnh, cúi chào chúng tôi, rồi quay ra. Ông chủ nhiệm lắc đầu: - Con người kỳ khôi đến thế là cùng. Nhưng thôi, thoát nợ. --- Sáng hôm sau, chúng tôi không thấy anh ta đến nữa. Bị cự tuyệt một cách rõ ràng như thế, tất nhiên anh ta biết không còn hi vọng gì. Chiều hôm ấy, đáng nhẽ không còn việc gì phải làm ngay, chúng tôi lại bận hơn các buổi khác. Bài vở của số báo sau đã đưa sắp chữ cả, bỗng được tin bị bỏ gần hết những mục quan trọng (hồi ấy, ty kiểm duyệt vẫn còn). Ông chủ nhiệm vừa càu nhàu vừa lục những bài dự phòng ra coi lại. Nhưng vẫn không đủ. Đang lúc chia tay mỗi người một việc cùng nhau cặm cụi viêt lấy viết để, thì cửa tòa soạn bật mở, chàng thiếu niên hôm qua bước nhanh vào. Ông chủ nhiệm giơ hai tay một chán nản toan sừng sộ hỏi, thì người kia nhoẻn miệng cười. Tức mình, ông để mặc chàng ta đó, đứng dậy gọi người thư ký vào toan cự thì chàng ta cau: - Lỗi đó ở cả tôi. Tôi xin ra ngay. Nhưng xem chừng ông bân lắm thì phải. - Tôi chẳng bận gì hết. Nhưng... - Không hề gì. nếu ông vội, xin cứ cho tôi biết... Hay để cho tôi cùng viết đỡ các ông này cho chóng xong. Chàng ta nói rất dịu dàng, miệng tươi cười rất thực tàh, khiến ông chủ nhiệm cũng phải nguôi giận. - Nếu vậy, ông ngồi xuống đó, viết cho tôi ba cột về việc chủ hiệu cầm đồ lừa đảo... Ông biết viết ấy chứ? - Biết. - Nhưng ông có biết tôn chỉ của báo tôi không đã? - Định làm cho một tờ báo lại không biết tôn chỉ báo ấy sao! - Được, ông thuật về việc này qua loa thôi, còn thì phải công kích dữ. - Tôi hiểu. - Một giờ nữa phải viết xong. Bốn mươi phút sau, người thiếu niên đã đưa cho ông chủ nhiệm ba tờ giấy đặc chữ. Ông chủ nhiệm cầm lấy đọc một lần, hơi gật đầu. Đó là triệu chứng hay. Ông ký bức điện tín người ta vừa đem vào, đọc nốt trang sau cùng, sửa qua mấy chữ viết không được rõ. Đọc xong, ông lấy bút chì xanh viết mấy chữ lên cạnh trang đầu, đứng nhìn người thiếu niên bằng đôi mắt gườm gườm nhưng không có vẻ ác cảm. Anh ta se sẽ hỏi: - Thưa ông, bài tôi viết... - Không tồi lắm. Nhưng ông nhất định làm phóng viên cho báo tôi? - Vâng... Sao? - Vậy ngay bây giờ ông có thể đi Bắc Ninh được không? - Đi điều tra? - Phải, mà phải đi rất nhanh. Người ta mới bắt được một tụi buôn thuốc phiện lậu rất quan trọng.   Mời các bạn đón đọc Lê Phong của tác giả Thế Lữ.
Vụ Án Mạng Ở Lữ Quán Kairotei
Một tác phẩm đậm chất trinh thám cổ điển vua trinh thám Nhật Bản Keigo Higashino. Bản di chúc về khối tài sản kếch xù của ông Ichigahara Takaaki sẽ được công bố vào đúng lễ 49 ngày của ông tại lữ quán Kairotei, nơi sinh thời ông vô cùng yêu mến. Nhưng một lá thư hé lộ sự thật bị chôn vùi dưới lớp tro tàn của vụ hỏa hoạn ở lữ quán này nửa năm trước, xuất hiện đúng buổi tối trước ngày công bố di chúc đã khiến mọi chuyện trở nên rối tung. Cũng trong đêm đó, một người đã bị sát hại. Ngọn lửa ngờ vực bắt đầu âm ỉ cháy lan, một thảm kịch khác đã được soạn sẵn và chờ hồi kết để hạ màn... *** Higashino Keigo là tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu Nhật Bản với nhiều tác phẩm hàng triệu bản bán ra trong và ngoài nước, gặt hái vô vàn giải thưởng. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung đều có diễn biến bất ngờ, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, làm nên nét riêng biệt trong chất văn của Higashino Keigo. *** Tổng giám đốc một công ty lớn qua đời để lại khối tài sản kếch xù. Và bản di chúc phân chia số tài sản ấy sẽ được công bố tại lữ quán Kairotei vào 49 ngày mất của ông, địa điểm gắn bó thân thiết với ông trong những ngày quá vãng. Nhưng tất cả tình yêu, đam mê, dục vọng của những người liên quan cùng bản di chúc ấy đã bị nhấn chìm vào biển lửa bi kịch quá khứ và thảm kịch ở hiện tại. Không giống như nhiều tác phẩm khác của tác giả Higashino Keigo, tác phẩm thường được kể theo ngôi thứ ba, người kể chuyện mang điểm nhìn toàn tri bao quát toàn bộ diễn tiến câu chuyện, tường thuật lại chi tiết quá trình điều tra cũng như suy nghĩ cả phía người điều tra lẫn những bên liên quan đến vụ án. Thì Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei (cũng như Án mạng mười một chữ), được kể theo ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện xưng tôi, tự thuật lại hành trình theo đuổi vụ án của người đó. Và một điểm đặc biệt nữa, nhân vật xưng “tôi” ở đây là một nhân vật nữ, chịu nhiều bất hạnh, phải tự gồng mình lên để đòi lại công lý cho bi kịch chính bản thân cô phải chịu đựng. Đó là cô gái 32 tuổi tài năng, thư ký riêng của tổng giám đốc Ichigahara Takaaki – Kiriyu Eriko. Cô gái ấy đã bị chính người đàn ông cô yêu mưu đồ ám sát giữa đêm tối tại lữ quán Kairotei. Sau khi bóp cổ cô, anh ta châm lửa hòng tự sát và thiêu rụi toàn bộ chứng cứ. Nhưng may mắn, Eriko sống sót một cách thần kì; tuy vậy, cô cũng bị hủy hoại nhân hình trong vụ hỏa hoạn. Tuy nhiên, với Eriko, đó không phải là kết thúc bởi ẩn tình, sự thật đằng sau vụ án, yêu hận tình thù cùng trách nhiệm cô mang với tổng giám đốc Ichigahara Takaaki vẫn còn đè nặng trên vai cô. Bởi vậy, Eriko đã hi sinh tất cả, kể cả tên gọi, kể cả danh tính, hóa thân vào vai bà lão Honma Kikuyo đã qua đời, nửa năm sau quay lại lữ quán Kairotei vào ngày công bố di chúc của ông Ichigahara nhằm báo thù và đòi lại công lý. Chính vì đặt điểm nhìn vào vai người phụ nữ đã mất tất cả, để con người đó tự xưng tôi mà tràn ngập trong cuốn tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei là những suy nghĩ riêng, là suy luận cá nhân, là ánh nhìn chủ quan qua con mắt của một kẻ như chỉ còn sống mà chờ đợi giây phút khám phá ra tất cả ẩn tình, như chỉ tồn tại để đợi chờ phút giây tự tay cô chấm dứt tất cả. Cũng từ ngôi kể thứ nhất đấy mà điểm nhìn trần thuật cũng dễ dàng hướng ra bên ngoài theo ánh nhìn, sự đánh giá của nhân vật đồng thời nhanh chóng trở thành điểm nhìn bên trong khắc họa nội tâm con người. Và, một câu chuyện trinh thám, được kể từ ngôi thứ nhất đặt lên vai nạn nhân, người bị hại mà chất bi của truyện lại càng thêm sâu sắc. Quá khứ đau thương, vụ hỏa hoạn cách đấy nửa năm tước đi của Eriko tất cả: tình yêu, tương lai, tuổi trẻ. Câu chuyện vì thế như đã vượt ra ngoài một tiểu thuyết trinh thám đơn thuần mà mang đặc điểm của một cuốn tự truyện: tản mát trong suy nghĩ, đứt gãy trong hành động, sự đan xen liên tiếp quá khứ và hiện tại… Bởi vậy sự cực đoan, sự hồ nghi tất thảy, thậm chí là sự lạnh lùng trong ý nghĩa mà cô mang, rất dễ tạo sự đồng cảm nơi độc giả. Án nằm trong án, truyện nằm trong truyện. Ngay từ những chương truyện đầu tiên, thậm chí ngay trong lời bạt tóm tắt tác phẩm nằm ở trang bìa 4 cuốn Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei Nhã Nam xuất bản đã phần nào hé lộ cấu trúc tác phẩm: Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei mang hình thức án lồng trong án, câu chuyện này là kết quả của câu chuyện trước đồng thời mở ra câu chuyện về sau. Cấu trúc như vậy đã tạo nên tính lớp lang, móc xích cho toàn bộ cuốn sách gần 300 trang. Có thể nói, không gian vật lý trong tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei khá hẹp, gần như mọi hoạt động, sự việc đều diễn ra nơi khuôn viên lữ quán. Vậy nhưng, không gian hẹp nơi lữ quán Kairotei đã chứng kiến trận hỏa hoạn gần như nhấn chìm một cặp đôi nam nữ, lữ quán đó cũng là nơi xảy ra liên tiếp hai vụ án mạng kinh hoảng, và nơi ấy lần nữa lại chìm trong ngọn lửa của lòng tham và hận thù. Vụ án trong quá khứ, vụ án ngày hiện tại, tất cả lại mở ra những nhánh truyện khác nhau về hàng loạt bí ẩn khó thể cắt nghĩa, khó thể công khai ngoài ánh sáng. Từ bí mật mà người đàn ông quá cố Takaaki vẫn luôn cất giấu tới bí mật Eriko quyết định chôn chặt cùng vụ hỏa hoạn năm nào. Từ mối tình oan trái gắn liền với lữ quán Kairotei tới sự thật câu chuyện về người đàn ông tự vẫn trong hỏa hoạn – Satonaka Jiro. Và giữa thảm án liên hoàn, những góc khuất mà các nhân vật đã luôn lảng tránh cũng dần hé lộ. Để ta nhận ra, những con người xuất hiện trên trang sách của Higashino Keigo, dẫu là kẻ thủ ác hay nạn nhân hay đơn thuần chỉ là những con người liên đới, vô tình xuất hiện tại lữ quán Kairotei, không một ai không có mảng tối trong quá khứ, trong đời sống, trong tâm hồn. Ai cũng có suy nghĩ và có phần ích kỷ riêng. Lữ quán Kairotei, bi kịch tình yêu và thảm kịch một gia đình, như lát cắt của đời sống xã hội Nhật Bản vào giai đoạn chuyển mình thời suy thoái kinh tế. Bên cạnh đấy, cấu trúc truyện lồng truyện ở Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei còn nằm trong khía cạnh: hành động trả thù của Eriko không chỉ diễn ra song song với hành động của hung thủ thật sự mà còn song song với hành động của cảnh sát. Khác với nhiều tác phẩm trinh thám, cảnh sát chỉ nắm giữ vai trò làm nền, thì ở cuốn tiểu thuyết này, họ là những nhân vật thật sự sống động, có những suy luận đặc biệt sắc sảo giúp thúc đẩy tiến trình phát triển câu chuyện cùng đẩy nhanh đến cao trào suy luận, hành động của nhân vật chính, xưng “tôi”. Dẫu rằng họ vẫn là kẻ đến sau, dẫu rằng đến cuối cùng họ cũng không thể ngăn nổi thảm kịch định sẵn, thì tuyến nhân vật cảnh sát vẫn góp một nhánh truyện quan trọng trong cả mạch truyện chảy trôi 288 trang của tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei. Bi kịch tình yêu và thảm kịch lòng tham chìm vào biển lửa. Có lẽ, không phải nói quá nếu như khẳng định rằng: Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei là tổng hòa của bi kịch tình yêu và lòng tham con người. Vì một chuyện tình vụng trộm dang dở mà kéo theo sự dở dang của hàng loạt số phận. Vì một tình yêu không nhận được hồi đáp, người ta quyết định phản bội lại yêu thương khi xưa. Vì một tình yêu ngỡ rằng là yêu, đã đẩy người ta xuống bờ vực của hận thù không thoát… Và lòng tham, có thể khiến người ta trở mặt lại với chính thân thích ruột thịt, với chính bạn bè, bán rẻ cả lương tri, bán rẻ cả nhân cách. Nhưng yêu thương hay hận thù, tham lam vô độ cuối cùng cũng chìm vào biển lửa nơi lữ quán Kairotei. Lửa cháy thiêu rụi quá khứ đau thương, ngọn lửa lan rộng cuốn đi thực tại nghiệt ngã. Hỉ nộ ái ố tham sân si, yêu hận tình thù đến thế, cuối cùng đều chìm vào biển lửa. Để rồi tất cả hóa thành hư vô, như cái kết của tiểu thuyết Vụ án ở lữ quán Kairotei vẫn còn để ngỏ về số phận những người ở lại, và cho độc giả tự suy ngẫm, tự viết tiếp cái kết của cuốn sách sau những bi kịch liên tiếp nơi lữ quán hữu tình mà lòng người như nguội lạnh, vô tình ấy. Mọt Mọt Review *** Tôi là một bà lão. Một bà lão sắp bước sang tuổi 70. Đưa vé bước qua cửa soát, cảm giác căng thẳng trong tôi vơi đi được phần nào. Dù tự tin là trông mình rất ổn, nhưng để cho chắc không bị nhìn thấu tâm can, tôi cứ thế cúi gằm mặt trong tàu điện. Đám học sinh ngồi ở hàng ghế đối diện mải mê đọc tạp chí truyện tranh như chẳng thèm đếm xỉa gì đến bà lão này. Không được căng thẳng như thế này. Phải tự tin lên. Cứ đường đường chính chính là ổn. Làm được như thế sẽ không bị ai nghi ngờ. Bên cạnh quầy bán vé có một chiếc gương. Làm bộ thản nhiên, tôi ra đứng trước đó. “Coi này, nhìn ở góc độ nào cũng chỉ thấy một cụ bà cực phẩm là đây.” Không được mất tự tin. Bí quyết chỉ có vậy. Nói rồi, tôi nhìn xung quanh phía trước nhà ga. Không phải một nhà ga to lớn gì. Đại khái cũng có một cái nom giống bùng binh phía trước nhưng không đến mức có đường riêng cho các tuyến xe buýt chạy qua. “Chỗ này mà thuận tiện hơn thì có lẽ khách du lịch sẽ đông lên đấy” tôi đã nói suốt với ông Takaaki như thế, nhưng ông chỉ cười rồi bảo “Nhưng chính cái kiểu dị thường ấy lại ghi điểm cho nơi này.” Tấm biển đề điểm chờ xe taxi gỉ sét khiến tôi lo lắng không biết liệu có xe nào chạy qua đây không. Nhưng chờ độ mười phút thì cũng có một xe taxi tư nhân từ phía bùng binh chạy lại. Lái xe là một người đàn ông đầu tóc bạc phơ, khuôn mặt có vẻ phúc hậu. “Xin cho tôi đến lữ quán1 Ichiharatei.” Tôi nói. “Lữ quán Ichiharatei... À, vâng.” Bác tài vừa khởi động đồng hồ tính tiền vừa hơi ngoái lại phía tôi. “Lữ quán đó giờ không còn kinh doanh nữa. Quý khách có biết không ạ?” “Vâng, tôi có biết. Từ sau vụ tai nạn đó phải không ạ?” “Là vụ hỏa hoạn đấy. Cũng được nửa năm rồi thì phải. Tôi cũng không rõ cụ thể thế nào nhưng đối với lữ quán mà nói thì quả là vận đen hết mức.” Đúng là một ông già nhiều chuyện, cả chuyện đó cũng nói ra được. Qua gương chiếu hậu, bác tài ngó nhìn phản ứng của tôi rồi dò hỏi: “Quý khách chắc không phải là người của lữ quán đâu nhỉ?” “Tôi chỉ là người quen biết với chủ lữ quán thôi.” Tôi đáp. “Ra vậy. Biết thế tôi đã không cần giải thích cặn kẽ rồi.” “À, nhưng đây cũng là lần đầu tiên tôi đến Ichiharatei.” “Chắc vậy rồi. Vì khách quen của lữ quán sẽ không gọi là Ichiharatei mà gọi là Kairotei.” “Kairotei?” “Vì lữ quán được chia thành các khu khác nhau, nối liền bằng một dãy hành lang nên được đặt tên như vậy.” “À, ra là thế.” “Lữ quán ấy nổi tiếng lắm đấy, quý khách. Nghe nói tuy không rộng đến mức cho nhiều khách đến nghỉ nhưng trước đây một nhà văn nổi tiếng nọ đã trọ ở đó trong một thời gian dài. Tôi cũng mong được một lần đến đấy nghỉ mà vẫn chưa có cơ hội.” Nói thế xong bác ta nở nụ cười tươi rói. “Dạo đó chắc vụ hỏa hoạn cũng trở thành đề tài bàn tán của vùng này bác nhỉ?” “Cũng có đấy. Vì kể ra cũng là vụ việc kỳ lạ mà.” Nói đến đây, ông ta đột nhiên thay đổi giọng điệu. “À mà thật tình, cụ thể thế nào thì tôi cũng không rõ. Nhưng nghe nói là đã được tu sửa lại như cũ rồi nên chắc không có gì phải lo lắng đâu.” Ông ta phải vội vàng chữa lời như vậy hẳn là vì đã buột miệng nói về lời đồn kỳ quái đó, sợ sau này bị phía lữ quán Kairotei để mắt đến đây mà. Chẳng mấy chốc, chiếc xe đi vào đoạn đường núi. Những con đường mấp mô nối tiếp nhau. Dân cư thì thưa thớt còn cây cối lại rậm rạp, um tùm. Đi thêm một đoạn nữa, các ngã rẽ nhỏ dần hiện ra. Đầu mỗi ngã rẽ đều dựng biển hiệu của các lữ quán. Đi qua hết dãy biển hiệu, gần đến cuối đường thì mới thấy một tấm biển mới coong đề chữ “Kairotei”. Ở góc biển hiệu còn ghi một dòng chữ nhỏ “Ichiharatei”. Tôi xuống xe trước lữ quán, nhưng không thấy có người ra đón. Tôi liền bước vào sảnh trong nhà kiểu Nhật, hai lần cất tiếng gọi. Được một lát thì nghe thấy tiếng chân vọng lại, rồi từ phía sâu bên tay phải, bà quản lý lữ quán đi ra. Tôi đột nhiên cảm thấy thân thể mình cứng đờ. Đây là cửa ải đầu tiên. Nếu không công phá được nó thì đừng mơ làm gì tiếp. Bà quản lý quỳ gối, nền nã khép hai tay lại rồi hỏi: “Có phải quý bà Honma không ạ?” Bà ấy quãng gần 50 nhưng nhờ lớp trang điểm kỳ công mà mang vẻ nhu mì trông chỉ như ngoài 30. Nhìn vậy tôi cũng có đôi chút ghen tị trong lòng. “Vâng, tôi là Honma Kikuyo.” Phải vừa giữ nguyên tư thế điềm đạm, vừa toát ra một sự thiếu sức sống đúng với cái tuổi này. Chẳng phải vì giây phút này mà mình đã luyện tập trước gương không biết bao nhiêu lần rồi sao. Cho dù đến giờ vẫn không làm được cho hoàn hảo. Một khoảng lặng trôi qua, sau đó bà quản lý nở một nụ cười tươi tắn. “Hân hạnh được đón tiếp quý khách. Quý khách đường xa đến đây chắc mệt lắm rồi đúng không ạ.” Nhìn gương mặt này, tôi chắc mẩm là mình đã thắng. Bà ta không một chút nghi ngờ. Tôi cởi giày bước lên bậc thềm, bà quản lý vẫn giữ nét mặt hồn hậu rồi đứng lên. “Vậy tôi xin phép dẫn quý khách về phòng luôn. Chúng tôi đã nhận được yêu cầu chuẩn bị phòng cao cấp cho quý khách.” “Cảm phiền bà quá.” Nói đoạn tôi cúi đầu xuống, vừa tủm tỉm cười vừa nói tiếp: “Về phòng nghỉ, tôi xin mạn phép có yêu cầu vô lối này.” “Sao cơ ạ?” Mặt bà quản lý lộ rõ vẻ bất ngờ. “Quý khách có yêu cầu gì ạ?” “Cũng chẳng phải yêu cầu gì to tát.” Tôi vẫn cúi mặt cười mỉm, rồi ra vẻ quan trọng, tôi ngẩng đầu lên. “Thật ra tôi có nghe ông nhà tôi kể đã từng nghỉ ở đây. Nghe nói quang cảnh từ phòng ông ấy nghỉ khi đó đẹp tuyệt vời, nên nhân dịp này tôi cũng muốn được nghỉ tại phòng đó.” “À, ra là vậy ạ. Tôi cũng mong sẽ đáp ứng được yêu cầu của quý khách. Phòng đó là phòng nào vậy ạ?” Ánh mắt thoáng hiện lên sự bất an, bà quản lý hỏi. “Ông nhà tôi nói là phòng Inoichi2.” Nghe tôi trả lời xong, bà ấy bối rối thấy rõ. ... Mời bạn đón đọc Vụ Án Mạng Ở Lữ Quán Kairotei của tác giả Higashino Keigo.