Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gót Sắt (Jack London)

Năm 1907, Jack London cho ra đời cuốn tiểu thuyết Gót sắt. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nền văn học Mỹ đề cập đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Mỹ. Đây là cuốn tiểu thuyết viễn tưởng thể hiện những tư tưởng ước mơ xã hội của ông. Nhà văn đã tự đặt mình là con người sống vào thế kỷ XXVI, lúc loài người đã trải qua bốn thế kỷ đại đồng và sau khi đã đập tan cái gót sắt là sự áp bức con người.

Tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Jack London được sáng tác theo hình thức viễn tưởng, thể hiện lòng khao khát tự do, công lý và niềm tin sâu sắc vào tương lai tất thắng của cách mạng vô sản trên toàn thế giới.***

Jack London là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, tác giả Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild), Gót sắt (Iron Heel), Martin Eden, Tình yêu cuộc sống (Love of Life), Nanh trắng (White Fang) và hơn 50 tác phẩm khác. Các tác phẩm của ông được dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và cho tới nay vẫn được độc giả tìm đọc.

Jack London năm 1876 ở thành phố San Francisco, và mãi ra đi vào ngày 22/11/1916 khi mới tròn 40 tuổi.

Năm 1896, do mong muốn làm giàu nhanh chóng, ông đã theo chân những người tìm vàng đến vùng Krondike thuộc Canada và đã nếm đủ mùi vất vả. Tại đây, Jack London đã được nghe những kẻ tha phương kể lại những câu chuyện về đói ăn, mất của và về những con chó trung thành. Tìm mua: Gót Sắt TiKi Lazada Shopee

Tất cả những mẩu chuyện này đã ám ảnh Jack London và ông đã viết thành những câu chuyện danh tiếng như: Đứa con của chó sói (viết năm 1902), Răng nanh trắng (1906), Ánh sáng ban ngày cháy đỏ (1910) và đặc biệt là tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) đã gây được tiếng vang lớn, và từ đó Jack London đã có thể sống được bằng nghề viết truyện.***

Gió mùa hè hiu hiu lay động những cây thông khổng lồ và sông Wild-Water vỗ sóng nhịp nhàng vào những tảng đá xanh rêu. Bướm lượn dưới nắng và bốn bề tiếng ong bay vù vù như ru ngủ. Yên tĩnh quá. Thái bình quá. Và tôi ngồi đây, lo lắng, bồn chồn. Chính cái yên tĩnh làm cho tôi bồn chồn. Nó hư hư thực thực thế nào ấy. Khắp thế giới yên tĩnh, nhưng đó là cái yên tĩnh trước cơn giông tố. Tôi lắng tai nghe và tất cả các giác quan của tôi cũng căng lên chờ đón dấu hiệu của cuộc đại biến sắp nổ ra 1. Phải, miễn nó đừng nổ non! Miễn nó đừng bùng ra sớm quá!

Tôi bồn chồn cũng không có gì lạ. Tôi suy nghĩ, suy nghĩ liên mien, và không thể đừng suy nghĩ. Tôi vật lộn với cuộc sống đã từ lâu, đến nỗi thấy yên tĩnh là tức thở, không chịu được. Và tôi không thể không nghĩ đến trận cuồng phong chết chóc và tàn phá sắp sửa nổi lên. Trong tai tôi vang lên tiếng kêu gào của những người gục xuống, và tôi có thể nhìn thấy, cũng như tôi đã từng nhìn thấy 2 da thịt mơn mởn của con người bị dập vùi, tan tác, linh hồn con người bị giằng khỏi những tấm thân đầy kiêu hãnh và ném cho Thượng đế. Khốn khổ thay nhân loại chúng ta, muốn đạt đến mục đích của mình phải cố giết chóc, tàn phá, để đem lại cho trái đất một nền hoà bình và hạnh phúc bền vững.

Vả chăng, tôi chỉ có một mình. Lúc nào không nghĩ đến những điều tất phải xảy đến thì tôi nghĩ đến những điều đã qua, những điều không còn nữa. Tôi nghĩ đến con Đại bàng của tôi trước kia vẫn dang đôi cánh không biết mỏi ra vùng vẫy giữa trời xanh để bay về phía lí tưởng chói lọi của tự do nhân loại. Lí tưởng đó chính là mặt trời của anh. Tôi không thể ngồi yên để chờ đợi cái biến cố lớn lao do bản thân anh làm ra, mặc dầu anh không còn sống để nhìn thấy nó. Bao nhiêu năm anh sống làm người thì bấy nhiêu năm anh cúc cung tận tuỵ vì nó. Anh đã hiến cả đời anh cho nó. Nó là sự nghiệp của tay anh. Chính anh đã làm ra nó 3.

Cho nên trong thời gian chờ đợi lo lắng này, tôi sẽ viết về chồng tôi. Có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh, một con người cao quý dù ca ngợi bao nhiêu vẫn chưa đủ. Tâm hồn anh bao la như biển cả. Và khi tình yêu của tôi đã gột hết lòng vị kỉ thì tôi tiếc nhất là anh không còn sống để chứng kiến buổi bình minh sắp ló ra. Chúng tôi không tài nào thất bại được. Anh đã xây dựng vững chãi quá, chắc chắn quá rồi. Thảm hại thay cái Gót sắt đang dận trên ngực nhân loại! Chẳng bao lâu nữa, nó sẽ bị nhổ bỏ. Khi nào hiệu lệnh tung ra, lao động khắp thế giới sẽ dấy lên tầng tầng lớp lớp. Chưa bao giờ có một việc như thế trong lịch sử loài người. Sự đoàn kết của lao động đã được đảm bảo, và lần đầu tiên sẽ nổ ra một cuộc cách mạng quốc tế bao trùm cả thế giới 4.

Như các bạn đã thấy, óc tôi nghĩ miên man về sự kiện sắp xảy ra. Tôi sống miệt mài với nó, sống ngày, sống đêm, sống rất lâu, đến nỗi nó luôn luôn hiện ra trong tâm trí tôi. Tôi không thể nghĩ đến chồng tôi mà không nghĩ tới nó. Chồng tôi là linh hồn của nó, làm sao trong tư tưởng tôi có thể tách rời chồng tôi với nó được?

Như tôi đã nói, có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh. Ai cũng biết anh đã vì tự do mà chịu nhiều gian truân, đau khổ. Anh đã làm việc cực nhọc đến thế nào, đã đau khổ ghê gớm như thế nào, tôi biết hết. Vì tôi đã sống bên anh suốt hai mươi năm sóng gió vừa qua và tôi biết rõ lòng kiên trì, sự cố gắng không mệt mỏi và sự tận tuỵ không bờ bến của anh đối với Sự Nghiệp chung. Anh đã chết cho Sự Nghiệp, mới cách đây hai tháng.

Tôi sẽ cố viết giản dị và kể ra đây Ernest Everhard đã bước vào đời tôi như thế nào - thoạt tiên, tôi gặp anh ra sao, vì duyên cớ gì tôi đã thành một phần của chính mình anh, và anh đã gây cho đời tôi những biến đổi ghê gớm như thế nào. Như vậy, các bạn có thể nhìn anh qua mắt tôi, và biết về anh cũng như bản thân tôi - biết hết, trừ những chuyện riêng của vợ chồng chúng tôi.

Tôi gặp anh lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1912. Anh là khách của ba tôi và hôm ấy anh đến ăn cơm ở nhà tôi, tại thành phố Berkeley. Có thể nói, ngay từ lúc đầu, tôi không có cảm tình với anh. Ngoài anh ra, còn nhiều khách khứa khác. Chúng tôi đang ngồi trong phòng khách chờ mọi người đến đông đủ thì anh vào, trông đến là thảm hại. Tối hôm ấy là tối họp mặt của các mục sư - ở nhà, ba tôi 5 vẫn thường gọi thế. Ngồi giữa các nhà tu hành, Ernest nhất định là lạc lõng.

Trước hết, quần áo anh không vừa người anh. Anh bận một bộ đồ may sẵn bằng vải sẫm, xộc xà xộc xệch. Trong thực tế, chẳng có thứ quần may sẵn nào mà anh mặc vừa. Tối hôm ấy, mà bao giờ cũng thế: các bắp thịt của anh hằn lên mặt vải. Vai anh u lên, và cái áo vét-tông anh bận dăn dúm cả ở giữa hai vai. Cổ anh banh ra, chắc nịch: giống hệt cổ những kẻ đi đánh nhau ăn giải 6. Tôi nghĩ bụng: Té ra nhà triết học xã hội, nguyên làm nghề bịt móng ngựa, mà ba tôi đã phát hiện được, ngài là như thế đấy. Vai u thịt bắp như thế, thật đúng quá đi rồi. Tôi liền liệt anh vào hạng dị nhân và coi anh như một lão Blind Tom 7 của giai cấp công nhân.

Rồi anh lại bắt tay tôi nữa kia chứ! Anh xiết mạnh quá, chặt quá, nhất là anh nhìn tôi một cách táo tợn bằng cặp mắt đen lay láy - táo tợn quá, theo ý tôi. Các bạn cũng thừa hiểu tôi là sản phẩm của hoàn cảnh và khi ấy bản năng giai cấp của tôi rất mạnh. Giá một người đàn ông thuộc giai cấp tôi cũng táo tợn như thế thì không thể nào tha thứ được. Tôi đành cúi nhìn xuống đất. Lúc anh đi khỏi, tôi nhẹ cả người, quay lại nhìn đức Giám mục Morehouse. Đức Giám mục là một người tôi rất mến, một người đứng tuổi, hiền hoà, nghiêm chỉnh, tướng mạo và từ tâm hệt như đức Chúa. Chẳng những thế, Người còn là một nhà học giả.

Nhưng cái táo tợn mà tôi tưởng là tự phụ đó lại là đầu mối cho tôi tìm hiểu bản chất của Ernest Everhard. Anh giản dị, ngay thẳng, chẳng biết sợ cái gì và không thích mất thì giờ vào việc xã giao. kiểu cách. Mãi về sau, anh giải thích: “Em rất hợp ý anh, làm sao anh lại không nhìn thẳng vào người mà anh ưa thích?” Tôi đã bảo, anh chẳng sợ một cái gì. Anh là người bản chất quý phái, mặc dầu anh đứng trong phe thù địch của bọn quý phái. Anh là một siêu nhân, một “Con vật tóc vàng” như Nietzsche 8 đã miêu tả, và cộng thêm vào đó, anh mang những tư tưởng dân chủ cháy rực trong người.

Vì mải tiếp những người khác, và cũng vì sẵn có ấn tượng xấu, tôi quên khuấy mất nhà triết học của giai cấp công nhân, mặc dầu tôi có chú ý đến anh một hai lần trong bữa ăn - đặc biệt là lúc anh long lanh đôi mắt nghe các vị mục sư nói chuyện. Tôi nghĩ bụng: anh là người vui tính và tôi hầu như tha thứ cho cách ăn mặc của anh. Nhưng thời gian cứ đi, bữa ăn cứ tiếp tục, anh vẫn không buồn nói nửa lời. Trong khi ấy, các vị mục sư bàn luận miên man về giai cấp công nhân, về quan hệ của nó với Nhà thờ. Nhà thờ đã làm gì và đang làm gì cho nó. Tôi nhận thấy Ernest không nói làm cho ba tôi không bằng lòng. Nhân một lúc im lặng, ba tôi yêu cầu anh phát biểu, nhưng Ernest nhún vai: “Tôi chẳng có điều gì muốn nói cả” và lại ngồi ăn hạnh đào muối.

Nhưng ba tôi không chịu. Một lúc sau ba tôi bảo:

- Chúng ta có một người giai cấp công nhân ở đây. Tôi tin chắc người đó có thể trình bày các việc theo một quan điểm mới, vừa hay lại vừa bổ ích. Tôi muốn nói ông Everhard.

Những người khác tỏ vẻ thích thú một cách lịch sự và giục Ernest tuyên bố những quan điểm của mình. Thái độ của họ hết sức khoan dung, hoà nhã: đúng là thái độ của những kẻ đỡ đầu. Tôi thấy Ernest cũng nhận ra điều ấy và anh lấy thế làm khoái lắm. Anh chậm rãi nhìn bốn xung quanh và mắt anh sáng lên một cách ranh mãnh.

- Tôi quả thật không quen với những cuộc tranh luận tao nhã của Giáo hội, - anh bắt đầu được mấy lời đã ngập ngừng ngay, vẻ mặt khiêm tốn và do dự.

Họ giục: “Ông cứ tiếp tục đi!” và bác sĩ Hammerfield bảo: “Chân lí dù ở miệng ai nói ra chúng tôi cũng đều không ngại. Miễn là nó trung thực”.

- Vậy ra ngài tách rời trung thực khỏi chân lí ư? - Ernest cười hỏi rất nhanh.

Bác sĩ Hammerfield luống cuống trả lời:

- Giỏi đến đâu cũng phải có lúc nhầm, ông bạn trẻ ạ. Người giỏi nhất trong chúng ta cũng phải có lúc nhầm.

Ernest bỗng thay đổi hẳn. Anh đã thành một người khác.

- Vâng, được, - anh đáp. - Và tôi xin phép bắt đầu bằng câu này: là các ngài nhầm tuốt. Các ngài không biết gì về giai cấp công nhân, không biết một tí gì hết. Khoa xã hội học của các ngài sai bét và vô giá trị, cũng như phương pháp suy luận của các ngài.

Những lời anh nói chính lại không nặng bằng cách anh nói. Tôi giật cả mình trước hết vì giọng nói của anh. Nó cũng táo tợn không khác gì hai con mắt anh. Nó là một tiếng kèn chiến đấu và nó làm cho toàn thân tôi rung lên. Bàn tiệc xao động. Cái không khí đều đều buồn tẻ bị phá vỡ.

- Ông bạn trẻ tuổi! Phương pháp suy luận của chúng tôi có chỗ nào sai lầm và vô giá trị ghê gớm đến thế kia, thưa ông? - Bác sĩ Hammerfield hỏi, vẻ khó chịu thoáng hiện ra giọng nói và cách phát biểu của ông.

- Các ngài là những nhà siêu hình học. Các ngài có thể dùng siêu hình học để chứng minh bất cứ một cái gì, và xong thì mỗi nhà siêu hình học lại có thể tuỳ thích chứng minh rằng các nhà siêu hình học khác là sai. Các ngài là những kẻ vô chính phủ trong lĩnh vực tư tưởng. Các ngài là những nhà chế tạo ra vũ trụ. Điên rồ ơi là điên rồ! Mỗi ngài sống trong một vũ trụ riêng, do trí tưởng tượng riêng và những sở thích riêng của mình tạo nên. Các ngài không biết gì về cái thế giới thực các ngài đang sống, và tư tưởng điên loạn của các ngài hoàn toàn không có chỗ đứng trong thực tại.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jack London":Tiếng Gọi Nơi Hoang DãCô Gái Băng TuyếtGót SắtJack London Truyện Ngắn Chọn LọcJack London Tuyển TậpMartin EdenMối Thù Thiên ThuTừ Bỏ Thế Giới Vàng

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gót Sắt PDF của tác giả Jack London nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Duyên (Bạch Lạc Mai)
Yêu một người có lẽ chỉ trong chớp mắt, quên một người lại có thể cần cả cuộc đời. Biết rõ như thế, nhưng nhiều người vẫn phải yêu, thậm chí ngàn dặm xa xôi truy tìm tình yêu, muốn kết một đoạn tình duyên trong kiếp này, để tuổi xuân không hối, đời người không tiếc. Có điều tình yêu cần trao ra, cần gánh vác, dù phụ bạc cũng phải nhẫn nhịn, dù phản bội cũng cần khoan dung. Dẫu có một ngày mất đi, dùng thời gian trọn đời để gìn giữ hoài tưởng, cũng sẽ không cảm thấy nặng nề mệt nhọc, tình yêu như vậy, mới được xem là tình yêu chân chính.*** Coi hồng trần là đạo tràng, xem vị đời là bồ đề. Nhóm một lò lửa phận duyên, pha một bình “lòng thiền mây nước”. Cuộc gặp gỡ có hương trà vấn vít, đã hun đúc vô vàn tái ngộ.* Tất cả gặp gỡ, đều là duyên cũ mộng xưa trên đá Tam sinh. Cửu biệt trùng phùng - xa cách lâu ngày gặp lại, đều là quả thiện từ bi gieo xuống từ kiếp trước. Phật dạy, quay đầu năm trăm lượt mới đổi được kiếp này một lần đi lướt qua nhau. Chúng ta đều là những kẻ bị tấm thẻ bài tiền căn rơi trúng, được phê duyệt qua số mệnh, nên mới có kết quả định sẵn kiếp này. Băng qua đạo tràng hồng trần, nguyện ngắm hoa sen nối nhau bừng nở.*** Tôi không nhớ nổi mình đã bắt đầu tin tưởng nhân của kiếp trước từ khi nào nữa? Tôi từng vô số lần tưởng tượng, kiếp trước của mình rốt cuộc là ai? Con hát ư? Khách thơ chăng? Hay thiếu nữ thêu thùa? Cho tới một ngày, tôi bước vào ngôi chùa cổ, không hẹn mà gặp được Phật Tổ, mới hay kiếp trước của tôi nhất định là một ngọn đèn dầu trước Phật. Bởi trong khoảnh khắc thắp đèn lên, tôi sực hiểu ra, lần gặp gỡ này chỉ là xa cách lâu ngày gặp lại. Tôi kiếp trước, đã dốc lòng tu hành giữa điện đường, chẳng vì thành Phật, chẳng bởi tu tiên, chỉ mong kiếp này có thể thành người, học theo hồ ly trắng ngàn năm trong rừng núi, cùng một vị thư sinh hay một kẻ phàm nhân nào đó, kết một đoạn trần duyên. Tìm mua: Duyên TiKi Lazada Shopee Phật dạy, năm trăm năm tu hành, mới đổi được kiếp này một lần đi lướt qua nhau. Mỗi ngày, trên đường tôi đều vội vã đi lướt qua rất nhiều người; mỗi ngày, tôi đều kết nên những mối duyên khó cởi với chúng sinh. Tôi biết, chỉ bằng một nụ cười, một lần ngoái lại, cũng có thể tìm được người có duyên nợ ba kiếp cùng mình. Tôi là kẻ may mắn, nên kiếp này mới có thể dùng bút mực như nước chảy, viết lại những câu chuyện đậm tính Thiền của các vị cao tăng bao đời, chẳng cần miêu tả rõ nét, chỉ là phác họa sơ qua. Tôi tin rằng linh hồn họ sẽ thong thả bước tới trước song cửa của tôi giữa đêm khuya thanh vắng, nhưng lại chần chừ không muốn quấy rầy giấc mơ cõi trần của tôi. Cũng từng lên Hàn Sơn tìm dấu nhà sư, lại đến Phật quốc cầu tâm kinh, từng bẻ một cành sen, cũng thầm nhận rằng đó là đóa sen tôi tương tư từ kiếp trước. Khi còn nhỏ, tôi cứ ngỡ Phật là đấng vô tình, người xuất gia phải xa đời cách thế, cắt đứt tất cả tình duyên. Sau này mới hiểu ra, Phật là đấng nặng tình, Người đã trao hết tình cảm cho chúng sinh, chỉ giữ lại hờ hững cho mình. Rất nhiều cao tăng, tuy tham ngộ được sự huyền diệu của Duyên số phận, nhưng lại không thể thay đổi định mệnh đã an bài. Họ cũng như chúng ta, liên tục trải luân hồi chuyển thế, chỉ để cuối cùng có ngày đạt đến cảnh giới Niết Bàn. Mà những kẻ còn mê luyến phàm trần như bạn như tôi, thì tâm nguyện duy nhất chính là có thể cưỡi một mảnh thuyền lan, thẳng tới bờ bên kia sen nở. Biết phục thiện chính là như vậy, lối đi hôm nay của tôi, có lẽ là nẻo về ngày sau của bạn. Nếu có một ngày chúng ta gặp lại trên cầu Nại Hà, xin nhớ kỹ đừng quên, từng có chung một đoạn tháng năm xanh biếc giữa hồng trần, đừng quên đã cùng quỳ xuống bồ đoàn, trao lời thề nguyện Linh Sơn trước Phật đài thuở ấy. Bao nhiêu hồng tía đua chen đều bị tháng năm hờ hững phụ bạc vô cớ, bao nhiêu chuyện vui lại bỗng dưng bị khóa trong khoảnh sân nhỏ tầm thường. Đã không giữ nổi thanh xuân, để vuột cành hoa hôm trước, sao còn có thể bỏ lỡ bình trà sáng nay? Tôi tin chắc rằng, mình và các vị cao tăng ấy, đời đời kiếp kiếp đều có duyên phận không cách nào cắt đứt. Tôi giống như một mảnh hồn lênh đênh giữa luân hồi, tu lấy một quãng năm tháng bồ đề, trong những câu chuyện ngộ đạo tham thiền của họ. Thế giới của tôi, từ nay đơn giản mà tĩnh tại, hương sen dìu dịu, chôn vùi chút khát vọng sau cùng của tôi với phàm trần. Lần lượt nhìn theo bóng lưng họ xa dần, tôi cũng không đứng hoài chỗ cũ mà trông ngóng, bất chợt quay người, cứ ngỡ đã bước qua mấy kiếp, vậy mà năm tháng về sau vẫn dằng dặc nhường kia. Trong đôi mắt thấu triệt từ bi của Phật, tôi đã trông thấy hẹn ước tháng năm như nước, trông thấy tình sâu miên man chẳng thể né tránh. Vô tình, dưới khung cửa sổ khép hờ, tôi lại để những dòng văn đầy Thiền ý nở rộ trong bao đêm dài tĩnh lặng. Chẳng phải định ghim đoạn mở đầu trầm lắng cho câu chuyện nào cả, mà chỉ mong trồng một gốc bồ đề vào đáy lòng chúng sinh. Xin hãy tin rằng, tất cả gặp gỡ trên thế gian, đều là xa cách lâu ngày gặp lại. Có lẽ tôi là cuộc cờ mà kiếp trước bạn không cách nào giải được, còn bạn là đáp án câu đố mà cả đời này tôi cũng chẳng thể đoán ra. Bạch Lạc Mai Ngày 27.10.2010 tại Thái HồDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Bạch Lạc Mai":Bởi Vì Thấu Hiểu Cho Nên Từ BiDuyênGặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu NhấtBa Nghìn Năm Trước Đóa Sen Nở Trong Đêm Thanh VắngKiếp Này Chỉ Làm Khách Hồng TrầnNăm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình YênNếu Em An Lành, Đó Là Ngày NắngNgoảnh Lại Đã Một ĐờiNgười Là Cuộc Tu Hành Đẹp Nhất Kiếp Này Của TôiĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Duyên PDF của tác giả Bạch Lạc Mai nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Duyên (Bạch Lạc Mai)
Yêu một người có lẽ chỉ trong chớp mắt, quên một người lại có thể cần cả cuộc đời. Biết rõ như thế, nhưng nhiều người vẫn phải yêu, thậm chí ngàn dặm xa xôi truy tìm tình yêu, muốn kết một đoạn tình duyên trong kiếp này, để tuổi xuân không hối, đời người không tiếc. Có điều tình yêu cần trao ra, cần gánh vác, dù phụ bạc cũng phải nhẫn nhịn, dù phản bội cũng cần khoan dung. Dẫu có một ngày mất đi, dùng thời gian trọn đời để gìn giữ hoài tưởng, cũng sẽ không cảm thấy nặng nề mệt nhọc, tình yêu như vậy, mới được xem là tình yêu chân chính.*** Coi hồng trần là đạo tràng, xem vị đời là bồ đề. Nhóm một lò lửa phận duyên, pha một bình “lòng thiền mây nước”. Cuộc gặp gỡ có hương trà vấn vít, đã hun đúc vô vàn tái ngộ.* Tất cả gặp gỡ, đều là duyên cũ mộng xưa trên đá Tam sinh. Cửu biệt trùng phùng - xa cách lâu ngày gặp lại, đều là quả thiện từ bi gieo xuống từ kiếp trước. Phật dạy, quay đầu năm trăm lượt mới đổi được kiếp này một lần đi lướt qua nhau. Chúng ta đều là những kẻ bị tấm thẻ bài tiền căn rơi trúng, được phê duyệt qua số mệnh, nên mới có kết quả định sẵn kiếp này. Băng qua đạo tràng hồng trần, nguyện ngắm hoa sen nối nhau bừng nở.*** Tôi không nhớ nổi mình đã bắt đầu tin tưởng nhân của kiếp trước từ khi nào nữa? Tôi từng vô số lần tưởng tượng, kiếp trước của mình rốt cuộc là ai? Con hát ư? Khách thơ chăng? Hay thiếu nữ thêu thùa? Cho tới một ngày, tôi bước vào ngôi chùa cổ, không hẹn mà gặp được Phật Tổ, mới hay kiếp trước của tôi nhất định là một ngọn đèn dầu trước Phật. Bởi trong khoảnh khắc thắp đèn lên, tôi sực hiểu ra, lần gặp gỡ này chỉ là xa cách lâu ngày gặp lại. Tôi kiếp trước, đã dốc lòng tu hành giữa điện đường, chẳng vì thành Phật, chẳng bởi tu tiên, chỉ mong kiếp này có thể thành người, học theo hồ ly trắng ngàn năm trong rừng núi, cùng một vị thư sinh hay một kẻ phàm nhân nào đó, kết một đoạn trần duyên. Tìm mua: Duyên TiKi Lazada Shopee Phật dạy, năm trăm năm tu hành, mới đổi được kiếp này một lần đi lướt qua nhau. Mỗi ngày, trên đường tôi đều vội vã đi lướt qua rất nhiều người; mỗi ngày, tôi đều kết nên những mối duyên khó cởi với chúng sinh. Tôi biết, chỉ bằng một nụ cười, một lần ngoái lại, cũng có thể tìm được người có duyên nợ ba kiếp cùng mình. Tôi là kẻ may mắn, nên kiếp này mới có thể dùng bút mực như nước chảy, viết lại những câu chuyện đậm tính Thiền của các vị cao tăng bao đời, chẳng cần miêu tả rõ nét, chỉ là phác họa sơ qua. Tôi tin rằng linh hồn họ sẽ thong thả bước tới trước song cửa của tôi giữa đêm khuya thanh vắng, nhưng lại chần chừ không muốn quấy rầy giấc mơ cõi trần của tôi. Cũng từng lên Hàn Sơn tìm dấu nhà sư, lại đến Phật quốc cầu tâm kinh, từng bẻ một cành sen, cũng thầm nhận rằng đó là đóa sen tôi tương tư từ kiếp trước. Khi còn nhỏ, tôi cứ ngỡ Phật là đấng vô tình, người xuất gia phải xa đời cách thế, cắt đứt tất cả tình duyên. Sau này mới hiểu ra, Phật là đấng nặng tình, Người đã trao hết tình cảm cho chúng sinh, chỉ giữ lại hờ hững cho mình. Rất nhiều cao tăng, tuy tham ngộ được sự huyền diệu của Duyên số phận, nhưng lại không thể thay đổi định mệnh đã an bài. Họ cũng như chúng ta, liên tục trải luân hồi chuyển thế, chỉ để cuối cùng có ngày đạt đến cảnh giới Niết Bàn. Mà những kẻ còn mê luyến phàm trần như bạn như tôi, thì tâm nguyện duy nhất chính là có thể cưỡi một mảnh thuyền lan, thẳng tới bờ bên kia sen nở. Biết phục thiện chính là như vậy, lối đi hôm nay của tôi, có lẽ là nẻo về ngày sau của bạn. Nếu có một ngày chúng ta gặp lại trên cầu Nại Hà, xin nhớ kỹ đừng quên, từng có chung một đoạn tháng năm xanh biếc giữa hồng trần, đừng quên đã cùng quỳ xuống bồ đoàn, trao lời thề nguyện Linh Sơn trước Phật đài thuở ấy. Bao nhiêu hồng tía đua chen đều bị tháng năm hờ hững phụ bạc vô cớ, bao nhiêu chuyện vui lại bỗng dưng bị khóa trong khoảnh sân nhỏ tầm thường. Đã không giữ nổi thanh xuân, để vuột cành hoa hôm trước, sao còn có thể bỏ lỡ bình trà sáng nay? Tôi tin chắc rằng, mình và các vị cao tăng ấy, đời đời kiếp kiếp đều có duyên phận không cách nào cắt đứt. Tôi giống như một mảnh hồn lênh đênh giữa luân hồi, tu lấy một quãng năm tháng bồ đề, trong những câu chuyện ngộ đạo tham thiền của họ. Thế giới của tôi, từ nay đơn giản mà tĩnh tại, hương sen dìu dịu, chôn vùi chút khát vọng sau cùng của tôi với phàm trần. Lần lượt nhìn theo bóng lưng họ xa dần, tôi cũng không đứng hoài chỗ cũ mà trông ngóng, bất chợt quay người, cứ ngỡ đã bước qua mấy kiếp, vậy mà năm tháng về sau vẫn dằng dặc nhường kia. Trong đôi mắt thấu triệt từ bi của Phật, tôi đã trông thấy hẹn ước tháng năm như nước, trông thấy tình sâu miên man chẳng thể né tránh. Vô tình, dưới khung cửa sổ khép hờ, tôi lại để những dòng văn đầy Thiền ý nở rộ trong bao đêm dài tĩnh lặng. Chẳng phải định ghim đoạn mở đầu trầm lắng cho câu chuyện nào cả, mà chỉ mong trồng một gốc bồ đề vào đáy lòng chúng sinh. Xin hãy tin rằng, tất cả gặp gỡ trên thế gian, đều là xa cách lâu ngày gặp lại. Có lẽ tôi là cuộc cờ mà kiếp trước bạn không cách nào giải được, còn bạn là đáp án câu đố mà cả đời này tôi cũng chẳng thể đoán ra. Bạch Lạc Mai Ngày 27.10.2010 tại Thái HồDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Bạch Lạc Mai":Bởi Vì Thấu Hiểu Cho Nên Từ BiDuyênGặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu NhấtBa Nghìn Năm Trước Đóa Sen Nở Trong Đêm Thanh VắngKiếp Này Chỉ Làm Khách Hồng TrầnNăm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình YênNếu Em An Lành, Đó Là Ngày NắngNgoảnh Lại Đã Một ĐờiNgười Là Cuộc Tu Hành Đẹp Nhất Kiếp Này Của TôiĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Duyên PDF của tác giả Bạch Lạc Mai nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Dứt Tình (Vũ Trọng Phụng)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Dứt Tình PDF của tác giả Vũ Trọng Phụng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đường Về Trùng Khánh (Han Suyin)
Qua Đường Về Trùng Khánh, người đọc có thể nhận ra những nhân vật điển hình — những diễn viên kỳ cựu — của bất cứ vở kịch chiến tranh nào xẩy ra từ trước tới nay trong lịch sử nhân loại: đó là đám nông dân cổ cày vai bừa sẽ chết, trong khi đám con cháu các gia đình khá giả lười biếng ăn chơi hay học hành tại các trường đại học và sửa soạn vào các nghề tài chánh, y khoa, hay luật sư và dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ và tuy thế cũng không phải là ít và thực đáng cảm động: “ Tôi không thể nào ngồi yên được nữa, tôi phải tham dự vào cuộc chiến, tôi phải tham dự vào cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Hoa. Tôi phải về nước. Dù không làm được gì quan trọng tôi cũng phải về, tôi cần hiện diện để chia sẻ những khổ cực và gian nguy. Tôi là người Trung Hoa mà.” Đó là câu nói của nhân vật chính của tác giả, Hàn-tú-Anh, người nữ văn sĩ mang hai giòng máu Trung Hoa—Bĩ.***Tựa Của Tác Giả Người ta đã yêu cầu tôi viết bài tựa cho cuốn Destination Tchoungking đã được xuất bản lần đầu tiên tại Anh vào năm 1942. Bằng cả tâm hồn và thể xác, tôi đã sống lùi lại mười một năm về trước, hồi còn trẻ, tại Trùng Khánh, ngập mình trong binh lửa, và thấy lại trọn vẹn cảnh tượng lúc bấy giờ: những chữ ở đây đều có một nghĩa tuyệt đối; những mục tiêu tự nó tồn tại, chính đáng và đáng kính; đạo đức và niềm tin đã chống cự lại nạn đói kém, nỗi đau khổ và sự buồn nản. Chúng tôi đã tin tưởng rằng sẽ tồn tại để cất lên tiếng cười, để tận dụng cuộc sống, mặc trạng huống hiện hữu, mặc những điệp khúc vô tận của những trận mưa bom mỗi ngày khô ráo mỗi tái diễn. Rồi thì cuối cùng mọi sự đều đã được giải quyết ổn thỏa. Tôi không có một mảy may ý định viết văn. Hồi đó tôi tập sự nghề cô đỡ tại một bảo sinh viện nhỏ dưới quyền điều khiển của Marian Manly, một nhà nữ truyền giáo Hoa Kỳ, ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Pao, chồng tôi, đóng tại Tây Bắc, và trong thời gian chàng vắng nhà, tôi ở lại nhà thương với Marian. Tìm mua: Đường Về Trùng Khánh TiKi Lazada Shopee Cha mẹ của Marian đã từng là những nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Chị nàng cũng thế. Chính nàng ta, một y sĩ kiêm truyền giáo, đã trải qua phần lớn đời nàng tại Trung Hoa. Nàng đã vẻ kiểu và xây lấy ngôi bảo sinh viện này, và tại đây, nàng huấn luyện các cô đỡ Trung Hoa cho đến khi những người này tốt nghiệp, gửi họ về các vùng quê, hay đưa đến những đô thị bị cô lập để làm cái việc cần thiết nhất tại Trung Hoa là giúp các sản phụ sinh nở dễ dàng và hợp vệ sinh. Một đêm nọ, tôi ngồi với nàng trong phòng nàng, trước ngọn lửa được đốt bằng củi để sưởi ấm, và chúng tôi đã thảo luận về những cuốn sách đã đọc. Nàng nói với tôi là đã nhiều lần nàng hy vọng sẽ viết một cuốn sách về tất cả những kinh nghiệm đã trải qua ở Trung Hoa trong tình thương và thông cảm. Nàng đã viết nhiều truyện ngắn và thơ nhưng chưa có được cuốn sách nào cả. Tôi đưa cho nàng xem những ghi chú và những đoạn văn mà tôi thường viết khi nhàn rỗi, cho những bạn bè ở Anh quốc muốn biết những gì đang xảy ra tại Trung Hoa. Nàng xem xong, bảo tôi: "Đây là những chất liệu quý giá có thể dùng để cấu tạo nên một cuốn truyện. Tại sao chị không viết nó thành cuốn sách nhỉ? Điều đó làm tôi run sợ. Anh văn của tôi, học từ hồi mười tuổi tại Bắc Kinh, và về sau này có được dồi dào thêm là nhờ đọc chứ chẳng phải nhờ thực tập, chắc đâu đủ để cho phép tôi viết thành một cuốn sách! Nhưng nhờ sự khích lệ nóng bỏng của Marian, tôi đã bắt tay vào việc hình thành cuốn Destination Tchoungking. Cuốn sách này đã được viết bằng những tờ rời, từng đoạn một, đôi khi vào buổi tối, dưới ánh đèn dầu trong những cái còn lại của một căn phòng sau trận oanh tạc vừa qua; đôi khi vào buổi trưa, trở về nhà sau một cuộc đỡ đẻ kéo dài từ sáng tới tối; hoặc vào khoảng giữa công việc bếp núc nhà cửa và việc quan sát những dấu vết địch quân trên trời. Tôi đã từng đem theo bản thảo Destination Tchoungking vào hầm trú ẩn trong quả đồi gần nhà, nhét giữa cái nồi thổi cơm và con gái tôi. Trong phần lớn thời gian viết cuốn sách này, Marian và tôi ở xa nhau. Tôi ở với Pao ở Trùng Khánh hoặc theo chàng xê dịch trong vùng Trung Hoa tự do. Nàng vẫn không rời bệnh viện của nàng ở Thành Đô. Tuy thế, sự hợp tác giữa chúng tôi vẫn không bị đứt khoảng, và điều này nói ra không khỏi tầm thường nhưng tôi vẫn cảm thấy phải nói, là nếu không nhờ có Marian sửa chữa, phê bình cùng tu bổ cho từng chương một, chắc chắn cuốn sách này đã không có dịp ra đời. Ngay khi vừa hoàn tất một chương, tôi gửi bằng máy bay tới Marian liền. Bản thảo bay tới bay lui giữa tác giả và đồng tác giả(co-auteur) trên vòm trời Trùng Khánh, được đánh máy trên những tờ giấy thực mỏng với tất cả thận trọng và rõ ràng để có thể nhét vào phong thơ của bưu điện hàng không. Rồi, một ngày đẹp trời nọ, nhà xuất bản nhận lời in. Tuy nhiên, vào thời đó, chưa thể tiết lộ tên tác giả được vì một lý do kỳ khôi. Hồi đó, nhờ chồng tôi nên tôi tạm thời trở thành một nhân viên ngoại giao của xứ tôi. Các bà trong ngoại giao đoàn không được phép viết văn. Nơi chúng tôi sống, người ta coi viết văn như một nghề ít phụ nữ tính và độc hại, y như nghề kịch sĩ vậy. Ngay cả cuốn tự truyện đầy sinh động và duyên dáng, Huilan Koo, của bà Wellington Koo, phu nhân của ông đại sứ Trung Hoa tại Hoa Thịnh Đốn, đã đột nhiên bị cấm lưu hành một cách bất công. Cuốn sách của tôi không bị số phận đó, nhưng trong nhiều năm, tôi khá thấu đáo về vấn đề này. Đó là câu chuyện đằng sau cuốn Destination Tchoungking của tôi. Ngoài bài mở đầu này ra, kỳ dư tôi không hề sửa đổi chi tiết nào trong cuốn sách khả dĩ khác với lần xuất bản đầu tiên, trừ vài lỗi chính tả và văn phạm.HÀN TÚ ANH Tháng 2, 1953Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đường Về Trùng Khánh PDF của tác giả Han Suyin nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.