Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đêm

Tiểu thuyết Đêm của nhà văn Elie Wiesel được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn chương holocaust. Ngày hôm nay, dù Phát-xít đã thất trận, nhưng Lịch sử giải thích thế nào về những trẻ sơ sinh đã bị ném vào lửa, về những đứa con sẵn sàng đánh chết cha mình vì một miếng ăn, về những con người trần truồng giẫy chết trong các buồng hơi ngạt? Và Lịch sử sẽ nói gì với những con người sống sót bước ra từ các khu trại chết chóc ấy? Không có lời giải đáp thích đáng nào cho những thân phận vô tội đã bị ép chết, cũng không có câu trả lời hợp lẽ về các trại tập trung ghê rợn đã đày đọa người Do Thái, càng không có lời lẽ nào công bằng cho những con người bước ra từ nhục hình ấy; bởi lẽ chính những cái chết phi lý đã là sự kiện, những trại tập trung đã là nơi chốn, những tù nhân sống sót đã là nhân chứng của một trang đen tối và bi thảm nhất trong lịch sử loài người. *** Lời tựa của François Mauriac  Các nhà báo ngoại quốc thường đến gặp tôi. Tôi rất thận trọng với họ và luôn bị giằng co giữa ước vọng được nói hết với họ nhưng lại e rằng sẽ giao vũ khí vào tay những người phỏng vấn mà mình không hiểu thái độ của họ đối với nước Pháp như thế nào. Trong những lần gặp gỡ đó, tôi thường có khuynh hướng thủ thế. Buổi sáng đặc biệt đó, người thanh niên Do Thái đến phỏng vấn tôi cho một nhật báo ở Tel Aviv đã giành được thiện cảm của tôi ngay trong khoảnh khắc đầu tiên. Cuộc trò chuyện của chúng tôi đã nhanh chóng chuyển thành tâm sự. Chẳng mấy chốc tôi đã chia sẻ với anh ta những hồi ức từ thời kỳ Chiếm đóng5[5]. Không phải lúc nào những biến cố đã tác động đến cá nhân chúng ta cũng là những biến cố ảnh hưởng đến chúng ta nhất. Tôi thố lộ với người khách trẻ tuổi của mình rằng chẳng có điều gì mà tôi đã chứng kiến trong gian đoạn đen tối ấy đã ghi dấu ấn sâu đậm lên tôi bằng hình ảnh của các toa xe chở súc vật đầy những trẻ em Do Thái tại nhà ga Austerlitz... Thực ra thì không phải chính mắt tôi đã mục kích những toa xe đó. Vợ tôi đã kể cho tôi, và lúc kể bà vẫn còn bị chấn động về sự ghê rợn mà bà đã cảm thấy. Vào lúc đó chúng tôi vẫn chưa biết chút gì về các phương cách tiêu diệt của Đức Quốc xã. Và ai mà lại có thể tưởng tượng nổi những phương cách như thế! Nhưng những con cừu non này bị giựt ra khỏi các bà mẹ đã là điều tệ hại hơn tất cả những gì chúng ta nghĩ là có thể xảy ra được. Từ ngày đó tôi tin là như thế. Tôi tin rằng ngày đó là ngày lần đầu tiên tôi biết đến sự bí hiểm của điều tội lỗi mà khi lộ ra ánh sáng nó đánh dấu sự cáo chung của một thời đại và sự khởi đầu của một thời đại khác. Giấc mơ, thai nghén bởi người Tây phương trong thế kỷ 18, mà buổi bình minh của giấc mơ đó họ tưởng là đã thoáng thấy vào năm 17896[6], và rồi đến ngày 2 tháng Tám năm 19147[7], đã lớn mạnh hơn với sự ló dạng của Thời đại Ánh sáng và những phát minh khoa học – giấc mơ đó cuối cùng đối với tôi đã tan biến trước những toa xe lửa nhồi nhét đầy trẻ nhỏ. Mà lúc đó tôi vẫn còn xa cách hàng ngàn dặm với việc hình dung ra được rằng những đứa trẻ này đã được quyết định đưa vào những phòng hơi ngạt và những lò thiêu. Điều này, hôm ấy, là những gì có thể tôi đã nói với nhà báo này. Và khi tôi nói, với một tiếng thở dài, “Tôi đã nghĩ đến những đứa bé này rất nhiều lần!” thì anh đã nói với tôi, “Tôi là một trong những đứa trẻ đó.” Anh là một trong những đứa trẻ đó! Anh đã trông thấy mẹ anh, thấy đứa em gái nhỏ thân yêu, và hầu như cả gia đình anh, trừ người cha và hai chị lớn, biến vào một lò lửa mà nhiên liệu là những sinh vật sống, về phía người cha, cậu bé này đã ngày này qua ngày khác chứng kiến sự đọa đày của ông và cuối cùng, chứng kiến cơn hấp hối và cái chết của ông. Một cái chết! Những chi tiết của cái chết đó được kể trong quyển sách này, và tôi sẽ để cho độc giả – sẽ đông bằng số người đọc của quyển Nhật ký của Anne Frank – tự khám phá các chi tiết này cũng như cái phép lạ đã giúp cho cậu bé thoát được. Như thế tôi khẳng định rằng bản hồi ký cá nhân này, ra đời sau quá nhiều những hồi ký khác và mô tả nhưng việc ghê tởm như những việc mà chúng ta đã coi là không còn là bí mật gì đối với chúng ta nữa, thì vẫn khác lạ, riêng biệt và độc đáo. Số phận của những người Do Thái ở một thị trấn nhỏ tên là Sighet ở Transylvania; sự mù loà của họ khi đối diện với một định mệnh mà họ vẫn còn cơ hội để thoát thân; sự thụ động không thể hiểu được khiến họ đầu hàng định mệnh, điếc đặc với những lời cảnh báo và van nài của một nhân chứng là người đã thoát được cuộc tàn sát, kể lại cho họ những gì ông ta đã tận mắt nhìn thấy, nhưng họ từ chối không tin ông ta và gọi ông ta là người điên – tập hợp này cua những tình huống chắc chắn sẽ đầy đủ để viết nên một quyển sách mà tôi cho rằng không một quyển sách nào có thể so sánh được. Tuy nhiên một khía cạnh khác của quyển sách khác thường này đã là điều tôi chú ý đến. Đứa trẻ kể lại cho chúng ta câu chuyện của nó là một đứa bé được Thượng đế chọn lựa. Từ lúc nó bắt đâu biết suy nghĩ, nó đã chỉ sống cho Thượng đế, nghiên cứu Talmud8[8], nôn nóng được khai tâm vào Kabbalah9[9], tận hiến cho Đấng Toàn năng. Hãy nghĩ xem hậu quả của một sự kinh sợ kém rõ ràng hơn, ít lộ liễu hơn, nhưng là sự kinh sợ tệ hại nhất, cho những người có lòng tin trong chúng ta: cái chết của Thượng đế trong tâm hồn của một đứa trẻ đột nhiên phải đối diện với cái xấu tuyệt đối. Xin hãy cùng tưởng tượng đến những gì diễn ra trong đầu óc đứa bé khi mắt nó trông thấy khói đen tỏa lên trời, luồng khói phát xuất từ các lò mà đứa em gái nhỏ của nó cùng với mẹ nó đã bị ném vào sau hàng ngàn nạn nhân khác. “Không bao giờ tôi có thể quên được đêm ấy, cái đêm đầu tiên của đời tôi trong trại tập trung, cái đêm đã biến cuộc đời tôi thành một đêm dài tăm tối mịt mù. Không bao giờ tôi quên được làn khói ngùn ngụt ấy. Không bao giờ tôi quên được những khuôn mặt ngây thơ, những thân xác bé nhỏ đang biến dần thành cuộn khói ngùn ngụt bay vào không trung yên tịnh. Không bao giờ tôi quên được ngọn lửa ấy đã thiêu cháy vĩnh viễn lòng tin của tôi. Không bao giờ tôi quên được cái im lặng của màn đêm ấy đã vĩnh viễn tước đi lòng khao khát sinh tồn của tôi. Không bao giờ tôi quên được những giây phút đã giết đi Thượng đế trong tôi, đã mang đi linh hồn tôi, và biến những giấc mơ của tôi thành tro bụi... Không bao giờ, không bao giờ tôi quên được những thứ ấy, cho dù tôi có phải sống lâu như Thượng đế, tôi cũng không bao giờ... Không bao giờ. ” Đến lúc đó tôi hiểu ra điều gì đã thu hút tôi về chàng thanh niên Do Thái này: cái nhìn của một Lazarus trỗi dậy từ cái chết mà vẫn bị giam giữ ở những vùng tăm tối nơi anh đã lạc vào, vướng chân vào những thây ma đã bị xúc phạm. Với anh, tiếng thét của Nietzche gợi lên gần như một thực tế bằng xương băng thịt: Thượng đế đã chết, Thượng đế của tình yêu, của sự dịu dàng và an ủi, Thượng đế của Abraham, Issac và Jacob, dưới con mắt chăm chú của cậu bé này, đã tan biến vĩnh viễn vào ngọn khói bốc lên từ cuộc tàn sát Holocaust10[10] mà Chủng tộc, thứ phàm ăn nhất trong tất cả các thần tượng, đã đòi hỏi. Và đã có bao nhiêu người Do Thái thuần kiên đã phải chịu đựng một cái chết như thế? Trong cái ngày kinh tởm nhất đó, kinh tởm hơn tất các ngày tệ hại khác, khi đứa trẻ đó chứng kiến việc treo cổ – vâng!, một đứa bé khác, đứa bé mà nó bảo với chúng ta là có gương mặt thiên thần, nó nghe có ai đó ở đằng sau rên rỉ: ‘‘Lạy Thượng đế, Thượng đế ở đâu rồi? Và từ trong tôi, tôi nghe một tiếng trả lời: Ngài ở đâu? Ngài ở ngay đây – đang bị treo ở trên giảo đài này. ” Vào ngày cuối năm của Do Thái, đứa trẻ đó được đem ra trình diện tại buổi lễ Rosh Hashanah trang nghiêm. Nó nghe thấy hàng ngàn nô lệ đồng thanh la lên, “Phúc thay cho Đấng Toàn năng!” Trước đó chăng bao lâu, chắc hẳn nó cũng sẽ quỳ xuống, cũng với lòng phụng thờ, với lòng hãi sợ, với tình yêu như thế! Nhưng hôm nay, nó không quỳ, nó đứng. Cái tạo vật người đó, đã bị làm nhục và làm tổn thương ở mức cả tim lẫn óc đều không thế tưởng tượng ra được, đã chống lại vị thần linh mù và điếc. “Nhưng bây giờ, tôi không còn van xin gì nữa cả. Tôi không còn khả năng để than vãn. Trái lại, tôi thấy tôi thật mạnh mẽ. Chính tôi mới là nguyên cáo, và bị cáo là Thượng đế! Đôi mắt tôi đã mở to, và tôi thật lẻ loi, cố đơn kinh khủng trong một thế giới không có Thượng đế, không có cả người. Không có tình yêu hay lòng thương hại. Tôi không là gì cả, chỉ là tro bụi, nhưng tôi lại cảm thấy tôi mạnh hơn cả đấng Toàn năng đã gắn bó với đời tôi từ bấy lâu nay. Giữa đám đông những người tụ tập để cầu nguyện, tôi thấy tôi như là một quan sát viên thật xa lạ. ” Và tôi, người tin rằng Thượng đế là tình yêu, tôi có câu trả lời nào cho người thanh niên trẻ đang truyện trò với tôi, người mà trong đôi mắt sâu đen vẫn còn lưu giữ phản ảnh của nỗi buồn thiên thần ngày đó hiện trên mặt của một đứa bé bị treo cổ? Tôi đã có nói với anh về người Do Thái kia, người anh em bị đóng đinh, người có lẽ trông giống anh, người mà thập giá của mình đã chinh phục thế giới không? Tôi đã có giải thích với anh rằng cái đã là khối chướng ngại anh vấp phải về đức tin của anh đã trở thành một nền móng cho đức tin của tôi không? Và rằng sự liên hệ giữa thập giá và sự thống khổ của con người vẫn còn là, theo tôi, chìa khoá dẫn đến sự huyền bí sâu thẳm trong đó đức tin của thời niên thiếu của anh đã biến mất vào đó. Và Zion11[11] đã lại vươn lên một lần nữa từ những lò thiêu, những lò sát sinh. Quốc gia Do Thái đã được làm sống dậy từ giữa hàng ngàn cái chết của người Do Thái. Chính những kẻ chết đã đem lại cho Do Thái cuộc đời mới. Chúng ta không biết trị giá của chỉ một giọt máu, chỉ một giọt nước mắt. Tất cả là ân sủng. Nếu Đấng Toàn năng là Đấng Toàn năng, lời cuối của mỗi chúng ta thuộc về Ngài. Đó là những gì đáng lẽ tôi đã phải nói với đứa bé Do Thái. Nhưng tất cả những gì tôi đã có thể làm lúc đó chỉ là ôm lấy anh và khóc.  Mời các bạn đón đọc Đêm của tác giả Elie Wiesel & Marion Wiesel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Tình Quái Thú - Shelly Laurenston
Có những thứ càng chờ đợi càng hạnh phúc. Hệt như khi Bobby Ray Smith gặp lại Jessica Ann Ward sau 16 năm xa cách vậy… Sinh ra tại Long Island, New York, nhưng Shelly Laurenston đã chuyển tới sinh sống tại West Coast với nắng, gió và những chàng trai vạm vỡ, quyến rũ trên bãi biển. Đây chính là nơi bà viết nên những câu chuyện về tình yêu đầy hài hước, nóng bỏng nhưng vẫn không kém phần lãng mạn. Bà được tạp chí New York Times bình chọn là tác giả có tác phẩm bán chạy nhất cho dòng tiểu thuyết lãng mạn mang yếu tố giả tưởng, trong đó không thể không kể đến series ăn khách Pride viết về thế giới người biến hình và những câu chuyện tình yêu của họ. Người tình quái thú là phần thứ 2 trong series Pride và cũng hài hước không kém phần đầu tiên - Đối diện với tình yêu. Trong phần 2 này, ta gặp lại chàng người sói Bobby Ray Smith - kẻ luôn tự tin đến mực tự phụ về vẻ đẹp trai và sự quyến rũ của mình. Không chỉ được tôi luyện trong hải quân, chàng người sói này còn có xuất thân từ một gia đình "hoang dã" và "bạo lực" có tiếng tăm tại New York. Thế nhưng, thay vì tự hào về dòng máu chảy trong huyết quản, Smith luôn lo sợ bị khuất phục bởi con dã thú ẩn náu trong bản năng của mình. Vì thế, khi biết mình đem lòng yêu Jessie Ann, anh phải đứng trước sự lựa chọn vô cùng khó khăn: chấp nhận con người thật sự của mình hoặc là đánh mất người con gái mình yêu thương mãi mãi. Về phần Jessie Ann, cô cũng là một người biến hình thuộc loài chó hoang. Thông minh, xinh đẹp và đầy kiêu hãnh, cô là mục tiêu săn đón của biết bao kẻ cuồng si. Bị Smitty từ chối và bỏ rơi thời trung học, giờ đây - sau 16 năm, cô có thể ngẩng cao đầu nhìn kẻ từng khiến trái tim mình tan vỡ phải tìm mọi cách để chiếm được trái tim mình: "Jess biết rõ cô không thể mặc hắn ngang ngược như vậy. Cô biết cô không nên đặt con tim lên trên lý trí của mình. Bobby Ray Smith đã, đang và sẽ luôn có khả năng làm tan vỡ con tim của Jess. Hắn ta đã làm thế một lần, cô sẽ không tạo cơ hội cho hắn lặp lại chuyện đó lần thứ hai." Xuyên suốt mạch truyện, Smitty luôn luôn phải gắng sức vừa khống chế con dã thú bên trong, vừa phải nghĩ cách săn đuổi con thú hoang bên ngoài là Jessie. Anh thật lòng muốn dành cho cô những gì dịu dàng nhất, đẹp đẽ nhất, những thứ mà người trong gia đình Smith không bao giờ có thể mang tới cho người bạn đời của mình. Vậy nhưng Jessie không sẵn sàng thỏa hiệp với những thứ dễ dàng, không bao giờ chịu chấp nhận một Smitty hiền hòa như thế. Điều cô thực sự muốn là Bobby Ray Smith sống đúng với chính con người mình, bản năng hoang dại của mình. Và cô sẽ chiến đấu tới cùng để có được điều cô muốn. Người tình quái thú đưa độc giả vào một thế giới kỳ thú chưa từng có, một thế giới với những nhân vật có khả năng biến hóa và sống trong bản năng của các loài sư tử, sói, chó hoang hay báo đốm… Shelly Laurenston đã lồng ghép khéo léo và tinh tế những đặc trưng riêng biệt của các loài động vật cũng như sự kết nối của chúng với các thành viên trong Bầy và các giống loài khác. Không chỉ là một câu chuyện về cuộc chiến đấu giành lấy tình yêu, cuốn tiểu thuyết còn mang tới cho người đọc những phút giây ý nghĩa bên bạn bè, những tình cảm gia đình mà chỉ có thể thể hiện bằng hành động… Cuối cùng, Laurenston đã tạo nên một tác phẩm tuyệt vời, thành công trong việc xây dựng sự căng thẳng và thiết lập đủ những trở ngại giữa hai nhân vật chính. Qua đó, người đọc tìm được sự thoả mãn khi dõi theo quá trình Jess và Smitty theo đuổi hạnh phúc mãi mãi về sau của mình. *** Smitty - tên thường gọi của Bobby Ray Smith - một người Sói và cựu quân nhân Hải quân Mỹ, là một kẻ quá tự tin đến mức tự phụ về vẻ đẹp trai và sự hấp dẫn của mình đối với phụ nữ cho tới khi anh gặp lại Jessie Ann. Smitty và Jess đã từng có khoảng thời gian bên nhau, khi Smitty đứng ra bảo vệ Jess nhỏ bé, yếu đuối khỏi những kẻ chuyên bắt nạt, cho đến khi anh bỏ rơi cô để tham gia vào lực lượng hải quân Mỹ. Jess giờ đây đã trở thành một triệu phú thành đạt, vừa là giám đốc một công ty công nghệ tin học vừa là người đứng đầu một Bầy Chó hoang. Cô muốn cho Smitty phải cảm thấy hối tiếc vì đã bỏ rơi cô 15 năm trước, muốn anh phải đau khổ, thèm thuồng mà quỳ rạp dưới chân cô. Nhưng Smitty cũng không phải dạng vừa, anh sẽ quyết liệt theo đuổi cô cho tới khi cô phải khuất phục mà ngã vào lòng anh.   Mời các bạn đón đọc Người Tình Quái Thú của tác giả Shelly Laurenston.
Cuộc Chiến Đi Qua - Kanta Ibragimov
Những năm qua, văn học Nga luôn có một vị trí xứng đáng trong lòng bạn đọc Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc nuôi dưỡng nhân sinh quan và thế giới quan của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam qua các thời kỳ. Nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ Nga và Liên Xô đã được dịch sang tiếng Việt và trở nên quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như Pushkin, Tolstoy, Dostoyevsky, Gogol, Lermontov, Tsekhov, Pasternak, Solzenisyn, Bulgakov, Bunhin, Solokhov, Gorky, Aitmatov, Dumbadze, Kazakov, Bykov, Evtushenko, Astaphiev... Tuy nhiên, kể từ khi Liên bang Xô viết không còn nữa, văn học Nga cũng như một số các loại hình nghệ thuật khác đã bị tác động trong một thời gian, việc sáng tác của các văn nghệ sĩ Nga cũng gặp không ít trở ngại và việc giới thiệu văn học Nga ở Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Về tình trạng này, Vasil Bykov (1924-2003), một trong số những nhà văn Belarus nổi tiếng nhất, Giải thưởng Quốc gia Liên Xô, Giải thưởng Lenin, Anh hùng Lao động XHCN đã phải cay đắng thốt lên: “Các nhà văn vô cùng bối rối: viết về cái gì? Trước kia, suốt nhiều năm họ cứ rên rỉ, nào là bộ phận kiểm duyệt không cho phép, nào là bị o ép. Còn bây giờ, khi không còn kiểm duyệt, không còn bị o ép, hóa ra sự việc lại càng tồi tệ hơn. Chẳng khác gì những con thú, lâu ngày được nuôi trong chuồng, bây giờ thả ra, không biết tự kiếm sống”. Còn các giải thưởng của Nhà nước Nga về văn học nghệ thuật, một nguồn động viên không kém phần quan trọng để tạo cảm hứng cho các văn nghệ sĩ cũng bị hủy bỏ. Tuy nhiên, bất chấp những xáo trộn khi bước vào một thể chế chính trị mới, các nhà văn Nga vẫn tiếp tục lao động sáng tạo nên nhiều tác phẩm, kế thừa và phát huy những giá trị nhân văn cao đẹp đã được kết tinh, vun đắp từ lâu, chỉ khác là giờ đây chúng được cảm thụ và thể hiện dưới một góc nhìn mới, chân thực và khách quan hơn về cuộc sống đương đại. Năm 1993, trước yêu cầu của xã hội, Tổng thống Nga lúc bấy giờ là Boris Elsin đã cho thành lập lại Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về văn học nghệ thuật. Và trong số các tên tuổi quen thuộc của văn đàn Nga đã nổi tiếng từ thời Xô viết vẫn được tiếp tục ghi nhận và trao Giải thưởng Quốc gia như Solzenisyn, Evtushenko, Astaphiev, Akhmadulina, Ekimov, Granin... người ta thấy xuất hiện một cái tên hoàn toàn mới - Kanta Ibragimov. Kanta Khamzatovich Ibragimov sinh ngày 9 tháng 7 năm 1960 tại thành phố Grozny, thủ đô nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia thuộc Liên bang Nga, trong một gia đình trí thức có cha là tiến sĩ hóa học. Sau khi tốt nghiệp Khoa Kinh tế Đại học Tổng hợp Quốc gia Chechnya-Ingushetia năm 1982, Ibragimov về làm việc ở nông trang rồi gia nhập quân đội, hết hạn nghĩa vụ ông lại quay về nông trang làm việc. Sau khi bảo vệ luận án phó tiến sĩ năm 1990, Ibragimov làm việc ở Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Chechnya-Ingushetia, rồi Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khoa học ứng dụng thành phố Grozny. Năm 1995, ông lên Moskva làm luận án tiến sĩ và bảo vệ thành công trước thời hạn. Từ 1996 đến nay Ibragimov công tác tại Khoa Kinh tế Đại học Tổng hợp Quốc gia Chechnya, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Liên bang Nga từ 1999 đến năm 2000, hiện là Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thành phố Grozny, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học nước Cộng hòa Chechnya. Có một điều khá lý thú là cho đến trước năm 38 tuổi, Ibragimov chưa một lần xuất hiện trên văn đàn mà chỉ làm công việc chuyên môn thuần túy và chỉ công bố các bài báo, công trình khoa học, sách chuyên khảo và sách giáo khoa về kinh tế (hơn 20 công trình và đầu sách). Tác phẩm văn học đầu tay của ông chính là cuốn tiểu thuyết đồ sộ 700 trang Cuộc chiến đi qua. Sau khi ra đời vào năm 1999, ngay lập tức tác phẩm đã gây tiếng vang lớn, còn tác giả trở nên nổi tiếng và được đọc nhiều nhất không chỉ ở Chechnya mà cả Liên bang Nga. Bốn năm sau, Cuộc chiến đi qua đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về văn học nghệ thuật năm 2003. Vậy, Cuộc chiến đi qua là một tác phẩm như thế nào mà được cả bạn đọc và nhà nước Liên bang Nga đánh giá cao như vậy? Chechnya là một vùng đất nằm ở Bắc Kavkaz, ngay từ cuối thế kỷ XV đã phải đương đầu với các thế lực cai trị từ bên ngoài, buộc người Chechnya phải cải theo đạo Hồi. Đến cuối thế kỷ XVIII, Đế chế Nga hoàng đã chính thức đặt Bắc Kavkaz dưới sự bảo hộ và kiểm soát của mình. Thời kỳ Xô viết, vùng đất Chechnya được gộp chung với Ingushetia thành nước cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia vào cuối thập niên 1930, nhưng mối quan hệ giữa Nhà nước Trung ương Liên Xô với những người Chechnya theo đạo Hồi cũng chẳng mấy khi thuận chèo mát mái. Khi Liên bang Xô viết tan rã vào năm 1990, nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia lại tách ra thành Cộng hòa Chechnya và Cộng hòa Ingushetia với các phong trào ly khai bùng phát thành các cuộc chiến tranh khốc liệt. Lịch sử vùng đất Bắc Kavkaz, kể từ khi chính quyền Xô viết được thành lập tại đây vào năm 1924 và tan vỡ hoàn toàn vào năm 1995 đã được tác giả Ibragimov tái hiện thông qua hình tượng nhân vật chính lấy từ nguyên mẫu cuộc đời đầy thăng trầm và sóng gió của chính ông nội tác giả. Các cuộc chiến tranh đẫm máu trên mảnh đất này đã dẫn đến những cuộc ly tán, đói nghèo, mất mát, rồi sau đó, khi chính quyền Xô viết không còn nữa thì quá trình “tư nhân hóa” đã diễn ra một cách khốc liệt, làm cho người dân vô cùng hụt hẫng vì chưa kịp thích ứng... Nhưng, dù có những biến động dữ dội đến đâu thì điều quan trọng còn lại trên mảnh đất này vẫn là niềm tin vào sức mạnh bất diệt của dân tộc, vào một cuộc sống tốt đẹp hơn đang mở ra cho tất cả mọi thành phần cư dân đang sinh sống tại đây. Tác phẩm Cuộc chiến đi qua có sức bao quát rộng lớn, và thông qua đó, người đọc có thể cảm nhận một cách đầy đủ và chân xác về bản anh hùng ca cùng những tấn bi kịch tại Chechnya và các vùng đất khác nhau trên lãnh thổ rộng lớn của Liên bang Xô viết trước đây. Bản thân tác giả Ibragimov đã trực tiếp trải qua các cuộc chiến tranh đó, và khi được hỏi về những năm tháng này, ông đã thành thật chia sẻ: “Làm người Chechnya trong khoảng mười - mười lăm năm gần đây chẳng dễ dàng chút nào”. Nhưng ông vẫn quyết định quay về với quá khứ trong tác phẩm văn học đầu tay của mình “để không được quên những năm tháng đau thương ấy và thật may là đã trở thành dĩ vãng và để không bao giờ lặp lại những sai lầm khủng khiếp đó nữa”. Theo nhận xét của các nhà phê bình văn học Nga, sự thành công của Cuộc chiến đi qua là nhờ vốn hiểu biết sâu sắc và khách quan của tác giả về lịch sử miền đất quê hương ông, hòa quyện một cách hữu cơ với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Chính vì vậy mà tác phẩm đã đạt đến một sự “hấp dẫn” đối với đông đảo bạn đọc khó tính mà không cần phải nhờ đến một thủ pháp giả tạo nào. Có thể, lời bộc bạch của chính tác giả trong bài trả lời phỏng vấn trên Cánh đồng Nga sẽ làm sáng tỏ thêm nhận xét này: “Tôi bắt đầu cầm bút viết văn lúc 37 tuổi, và viết tiểu thuyết ngay. Chỉ có điều xin đừng nghĩ, tôi chỉ đơn giản ngồi vào bàn là viết xong một cách dễ dàng. Để làm được điều đó, tôi đã phải lặn lội khắp nơi để lấy tư liệu và học hỏi cho đến tận bây giờ. Tôi không học chuyên ngành ngữ văn và dĩ nhiên là còn nhiều lỗ hổng kiến thức, nhưng mặt khác, tôi nghĩ mình cũng có thế mạnh riêng là tôi không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức hay phương pháp sáng tác nào cả, và điều đó không chỉ tồn tại trong văn học mà còn ở tất cả mọi lĩnh vực”. Tiếp theo tác phẩm đầu tay, Ibragimov liên tiếp cho ra mắt nhiều tác phẩm khác và cũng được bạn đọc đánh giá cao, như Kavkaz già nua (2001), Thầy giáo lịch sử (2003), Thế giới trẻ em(2005), Truyện cổ phương Đông (2007), Ngôi nhà hỗn tạp (2009), Avrora (2012)... Kanta Ibragimov được kết nạp vào Hội Nhà văn Cộng hòa Chechnya và Hội Nhà văn Liên bang Nga, rồi được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Cộng hòa Chechnya và Chủ tịch Chi hội nhà văn Nga tại Chechnya. Hiện tại, Ibragimov vẫn tiếp tục làm công tác khoa học và vẫn sáng tác văn học. Và như lời ông nói: “Công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy là để nuôi sống tôi và gia đình cùng với năm đứa con, còn văn chương là để nuôi dưỡng tâm hồn. Những lo toan thường nhật chiếm rất nhiều thời gian của tôi. Nhưng ai mà không có những lo toan thường nhật ấy, nhất là trong thời kỳ suy thoái kinh tế như hiện nay?”. Tại Việt Nam, nhà văn Ibragimov hầu như chưa được biết tới và chưa có tác phẩm nào của ông được dịch sang tiếng Việt. Hy vọng, Cuộc chiến đi qua sẽ mang lại cho bạn đọc một làn gió mới lạ từ một vùng đất xa xôi nhưng cũng rất thân quen với nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Đi Qua của tác giả Kanta Ibragimov.
Tóc Mây Nghìn Sợi - Dung Sài Gòn
Trường không bao giờ trở lại- từ đêm đó. Tôi đã đợi chờ chàng suốt cả những đêm sau, và lại những đêm sau. Tôi vừa tự dằn vặt mình vừa xót xa nghe tự ái bừng dậy. Chàng đã bỏ tôi rồi! Sự tức giận ghen tuông cũng chỉ là cái cớ cho chàng bỏ đi mà thôi. Vừa giận Trường, vừa nhớ chàng, tôi nằm vùi ở nhà để nuôi hy vọng Trường trở về. Hãy vì những tháng năm mật ngọt của chúng ta mà trở về! Tôi nhớ chàng biết bao! Tôi muốn chàng trở về để nói với chàng “em vẫn là con bé Diễm ngày nào yêu anh”. Hơn một năm trời đi hát, tôi vẫn giữ mình, không bị cám dỗ bởi những đón mời vật chất, không sa đoạ, hát xong tôi vội vã về nhà.Bây giờ nếu Trường muốn tôi sẽ nghỉ làm cho chàng yên lòng, tôi chỉ cần Trường thôi. Tôi mong mỏi, đợi chờ Trường từng ngày, tôi nhớ chàng trong từng hơi thở của tôi. Nhìn con tôi lại bật khóc. Trường đã bỏ tôi rồi. Chàng tưởng tôi mê man tiền bạc phụ chàng nên đã rời xa tôi. Lòng tôi nặng trĩu nỗi buồn. Tôi lặng lẽ đi tìm chàng, dò hỏi tin tức Trường ở những người bạn. Ngữ nói: - Hắn đã trở về nhà rồi Diễm ạ. Gia đình hắn đang có chuyện buồn nên hắn phải ở nhà để lo liệu. Tôi thổn thức: - Tôi không biết gì về những chuyện buồn của gia đình anh ấy, nhưng tôi biết là anh ấy đang giận tôi, đang hiểu lầm tôi mà không chờ tôi giải thích. Anh ấy muốn rời xa tôi. ... Mời các bạn đón đọc Tóc Mây Nghìn Sợi của tác giả Dung Sài Gòn.
Như Con Mèo Ngái Ngủ Trên Tay Anh - Võ Hà Anh
Nụ cười nhếch lên thành nét trên đôi môi Thủy. Đôi môi ấy ta đã từng được hôn, thân thể ấy ta đã từng ôm và vuốt ve âu yếm. Nhưng bây giờ lại là quyền của một người nào khác. Cường nghĩ ngợi lan man và nhìn bàn tay lóang thoáng gân xanh của Thủy đặt hững hờ trên bụng mà thấy tất cả đã thực đổi thaỵ Chàng thở dài đứng dậy : - Đến thăm Thủy... thôi anh về. Thủy im lặng đứng lên tiễn chàng. Cường ngước nhìn đám là Ngọc Lan rậm rạp : - Anh xin Thủy một bông hoa Ngọc Lan. - Hình như hoa đã hết mùa nở rồi anh ạ. Cường cố tìm nhưng không thấy. Chàng ngắt một chiếc lá vàng : - Thì xin chiếc lá xế chiều này vậy. Thủy nghe như tiếng thao ai oán của chàng. Hai người sáng vai nhau ra cổng. - Tùng đâu Thủy? Cường hỏi. Thủy đáp : - Anh ấy đi làm. Công chức mà anh. Một người bên trong, một người bên ngoài cánh của. Nhưng lần chia tay này không có nắm tay nhau siết chặt , không trao đổi nụ hôn, không nhìn nhau si mê đắm đối. Cường nhìn Thủy ngậm ngùi rồi gật đầu nhè nhẹ, quay đi. Dáng chàng cao và gầy, lầm lũi và câm nín. Thủy đứng nhìn theo Cường và thấy như Cường mang cả đời mình theo bước chân chàng. Thủy quay lại dựa lưng vào cánh cổng, nước mắt nàng chan hòa trên má. Nắng chói chang trong những giọt nước mắt long lanh. ... Mời các bạn đón đọc Như Con Mèo Ngái Ngủ Trên Tay Anh của tác giả Võ Hà Anh.