Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ma Cà Rồng Ở Dallas

Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Viêm Đế Quyết
Đại đạo ngàn vạn, hồng trần đến gian, sinh tử tiêu tan, duy tình sở khiên! Phong ma quật nát, quần ma loạn vũ, oán khí trùng thiên. Chấp này thiên băng địa liệt lúc, ma tộc đương đạo thời điểm, Thiếu niên trống rỗng đạt được Thái Cổ lúc mạnh nhất chi Cửu Kiếp Tiên Quyết hoành không xuất thế, Khởi tử hoàn sinh, trái tim bị một đám lửa thay thế! Đến tột cùng là người vì đó làm, vẫn là ý trời khó tránh? Một đoạn bất phàm phong ma hành trình, vì ngươi để lộ Đạo gia văn hóa thần bí màn che...... Thượng cổ luyện khí thuật chân thực tu tiên hệ thống diễn dịch, toàn diện nhất tiên pháp đạo thuật lăng thiên; Trầm bổng chập trùng âm mưu quỷ kế, biến ảo khó lường trận pháp thao lược; Khí thế rộng rãi tồn vong chi chiến, hiệp cốt nhu ruột khoáng thế tuyệt luyến. Hết thảy đều ở "Viêm Đế quyết"! ***  “Còn muốn chạy?”  Ma tôn Lạc Anh không khỏi hừ lạnh một tiếng, quanh thân máu đỏ sát khí lại phóng ra, toàn bộ thế giới lập tức liền vừa biến thành lúc trước cái kia màu máu không gian, mấy người lập tức cảm giác như là vùi lấp vũng bùn, bay trốn tốc độ trực tiếp hạ xuống gấp đôi không tới.  Ma tôn Lạc Anh đối mặt xông tới mặt sọt liễu lớn Lôi Hoàn, tùy theo cười lạnh một tiếng, ngay sau đó thân hình hoa một cái, Lôi Hoàn lại trực tiếp mặc thể mà qua.  “Cái gì!?”  Vệ Tử Dạ không khỏi kêu lên một tiếng, vội vàng muốn thao túng Lôi Hoàn quay đầu, lại nhìn thấy Ma tôn Lạc Anh cầm trong tay Hỏa Tiêm Thương vung mạnh, trực tiếp một cái hồi mã thương liền đem cái kia Lôi Hoàn bổ nổ, mà hắn bản tôn lại là dựa vào này cỗ nổ tung sản sinh mạnh mẽ sóng khí, dùng càng nhanh hơn tốc độ hướng về Phu Dịch bọn người phóng đi.    Mời các bạn đón đọc Viêm Đế Quyết của tác giả Đạp Tinh Truy Nguyệt.
Trạch Yêu Ký
Ta có nhà cũ, xuyên qua sau liền thành pháp khí, xe điện sẽ cưỡi mây đạp gió, notebook làm Phiên Thiên Ấn dùng, còn có cái thành tinh nồi cơm điện, có thể luyện đan có thể bán manh còn yêu quý trộm cái yếm; ta có cái khuôn mặt đẹp nữ hàng xóm, mang theo sáu con tiểu loli ở tại Bàn Ti Động, sát vách Bạch Tố Trinh tỷ tỷ gần nhất một lòng bức hôn, Lan Nhược Tự đẹp đẽ ma nữ em gái... ***  "Đêm trừ tịch, thật là náo nhiệt, Niên cũng nghĩ đến coi trộm một chút, thô đuôi, đầy giác, Niên là một cái đại quái thú ..."     Bất tri bất giác, lại là một năm đêm trừ tịch, chỉ có điều cùng năm ngoái tại Đông Minh Sơn qua Niên không giống, năm nay đêm trừ tịch, Hứa Tri Hồ nhưng là tại chùa Lan Nhược qua ...     Tuy nói còn chỉ là lúc chạng vạng, Xích Tỷ Nhi cùng Mộc Liễu các nàng khuyết đã bắt đầu bận túi bụi, nguyên bản có chút cũ nát chùa Lan Nhược bị trang sức đổi mới hoàn toàn, khắp nơi giăng đèn kết hoa treo đầy đèn lồng màu đỏ, liền ngay cả trong phòng bếp cũng bay tới sủi cảo nồng nặc mùi thơm ...   Mời các bạn đón đọc Trạch Yêu Ký của tác giả Thiện Thủy.
Người Bảo Hộ Tinh Linh
Câu chuyện kể về Balsa - một nữ vệ sĩ chuyên dùng giáo, vô tình cứu được hoàng tử Chagum của vương quốc Tân Yogo khỏi dòng nước dữ. Không ngờ, cậu hoàng tử Chagum này chính là “người bảo hộ tinh linh”, gánh vác một số phận kỳ lạ. Rốt cuộc tinh linh mệnh danh “kẻ bảo hộ nước”, sống dưới đáy nước sâu, trăm năm đẻ trứng một lần là thứ như thế nào? Và bí mật ẩn giấu sau lễ tế Hạ Chí của vương quốc Tân Yogo là gì? Đuổi theo hoàng tử Chagum cùng Balsa là những cái bóng của cả con người và những thế lực siêu nhiên, của hiện tại và quá khứ, của truyền thuyết và sự thật... *** | Tại sao một cuốn fantasy hay thế này lại có thể không nổi hả các bạn mình ới ời? | Tớ chọn “Người bảo hộ tinh linh” vì bìa, trường hợp hiếm hoi luôn, tức là khi đọc cuốn sách này thì tớ mù mịt về tất cả mọi thứ chỉ trừ cái bìa ôi chao trông đẹp một cách bí ẩn thế đúng chuẩn gu mình. Nhưng nếu bìa hợp gu mười phần thì nội dung chắc hợp gu mười một phần bởi nó hay trên mức kỳ vọng của tớ. Vậy dấu hiệu để nhận biết một cuốn sách hay là gì, đó là mỗi lần tớ viết review dài hơn sớ, hãy chuẩn bị đón nhận tường chữ phía dưới nào các bạn ới ời. Và tin tớ đi, “Người bảo hộ tinh linh” xứng đáng nhận thêm nhiều yêu thương hơn nữa. Người bảo hộ tinh linh là câu chuyện kể về Balsa – một nữ vệ sĩ cực oách và cực giỏi chuyên dùng giáo làm vũ khí. Trong một lần đi “hóng gió dạo” trên đỉnh núi xa xăm, cô vô tình phát hiện ra vị hoàng tử trẻ Chagum gặp tai nạn mà xả thân lao xuống cứu. Nhưng ai ngờ rằng Chagum chính là “người bảo hộ tinh linh”, một đứa trẻ gánh vác số phận kì lạ mà sau này nó đã thay đổi cả cuộc đời của cậu lẫn của Balsa, khiến cả hai nghiễm nhiên bị săn đuổi bởi những cái bóng của con người và của những thế lực siêu nhiên. Vậy rốt cuộc sứ mệnh của đứa trẻ này là gì? Và tại sao tinh linh được mệnh danh “kẻ bảo hộ nước” trăm năm đẻ trứng một lần là thứ gì mà lại liên quan đến đứa trẻ ấy? Người bảo hộ tinh linh thuộc thể loại fantasy nhưng là fantasy thấm đượm hương vị ma thuật thần linh phương Đông. Nói “Người bảo hộ tinh linh” là làn gió đối với tớ cũng được, vì trước giờ quen đọc fantasy phương Tây thôi nên giờ chuyển sang “Người bảo hộ tinh linh” tự nhiên thấm nhuần yếu tố phương Đông ấy, thích mê. Tác giả Uehashi Nahoko quả thật sở hữu trí tưởng tượng vô cùng phong phú khi bà đã tạo dựng ra một vương quốc Tân Yogo với bản hùng ca ca ngợi vị vua dũng mãnh của họ đã có công đẩy lùi thủy yêu tàn ác bảo vệ dân làng. Tuy nhiên liệu có đúng không khi truyền thuyết do kẻ mạnh lưu lại, còn truyền thuyết của kẻ yếu, về cơ bản, thì luôn bị bóp méo? Điều tớ ưng ở cuốn sách này là cách Uehashi Nahoko khéo léo lèo lái người đọc song song giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thuyết và sự thật, giữa cái thiện và cái ác, đan xen cả yếu tố ma mị và kỳ ảo vô cùng của đất nước Nhật Bản. Các phân đoạn hành động được miêu tả sinh động và mượt mà, những cuộc truy đuổi thót tim và các cuộc giao chiến chẳng kém gì phim hành động chiếu rạp đã đủ để khắc dấu trong lòng tớ rằng ngôn từ của tác giả thực sự rất sống động và tạo được sức hấp dẫn, tất thảy đều chứng minh tác giả Uehashi Nahoko là một người kể chuyện có tài. Điểm sáng tiếp theo là tuyến nhân vật, trời ơi, ưng quá ưng, lâu lắm rồi mới đọc được câu chuyện mà nhân vật nào cũng thích hết từ chính đến phụ. Tác giả đã khai thác được sâu sắc suy nghĩ và cảm xúc nhân vật xuyên suốt cả câu chuyện. Đó là Balsa, một nữ vệ sĩ, một chiến binh quả cảm cận kề tuổi ba mươi mang theo lời hứa phải cứu cho đủ tám mạng người. Đó là Chagum, một đứa nhỏ, một hoàng tử trẻ bỗng nhiên bị tước đoạt hết ngôi vị, mất cả mẹ lẫn cha vì gánh vác trên mình sứ mệnh “người bảo hộ tinh linh”. Đó là Tanda, bậc thầy dược thảo, người luôn sát cánh và hỗ trợ Balsa với trọng trách bảo vệ mạng sống cho hoàng tử trẻ. Ngoài ra những nhân vật được gán với danh “kẻ xấu” sẽ có một khúc ngoặt không ngờ tới ở cuối truyện mà tớ đánh giá là cực hay. Chúng ta sẽ được chứng kiến quá trình trưởng thành trong suy nghĩ, nhận thức và hành động của các nhân vật suốt chặng đường gian nan mà nổi bật nhất phải kể đến Chagum, một vị hoàng tử trẻ được bao bọc và nuông chiều, từ bé đã được sống trong nhung lụa và có kẻ hầu người hạ, giờ đây phải tự xoay sở và đứng trên đôi chân của mình. Và điểm sáng đáng giá nhất là thông điệp của tác giả Uehashi Nahoko truyền tải qua “Người bảo hộ tinh linh”, về cách mà các nhân vật đã mạnh mẽ đứng lên và chiến đấu, tuy họ có lúc yếu mềm và có lúc tưởng chừng muốn gục ngã và khuất phục, song họ vẫn kiên cường đứng lên và nhất quyết không đầu hàng. Bởi “Ai cũng phải cố sống sao cho đúng với bản thân mình. Không có cách sống nào là không bao giờ phải hối hận cả”. Nhìn chung, “Người bảo hộ tinh linh là một cuốn sách hơn cả ổn” và tớ mong mọi người biết đến ẻm nhiều hơn. Bìa đẹp, dịch mượt và trơn tru như cỗ máy được tra dầu, nội dung hay và hấp dẫn thì tội gì lại không quất liền tay hả các bạn ới ời? Highly recommend cho bạn bè gần xa, đặc biệt là bạn nào khoái nghiền ngẫm thể loại fantasy, nhất là fantasy thấm đượm yếu tố phương Đông nhé. Bài cảm nhận review của độc giả Nguyen Tam Anh. *** UEHASHI NAHOKO Trước khi theo nghiệp viết văn, bà đã đạt học vị Tiến sĩ Văn học của Đại học Tư thục Rikkyo, chuyên ngành Nhân học Văn hóa. Bà đã từng nghiên cứu về thổ dân bân địa Châu Úc. Sau khi làm trợ giảng ở Đại học Dinh dưỡng Kagawa, hiện giờ bà là giáo sư trường Đại học Phụ nữ thuộc Học viện Kagawa. Các tác phẩm của bà cho tới nay có thể kể đến: Cây tinh linh, Hãy ngủ đi, hỡi các vị thần, trong khu rừng Mặt Trăng, series Người bảo hộ, v.v… Các tác phẩm của bà được dịch ra nhiều thứ tiếng, đặc biệt bản dịch tiếng Anh của Người bảo hộ tinh linh đã nhận được giải thưởng Batcheder năm 2009 cho “Tác phẩm truyện thiếu nhi nước ngoài hay nhất” từ Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ. Năm 2014 bà nhận được Giải thưởng Văn học Hans Christian Andersen, là giải thưởng văn học thiếu nhi lâu đời và danh giá nhất trên thế giới. FUTAKI MAKIKO Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Giáo dục tỉnh Aichi khoa Mỹ Thuật, bà làm việc tự do một thời gian, sau đó gia nhập Studio Ghibli và đóng góp vào một số bộ phim nổi tiếng như Totoro, hàng xóm của tôi (1988), Công chúa Mononoke (1997) và Vùng đất linh hồn (2001). Hayao Miyazaki, người sáng lập Ghibli, đã từng ca ngợi tài năng hội họa và sự đáng tin cậy của bà. *** Lúc Balsa chạy qua cầu Torikage, phái đoàn hoàng gia đã đến cầu Yamakage cách cô một cây cầu về phía thượng du. Và chính điều này đã làm thay đổi vận mệnh của cô. Torikage là tên một cây cầu treo thô sơ mà thường dân hay dùng, những tấm ván gỗ lót mặt cầu đa phần đều đã mục nát rơi rớt cả, từ những khe hở, có thể trông thấy dòng Aoyumi chảy qua bên dưới. Bình thường đây đã không phải là một cảnh tượng dễ chịu gì cho lắm, huống hồ bây giờ đương độ thu, mưa dầm không ngớt, nước sông dâng lên, dòng sông đục ngầu cuộn sóng, tung bọt trắng xóa, trông lại càng thêm đáng sợ. Balsa mặc bộ đồ lữ khách đã rách tươm, quảy hành lý trên đầu cây giáo ngắn vác vai, thong dong đi qua cây cầu treo tròng trành nhè nhẹ, không mảy may nhíu mày. Năm nay Balsa ba mươi tuổi, thân hình tuy không cao lớn song lại dẻo dai rắn rỏi. Mái tóc dài mà gọn ghẽ được cô buộc túm sau gáy, gương mặt không son phấn sạm đen vì rám nắng, đã loáng thoáng vài nếp nhăn. Những người lần đầu tiên gặp Balsa sẽ bị thu hút ngay bởi cặp mắt. Sâu trong đôi con ngươi đen thẫm là một tinh thần nhẫn nại khiến người ta kinh ngạc. Nhìn chiếc cằm cương nghị cùng cặp mắt của cô, ai cũng sẽ hiểu ngay đây không phải một cô gái dễ thao túng. Nếu là người tập võ, ắt sẽ nhận ra cô có võ công cao cường. Balsa thoăn thoắt băng qua cây cầu Torikage không ngừng tròng trành lắc lư, liếc mắt nhìn về phía thượng du. Trên sườn núi cao sừng sững, những chiếc lá phong đã chuyển sang màu đỏ thẫm. Dưới gốc phong là một cỗ xe bò kéo đang chầm chậm lăn bánh, những khóa chốt bằng vàng lấp lánh ánh kim, xung quanh là khoảng hai mươi tên tùy tùng. Nhìn từ chỗ cô, tất cả đều nhỏ xíu. Mặt trời đã ngả về Tây, những gấm lụa phủ trên cỗ xe cùng với những mảnh kim loại lấp loáng trong ánh nắng chiều chói mắt, từ từ đi xa dần. Phía trước xe treo một lá cờ đỏ, thể hiện thân phận người ngồi bên trong. (Là phái đoàn của Nhị hoàng tử ư? Chắc đang rời hành cung trong núi để đến kinh thành.) Balsa dừng chân, ngắm nhìn đoàn người đó. Cách xa như thế này, không quỳ xuống hành lễ chắc cũng không bị hạch tội; huống hồ mặt trời đang lặn xuống phía Tây, ánh nắng chiếu xéo từ sau lưng lại, Balsa đứng ngược sáng nên từ xa trông lại còn chưa bằng một chấm nhỏ. Bên cây phong dưới bóng ngọn núi hùng vĩ, đoàn người đẹp như một bức tranh. Balsa không phải người sinh ra ở đất nước này. Vì một lý do in sâu trong lòng mà cô hầu như không có khái niệm tôn kính quốc vương hay hoàng đế. Chẳng qua, cảnh tượng đẹp như tranh vẽ trước mặt đã khiến cô bị hớp hồn trong chốc lát mà thôi. Đúng lúc ấy, một việc ngoài sức tưởng tượng của mọi người đã xảy ra. Khi cỗ xe bò đang đi đến giữa cây cầu Yamakage kiên cố vững chắc, vốn xây dựng chuyên dành cho hoàng gia, thì con bò thình lình nổi điên. Nó vùng ra khỏi dây cương mà gã hầu đang cố ghì lại, cong lưng lên, vó trước vó sau liên tục đá ra, đồng thời chĩa sừng húc loạn. Lũ người hầu chẳng kịp ngăn con bò lại, chúng ngã sõng soài theo đà tròng trành dữ dội của cỗ xe, và rồi từ trong xe một bóng người nhỏ xíu bị hất văng lên không. Chiếc bóng nọ hoảng loạn khua tay quơ chân, tưởng chừng sắp rơi xuống suối… Giữa lúc nghìn cân treo sợi tóc, Balsa vội ném hành lý xuống, cởi phăng áo ngoài, rút dây thừng trong ngực áo ra buộc ngay vào phần sắt bịt ở đầu cán giáo rồi phi cả cây giáo về phía bờ suối. Cây giáo dài bay thẳng một đường, cắm sâu vào mặt đất giữa khe đá. Liếc thấy ba bốn tên hầu cuống quýt nhảy xuống suối cứu hoàng tử, Balsa nắm chắc sợi thừng, đoạn cũng lao mình xuống dòng nước đục ngầu. Trong chớp mắt, cô cảm thấy như mình bị đập xuống nền đá dưới suối, hơi thở nghẹn lại, ý thức bắt đầu mơ hồ. Cô gắng sức ngoi lên mặt nước dữ dội và đục ngầu, nắm chặt sợi thừng, rồi trèo lên tảng đá gần đó nhất. Hất mái tóc ướt sũng dính dớp ra sau lưng, hai mắt cô tập trung quan sát, chợt trông thấy một vật nho nhỏ màu đỏ trôi đến. Từ vật màu đỏ ấy thấp thoáng thấy một bàn tay nhô lên, và rồi lại chìm nghỉm. (Hy vọng mới chỉ ngất đi thôi. Van ngươi đấy, chỉ ngất đi thôi nhé!) Balsa cầu khấn. Vừa nắm bắt được đại khái vị trí, cô bèn lao xuống dòng nước dữ lần nữa. Cô bơi ngược dòng, thầm ước lượng vị trí của hoàng tử rồi ra sức quạt nước tiến đến. Dòng nước lạnh băng như chia năm xẻ bảy thân thể cô, bên tai chỉ nghe tiếng nước ùng ục. Giữa dòng nước đục ngầu, khó khăn lắm mới thấy được chiếc áo đỏ của hoàng tử. Vạt áo hoàng tử sượt qua bàn tay đang gắng gượng vươn ra của Balsa. (Gay rồi!) Đúng lúc cô vừa tự trách mình thì một điều kỳ lạ xảy ra. Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi bằng một cái chớp mắt, Balsa bỗng cảm thấy thân thể mình nhẹ bẫng, dòng nước cuồn cuộn chảy xiết chợt dừng lại, tiếng nước chảy cũng biến mất, tất cả mọi thứ đều ngừng lại trong không gian xanh thẳm trong veo, thân hình hoàng tử lúc này lại hiện ra rõ mồn một. Tuy chẳng biết đã xảy ra chuyện gì, song Balsa lại tiếp tục với tay về phía chiếc áo đỏ. Vào khoảnh khắc nắm được hoàng tử, cánh tay cô đã lại bị chấn động như sắp đứt ra. Cứ như thể khoảnh khắc kỳ diệu vừa rồi chỉ là mơ, dòng nước xiết đã lại cuốn phăng cơ thể hai người đi như hai chiếc lá. Dốc hết sức bình sinh, Balsa mới kéo được hoàng tử lại bên mình, ngoắc móc kim loại ở đầu dây thừng vào đai lưng cậu. Giữa dòng nước lạnh băng, chỉ dựa vào một đôi tay tê cứng mà làm được đến vậy cũng đã là kỳ tích rồi. Balsa lần theo sợi dây thừng mà bơi đến bên bờ đá nơi có cắm cây giáo, và tuy bản thân mình đã mệt rã rời song cô vẫn gắng gượng nắm lấy sợi dây, kéo vị hoàng tử đang kiệt sức nằm bất động lên. Hoàng tử được vớt lên, mặt tái ngắt, ước chừng mới mười một mười hai tuổi. Đáng mừng nhất là vừa nãy rơi xuống, dường như cậu chỉ ngất đi vì chấn động mà thôi, bụng không bị trướng nước. Balsa vội hà hơi thổi ngạt cho hoàng tử, chẳng bao lâu, cậu ho lên sặc sụa rồi thở lại được. (Ái chà, xem chừng đã cứu được tính mạng rồi.) Balsa thở phào nhẹ nhõm, có điều cô vẫn chưa biết rằng… đây mới chỉ là khởi đầu. Mời bạn đón đọc Người Bảo Hộ Tinh Linh của tác giả Uehashi Nahoko & Futaki Makiko.
Cận Chiến Pháp Sư
Một võ sư siêu cấp chơi game online nhưng bị người ta chọn lầm làm pháp sư. Với thói quen lấy cứng đối cứng, chơi xáp lá cà, hắn chỉ có thể đâm lao phải theo lao. Thế là hắn quyết định trở thành một pháp sư cận chiến, đem sức mạnh cùng pháp thuật kết hợp lại, mở ra một con đường hoàn toàn mới trong trò chơi. Một tác phẩm của Hồ Điệp Lam, dẫn dắt người xem vào một thế giới của game online đầy thú vị cùng những trận cười sảng khoái. *** Một số thuật ngữ Game trong truyện Đối với những bạn không có chơi game online nhiều thì một số khái niệm trong game còn khá xa lạ.Mình xin giới thiệu với các bạn một số từ mà mình giữ nguyên, không dịch ra tiếng việt (vì nghe khá chuối):D VR: Vitual Reality, là trò chơi thực tế ảo, mang mắt kính hoặc vào hộp đăng nhập, trực tiếp hóa thân thành nhân vật trong trò chơi, trải nghiệm mọi cảm giác thực tế nhất. PK: Player Kill, đây là hành động người chơi cùng với người chơi khác đánh nhau, thường thì sẽ diễn ra ở khu vực luyện cấp. Nếu giết chết người chơi khác thì sẽ lên điểm PK, bị đỏ nick, bị bắt vào tù, bị phạt gì gì đó,... BUG: lỗi game, ảnh hưởng trực tiếp đến trò chơi GM: Game master, người quản lý trong trò chơi, thường sẽ vào xử lý một ít lỗi của game được người chơi báo cáo, cũng có thể xử phạt người chơi vi phạm quy định. Report: Người chơi sẽ báo cáo cho GM về lỗi hoặc là có người chơi khác vi phạm quy định. NPC: None-player character, chỉ những nhân vật không phải người chơi, thường sẽ do máy chủ điều khiển. *** Vô Thề Chi Kiếm ngang bướng hò hét lấy khí thế. Sau khi ngang bướng hò hét xong. Mặc dù khiến cho mọi người cảm thấy chán ghét nhưng quả thật không thể phủ nhận được nó đã khuấy động lên tinh thần của mọi người. Tung Hoành Tứ Hải có giao ra một cái nhiệm vụ báo thù, tạm thời nhiệm vụ này cũng không có được đề cập tới. Nếu như cái nhiệm vụ này thật sự là một cái nhiệm vụ có cấp bậc liên hoàn thì dọc theo con đường mà họ áp tiêu chắc chắn sẽ rơi ra đồ. Có lẽ những đồ vật này cũng không phải là đồ vật tầm thường. Đây chính là điểm khiến cho mấy người tự xưng mình là cao thủ này tim phải đập thình thịch liên hồi. Ai chơi game cũng vậy, đều mong muốn mình có một trang bị tốt… bạn đang đọc truyện tại truyenhoangdung.xyz cái này quả thật có lực hấp dẫn vô cùng lớn. Huống hồ ở trong cái thế giới game này từ trước cho tới nay vẫn luôn có lời đồn rằng: Ai là người hoàn thành nhiệm vụ liên hoàn, ngày sau chắc chắn sẽ trở thành cao thủ tuyệt thế có một không hai. Mà lúc này bọn họ có cơ hội nhận được “chén canh” từ cái nhiệm vụ liên hoàn này. Đây là một cơ hội tốt ông trời đã ban cho! ... Mời các bạn đón đọc Cận Chiến Pháp Sư của tác giả Hồ Điệp Lam.