Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chị Đào Chị Lý

Đây là một tác phẩm không quá bi kịch hay nổi bật so với nhiều tác phẩm khác. Nhưng câu chuyện toát lên một vẻ rất riêng. Một bà Ngọc tao nhã nhưng u buồn, một cô Đào vui vẻ, xởi lởi, một cậu Khánh điển trai, trí thức, một cô Lý nhạy cảm, dịu dàng và nhiều nhiều nhân vật mang màu sắc sinh động vô cùng. Tính triết lí trong truyện nói lên hệ luật nhân-quả, những gì mà bất cứ ai, ở bất cứ thời điểm nào cũng đều sẽ hành động như thế, cũng đều sẽ cảm nhận những hỉ nộ ái ố mà nhân vật trong truyện. Có lẽ “Chị Đào chị Lý” của Hồ Biểu Chánh là một trong số những truyện hiếm hoi mà tác giả viết màu sắc khá sinh động, không quá buồn như các tác phẩm khác và cũng không quá mang tính hài hước, một tác phẩm khá bình dị và mộc mạc về người Nam Bộ. Truyện là một chuỗi những sắc thái khác nhau của các nhân vật: bà Ngọc, cô Đào, cô Lý…Truyện là một bài học về cách đối nhân xử thế và để chúng ta hiểu thêm rằng “Gieo nhân nào, gặp quả nấy” vẫn là quy luật muôn đời. *** Có buồn rồi mới có được vui; có cực rồi, mới biết sướng. Bà Ngọc trải qua những nỗi buồn rầu cực khổ. Từ đây bà mới vui sướng mà sống với cảnh đời thân ái giữa con trai con gái với dâu rể hòa thuận một nhà. Có một điều làm cho người không hiểu tâm sự của con rể bà, họ có hơi thắc mắc, là Khánh kêu vợ là chị Đào mà Hoài cũng kêu vợ là chị Lý. Ai muốn hiểu sao tự ý, bà Ngọc cứ vui cười tối ngày." Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930. Tiểu thuyết của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... Lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày là một ưu thế khiến tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chiếm được cảm tình đặc biệt của người dân Nam Bộ. *** Thường nghe người ta nói "vật hoán tinh di, tang điền thương hải" 1 : mấy lời ấy thiệt không sai. Khúc đường từ chợ Thị Nghè sang chợ Bà Chiểu mới có mấy năm nay mà nó nổi danh xóm Hàng Sanh rộn rực tưng bừng. Quang cảnh đìu hiu ngày trước đã biến thành quang cảnh náo nhiệt không thua gì Phú Nhuận, Hòa Hưng, Vườn Lài hay Xóm Chiếu. Hai bên đường nhà phố cất liên tiếp giáp hết không còn chỗ trống mà chen vô ở được nữa. Tối ngày thiên hạ qua lại dập dìu, lại thêm đủ thứ xe tranh nhau chạy rần rần không ngớt. Đến đây ai cũng nhớ cách lối ba mươi năm về trước những người giàu có với những khách tầm hoa, chiều chiều hay mướn xe cyclo đi hứng gió. Hễ đi vòng chợ Bà Chiểu mà qua khỏi chợ Thị Nghè, thì từ mũi tàu, là chỗ sở Trường Tiền dượt thi đặng phát giấy phép lái xe hơi, vòng qua tới Cầu Mới, là ranh Châu Thành Bà Chiểu, hai bên đường đều là ruộng rẫy sình lầy, quang cảnh vắng vẻ im lìm, giống như quang cảnh thôn quê đồng bái. Nếu ở Thị Nghè mà ngó thẳng xuồng cầu kinh Thanh Đa thì thấy mấy đám dừa nước xơ rơ, gió chiều thổi tàu lá xổng lên rồi oặt xuống như chào khách nhàn du, lại có mấy cây bần rạch đứng chần ngần theo mé xẻo 2 , dưới gốc lác mọc bao chung quanh như lác trìu mến không nở bỏ bần, còn bần như tiếc nước ròng nên đứng ngóng trông nước mau lớn lại. Xóm bây giờ người ta gọi là xóm Hàng Sanh đó thì ngày trước chỉ có vài ba cái chòi lá nhỏ, lại nằm cách xa nhau, có lẽ chủ cố ý giấu kín đời sống nghèo khổ của mình nên không chịu ở gần nhau, tránh cho khuất mắt dòm ngó của thiên hạ. Cái chòi dựa bên đuờng; gần ngã ba quanh qua Bà Chiểu tuy có một căn lúm túm, song coi cao ráo sạch sẽ hơn mấy cái ngoài xa kia. Trước chòi có cái sân nhỏ trồng rau dừa 3 hai bên, trổ bông đủ bốn mùa, bông trắng chen với bông đỏ, coi có vẻ vui vui một chút. Bên hè có cây đu đủ ngọn lên cao gần ngang đầu song, cổ có tới vài chục trái, dưới lớn bằng cái chén ăn cơm, trên nhỏ như trái cau ăn trầu, chủ nhà bữa nào cũng thăm chừng, chồng trông mau chín mà ăn, vợ tính để dành mà bán. Chòi nầy là chòi của anh Lê Văn Thái, cất với vợ là Nguyễn Thị Hòa hơn ba năm rồi, phía trong có lót cái chõng để vợ chồng ngủ, có bếp để nấu cơm ăn và có một cặp thúng một đôi gióng và một đôi quang gánh, để cho chị Hòa mỗi ngày đi kiếm mua thơm, mít, ổi, gánh ra chợ bán. Phía ngoài một bên có lót một bộ ván dầu 4 nhỏ để nằm chơi, còn một bên để bàn lóc nhóc, với hai cái ghế đẩu để có ai tới thì mời ngồi nói chuyện. Cái chòi như vậy mà vợ chồng anh Thái hãnh diện, nói chuyện với ai anh cũng khoe "nhà của tôi". Mà vợ chồng anh khoe cũng phải, chòi dầu lớn dầu nhỏ, dầu tốt dầu xấu, không phải cướp giựt của ai, cũng đủ cho vợ chồng ảnh đụt nắng đụt mưa mấy năm rồi, cũng là cái tổ êm ấm cho vợ chồng ảnh hẩm hút giữa thân yêu hòa thuận. Anh Thái làm bên sở Ba Son. Vì anh không phải là thợ chuyên môn về nghề nào hết, nên không lãnh tiền công theo thầy hay thợ đuợc. Anh biết chữ Việt rành. Anh viết chữ tốt, lại biết nói tiếng Pháp cột quẹt. Người ta mới giao cho anh phát thẻ cho thợ thuyền, kiểm điểm số công nhân đi làm mỗi buổi đặng biên rồi giao cho xếp rồi xớ rớ coi dọn dẹp nhà giấy vậy thôi. Công việc của anh làm thì nhẹ nhàng, khoẻ khoắn, nhưng tại như vậy người ta cho anh lãnh tiền công có 9 cắc một ngày mà chúa nhựt nghỉ thì không được ăn tiền. Anh cực có một việc là mỗi buổi anh phải có mặt trước giờ sở mở cửa và mãn giờ anh phải chờ thợ thuyền ra hết rồi anh sẽ về sau. May anh là người biết lo, lại anh nhờ có chiếc xe máy cũ cỡi đi làm, bởi vậy không bao giờ anh đi trễ. Còn chị Hòa là vợ anh thì chị bãi buôi nhậm lẹ, chị giỏi nghề mua bán, tay bằng miệng miệng bằng tay. Hễ xế chồng đi làm rồi thì chị khóa cửa quảy thúng đi mua trái cây gánh về để sáng đem ra chợ Thị Nghè ngồi bán, kiếm lời mỗi bữa 5-7 cắc hoặc 1 đồng phụ với chồng mà sống cho no ấm. Vợ chồng đồng tâm hiệp ý sống với nhau trót ba năm trong cảnh đời tuy không phải trưởng giả song luôn no ấm an vui. Thời may chị Hòa có thai, vợ chồng đều mừng, mừng vì có dấu tích về tình yêu của vợ chồng khắng khít. Tuy nhiên mà rồi lại phải lo, lo dành cho có sẵn một số tiền để cho vợ ăn đẻ. Chị Hòa lại lo hễ có con thì chị mắc nuôi con, làm sao đi mua bán mà kiếm tiền thêm. Thái lo tiện tặn đến nỗi khuya ăn cơm nguội hoặc mua xôi hay bắp ăn đi làm, chớ không dám ngồi quán ăn hủ tiếu uống cà phê như trước nữa. Chiều cũng vậy, hễ làm việc mãn giờ thì tuốt về nhà ăn cơm, chớ không dám ta bà ăn nhậu với chúng bạn. Đến chừng chuyển bụng, may có anh Thái ở nhà anh đưa vợ vào nhà bảo sanh Thị Nghè mà nằm. Chị sanh một đứa con gái mạnh mẽ. Mới được một đứa con đầu lòng, dầu gái hay trai không cần, vợ chồng đều mừng rỡ, đặt cho con tên Đào, là tên một trái quí. Nhờ vợ chồng lo trước, nên chị Hòa đi sanh trong túi có sẵn 40 đồng bạc, khỏi bối rối chi hết, nhà nghèo nếu sanh mạnh giỏi thì nằm ba bốn bữa rồi thường người ta bồng con về. Tuy Hòa khoẻ khoắn, ăn cơm biết ngon, đủ sữa cho em bú, Thái muốn vợ nằm lâu cho có người săn sóc lại cô mụ cũng nài ép nằm cho đủ tám bữa, em rụng rún rồi sẽ về lại càng tốt hơn, bởi vậy Hòa ráng nằm cho đủ 6 bữa đi đứng cứng cát rồi chị cứ đòi về nhà nằm cho thong thả và lo cơm nước cho chồng. Thái phải chiều theo ý vợ mà thiệt anh cũng muốn vợ con về nhà đặng sum hiệp cho vui. Anh mới đóng tiền nhà thương và đền ơn cô mụ rồi kêu xe kéo rước vợ con về, trong túi còn được 9, 10 đồng bạc lại còn 6 bữa nữa tới kỳ lãnh tiền nên không lo gì lắm. Trót một tuần đầu vợ chồng vui vẻ cực điểm. Thái đi làm về hễ thấy con thức thì giành với vợ đặng bồng mà nựng nịu; còn nếu con ngủ thì đứng chống tay mà nhìn, thấy vợ còn non ngày anh không cho làm việc chi hết, mỗi bữa đi làm về anh ghé chợ mua thịt cá hoặc khô mắm đem về rồi phụ kho nấu đặng vợ chồng ăn với nhau. Mắc mừng vui với đứa con nằm ngoa ngoe, ngủ thì mụ bà dạy cười, thức thì huơi tay chòi cẳng, vợ chồng say sưa hạnh phúc, quên hết cảnh hẩm hiu, bần hàn. Vui được chừng mươi bữa, rồi không hiểu tại sao mà chị Hoà ăn cơm không biết ngon, lại còn thêm chứng nóng lạnh. Thái mua thuốc hoàn thuốc tán cho vợ uống mấy bữa không thấy công hiệu chút nào. Anh biểu vợ phải bồng em ra tiệm thuốc cho thầy coi mạch đặng hốt thuốc thang mà uống. Chị Hòa nói sợ tốn tiền nên nói đau sơ sịa ít bữa rồi mạnh, cần gì phải uống thuốc. Đã không có thuốc bổ để tiếp dưỡng sức khoẻ lại thêm nóng lạnh, miệng đắng nên mỗi bữa ráng lắm mới ăn được một chén cơm mà thôi, tự nhiên chị Hòa phải ốm, nước da phải mét. Mà đàn bà cho con bú hễ thiếu sức khoẻ thì sữa phải giảm. Sữa của Hòa lại giảm nhiều. Con nhỏ sanh tuy mới 20 ngày, nhưng không có đủ sữa cho nó bú nên ban đêm nó thức khóc hoài, làm cho Hòa phải bồng nó ngồi mà dỗ. Thái thấy vợ bịnh mà nghỉ không được nên mặc dầu không có tiền nhiều, đến chúa nhựt anh ép vợ bồng con đi với anh ra tiệm thuốc đặng thầy coi mạch hốt thuốc thang cho vợ uống. Uống liên tiếp ba bốn thang mà bịnh vẫn còn bịnh. Anh Thái đem toa ra than phiền với ông thầy thuốc. Ông đổi toa mới và uống luôn ba thang nữa, bịnh cũng trơ trơ, trưa cũng en en lạnh trùm mền rồi nóng ăn cơm không biết ngon, không đủ sữa con bú. Mỗi buổi đi làm về, Thái thấy vợ đau rề rề con khóc nhề nhệ, anh châu mày nhăn mặt, đi vo gạo nấu cơm, mà bận lòng rối trí muốn điên. Trong túi còn có mấy đồng bạc, nhưng ăn cơm rồi anh tuốt ra chợ mua một hộp sữa bò, một cái ve với cái núm vú rồi đem về khuấy sữa đổ vô ve cho con bú. Con nhỏ khát sữa nên nó chầm bú no bụng rồi nằm êm mà ngủ. Thái khuấy luôn một chén nữa rồi bưng ra ép vợ uống, anh ta nói ăn cơm không được thì uống sữa nó bổ cũng như cơm. Mời các bạn đón đọc Chị Đào Chị Lý của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hoang Mạc Tarta - Dino Buzzati
Tọa lạc trên xứ sở là một trong những cái nôi văn minh cổ đại, đất nước Italia trong suốt chiều dài lịch sử của mình đã tạo ra truyền thống và những giá trị văn hóa nghệ thuật rực rỡ, độc đáo, sang trọng và lan tỏa vào loại hàng đầu thế giới. Đến ngày nay, ánh hào quang đó vẫn không lu mờ, khuất lấp. Thế kỷ XX nền văn chương Italia vẫn sản sinh ra những tên tuổi lớn như Moravia, Pirandello, Paveze, Eco... và trong số đó có Dino Buzzati mà chúng tôi muốn giới thiệu với bạn đọc Việt Nam qua các bản dịch trong cuốn sách này. Hoang mạc Tácta là tác phẩm tiêu biểu, đỉnh cao trong sáng tác của Dino Buzzati và được coi là sự kiện văn học lớn nhất Italia những năm đó. Tình tiết cuốn tiểu thuyết có vẻ đơn giản, kể về cuộc đời một sĩ quan trẻ đến đồn trú tại pháo đài biên giới tiếp giáp hoang mạc bí ẩn Tácta, trải qua những háo hức ban đầu, những đợi chờ đằng đẵng về chiến công, về “một sự kiện quan trọng nào đó sẽ xẩy ra”, và cuối cùng kiệt quệ, tiêu phí năm tháng trong những hi vọng mong manh và vô ích. Nhưng đây là tác phẩm đầy tính biểu tượng, từ các trang sách toát ra những suy ngẫm buồn và sâu lắng về đời người và cái chết, về dòng chảy của thời gian không gì cản nổi và càng lúc càng gấp gáp gặm mòn cuộc sống. Cuộc đời kết thúc một cách bi thảm và phi lý. Cuốn tiểu thuyết gợi nhớ đến Kafka, ngay tên tác phẩm ban đầu Buzzati đặt cũng là Pháo đài - một liên tưởng với Lâu đài của Kafka. Tuy nhiên, ở đây cũng có thể có sự khác biệt giữa Buzzati và Kafka - tác giả Hoang mạc Tácta còn để lại cho nhân vật một niềm hi vọng - hay một quan niệm cứu rỗi - rằng sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời vẫn còn phía trước: đó là cái chết. Và cuộc đời sẽ không phi lí, vô nghĩa nếu con người bước vào cuộc chiến cuối cùng một cách dũng cảm và thanh thản, đón nhận cái chết như một hiện tượng tự nhiên. Sau Hoang mạc Tácta, vào những năm trong và sau thế chiến, Buzzati tiếp tục xuất bản nhiều tập sách như Bẩy người đưa tin (tập truyện ngắn, 1942), Cuộc đổ bộ của bầy gấu xuống Cicil (tiểu thuyết năm 1945), Hoảng loạn ở La Scala (tập truyện, 1949). Năm 1958 ông được tặng giải St’rega, một trong những giải thưởng lớn nhất Italia, với tập Sáu mươi truyện ngắn. Năm 1960 ông viết Chân dung phóng đại, thiên truyện được coi là tác phẩm văn học giả tưởng đầu tiên của Italia và được đánh giá khá cao. Tiếp đó là các tiểu thuyết Tình yêu (1963), tập truyện Cá mập Colombo (1966)... *** Dino Buzzati-Traverso là một tiểu thuyết gia người Ý, nhà văn viết truyện ngắn, họa sĩ và nhà thơ, đồng thời là nhà báo cho Corriere della Sera. Danh tiếng trên toàn thế giới của ông chủ yếu là do cuốn tiểu thuyết The Tartar Steppe của ông, và ông cũng được biết đến với những bộ sưu tập truyện ngắn được đón nhận. Dino Buzzati là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất ở Italia - và cả ở ngoài biên giới nước ông; sáng tác đa dạng của ông chiếm một vị trí khá đặc biệt trong văn học Italia thế kỷ XX. Sinh năm 1906 dưới chân núi Alpơ trong một gia đình trí thức, ngay từ nhỏ ông đã được thụ hưởng hai điều góp phần tạo nên tính cách nhà văn tương lai - thư viện gia đinh rất lớn và phong cảnh núi rừng hùng vĩ. Tốt nghiệp đại học, từ năm 1928 ông trở thành phóng viên báo chí (cho đến cuối đời ông là một nhà báo cần mẫn và thành đạt), và cũng bắt đầu sự nghiệp văn chương. Năm 1933, Baranabo từ núi xuống, tiểu thuyết đầu tay của ông ra đời, bước đầu bộc lộ triết lí sống của ông: không có gì có thể cứu chuộc, bù đắp được những nỗi khổ đau vô nghĩa mà cuộc đời mang lại cho con người, nên hãy cố sống hòa hợp với thiên nhiên, giữa thiên nhiên. Năm 1935 ông xuất bản cuốn Bí mật khu rừng cũ, nhưng phải đến năm 1940 với Hoang mạc Tácta Dino Buzzati mới thực sự chiếm lĩnh văn đàn. D. Buzzati là nhà văn độc đáo. Sự độc đáo trước hết thể hiện ở văn phong, ở cách quan sát và tái hiện thế giới của ông. Sự độc đáo còn thể hiện ở thái độ sống. Là nhà văn nổi tiếng và gây nhiều bàn luận, nhưng ông rất xa lạ với những tranh cãi văn chương, không quan tâm đến việc phát biểu ý kiến của mình và những đánh giá của người khác về mình. Ông quan niệm “Những vấn đề của tôi chỉ liên quan đến một mình tôi”. Những vấn đề đó ông tự mình giải quyết trong các tác phẩm của mình. Có thể nhờ vậy mà Buzzati trở thành nhà văn thực sự độc lập, không phụ thuộc, mất thì giờ vào những trào lưu, phe nhóm, và kết quả là tạo ra những tác phẩm vượt được không gian và thời gian. D. Buzzati là nghệ sĩ đa tài, hướng sự tìm tòi nghệ thuật ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ồng là một họa sĩ lớn với nhiều bức tranh và triển lãm cá nhân nổi tiếng. Ồng viết và xuất bản nhiều tập thơ, kịch, nhạc, phụ trách chuyên mục Phê bình nghệ thuật trên báo... và đều có những thành công nhất định. *** Tôi sinh ra ra ở miền Trung Việt Nam thật xa Italia về mọi phương diện, học tập và trưởng thành ở Nga - xứ sở có truyền thống lịch sử và văn hoá khác cả Việt Nam và Italia, nhưng lại mang lòng ngưỡng mộ và yêu mến nghệ thuật, văn học Italia. Có lẽ tôi là người sớm nhất và nhiều lần giới thiệu Dino Buzzati với bạn đọc Việt Nam – chỉ tiếc những bản dịch nhỏ đầu tiên - các truyện ngắn Gặp gỡ Einstein và Cô gái bay xuống dưới - đã đăng báo nhưng đến nay chưa tìm lại được để đưa vào tập sách này. Tuyển tập tác phẩm Dino Buzzati lần này ra mắt bạn đọc Việt Nam với tiểu thuyết Hoang mạc Tácta, truyện giả tưởng Chân dung phóng đại và 17 truyện ngắn là kết quả bước đầu trong ước muốn giới thiệu một cách đầy đủ nhà văn này ở Việt Nam, và cùng với Truyện cổ dân gian Italia đã ra mắt bạn đọc là hai cuốn sách mở đầu cho bộ Hợp tuyển văn học Italia dự kiến thực hiện vào những năm đầu thế kỷ XXI với sự hỗ trợ của Ủy ban Quốc gia về hỗ trợ văn hóa Italia ở nước ngoài và Đại sứ quán Italia tại Việt Nam. Với nhiều hạn chế về thời gian, khả năng cũng như nguồn tư liệu, chắc chắn việc tổ chức bản thảo còn có nhiều thiếu sót, xin được bạn đọc, các nhà nghiên cứu, dịch thuật góp ý giúp đỡ để chúng tôi có điều kiện hoàn chỉnh tập sách hơn. Nhân đây chúng tôi xin bày tỏ lời chân thành cảm ơn tới ngài Luigi Solari, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Italia tại Việt Nam, các cán bộ Đại sứ quán Italia tại Việt Nam và Giáo sư Giuseppe Barbaro về những giúp đỡ quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ sách ra đời. ĐOÀN TỬ HUYẾN Mời các bạn đón đọc Hoang Mạc Tarta của tác giả Dino Buzzati.
Người Tình Quái Thú - Shelly Laurenston
Có những thứ càng chờ đợi càng hạnh phúc. Hệt như khi Bobby Ray Smith gặp lại Jessica Ann Ward sau 16 năm xa cách vậy… Sinh ra tại Long Island, New York, nhưng Shelly Laurenston đã chuyển tới sinh sống tại West Coast với nắng, gió và những chàng trai vạm vỡ, quyến rũ trên bãi biển. Đây chính là nơi bà viết nên những câu chuyện về tình yêu đầy hài hước, nóng bỏng nhưng vẫn không kém phần lãng mạn. Bà được tạp chí New York Times bình chọn là tác giả có tác phẩm bán chạy nhất cho dòng tiểu thuyết lãng mạn mang yếu tố giả tưởng, trong đó không thể không kể đến series ăn khách Pride viết về thế giới người biến hình và những câu chuyện tình yêu của họ. Người tình quái thú là phần thứ 2 trong series Pride và cũng hài hước không kém phần đầu tiên - Đối diện với tình yêu. Trong phần 2 này, ta gặp lại chàng người sói Bobby Ray Smith - kẻ luôn tự tin đến mực tự phụ về vẻ đẹp trai và sự quyến rũ của mình. Không chỉ được tôi luyện trong hải quân, chàng người sói này còn có xuất thân từ một gia đình "hoang dã" và "bạo lực" có tiếng tăm tại New York. Thế nhưng, thay vì tự hào về dòng máu chảy trong huyết quản, Smith luôn lo sợ bị khuất phục bởi con dã thú ẩn náu trong bản năng của mình. Vì thế, khi biết mình đem lòng yêu Jessie Ann, anh phải đứng trước sự lựa chọn vô cùng khó khăn: chấp nhận con người thật sự của mình hoặc là đánh mất người con gái mình yêu thương mãi mãi. Về phần Jessie Ann, cô cũng là một người biến hình thuộc loài chó hoang. Thông minh, xinh đẹp và đầy kiêu hãnh, cô là mục tiêu săn đón của biết bao kẻ cuồng si. Bị Smitty từ chối và bỏ rơi thời trung học, giờ đây - sau 16 năm, cô có thể ngẩng cao đầu nhìn kẻ từng khiến trái tim mình tan vỡ phải tìm mọi cách để chiếm được trái tim mình: "Jess biết rõ cô không thể mặc hắn ngang ngược như vậy. Cô biết cô không nên đặt con tim lên trên lý trí của mình. Bobby Ray Smith đã, đang và sẽ luôn có khả năng làm tan vỡ con tim của Jess. Hắn ta đã làm thế một lần, cô sẽ không tạo cơ hội cho hắn lặp lại chuyện đó lần thứ hai." Xuyên suốt mạch truyện, Smitty luôn luôn phải gắng sức vừa khống chế con dã thú bên trong, vừa phải nghĩ cách săn đuổi con thú hoang bên ngoài là Jessie. Anh thật lòng muốn dành cho cô những gì dịu dàng nhất, đẹp đẽ nhất, những thứ mà người trong gia đình Smith không bao giờ có thể mang tới cho người bạn đời của mình. Vậy nhưng Jessie không sẵn sàng thỏa hiệp với những thứ dễ dàng, không bao giờ chịu chấp nhận một Smitty hiền hòa như thế. Điều cô thực sự muốn là Bobby Ray Smith sống đúng với chính con người mình, bản năng hoang dại của mình. Và cô sẽ chiến đấu tới cùng để có được điều cô muốn. Người tình quái thú đưa độc giả vào một thế giới kỳ thú chưa từng có, một thế giới với những nhân vật có khả năng biến hóa và sống trong bản năng của các loài sư tử, sói, chó hoang hay báo đốm… Shelly Laurenston đã lồng ghép khéo léo và tinh tế những đặc trưng riêng biệt của các loài động vật cũng như sự kết nối của chúng với các thành viên trong Bầy và các giống loài khác. Không chỉ là một câu chuyện về cuộc chiến đấu giành lấy tình yêu, cuốn tiểu thuyết còn mang tới cho người đọc những phút giây ý nghĩa bên bạn bè, những tình cảm gia đình mà chỉ có thể thể hiện bằng hành động… Cuối cùng, Laurenston đã tạo nên một tác phẩm tuyệt vời, thành công trong việc xây dựng sự căng thẳng và thiết lập đủ những trở ngại giữa hai nhân vật chính. Qua đó, người đọc tìm được sự thoả mãn khi dõi theo quá trình Jess và Smitty theo đuổi hạnh phúc mãi mãi về sau của mình. *** Smitty - tên thường gọi của Bobby Ray Smith - một người Sói và cựu quân nhân Hải quân Mỹ, là một kẻ quá tự tin đến mức tự phụ về vẻ đẹp trai và sự hấp dẫn của mình đối với phụ nữ cho tới khi anh gặp lại Jessie Ann. Smitty và Jess đã từng có khoảng thời gian bên nhau, khi Smitty đứng ra bảo vệ Jess nhỏ bé, yếu đuối khỏi những kẻ chuyên bắt nạt, cho đến khi anh bỏ rơi cô để tham gia vào lực lượng hải quân Mỹ. Jess giờ đây đã trở thành một triệu phú thành đạt, vừa là giám đốc một công ty công nghệ tin học vừa là người đứng đầu một Bầy Chó hoang. Cô muốn cho Smitty phải cảm thấy hối tiếc vì đã bỏ rơi cô 15 năm trước, muốn anh phải đau khổ, thèm thuồng mà quỳ rạp dưới chân cô. Nhưng Smitty cũng không phải dạng vừa, anh sẽ quyết liệt theo đuổi cô cho tới khi cô phải khuất phục mà ngã vào lòng anh.   Mời các bạn đón đọc Người Tình Quái Thú của tác giả Shelly Laurenston.
Cuộc Chiến Đi Qua - Kanta Ibragimov
Những năm qua, văn học Nga luôn có một vị trí xứng đáng trong lòng bạn đọc Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc nuôi dưỡng nhân sinh quan và thế giới quan của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam qua các thời kỳ. Nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ Nga và Liên Xô đã được dịch sang tiếng Việt và trở nên quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như Pushkin, Tolstoy, Dostoyevsky, Gogol, Lermontov, Tsekhov, Pasternak, Solzenisyn, Bulgakov, Bunhin, Solokhov, Gorky, Aitmatov, Dumbadze, Kazakov, Bykov, Evtushenko, Astaphiev... Tuy nhiên, kể từ khi Liên bang Xô viết không còn nữa, văn học Nga cũng như một số các loại hình nghệ thuật khác đã bị tác động trong một thời gian, việc sáng tác của các văn nghệ sĩ Nga cũng gặp không ít trở ngại và việc giới thiệu văn học Nga ở Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Về tình trạng này, Vasil Bykov (1924-2003), một trong số những nhà văn Belarus nổi tiếng nhất, Giải thưởng Quốc gia Liên Xô, Giải thưởng Lenin, Anh hùng Lao động XHCN đã phải cay đắng thốt lên: “Các nhà văn vô cùng bối rối: viết về cái gì? Trước kia, suốt nhiều năm họ cứ rên rỉ, nào là bộ phận kiểm duyệt không cho phép, nào là bị o ép. Còn bây giờ, khi không còn kiểm duyệt, không còn bị o ép, hóa ra sự việc lại càng tồi tệ hơn. Chẳng khác gì những con thú, lâu ngày được nuôi trong chuồng, bây giờ thả ra, không biết tự kiếm sống”. Còn các giải thưởng của Nhà nước Nga về văn học nghệ thuật, một nguồn động viên không kém phần quan trọng để tạo cảm hứng cho các văn nghệ sĩ cũng bị hủy bỏ. Tuy nhiên, bất chấp những xáo trộn khi bước vào một thể chế chính trị mới, các nhà văn Nga vẫn tiếp tục lao động sáng tạo nên nhiều tác phẩm, kế thừa và phát huy những giá trị nhân văn cao đẹp đã được kết tinh, vun đắp từ lâu, chỉ khác là giờ đây chúng được cảm thụ và thể hiện dưới một góc nhìn mới, chân thực và khách quan hơn về cuộc sống đương đại. Năm 1993, trước yêu cầu của xã hội, Tổng thống Nga lúc bấy giờ là Boris Elsin đã cho thành lập lại Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về văn học nghệ thuật. Và trong số các tên tuổi quen thuộc của văn đàn Nga đã nổi tiếng từ thời Xô viết vẫn được tiếp tục ghi nhận và trao Giải thưởng Quốc gia như Solzenisyn, Evtushenko, Astaphiev, Akhmadulina, Ekimov, Granin... người ta thấy xuất hiện một cái tên hoàn toàn mới - Kanta Ibragimov. Kanta Khamzatovich Ibragimov sinh ngày 9 tháng 7 năm 1960 tại thành phố Grozny, thủ đô nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia thuộc Liên bang Nga, trong một gia đình trí thức có cha là tiến sĩ hóa học. Sau khi tốt nghiệp Khoa Kinh tế Đại học Tổng hợp Quốc gia Chechnya-Ingushetia năm 1982, Ibragimov về làm việc ở nông trang rồi gia nhập quân đội, hết hạn nghĩa vụ ông lại quay về nông trang làm việc. Sau khi bảo vệ luận án phó tiến sĩ năm 1990, Ibragimov làm việc ở Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Chechnya-Ingushetia, rồi Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khoa học ứng dụng thành phố Grozny. Năm 1995, ông lên Moskva làm luận án tiến sĩ và bảo vệ thành công trước thời hạn. Từ 1996 đến nay Ibragimov công tác tại Khoa Kinh tế Đại học Tổng hợp Quốc gia Chechnya, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Liên bang Nga từ 1999 đến năm 2000, hiện là Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thành phố Grozny, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học nước Cộng hòa Chechnya. Có một điều khá lý thú là cho đến trước năm 38 tuổi, Ibragimov chưa một lần xuất hiện trên văn đàn mà chỉ làm công việc chuyên môn thuần túy và chỉ công bố các bài báo, công trình khoa học, sách chuyên khảo và sách giáo khoa về kinh tế (hơn 20 công trình và đầu sách). Tác phẩm văn học đầu tay của ông chính là cuốn tiểu thuyết đồ sộ 700 trang Cuộc chiến đi qua. Sau khi ra đời vào năm 1999, ngay lập tức tác phẩm đã gây tiếng vang lớn, còn tác giả trở nên nổi tiếng và được đọc nhiều nhất không chỉ ở Chechnya mà cả Liên bang Nga. Bốn năm sau, Cuộc chiến đi qua đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về văn học nghệ thuật năm 2003. Vậy, Cuộc chiến đi qua là một tác phẩm như thế nào mà được cả bạn đọc và nhà nước Liên bang Nga đánh giá cao như vậy? Chechnya là một vùng đất nằm ở Bắc Kavkaz, ngay từ cuối thế kỷ XV đã phải đương đầu với các thế lực cai trị từ bên ngoài, buộc người Chechnya phải cải theo đạo Hồi. Đến cuối thế kỷ XVIII, Đế chế Nga hoàng đã chính thức đặt Bắc Kavkaz dưới sự bảo hộ và kiểm soát của mình. Thời kỳ Xô viết, vùng đất Chechnya được gộp chung với Ingushetia thành nước cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia vào cuối thập niên 1930, nhưng mối quan hệ giữa Nhà nước Trung ương Liên Xô với những người Chechnya theo đạo Hồi cũng chẳng mấy khi thuận chèo mát mái. Khi Liên bang Xô viết tan rã vào năm 1990, nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia lại tách ra thành Cộng hòa Chechnya và Cộng hòa Ingushetia với các phong trào ly khai bùng phát thành các cuộc chiến tranh khốc liệt. Lịch sử vùng đất Bắc Kavkaz, kể từ khi chính quyền Xô viết được thành lập tại đây vào năm 1924 và tan vỡ hoàn toàn vào năm 1995 đã được tác giả Ibragimov tái hiện thông qua hình tượng nhân vật chính lấy từ nguyên mẫu cuộc đời đầy thăng trầm và sóng gió của chính ông nội tác giả. Các cuộc chiến tranh đẫm máu trên mảnh đất này đã dẫn đến những cuộc ly tán, đói nghèo, mất mát, rồi sau đó, khi chính quyền Xô viết không còn nữa thì quá trình “tư nhân hóa” đã diễn ra một cách khốc liệt, làm cho người dân vô cùng hụt hẫng vì chưa kịp thích ứng... Nhưng, dù có những biến động dữ dội đến đâu thì điều quan trọng còn lại trên mảnh đất này vẫn là niềm tin vào sức mạnh bất diệt của dân tộc, vào một cuộc sống tốt đẹp hơn đang mở ra cho tất cả mọi thành phần cư dân đang sinh sống tại đây. Tác phẩm Cuộc chiến đi qua có sức bao quát rộng lớn, và thông qua đó, người đọc có thể cảm nhận một cách đầy đủ và chân xác về bản anh hùng ca cùng những tấn bi kịch tại Chechnya và các vùng đất khác nhau trên lãnh thổ rộng lớn của Liên bang Xô viết trước đây. Bản thân tác giả Ibragimov đã trực tiếp trải qua các cuộc chiến tranh đó, và khi được hỏi về những năm tháng này, ông đã thành thật chia sẻ: “Làm người Chechnya trong khoảng mười - mười lăm năm gần đây chẳng dễ dàng chút nào”. Nhưng ông vẫn quyết định quay về với quá khứ trong tác phẩm văn học đầu tay của mình “để không được quên những năm tháng đau thương ấy và thật may là đã trở thành dĩ vãng và để không bao giờ lặp lại những sai lầm khủng khiếp đó nữa”. Theo nhận xét của các nhà phê bình văn học Nga, sự thành công của Cuộc chiến đi qua là nhờ vốn hiểu biết sâu sắc và khách quan của tác giả về lịch sử miền đất quê hương ông, hòa quyện một cách hữu cơ với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Chính vì vậy mà tác phẩm đã đạt đến một sự “hấp dẫn” đối với đông đảo bạn đọc khó tính mà không cần phải nhờ đến một thủ pháp giả tạo nào. Có thể, lời bộc bạch của chính tác giả trong bài trả lời phỏng vấn trên Cánh đồng Nga sẽ làm sáng tỏ thêm nhận xét này: “Tôi bắt đầu cầm bút viết văn lúc 37 tuổi, và viết tiểu thuyết ngay. Chỉ có điều xin đừng nghĩ, tôi chỉ đơn giản ngồi vào bàn là viết xong một cách dễ dàng. Để làm được điều đó, tôi đã phải lặn lội khắp nơi để lấy tư liệu và học hỏi cho đến tận bây giờ. Tôi không học chuyên ngành ngữ văn và dĩ nhiên là còn nhiều lỗ hổng kiến thức, nhưng mặt khác, tôi nghĩ mình cũng có thế mạnh riêng là tôi không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức hay phương pháp sáng tác nào cả, và điều đó không chỉ tồn tại trong văn học mà còn ở tất cả mọi lĩnh vực”. Tiếp theo tác phẩm đầu tay, Ibragimov liên tiếp cho ra mắt nhiều tác phẩm khác và cũng được bạn đọc đánh giá cao, như Kavkaz già nua (2001), Thầy giáo lịch sử (2003), Thế giới trẻ em(2005), Truyện cổ phương Đông (2007), Ngôi nhà hỗn tạp (2009), Avrora (2012)... Kanta Ibragimov được kết nạp vào Hội Nhà văn Cộng hòa Chechnya và Hội Nhà văn Liên bang Nga, rồi được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Cộng hòa Chechnya và Chủ tịch Chi hội nhà văn Nga tại Chechnya. Hiện tại, Ibragimov vẫn tiếp tục làm công tác khoa học và vẫn sáng tác văn học. Và như lời ông nói: “Công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy là để nuôi sống tôi và gia đình cùng với năm đứa con, còn văn chương là để nuôi dưỡng tâm hồn. Những lo toan thường nhật chiếm rất nhiều thời gian của tôi. Nhưng ai mà không có những lo toan thường nhật ấy, nhất là trong thời kỳ suy thoái kinh tế như hiện nay?”. Tại Việt Nam, nhà văn Ibragimov hầu như chưa được biết tới và chưa có tác phẩm nào của ông được dịch sang tiếng Việt. Hy vọng, Cuộc chiến đi qua sẽ mang lại cho bạn đọc một làn gió mới lạ từ một vùng đất xa xôi nhưng cũng rất thân quen với nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Đi Qua của tác giả Kanta Ibragimov.
Tóc Mây Nghìn Sợi - Dung Sài Gòn
Trường không bao giờ trở lại- từ đêm đó. Tôi đã đợi chờ chàng suốt cả những đêm sau, và lại những đêm sau. Tôi vừa tự dằn vặt mình vừa xót xa nghe tự ái bừng dậy. Chàng đã bỏ tôi rồi! Sự tức giận ghen tuông cũng chỉ là cái cớ cho chàng bỏ đi mà thôi. Vừa giận Trường, vừa nhớ chàng, tôi nằm vùi ở nhà để nuôi hy vọng Trường trở về. Hãy vì những tháng năm mật ngọt của chúng ta mà trở về! Tôi nhớ chàng biết bao! Tôi muốn chàng trở về để nói với chàng “em vẫn là con bé Diễm ngày nào yêu anh”. Hơn một năm trời đi hát, tôi vẫn giữ mình, không bị cám dỗ bởi những đón mời vật chất, không sa đoạ, hát xong tôi vội vã về nhà.Bây giờ nếu Trường muốn tôi sẽ nghỉ làm cho chàng yên lòng, tôi chỉ cần Trường thôi. Tôi mong mỏi, đợi chờ Trường từng ngày, tôi nhớ chàng trong từng hơi thở của tôi. Nhìn con tôi lại bật khóc. Trường đã bỏ tôi rồi. Chàng tưởng tôi mê man tiền bạc phụ chàng nên đã rời xa tôi. Lòng tôi nặng trĩu nỗi buồn. Tôi lặng lẽ đi tìm chàng, dò hỏi tin tức Trường ở những người bạn. Ngữ nói: - Hắn đã trở về nhà rồi Diễm ạ. Gia đình hắn đang có chuyện buồn nên hắn phải ở nhà để lo liệu. Tôi thổn thức: - Tôi không biết gì về những chuyện buồn của gia đình anh ấy, nhưng tôi biết là anh ấy đang giận tôi, đang hiểu lầm tôi mà không chờ tôi giải thích. Anh ấy muốn rời xa tôi. ... Mời các bạn đón đọc Tóc Mây Nghìn Sợi của tác giả Dung Sài Gòn.