Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây

“Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm màu đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi.” Lưu Thập Tam sinh ra và lớn lên ở thị trấn Ngàn Mây – nơi có một tiệm tạp hóa với đống hàng hóa chồng chất theo năm tháng và những con người đã để lại vô vàn dấu ấn không sao xóa nhòa trong ký ức cậu. Cả một tuổi thơ sôi nổi và êm đềm, cậu đều trải qua bên bà ngoại ở nơi đây. Con người ta chỉ biết trân trọng những thứ mìnhy có khi nó dần tan biến. Rời khỏi thị trấn, bước chân trên con đường “trưởng thành”, Lưu Thập Tam mới dần thấu hiểu: những hồi ức đẹp đẽ nơi trấn nhỏ chính là một thứ vô cùng quý giá – là mái ấm, là góc nhỏ bình yên trong lòng cậu, để mỗi lần đối mặt với gian nan, mệt mỏi, thất bại và tuyệt vọng đến sức cùng lực kiệt, Lưu Thập Tam biết, vẫn luôn có một nơi gọi là “quê hương” che chở cho cậu khi trở về. Đây là một câu chuyện dành tặng cho những bi thương, vất vả, những giọt nước mắt tủi vô thức nơi khóe mắt mỗi chúng ta khi bước trên đường đời, cũng chính là những hy vọng và tia sáng không bao giờ tắt dẫn lối cho ta tiến về phía “trưởng thành”. *** NÚI RỪNG, GỐC ĐÀO, VƯƠNG OANH OANH “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Đầu hè, dưới mái hiên, Lưu Thập Tam cắn hết vốc hạt dưa, bảo bà ngoại: “Con cảm thấy có người đang nhớ bà cháu mình.” Bà đáp: “Nhớ có ích gì, sao không cho tiền ấy.” Cát cánh nở đầy thị trấn, bồ công anh bay vượt qua tán lựu, dạt vào ruộng lúa dưới chân núi. Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi. Bà ngoại nói, tổ tiên đời đời chôn cất ở đây, nên gọi là quê hương. Thị trấn nhỏ trong núi, tựa như đội đất chui lên. Từ khi đỗ đại học rồi rời quê, ngoài những dịp lễ Tết ra, Lưu Thập Tam chẳng bao giờ trở lại. Bà ngoại tên đầy đủ là Vương Oanh Oanh, mở quán tạp hóa tại nhà đã mấy chục năm. Bà mặc áo ngắn tay hoa nhí, mái tóc bạc phơ vấn thành búi, cánh tay giấu trong bao tay áo, tất bật chạy qua chạy lại. Trời ấm dần lên, bia bán chạy như tôm tươi, bà chồng từng két bia lên rồi hổn hển lau mồ hôi, “Mày có phụ một tay không, không làm bà giết.” Lưu Thập Tam rầu rĩ đáp: “Con không ở mãi xó rừng rú này được đâu.” Bà hỏi: “Bán bảo hiểm thế nào rồi, có kiếm được không?” Lưu Thập Tam thở dài, “Tiền không quan trọng, con đang khởi nghiệp mà.” Trong sân trồng một cây đào, bà đứng dưới gốc cây, cầm chổi quét sân, liếc xéo cậu: “Hay thế này, bà bán quách nhà đi, cho mày tiền khởi nghiệp nhé?” Lưu Thập Tam ôm chầm lấy bà, “Con yêu bà nhất.” Bà đá cậu ra, “Thôi thôi, tránh ra đi.” Lưu Thập Tam hỏi: “Trưa nay ăn gì ạ?” Bà châm điếu thuốc, đáp: “Ai rỗi hơi lo cơm cho mày, đi kiếm tiền đi.” Tháng Sáu, ve đã râm ran từ lâu, kêu ra rả không dứt, khi gần khi xa, ong ong như cơn ù tai khi vừa thức dậy. Bà ngoại thò đầu vào cửa giục: “Kiếm nhiều tiền vào, tối nay bà mời cơm, uống hai chén.” Hai chén rượu với Vương Oanh Oanh chẳng thấm vào đâu. Tối qua bà ít nhất phải uống đến hai chục chén, ngà ngà mắng cậu: “Thất tình có gì mà buồn, yêu đứa khác đi!” Lưu Thập Tam chống chế: “Nhưng con chưa quên được cô ấy.” Bà ngoại xót xa ôm lấy cậu, dịu dàng dỗ: “Mày xấu nên người ta bỏ là phải. Người ta xinh nên mày không quên được là đúng. Muốn khóc thì cứ khóc đi, bà thương mày, bà xui xẻo.” Lưu Thập Tam khẽ cựa mình, phát hiện bà ôm rất chặt, bèn quờ lấy bình rượu tu cạn rồi thiếp đi trong lòng bà. Chắc bà chẳng nhớ chuyện tối qua, nên vẫn hăng hái như thường. Lưu Thập Tam bị đá ra cửa, ngoái lại trông thấy nửa thân đào cao vượt khỏi tường vây, bảng hiệu cũ kỹ của quán tạp hóa treo lủng lẳng trên cửa, có mây trắng núi xanh xa xa làm nền. Lưu Thập Tam thật sự bó tay hết cách. Mấy hôm trước, cậu còn đang nai lưng đi làm ở thành phố, cuối cùng vừa thất tình vừa thất nghiệp, đau lòng khôn tả. Vương Oanh Oanh xách hai chai rượu gạo đến chỗ cậu ở, chuốc cho cậu say mèm rồi lôi về. Bà cụ bảy mươi tuổi lái máy kéo cả đi cả về hai trăm cây số, trói thằng cháu ngoại say bí tỉ trong thùng xe. Bà than thở: “Đường xóc quá, thằng ngốc này thì nôn liên tục như đứa thiểu năng. Hơi một tí lại phải xuống xe lau cho nó. Khổ quá đi mất.” Lưu Thập Tam tỉnh lại, trợn tròn mắt nhận ra mình đang nằm trong căn nhà nhỏ giữa núi. Khó khăn lắm mới rời khỏi quê, quyết tâm làm nên sự nghiệp, nào ngờ lại bị Vương Oanh Oanh lái máy kéo tới, lôi về thị trấn Ngàn Mây. Ngôi nhà này lưu giữ tuổi thơ của Lưu Thập Tam. Mỗi khi tan học, cậu lại lẽo đẽo bám lấy bà ngoại hỏi đủ thứ chuyện. Thằng bé hỏi: “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Chẳng biết từ lúc nào, rất nhiều chuyện đã rất nhiều năm. Từ nhỏ đến lớn đều là bà đóng học phí cho cậu, mà thu nhập của bà chủ yếu bắt nguồn từ quán tạp hóa Oanh Oanh. Từ khi cậu hiểu chuyện, bà đã ngậm điếu thuốc, lái máy kéo rong ruổi khắp núi rừng, hàng hóa chất thành đống trong thùng xe. Thuở bé, Lưu Thập Tam giận bà vì vô số việc, nhưng chủ yếu là ba chuyện: Một, cho ít tiền tiêu vặt. Hai, chơi mạt chược quá nhiều. Ba, không tôn trọng mơ ước của cậu. Mỗi lần cậu nói: “Bà chơi ít thôi, dành tiền cho con này, để con thực hiện ước mơ.”, bà ngoại lại nghi ngờ hỏi: “Mày mới học lớp Bốn, mơ mộng cái gì?” Lưu Thập Tam đáp: “Đỗ vào Thanh Hoa, Bắc Đại, rời khỏi Vương Oanh Oanh, đến thành phố lớn.” Nghe vậy bà liền vơ dao đuổi cậu chạy khắp phố. Lưu Thập Tam trèo tót lên cây, nghiêm trang nói vọng xuống: “Bà ngoại, con nói cho bà biết, bà phải tôn trọng mơ ước của con.” Bà đáp: “Không thích ở với bà, định học theo mẹ mày, lẳng lặng bỏ đi đấy phải không?” Lưu Thập Tam đáp: “Con không học theo mẹ, con gửi tiền cho bà, tám vạn mười vạn đều vô tư!” Bà bổ dao vào gốc cây, “Bà đợi thế nào được đến lúc ấy, mày cứ đưa tiền mừng tuổi năm ngoái ra đây đã.” Lưu Thập Tam ngớ người rồi òa khóc thảm thiết, “Xấu hổ lắm! Con không học tiểu học nữa đâu! Con thi luôn vào Thanh Hoa, Bắc Đại, lấy vợ sinh con thôi!” Mười bốn năm trước, bà ngoại nhận được một bức thư. Bà không biết chữ, nhưng cũng không đưa cho Lưu Thập Tam đọc mà cất vào hộp bánh quy thiếc cùng mấy món trang sức. Bấy giờ Lưu Thập Tam tò mò lục ra xem rồi lén lút viết một bức thư trả lời, gửi theo địa chỉ ghi trên đó. Cậu viết rất đơn giản: Xin chào, con tên Lưu Thập Tam, cháu ngoại bà Vương Oanh Oanh, hai bà cháu sống rất chật vật, gửi cho ít tiền đi. Từ đó, cậu còn háo hức chờ hồi âm hơn cả bà. Giữa con phố chính của thị trấn là cửa hàng mậu dịch cũ, về sau sửa thành nhà thờ. Trước cửa hàng có một hòm thư, đối diện quán bánh bao. Lưu Thập Tam đeo túi chéo, hỏi bác Trần bưu tá: “Có thư của cháu không? Có thì nhớ đưa cho cháu, đừng đưa cho bà Vương Oanh Oanh.” Bác hỏi lại: “Sao vậy?” “Bác già rồi hỏi nhiều thế làm gì, cháu chia hoa hồng cho bác nhé?” Lưu Thập Tam đợi suốt cả học kỳ, đến Tết, nhân lúc bà ngoại uống say, cậu mới dám dò hỏi người kia rốt cuộc là ai, liệu có gửi tiền không? Đột nhiên bà ngoại bật khóc nức nở, khiến Lưu Thập Tam phát hoảng, cuống quýt lau nước mắt cho bà, “Bà ngoại, bà đừng khóc nữa, đợi con lớn lên ra thành phố sẽ gửi tiền cho bà.” Sau khi bác Trần qua đời, chẳng có bưu tá mới đến, hộp thư cũng biến mất, mọi người hiếm khi viết bằng bút máy. Bất kể ai trải giấy ra, viết ba chữ “anh yêu em”, đều có thể trở thành bức thư tình cuối cùng của thế kỷ 21. Lưu Thập Tam cũng viết một bức, kẹp vào sách Ngữ văn của cô bạn Trình Sương ở lớp học thêm hè năm lớp Bốn, vỏn vẹn mấy chữ: Tớ thấy cậu xinh hơn cả cô La, ăn ô mai không? Cô La là chủ nhiệm lớp, đồng thời cũng là dì của Trình Sương, mới ngoài hai mươi, tuổi xuân phơi phới. Hôm sau lên lớp, cô xách tai Lưu Thập Tam lôi vào phòng giáo viên, dịu dàng hỏi: “Em thấy cô có xinh không?” Lưu Thập Tam quả quyết: “Xấu như ma cấu.” Cả phòng giáo viên cười ồ lên, cô Vu dạy Toán ghé sang hỏi: “Còn cô thì sao?” Lưu Thập Tam phân vân giây lát rồi đáp: “Chắc cô La định đánh em đấy, cô cứu em với.” Cô Vu nói: “Cô ấy đánh là dĩ nhiên, giờ chỉ xem cô có đánh em không thôi.” Lưu Thập Tam trả lời: “Cô trẻ hơn cô ấy nên xấu vừa vừa thôi.” Cô Vu ra lệnh: “Ra hành lang, đứng dựa vào tường đến khi tan học.” Lưu Thập Tam hỏi lại: “Cô không hỏi em thấy hiệu trưởng thế nào à?” Mọi người trong phòng giáo viên vội ngừng công việc, bao nhiêu con mắt như đèn pha đổ dồn vào cậu. Cậu bĩu môi, “Thầy ấy chẳng ra sao, học thêm hè mà huy động từng này người thì khác gì học chính?” Kết quả cậu bị đưa từ phòng giáo viên sang phòng hiệu trưởng. Hiệu trưởng rót một chén trà, Lưu Thập Tam vội bưng ngay lên uống, khiến thầy ngạc nhiên ra mặt, “Thầy rót cho thầy cơ mà.” Lưu Thập Tam thổi lá trà, nhấp một ngụm rồi tặc lưỡi, “Đắng ngắt, có tiền người ta đã uống nước quýt cho ngọt rồi.” Hiệu trưởng gõ xuống bàn, “Thập Tam viết thư tình dở ẹc.” Lưu Thập Tam khinh khỉnh liếc thầy, “Em đọc hết sách trong thư viện trường rồi, thầy dựa vào cái gì mà nghi ngờ năng khiếu văn học của em?” Hiệu trưởng mỉm cười đưa cho cậu một quyển sách cũ nát, trang bìa lốm đốm mấy vết cháy sém, viết bốn chữ Khải: Nhân gian từ thoại*. Lưu Thập Tam lật qua lật lại, đầu ong lên, đã văn ngôn* lại còn đọc theo hàng dọc. Hiệu trưởng nói: “Mấy hôm nữa tôi sẽ kiểm tra em.” Trong đầu Thập Tam nhảy số thật nhanh, đáp ngay: “Năm 1997, Hồng Kông trở về với Đại lục.” Hiệu trưởng hỏi: “Em nhắc tới chuyện này làm gì?” Lưu Thập Tam nghiêm trang dõng dạc: “Hồng Kông được trả về, thế giới đại đồng, tàn dư phong kiến nhà thầy còn đọc chữ phồn thể, định phản động à?” Hiệu trưởng lẳng lặng đặt chén trà xuống, để cuốn sách vào lòng Lưu Thập Tam, xoa đầu cậu rồi nghiêm nghị nói: “Em đọc đi, đọc kỹ vào, thằng oắt con, đọc không hiểu thì liệu hồn đấy, cút ra.” Mời bạn đón đọc Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây của tác giả Trương Gia Giai & Tố Hinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Chó Khoang Chạy Ven Bờ Biển - Chyngyz Torekulovich Aytmatov
Chyngyz Torekulovich Aytmatov (12/12/1928 - 10/6/2008) là một nhà văn người Kyrgyzstan. Ông đã viết các tác phẩm của mình bằng tiếng Nga và cả tiếng Kyrgyzstan, nổi tiếng với những sáng tác văn học về quê hương ông. *** Tác phẩm Truyện núi đồi và thảo nguyên (1963) Jamilya (1958) Cây phong non trùm khăn đỏ (1961) Người thầy đầu tiên (1962) Mắt lạc đà Vĩnh biệt Gyulsary (1966) Con tàu trắng (1970) Lên núi Phú Sĩ (đồng tác giả với Kaltay Mukhamedzhanov) Sếu đầu mùa (1975) Con chó khoang chạy trên bờ biển (1977) Và một ngày dài hơn thế kỷ (1980, sau đổi tên là Буранный полустанок) Đoạn đầu đài (1986) Тавро Кассандры, (1996) Встреча с одним бахаи (trò chuyện với Feyzolla Namdar, 1998) Когда падают горы (2006) Материнское поле (2012) *** Đêm ven biển tối như bưng bão hoà hơi ẩm và khí lạnh bay lang thang, trên suốt vùng duyên hải Ôkhôt, trên toàn mặt trận của biển và đất liền diễn ra cuộc đấu tranh muôn thuở, không gì kiềm chế được giữa hai lực lượng thiên nhiên: đất liền ngăn trở chuyển động của biển, biển tấn công đất liền. Biển ì ầm lồng lộn trong bóng tối, xông tới lao mình vào các mỏm đá, làm tung lên muôn vàn tia nước. Đất rắn như đá rên rỉ, gầm gào đánh bật những đòn dữ dội của biển. Biển và đất cứ quần nhau như thế kể từ thủa khai tịch, từ khi đêm bắt đầu là đêm, ngày bắt đầu là ngày và sẽ còn như thế mãi, ngày ngày và đêm đêm, chừng nào vẫn còn đất và nước trong dòng thời gian vô tận. Ngày ngày và đêm đêm… Lại một đêm nữa trôi qua. Đêm trước hôm ra khơi. Đêm ấy nó không ngủ. Lần đầu tiên trong đời, nó không ngủ, lần đầu tiên trong đời nó biết thế nào là mất ngủ. Nó háo hức mong ngày chóng đến để được băng ra biển. Nằm trên tấm da hải báo, nó cảm thấy đất rung chuyển nhè nhẹ, hầu như khó nhận biết do những đòn va đập của biển và nghe thấy sóng ầm ầm vật vã trong vịnh. Nó không ngủ, lắng nghe đêm tối… Ấy thế mà xưa kia, có một thời thế gian hoàn toàn khác. Bây giờ thật không thể tưởng tượng nổi một cảnh tượng như thế, bây giờ không ai hay biết điều đó, không ai ngờ đâu rằng nếu như thủa xa xưa đó, không có con vịt Luvrơ thì thế giới đã có thể được an bài khác hẳn: đất liền không chống lại nước, và nước không chống lại đất liền. Bởi vì thoạt kỳ thuỷ, thủa ban sơ, trong thiên nhiên không có đất, thậm chí không có lấy một hạt bụi. Bốn bề nước ngập mênh mông, chỉ toàn là nước. Nước từ nước sinh ra, trong cái vòng chu chuyển của mình, trong những vực thẳm đen ngòm, trong những xoáy nước vô lượng. Và sóng cuốn theo sóng, sóng tràn lan về mọi phía trong cái thế giới vô bờ bến lúc bấy giờ: chẳng từ đâu ra và chẳng đi về đâu. Còn con vịt Luvrơ, phải, đúng là thứ vịt trời bình thường, mỏ to bè mà ngày nay ta vẫn còn thấy bay từng đàn trên đầu chúng ta, hồi ấy nó bay lượn trên thế gian, trơ trọi có một mình và không biết đẻ trứng vào đâu. Khắp cõi trần chẳng có cái gì khác ngoài nước, không có lấy một cây sậy để có thể làm tổ. Vịt Luvrơ vừa kêu càng cạc vừa bay lượn, nó sợ nó sẽ không cố được, sẽ đẻ rơi trứng xuống cái vực biển không đáy. Bất kể nhằm hướng nào, bay tới đâu, vịt Luvrơ cũng chỉ thấy sóng vỗ dạt dào dưới cánh, bốn bề là nước cả mênh mông, không bờ không bến, không đầu không cuối. Vịt Luvrơ kiệt lực, thấy rõ rằng khắp thế gian này không có chỗ nào cho nó làm tổ. Thế là vịt Luvrơ đáp xuống nước, vặt lông ngực làm tổ. Chính từ cái tổ trôi nổi ấy mà đất đã bắt đầu hình thành. Dần dần đất lan rộng ra, dần dần mặt đất trở thành nơi cư ngụ của các sinh vật khác nhau. Trong số đó con người vượt hơn tất cả: con người biết dùng bàn trượt đi trên tuyết, biết dùng thuyền đi trên mặt nước. Người bắt đầu săn bắt thú, đánh bắt cá, nhờ đó tự nuôi sống mình và làm cho dòng giống mình sinh sôi nảy nở. Ôi, giá như vịt Luvrơ biết được thế gian sẽ khổ sở như thế nào khi đất rắn xuất hiện giữa vương quốc bao la của nước. Thật thế, từ khi đất xuất hiện, biển không thể yên lòng, biển tấn công đất liền, đất liền chống lại biển. Bị kẹt giữa hai lực lượng đó – giữa đất liền và biển, giữa biển và đất liền, con người lắm khi rất cực. Biển không ưa con người vì con người gắn bó với đất liền nhiều hơn… Sắp sáng rồi. Lại một đêm nữa qua đi, một ngày nữa ra đời. Giống như vành môi hươu trong làn hơi thở mờ mịt màn khói lam, trong bóng tối xám nhạt đang hửng sáng dần dần lộ rõ khoảng tiếp giáp dữ dội của biển và bờ biển. Biển thở phập phồng. Trên suốt khoảng tiếp giáp sục sôi giữa đất liền và biển hơi sương nhẹ bỗng, lạnh giá bốc lên cuồn cuộn, và khắp vùng duyên hải, suốt dọc bờ biển không ngớt dậy lên tiếng xậm xịch dai dẳng của sóng vỗ bờ. Sóng rất mực kiên gan: hết đợt này đến đợt khác, mỗi lúc một mãnh liệt hơn xông lên công phá, chồm lên bãi cát bồi rắn chắc, lạnh lẽo, vọt qua những đống đá chồng chất, trơn nhẫy màu nâu xạm, chồm lên với tất cả sức mạnh và khí thế của chúng, rồi theo nhau tàn lụi đi ở giới hạn tận cùng của mình như một hơi thở ra tụt lịm, để lại một lớp bọt tiêu tan trong khoảnh khắc và mùi ủng rữa của rong rêu bị khuấy đảo. Đôi lúc, sóng ném lên bờ cả những mảnh băng bị cuốn từ đâu tới không rõ theo dòng chuyển vận của đại dương mùa xuân. Những mảnh băng lạc loài bị vứt lên cát lập tức biến thành những mẩu kỳ quặc, bơ vơ của biển đã đông kết. Những đợt sóng tiếp theo nhanh chóng ào đến và lôi chúng trở lại thế giới tự nhiên của chúng. ... Mời các bạn đón đọc Con Chó Khoang Chạy Ven Bờ Biển của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov.
Tình Khúc Mùa Thu - Danielle Steel
Thần tượng của hàng triệu độc giả nữ Danielle Steel rất “được lòng" phái đẹp toàn thế giới bởi những câu chuyện đầy tinh tế của bà khi viết về họ với sự thấu hiểu và đầy lòng trắc ẩn. Danielle Steel là một trong những nữ nhà văn thành công nhất và được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009-2010 của tạp chí Forbes với hàng trăm triệu USD. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York, sống thời thơ ấu ở Pháp, nơi bà bắt đầu viết thơ và truyện ngắn khi mới lên 9 tuổi. Đến nay, bà đã là tác giả của hơn 113 đầu sách với hơn 800 triệu cuốn được xuất bản, được dịch ra 28 thứ tiếng khác nhau ở tại 47 quốc gia và đã có 22 tác phẩm được chuyển thể thành phim. Là tác giả của đầu sách góp mặt trong danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times trong 390 tuần liên tiếp, tài năng của Danielle Steel đã được công nhận Kỷ lục Guinness vào năm 2008. Ngoài viết tiểu thuyết, Steel còn là tác giả của 10 tập truyện tranh Max and Martha dành cho thiếu nhi và cũng là tác giả của Freddie - 4 cuốn sách về những tình huống khác nhau xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Danielle còn cho ra đời cuốn His Bright Light kể về cuộc sống cùng cái chết của chính con trai bà (Nicholas Trainna) và một tập thơ mang tên Love: Poems. Những tác phẩm của nữ nhà văn này luôn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của hàng triệu độc giả, đặc biệt là những độc giả nữ xem bà như thần tượng và háo hức chờ đợi từng cuốn tiểu thuyết của bà. Là một phụ nữ tài sắc, nhạy cảm, một cây bút nhiệt tâm, giàu cảm xúc nhưng Daniel Steel lại gặp phải một cuộc đời “đầy giông bão”. Trải qua 5 lần kết hôn và làm mẹ của 9 đứa con, thấy được hết những mặt tốt xấu của cuộc sống hôn nhân và gia đình dường như khiến nhà văn thấu hiểu và mang nhiều lòng trắc ẩn hơn đối với cuộc đời của những người phụ nữ. Từ hình ảnh nhân vật Solange xinh đẹp buồn phiền vì hạnh phúc gia đình tan vỡ trong cuốn Những cánh hoa lạc loài (Kaleidoscope) đến hình ảnh một người phụ nữ mạnh mẽ, nghị lực dám vươn lên và chiến thắng nghịch cảnh để tồn tại như nhân vật Annabelle Worthington trong cuốn Người phụ nữ tốt bụng (A Good Woman); hay những suy nghĩ của nhân vật Jessie về tình yêu và niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong cuốn Bây giờ và mãi mãi (Now And Forever) đến những nỗi đau xen lẫn vị ngọt của thứ tình yêu chân chính mà nhân vật India phải nếm trải trong cuộc hành trình tìm lại ước mơ và khát vọng sống của chính mình trong cuốn tiểu thuyết Nỗi đắng cay ngọt ngào (Bittersweet),… đều thể hiện ngòi bút tinh tế của Daniel Steel. Danielle Steel viết nhiều về phụ nữ. Bà viết về niềm vui hay nỗi đau, khát vọng hay tuyệt vọng, tất cả đều mãnh liệt và ám ảnh. Những người phụ nữ trong trang sách của bà thường ở trong tình huống éo le của cuộc sống, nhưng họ đều mạnh mẽ vươn lên và chiến thắng số phận. Nói về người phụ nữ lý tưởng, nữ nhà văn quan niệm rằng: “Cuộc sống là một trò chơi mở, mọi thứ đều có thể xảy ra. Đừng bao giờ chắc chắn điều gì đó về bạn hay bất kỳ ai khác. Hiểu và tin điều quý giá đối với trái tim bạn và nỗ lực để bảo vệ nó. Hạnh phúc không phải là vĩnh viễn. Có thể có những thời điểm khó khăn, nhưng đừng bao giờ để bạn bị những khó khăn của cuộc đời cuốn trôi đi.” *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Phòng triển lãm hội họa Suvery ở Paris được thiết lập trong một tòa nhà rất ấn tượng, một Hotel Particulier lịch sự của thế kỷ 18 tại khu Fauourg St. Honoré. Chỉ những nhà sưu tầm danh tiếng mới được mời đến đây. Họ đi qua bộ cửa bằng đồng khổng lồ để vào sân trong. Ngay trước sân là phòng triển lãm chính, phía bên trái là phòng làm việc của Simon de Suvery, chủ nhân của ngôi nhà. Và cánh nhà bên trái là phần con gái ông ta phụ thêm vào buổi triển lãm, ở đây trưng bày các sản phẩm đương đại. Phía sau nhà là một khu vườn đẹp rộng lớn có đầy những tác phẩm điêu khắc, chủ yếu là của Rodin. Simon de Suvery ở đây đã hơn 40 năm. Bố ông, cụ Antoine, là một trong những nhà suy tầm hội họa danh tiếng nhất châu Âu, và Simon là nhà nghiên cứu hội họa thời Phục hưng về các kiệt tác của nước Hà Lan trước khi ông khai trương phòng triển lãm này. Bây giờ ông được các viện bảo tàng khắp châu Âu hỏi ý kiến, được các nhà sư tầm tư nhân kính nể, và được hết thảy những người biết ông ngưỡng mộ, mặc dù họ thường sợ ông. Simon de Suvery có vóc dáng oai vệ, thân hình lực lưỡng, nét mặt nghiêm nghị, cặp mắt đen nhìn thấu tâm can người khác, Simon lấy vợ muộn, vì trong thời thanh niên ông mãi miết lo gầy dựng sự nghiệp, không có thời giờ dành cho những chuyện yêu đương. Đến năm 40 ông mới lấy con gái một nhà sưu tầm hội họa danh tiếng. Cuộc hôn nhân của ông thật hạnh phúc. Marjorie de Suvery vợ ông không bao giờ tham gia trực tiếp vào công việc của phòng triển lãm, phòng này được thiết lập trước khi Simon cưới bà. Bà rất say mê phòng triển lãm, ngưỡng mộ việc trưng bày của ông. Bà yêu ông tha thiết, quan tâm sâu sắc đến bất cứ điều gì ông làm. Marjorie là hoạ sĩ, nhưng bà cảm thấy không yên tâm khi đem triển lãm tác phẩm của mình. Bà vẽ phong cảnh và chân dung rất đẹp, nhưng thường là để tặng bạn bè. Thực ra, Simon thấy tranh bà đẹp nhưng không gây ấn tượng mạnh cho ông. Ông rát gắt gao trong việc đưa tác phẩm nào ra trưng bày. Ý chí của ông rất sắc đá, tinh thần cứng rắn như kim cương, hoàn toàn đặt vấn đề nghệ thuật lên trên hết, dù vậy dưới bộ mặt sắc đá ấy, luôn luôn ẩn giấu một tấm lòng vàng. Hay là Marjorie đã nói thế. Mặc dù không phải mọi người đều tin lời bà. Ông rất tốt với nhân viên, thành thật với khách hàng, và theo đuổi đến cùng bất cứ cái gì mà ông thấy cần có cho phòng triển lãm. Nhiều lúc ông bỏ ra nhiều năm trời để có được một bức tranh hay một tác phẩm điêu khắc có giá trị, nhưng ông không bao giờ ngồi chờ cho đến khi tác phẩm ấy đến tay mình. Ông đã theo đuổi vợ ông như thế cho đến khi ông cưới được bà. Và khi cưới bà, ông xem bà như báu vật – chỉ dành riêng cho ông. Chỉ khi nào ông cảm thấy cần giới thiệu bà với ai, ông mới đưa bà ra, nhất là để làm vui lòng khách hàng ... Mời các bạn đón đọc Tình Khúc Mùa Thu của tác giả Danielle Steel.
Tập Truyện Tình Yêu
Tập truyện tình yêu này gồm có: Ai Mà Chịu Nổi Rigoletta Một Cái Hôn Anh Yêu Cuộc Hẹn Hò Ở Florence Những Vì Sao Ma Thuật Đôi Mắt Lụa Nàng Đi Mất Rồi! Mảnh Thu Trả Thù Lily Khoảnh Khắc Chóng Mặt Người Đàn Bà Cầm Chiếc Dù Chúc Anh Vui Người Chồng Lý Tưởng Emma Sun Kẻ Chia Rẽ Chăm Sóc Chồng Thế Nào? Trong Vườn Tình Yêu Và Môn Lôgic Gạt Bỏ Mối Tình Qua Những Bức Thư Ruđenxơ Nhút Nhát Sau Buổi Chiếu Chiếc Thang Máy Xuống Địa Ngục Cứu Rỗi Thiên Thần Yêu Mơ Ước Tình Yêu Chị Em Đám Cháy Căn Phòng Kín *** Vợ chồng Vacherot đang ăn tối ở phòng ăn trong căn nhà của họ trên phố Vaugirard tại Paris. Ở tuổi 28, Gaston Vacherot là một người đàn ông điển trai: mái tóc và chòm râu màu nâu, cái nhìn nồng cháy, bộ ria thanh mảnh, người cao lớn và tư thế lịch sự. Anh ăn mặc cũng sang trọng. Gaston mau chóng quen với những bộ quần áo thượng hạng từ khi kết hôn với Augustine. Anh đã sống rất thoải mái cả một thời trẻ trung nhờ có tài sản của vợ. Nhưng lúc này, vẻ mặt không vui, anh lấy chiếc đồng hồ bỏ túi ra xem giờ. - Em yêu, anh buộc phải tạm xa em trong nửa tiếng đồng hồ. Anh cần ra ga Orsay đón một khách hàng ở tỉnh lẻ lên. Augustine Vacherot ngạc nhiên: - Một khách hàng! Thế là thế nào? Ông Constat không tự đi đón được sao? Gaston mỉm cười: - Đây là một chứng cớ của lòng tin cậy, em ạ. Anh là thư ký thứ nhất. Anh phải đi thay ông ấy chứ. Augustine thở dài: - Em biết thế, Gaston. Nhưng dù sao… chúng mình bị mất một buổi tối cùng nhau… Sau khi chồng đi, Augustine ngồi thêu cho quên tâm trạng nóng ruột. Thời gian cứ trôi… cô cảm thấy trống trải khi Gaston vắng nhà. Đã 11 giờ! Tiếng chuông cửa xiết bao chờ đợi không thấy reo lên. Cô ra cửa sổ để rình đón xem có chiếc xe nào đang chạy tới không. Nhưng đường phố vắng tanh. Năm phút rồi mười phút, một tiếng đồng hồ rồi hai tiếng nối tiếp nhau trôi qua. Augustine khốn khổ mỗi lúc thêm sợ hãi, thoạt tiên, tự nhủ chắc chồng mình chỉ về trễ thôi. Đến sáng, cô chạy lên đồn cảnh sát… Thanh tra Cournet chăm chú nghe cô kể. Rồi ông nói: - Nếu chồng bà gặp tai nạn, chúng tôi sẽ được thông báo rất nhanh… Và Augustine ngồi đối diện, ông nói tiếp: - Nhưng theo tôi, nhiều khả năng đây là một vụ bỏ nhà ra đi. Một tiếng kêu phẫn nộ đáp lại lời ông: - Gaston của tôi không bao giờ làm một điều như thế! Anh ấy là một người chồng mẫu mực. Thanh tra Cournet tiễn khách ra cửa: - Vai trò của tôi là xem xét tất cả các giả thiết, thưa bà. Tạm thời, tôi muốn nghĩ tới giả thiết nào ít bi thảm nhất. Bà cứ về nhà đi, nếu có tin gì mới, tôi sẽ đến gặp bà… Sự việc mới xảy ra vào buổi chiều. Một người đem tới nộp cảnh sát một chiếc ví anh ta nhặt được trên quãng bờ sông ở gần cầu cạn Auteuil. Trong ví có các giấy tờ của Gaston. Trên đường tới phố Taugirard, thanh tra Cournet cảm thấy bối rối! Ông ít khi đoán nhầm. Ông đã nghĩ ngay Augustine thuộc kiểu người vợ thường bị bỏ rơi. Nhưng bây giờ, ông phải thừa nhận vụ này đã chuyển sang hướng khác. Augustine suy sụp hẳn khi thấy ông thanh tra đem chiếc ví của chồng tới. Sau giây phút tuyệt vọng, cô cố trả lời các câu hỏi của ông. - Thưa bà, hai ông bà có chuyện bất hoà gì không? - Hoàn toàn không. Gaston rất hiền lành và tốt nết. - Bà có nhận thấy ở chồng bà một sự thay đổi tâm trạng gì không, một chút sầu muộn chẳng hạn? Augustine sửng sốt trước câu hỏi ấy. Gaston không thể tự tử. Hôm qua, anh ấy vẫn như mọi khi: vui vẻ, vô tư. Thanh tra Cournet ghi câu trả lời vào sổ, vẻ thản nhiên. Ông cũng không tin là có chuyện tự tử. Khi nhảy xuống nước, ít ai lại bỏ ví ra. Quá lắm, người ta cũng chỉ cởi quần áo. Thêm nữa, còn một điều khác… - Bà nói ông ấy ra ga Orsay đón một khách hàng của bà Constat? - Vâng, thưa ông thanh tra. - Tôi rất lấy làm tiếc, thưa bà, nhưng trước khi tới đây tôi đã cho điều tra và được biết tối qua bà Constat không chờ một khách hàng nào cả. Augustine cảm thấy hụt hơi. Trong một tình trạng giống như chóng mặt, cô lờ mờ thấy một Gaston bí mật mà chưa bao giờ cô lại nghĩ là có tồn tại, bèn kêu lên: - Thế thì anh ấy nói dối tôi! Nhưng tại sao mới được chứ? Ông thanh tra buông một tiếng thở dài: - Đó cũng là điều mà tôi hy vọng sẽ mau chóng biết được. Bà cho phép tôi tìm trong các giấy tờ riêng của chồng bà chứ? Augustine buồn bã gật đầu và dẫn viên thanh tra vào một văn phòng bày biện lộng lẫy. Sau khi nhanh nhẹn xem xét, ông thanh tra lấy ra một bó thư buộc bằng dãy lụa, rồi ông đọc lướt qua các bức thư. - Bà có nghe nói tới một cô Hortense Lemoine nào đó không? Augustine buông phịch người xuống một chiếc ghế: - Không, chưa bao giờ. Đó là… người tình của anh ấy? - Vâng, nhưng bà yên tâm. Những bức thư này được viết từ trước khi bà lấy ông Gaston. Thêm nữa, chính vì ông ấy lấy bà mà ông ấy đã cắt đứt với cô gái. Đôi mắt Augustine như cầu khẩn: - Và ông cho rằng cô gái đó có thể liên quan tới việc Gaston biến mất? Thanh tra Cournet làm một cử chỉ bất lực. - Tôi không biết, thưa bà. Nhưng tất cả mọi hướng đều được chúng tôi theo dõi. Tôi hy vọng chẳng bao lâu sẽ báo cho bà những tin tức tốt lành. Xin bà cho phép tôi giữ bó thư này… Mời các bạn đón đọc Tập Truyện Tình Yêu.
Sulamif - Aleksandr Kuprin
Sulamif là câu chuyện tình giữa vua Solomon và một cô gái dân thường, một tình yêu cháy bỏng, trong sáng, cao cả đầy chất thơ, truyện kết thúc buồn nhưng đầy chất nhân văn. Từ bấy đến nay đã nhiều thế kỉ trôi qua. Đã có biết bao vua chúa và vương quốc tồn tại trên trái dất này và tất cả đầu như những ngọn gió thổi ngang sa mạc, không để lại một dấu vết nào. Đã có biết bao những cuộc chiến tranh tàn khốc, lâu dài để lại tên tuổi những thống soái sáng chói qua các thế kỉ như những ngôi sao bầm máu, nhưng rồi ngay cả những kỉ niệm về họ đến nay cũng đã bị thời gian xóa sạch. Còn tình yêu của một cô gái nghèo con người gác nho và nhà vua vĩ đại sẽ không bao giờ bị phai mờ và quên lãng, vì rằng tình yêu đó mạnh như cái chết, vì rằng mỗi người đàn bà đang yêu đều là một nữ hoàng, và vì rằng tình yêu là đẹp nhất trên đời! *** TỦ SÁCH ĐÔNG TÂY TÁC PHẨM​ Nền văn học phương Tây đã sản sinh ra biết bao thi hào, văn hào có tầm ảnh hưởng sâu rộng tới trào lưu văn học của cả thế giới. Tủ Sách Đông Tây tác phẩm sẽ giới thiệu tới các độc giả yêu văn học phương Tây những tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng này. Thi hào Alexandr Pushkin - mặt trời của nền thi ca Nga, ngọn cờ của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỉ XIX, sẽ được giới thiệu tới độc giả Việt Nam qua tuyển tập Truyện ngắn Alexandr Pushkin nổi tiếng gồm 6 truyện: Con đầm bích, Phát súng, Bão tuyết, Ông chủ hiệu đám ma, Người coi trạm, Cô tiểu thư nông dân. Mikhail Prishvin là một trong những nhà văn Nga viết về thiên nhiên nổi tiếng nhất. Và thế là Giọt rừng ra đời như một trải nghiệm nghiên cứu đầy chất thơ cái thiên nhiên được hiểu trong sự hoà hợp với con người sống trong nó và tạo ra nó... William Thackeray, tác giả tiểu thuyết kinh điển Hội chợ phù hoa, một trong những nhà văn Anh quan trọng nhất thời Victoria, nổi tiếng về nghệ thuật châm biếm. Nhờ được hưởng một gia sản thừa kế khá lớn, ông đã dành nhiều thời gian đi du lịch, sang Paris và Weimar. Ông viết nhiều thể loại, cả truyện thiếu nhi và lịch sử, những hầu hết đều có tính chất châm biếm, nhằm đả kích xã hội tư sản quý tộc Anh đương thời. Tủ sách Đông Tây tác phẩm lần này sẽ giới thiệu tới độc giả Việt Nam một trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi nổi tiếng của ông: Chiếc nhẫn và bông hồng, một câu chuyện châm biếm và đầy kịch tính. Chiếc nhẫn và bông hồng là truyện cổ tích đầy kịch tính, xoay quanh cuộc phiêu lưu của hai chàng hoàng tử Giglio và Bulbo, hai công chúa Rosalba và Angelica. Câu chuyện kết thúc có hậu, hoàng tử Giglio lấy Rosalba; hoàng tử Bulbo lấy Angelica khi đã trải qua nhiều khó khăn, nguy hiểm. Chiếc âu vàng là một trong những áng văn xuôi hay nhất của nước Đức trong thế kỷ XIX, tinh hoa của một trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và khoáng đạt, đầy sức hấp dẫn bởi sự biến hóa khôn lường giữa cái ảo và cái thực, giữa vô thức và hữu thức, giữa cái nội tại và cái ngoại tại. Hai trăm năm qua, Chiếc âu vàng- món quà tặng của tình yêu luôn được nhìn nhận là tuyệt tác của nhà ảo thuật phương Đông... Có người nói, E.T.A. Hoffmann là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng, thậm chí có nhà nghiên cứu coi ông như một bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, và gần đây nhất, trong một công trình giới thiệu Hoffmann với đông đảo bạn đọc Đức qua tủ sách phổ thông Reclam, nhà phê bình K. Nussbaecker còn khẳng định tác phẩm Chiếc âu vàng là một điển hình của chủ nghĩa siêu thực trong văn học. Các bạn độc giả cũng sẽ phải tủm tỉm cười trước những áng văn hài hước, châm biếm vô cùng hóm hỉnh của tác giả và hồi hộp theo dõi cuộc đời kỳ dị của Zaches Tí Hon trong Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober, một con quỷ lùn xấu xí như rễ cây, nhưng đã trở thành quan thượng thư và là niềm vinh quang của cả một vương quốc… Với Đêm trắng của Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky lại là một câu chuyện tình đẹp và buồn được viết theo phong cách lãng mạn tình cảm. Vanina Vanini được viết năm 1829 là một tác phẩm ngắn nhưng ấn tượng. Thông qua câu chuyện tình của một công nương La Mã trẻ với chiến sĩ Carbonari kiên cường bị tù tội, Stendhal bày tỏ thiện cảm và sự ủng hộ của mình đối với cuộc đấu tranh vì tự do của nhân dân Italia mà ông gắn bó. Chiếc vòng thạch lựu là thiên truyện tình hay nhất của nhà văn Aleksandr Kuprin, một mối tình trong sáng, mãnh liệt, cao cả, đẹp và buồn, sẵn sàng hi sinh bản thân bởi tình yêu, câu chuyện nhẹ nhàng đầy tính chất nhân văn. Còn Sulamif lại là câu chuyện tình giữa vua Solomon và một cô gái dân thường, một tình yêu cháy bỏng, trong sáng, cao cả đầy chất thơ, truyện kết thúc buồn nhưng đầy chất nhân văn. Trái tim chó - Mikhail Bulgakov kể về câu chuyện xảy ra khi nhà bác học Preobrajenski qua thí nghiệm kết hợp thể xác chó với tuyến yên não người đã tạo ra một sinh vật biết sử dụng ngôn ngữ người. Qua "Trái tim chó" tác giả cảnh báo về nguy cơ "Saricov", một dạng người có trái tim chó, hay nói đúng hơn là một dạng người mang tâm lí chó vốn không quá hiếm trong cuộc đời xung quanh. Cánh Buồm Đỏ Thắm của Aleksandr Grin là câu chuyện cổ tích trở thành hiện thực. Một cô gái cô đơn giàu mơ ước và niềm tin có thể trở thành nàng công chúa, một chàng trai có tâm hồn bay bổng là chàng hoàng tử. Đây là câu chuyện nhẹ nhàng có thể khiến bạn mỉm cười khi đọc. Bộ sách do các dịch giả có danh tiếng trong làng dịch thuật chuyển ngữ: Thái Bá Tân, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Duy Bình, Phương Hồng và Quang Chiến. Mời các bạn đón đọc Sulamif của tác giả Aleksandr Kuprin.