Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kim Vân Kiều Truyện

LỜI DẪN VỀ VĂN BẢN C húng ta ai cũng biết rằng, dựa trên cơ sở văn bản Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm tài nhân biên thứ, Nguyễn Du đã tái tạo thành thi phẩm nổi tiếng Đoạn trường tân thanh. Vì vậy, muốn hiểu Nguyễn Du một cách đầy đủ và khách quan, đặc biệt là muốn hiểu những nỗi “đau đớn lòng” trước thời cuộc “bể dâu” mà ông đã từng “trải qua”, từng “trông thấy”, rồi đem thể hiện chúng qua ngòi bút thiên tài của mình thì không thể không đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân. Hiện nay có nhiều văn bản Kim Vân Kiều truyện và bản nào cũng ghi là Thanh Tâm tài nhân biên thứ. Song khi đọc, ta không khỏi ngạc nhiên, bởi chúng không chỉ khác nhau ở một vài chi tiết mà khác nhau cả về nội dung cũng như cách ngắt hồi. Tựu chung, có hai loại văn bản về Kim Vân Kiều truyện: loại in từ nửa đầu thế kỉ XX trở về trước và loại in từ giữa thế kỉ XX trở lại đây. Loại thứ nhất, về cơ bản chúng giống nhau, sự dị biệt về chữ nghĩa là không đáng kể. Chỉ có điều khác là, bản do Quán Hoa Hiên tàng bản thì không có lời đề tựa cùa một người tên hiệu là Thiên Hoa Tàng chủ nhân và lời bình luận của Quán Hoa đường; còn bản do Đại Liên đồ thư quán thì ngược lại, không có lời bình của Quán Hoa đường, nhưng lại có lời đề tựa của Thiên Hoa Tàng chủ nhân. Loại thứ hai, chẳng hạn, bản do Đinh Hạ hiệu điểm, hoặc bản do Xuân Phong văn nghệ xuất bản... về cơ bản cũng gồm 20 hồi như các bản Quán Hoa hiên, Đại Liên... nhưng dài hơn, có nhiều chi tiết hơn tạo nên sự hoàn thiện cho tác phẩm, nâng giá trị vể nội dung cũng như về nghệ thuật của tác phẩm cao hơn, đặc biệt tạo nên mạch lôgíc gần gũi với lối tư duy của người hiện đại. Hơn nữa, có bản, chẳng hạn bản do Đinh Hạ hiệu điểm, cách ngắt hồi cũng khác với hai bản Quán Hoa Hiên và Đại Liên. Điểu này tạo nên sự phức tạp, thậm chí rối loạn khi nghiên cứu - so sánh giữa Đoạn trường tân thanh với Kim Vân Kiều truyện. Dĩ nhiên, công việc của chúng tôi không phải là phê phán các văn bản Kim Vân Kiều truyện hoặc đưa ra phương pháp nghiên cứu - so sánh mà chỉ muốn giới thiệu một bản dịch Kim Vân Kiều truyện. Ở Việt Nam ít nhất đang lưu hành ba dịch bản Kim Vân Kiểu truyện. Bản thứ nhất do Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngung dịch, in năm 1925. Bản thứ hai được dịch bởi các cụ Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân, in rônêô năm 1962, sau đó năm 1994 Nhà xuất bản Hải Phòng in lại và La Sơn Nguyễn Hữu Sơn giới thiệu. Bản thứ ba do cụ Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch, in năm 1971. Trong ba bản dịch kể trên thì bản dịch của cụ Hùng Sơn bị bỏ mất ba hồi và cũng khá tuỳ tiện thêm bớt; bản của cụ Tô Nam ra đời sau, lại bỏ mất những lời bình của Quán Hoa đường, bản của các cụ Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân ra đời trước bản của Tô Nam, lại có đầy đủ cả bài tựa và lời bình. Vì vậy, chúng tôi chọn bản này để giới thiệu. Tuy nhiên, bởi dựa vào bản chép tay kí hiệu A.953 có duy nhất vào thời kì bấy giờ để dịch nên bản của các cụ Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân không khỏi có một vài sai sót mà ông Phạm Đan Quế trong Truyện Kiều đối chiếu đã nêu: “…Có một số sai khác, lược bỏ một vài đoạn ngắn của một số bài thơ..”[1]. Nay may mắn, được Nhà giáo Nhân dân - Giáo sư Nguyễn Đình Chú, giảng viên khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho mượn văn bản Kim Vân Kiều truyện do Tiểu Hoa Hiên tàng bản, Quán Hoa đường bình luận và được Giáo sư cùng nhà văn Siêu Hải thay mặt gia đình hai cố dịch giả[2] cho phép tôi hiệu chỉnh lại dịch bàn cùa hai cụ. Tôi đã hiệu chỉnh theo ba nguyên tắc sau đây: 1. Bổ sung những đoạn mà dịch giả thiếu, có thể do bản chép tay A.953 bỏ sót... 2. Điều chỉnh những chỗ khác biệt khá xa với nguyên bản. 3. Điều chỉnh các xưng hô. Đối với người Việt Nam, cách xưng hô biểu hiện thái độ của người giao tiếp với đối tượng mình đang giao tiếp. Không phải ngẫu nhiên Thanh Tâm tài nhân toàn gọi Mã giám sinh là Mã Bất Tiến, hoặc Mã Quy, trừ trường hợp duy nhất mụ mối giới thiệu y với gia đình Thúy Kiều mới gọi là Giám sinh họ Mã. Đối với Thúy Kiều cùng vậy, lúc tác giả gọi là Thúy Kiều, lúc lại gọi là phu nhân hoặc Vương phu nhân. Điều đó đều do dụng ý nghệ thuật của tác giả. Cách xưng hô còn biểu hiện trình độ văn hoá và quan hệ của người xưng hô với đối tượng giao tiếp. Hoạn Thư là con nhà gia giáo, có phong cách của bậc tiểu thư con quan Thượng thư bộ Lại, dù có ghét Thúy Kiều đến đâu nàng cũng không thể mày tao chí tớ với Thúy Kiều; Bạc Hạnh dù có cố phình nịnh để lừa Thúy Kiều thì y cũng không thể xưng anh anh em em với nàng... Gặp các trường hợp tương tự như vậy, tôi đều hiệu chỉnh lại. Ngoài ba nguyên tắc nêu trên, những chỗ nguyên bản không có mà dịch bản có, tôi cũng lược bỏ đi. Sau khi hiệu chỉnh xong, tôi đã đưa để Giáo sư Nguyễn Đình Chú duyệt lần cuối cùng. Nguyện vọng của tôi là chỉ muốn cung cấp cho bạn đọc một dịch bản Kim Vân Kiều truyện càng ít sai sót và càng gần với bản Nguyễn Du dùng để sáng tạo Đoạn trường tân thanh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tuy nhiên, mong muốn là một chuyện, còn có đạt được mong muốn ấy không, lại là vấn để khác vì nó phụ thuộc vào tình hình tư liệu và trình độ của người hiệu chỉnh. Văn bản dùng dể hiệu chỉnh là Kim Văn Kiều truyện do Tiếu Hoa Hiên tàng bản. Dù có cố gắng bao nhiêu, tôi cũng biết rằng, khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong được sự chỉ giáo của độc giả gần xa. Cuối cùng, có được bản Kim Vân Kiều truyện này là nhờ sự giúp đỡ của Giáo sư Nguyễn Đình Chú và nhà văn Siêu Hải - thân nhân của hai cố dịch giả Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân và Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Nhân đây xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Hà Nội, ngày 03 - 01 - 2000 Người hiệu chỉnh PGS.TS. NGUYỄN ĐẢNG NA *** Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc được Thanh Tâm Tài Nhân viết vào đời Thanh; truyện được mang sang nước ta từ lâu và Nguyễn Du đã mượn cốt truyện mà viết nên Truyện Kiều bằng chữ Nôm. Việc này là bình thường, nhất là khi tác phẩm viết sau lại nổi tiếng, hơn hẳn gốc ban đầu. Văn chương thế giới đã có nhiều trường hợp tương tự. Trường hợp thường được nhắc đến nhất là nhà soạn kịch tài danh của Pháp Corneille đã dùng Las  Mocedades del Cid của Guillen de Castro, người Tây Ban Nha để viết nên tuồng Le Cid rất nổi tiếng… Tiếp tục mạch bài về cách hiểu Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhất là các đoạn được trích trong sách giáo khoa, hôm nay, Tòa soạn giới thiệu bài viết thứ 7 của thày giáo, nhà nghiên cứu Nguyễn Cẩm Xuyên về chủ đề này. Các bài viết này, không chỉ có giá trị tham khảo trong giảng dạy cho các thày cô giáo, mà còn là những góc nhìn, phân tích rất thú vị của riêng tác giả đối với tác phẩm bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả. Ở nước ta Truyện Kiều được phổ biến rộng nên Kim Vân Kiều truyện cũng được các dịch giả chú ý dịch ra quốc ngữ; trước sau có đến khoảng 4, 5 bản dịch khác nhau: có lẽ bản dịch đầu tiên là của Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngung do Phan Bá Cẩn xuất bản năm 1925, Tân Dân tái bản năm 1928, tiếp đến là bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh do Viện Văn học in ronéo năm 1962, NXB Hải Phòng tái bản năm 1994 và NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1999. Ở miền Nam, có bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm được Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản năm 1971. Gần đây có Tình sử Vương Thuý Kiều (Phong Tình Cổ Lục) do Mộng Bình Sơn khảo dịch, NXB Văn học xuất bản năm 2000. Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế, NXB Hà Nội xuất bản năm 1991, NXB Hải Phòng tái bản năm 1999… *** Thanh Tâm Tài Nhân (青心才人) sống vào đời nhà Minh. Ông quê ở huyện Sơn Âm, tỉnh Chiết Giang, học giỏi, hiểu biết rộng, nhưng đi thi không đỗ, bèn làm mặc khách của Hồ Tông Hiến. Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài Nhân thảo tờ biểu "Dâng hươu trắng" cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài tác phẩm chính Kim Vân Kiều truyện, ông còn có loạt kịch Tứ thanh viên (Vượn kêu bốn tiếng) gồm 4 vở kịch: Ngư dương lộng, Thúy nương mộng, Hoa mộc lan và Nữ trạng nguyên. Mời các bạn đón đọc Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nội Ngoại Đều Thương (Khiêm Cung)
Tôi thực sự ngạc nhiên khi nhận được món quà gửi từ nước Úc xa xôi: tuyển tập truyện ngắn Nội Ngoại Đều Thươngcủa Khiêm Cung. Bìa sách in hai màu xanh trắng trang nhã với bức ảnh làng quê ẩn hiện trong rừng dừa dọc hai bên bờ con sông lặng lẽ êm đềm. Tôi mê sách báo nhưng ít khi ngắm nghía một quyển sách mà lòng rộn ràng như lúc này. Cái tựa Nội Ngoại Đều Thương nghe thật dễ thương và một bút danh nghe thật… khiêm cung. Nhìn cái giá bưu phí ngang gần ấn phí (tôi ước chừng vì bản đặc biệt không đề giá bán) tôi nao nao nghĩ đến cái tình đồng hương ông dành cho tôi… Tôi không quen Khiêm Cung, chỉ biết ông qua các bút ký, truyện ngắn xuất hiện đều đềutrên trang nhà Thất Sơn Châu Đốc. Nếu chỉ vì tình đồng hương thì chưa đủ lý do để quyển sách vượt ngàn dặm đường. Hẳn là phải thêm cái nòi tình đồng điệu văn chương chữ nghĩa… Không một chút chần chừ, tôi đọc ngay tập truyện. Đọc mỗi truyện chừng một trang tôi đều nhận ra rằng truyện đó tôi đã đọc rồi. Nhưng việc đọc rồi không đủ sức để ngăn tôi đọc… một lèo hết quyển sách dầy 228 trang. Tôi gấp sách lại, lòng lâng lâng bồi hồi, một cảm giác không hề có sau khi đọc từng bài của Khiêm Cung đăng cách quảng trước đây. Sự nối kết các truyện ngắn như tạo thành một sức hút mới mẻ và mạnh mẻ. Tìm mua: Nội Ngoại Đều Thương TiKi Lazada Shopee Bằng vào lời phi lộ “Về già rảnh rổi viết để giải khuây, nhớ gì viết nấy”, thì hẳn ông bắt đầu viết vào lứa tuổi …tri thiên mệnh. Thế nhưng những gì ông nhớ và viết ra thì thật đáng kinh ngạc so với số tuổi của ông. Truyện mở đầu Làng Tôi, ông viết về sinh quán làng Bắc Nam phía bắc Châu Đốc. Ông vẻ ra tỉ mỉ đường đi nước bước, ông nhớ các sư sãi chân đất ôm bình bát đi khất thực theo sau vài chú tiểu mới xuất gia. Ông kể chuyện người Miên đua thuyền trong ngày lễ Rước Nước. Ông mô tả vũ điệu Là Khol và các nhạc khí. Ông ghi lại sinh hoạt cúng đình, lễ Vu Lan và nhất là lễ Nghinh Ông “cứ bốn thanh niên khiêng một cái kiệu để cung nghinh chư vị Châu Sương, Quan Bình, Ông Oanh đang lên đồng, miệng thở xì xịt, tay cầm kiếm sắt cắt lưỡi lấy máu vẽ bùa, hoặc chém vào lưng, hoặc dùng cây sắt nhọn xuyên thủng hai bên má, máu chảy dầm dề…”. Thuở nhỏ tôi cũng từng chen lấn xem lễ Nghinh Ông nhưng chắc chắn không thể nhớ lại để diễn đạt sắc nét như Khiêm Cung. Cũng trong truyện này, ông kể về những ngày Tết trẻ thơ bên lò nấu bánh tét và đốt pháo kim… Ông cũng không quên vẻ lại cái thảm cảnh mùa lũ lụt: “…Lúc đó tôi thường hay nhìn quanh nhìn quất xem ở rặng cây xa xa trên đồng nước bao la có cái giàn để quan tài người chết hay không…Người ta phải làm một cái giàn… dùng để tạm quan tài người chết, chờ khi nước rút hết mới chôn xuống đất”. Truyện kế tiếp là Dòng Sông Kỷ Niệm nơi người lớn sống bằng nghề bắt cá qua nhiều cách thức khác nhau, còn cậu bé Dương Văn Chung thì lo bắt cá thia thia, móc đất sét nắn đồ chơi, hoặc bơi thuyền ra giữa dòng sông Châu Đốc, lấy rổ cào tôm cào cá vào xuồng… Tôi đang miên man theo những kỷ niệm thời thơ trẻ của tác giả ở vùng biên giới Việt Miên thì đến bài liền theo đó Cái Hôn Lộ Thiên tác giả đột ngột …kéo tôi đi dự đám cưới con trai người bạn ở Úc. Qua bài này, trong tư cách người lớn tuổi, Khiêm Cung nhận xét về những cải biến trong hôn lễ của người Việt ở xứ người… Rồi đang dự đám cưới ở nước Úc năm 1989, Khiêm Cung quay về Việt Nam thương yêu bằng cách hồi tưởng về Một Chuyến Vượt Biên rất gian nan vài năm trước đó. Lối kể chuyện của ông là lối kể chuyện trinh thám, khiến tôi gần đứngtim và luôn mong mõi cả gia đình ông được thoát đi xuông xẻ. Quả nhiên gia đình ông không bị công an bắt. Nhưng hãy nghe ông tỏ lời kết thúc chuyến vượt biên: “Trái đất tròn, nước Việt Nam mình cũng tròn, gia đình tôi đi vòng vòng rồi trở về chỗ cũ”. Ông thất bại chua cay, mất bao nhiêu tiền của mà vẫn giữ nụ cười hóm hỉnh… Có lẽ chính nhờ tinh thần hài hước đó mà Khiêm Cung đã tuyển chọn bài và cố tình sắp xếp theo thứ tự thời gian đột biến: từ một quá khứ ấu thơ rồi bất ngờ kể chuyện tuổi già, từ tuổi già bỗng quay lại thuở học trò, từ thuở học trò chợt nhảy sang thời… mất nước. Thời gian đột biến kéo theo không gian đột biến. Từ quê nội sang quê ngoại. Từ quê nhà chuyển sang quê người. Đề tài cũng biến đổi liên tục. Từ gia đình đến hàng xóm. Từ thầy cô đến bạn bè. Từ tập tục lễnghĩa đến chuyện cũ tích xưa. Từ ngôn ngữ bất đồng đến con người bất bình đẳng… Hiện tại-quá khứ xem ra không dính gì nhau mà lại đan nhau một cách một cách khéo léo, tự nhiên và lôi cuốn. Tôi tâm đắc cái tựa sách Nội Ngoại Đều Thương. Nó phù hợp với nội dung của toàn tập truyện. Nội mang nghĩa quê nội mà cũng có nghĩa quê nhà. Ngoại là quê ngoại mà cũng có nghĩa quê người. Khiêm Cung tỏ ra thương cả bên nội lẫnbên ngoại dù ông thú nhận thương bên ngoại nhiều hơn. Ngược lại ông hướng tâm tư tình cảm thiết tha về quê nhà so với chỉ là lòng biết ơn quê người. Quê nội ngoại của Khiêm Cung là làng quê phía Bắc của thị xã Châu Đốc. Quê nội ngoại của tôi ở về phía Đông. Nếu ông chưa hề quên quê cha đất tổ thì trên 20 năm ở quê người tôi cũng thường tìm đọc các truyện miệt vườn để đỡ nhớ quê mình. Các tác giả ưa thích của tôi là Phạm Thăng, Nguyễn Văn Ba, Hồ Trường An, Hứa Hoành, Nguyễn Tấn Hưng. Gần đây, từ ngày trang nhà Thất Sơn Châu Đốc trình làng, tôi bắt đầu yêu chuộng Hai Trầu Lương Thư Trung, Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa. Và dành cảm tình đặc biệt cho Khiêm Cung Dương Văn Chung. Đặc biệt vì những gì Khiêm Cung viết về quê ông cũng chính là hình ảnh sự việc ở quê tôi và những gì ông quan ngại về truyền thống dân tộc trước cuộc hội nhập ở nước Úc thì cũng là mối ưu tư của mọi người. Thêm vào đó, qua Nội Ngoại Đều Thương tôi học hỏi thêm nhiều điều thú vị. Ngoài việc tác giả giúp tôi sáng tỏ các lễ lạc, tập tục, mùa màng mà tôi hiểu biết lờ mờ hoặc đã quên lãng, ông còn đưa ra các câu ca dao dễ thương tôi chưa từng nghe đến: Biển Hồ cực lắm em ơi. Ban đêm xẻ cá ban ngày phơi khô (tr.9). Cây khô tưới nước cũng khô. Vận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo (tr.82). Trầu vàng ăn với cau dày. Tao nghe má nói gả mày cho tao (tr.120). Cu kêu ba tiếng cu kêu.Cho mau tới Tết dựng nêu ăn chè (tr. 124). Ông cũng giúp tôi hiểu được vì sao có những đứa trẻ gọi chính mẹ ruột mình bằng Vú và vì sao người ta đặt tên cho loài cây có hoa đỏ rực vào mùa hè là cây phượng vỹ… Với một trí nhớ lạ thường, một tri thức quảng bác, với lời văn bình dịsáng sủa đôi khi diểm chút khôi hài ý nhị, tôi không tin tập truyện Nội Ngoại Đều Thương được hình thành như ông bày tỏ: “Về già rảnh rổi viết để giải khuây”. Ông nói gì thì nói, tự tập truyện của ông đã hàm chứa đầy đủ các lời nhắn nhủ về đạo làm người Việt Nam, rất cần cho con cháu ông, cho con cháu tôi và cho tuổi trẻ hải ngoại. Cuối tác phẩm là phụ lục dầy 25 trang như là lời bạt của nhà văn Lương Thư Trung. Nhà văn đã nồng nhiệt chúc mừng và ngợi khen tác phẩm đầu tay của Khiêm Cung. Tôi không có kết luận nào khác hơn là đồng ý với nhận xét của bác HaiTrầu ở Kinh Xáng Bốn Tổng: “ … Những gì anh viết bằng chất liệu thật nuôi sống tâm hồn anh lớn dậy và những trang sách của anh làm con tim tôi rung cảm, bồi hồi”. Mong đợi tác phẩm kế tiếp…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nội Ngoại Đều Thương PDF của tác giả Khiêm Cung nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tiếng Đàn Trong Chiều Mưa (Nguyễn Khắc Phê)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tiếng Đàn Trong Chiều Mưa PDF của tác giả Nguyễn Khắc Phê nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Những Mảnh Hồn Tôi (Khiêm Cung)
Càng đọc cuốn Những Mảnh Hồn Tôi, dường như tôi đi lạc vào mê hồn trận không lối thoát, nhưng tôi đã bắt gặp một điều lý thú, đó là dòng văn của anh Khiêm Cung, chỉ nhớ đâu viết đó, không sắp đặt theo thứ tự. Vì vậy mà ít khi thấy một cái truyện nào có phân đoạn chủ đề, nhưng lại hấp dẫn người đọc đến mê mang. Riêng phần tôi phải ngồi hết một buổi chiều, và gần một đêm mất ngủ. Tôi cũng không biết vì sao tôi lại cảm động cuốn sách nầy, chắc có lẽ nó là một người dẫn đường cho tôi về tới Hậu Giang, dẫn tôi về tuổi thơ của một thời nghèo khổ, dẫn tôi đi đào cua về bán để mua dầu, dẫn tôi về lúc cha tôi làm lại thế vì khai sanh. Ngoài những thứ đó ra, tôi còn thấy nó rất chân thành ở những câu văn mộc mạc.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Những Mảnh Hồn Tôi PDF của tác giả Khiêm Cung nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đi Và Ghi Nhớ (Sơn Nam)
Nhắc đến nhà văn Sơn Nam, hẳn chúng ta ai cũng biết đó là một nhà văn nổi tiếng của vùng đất Nam bộ. Ông là nhà Nam bộ học, là nhà văn chuyên viết về các vùng đất thuộc Nam bộ, ông cũng được người đời gọi là nhà văn đi bộ, vì ông là người chuyên đi bộ. Là nhà văn, nhưng Sơn Nam còn là một người rất chăm viết báo. Ngay trên tạp chí Xưa và nay, nhà văn Sơn Nam đã có đến hơn 80 bài báo. Sau khi nhà văn qua đời, tạp chí Xưa và nay đã chọn hơn 40 bài trong số đó tập hợp đem in thành cuốn Sơn Nam, đi và ghi nhớ này. Sau những chặng đường đã đi qua về vùng Gia Định - Sài Gòn xưa, Sơn Nam viết lại những cảm nhận rất riêng biệt qua cái nhìn tinh tế và hồn hậu của ông: “Nam bộ nói chung, Sài Gòn nói riêng nào phải là “địa đàng”… Xưa kia, người Khơ me bản địa sống co cụm trên những giồng cao ráo, làm ruộng thâm canh, không thích triển khai diện tích vào nơi đầm lầy đầy rắn, cọp và bệnh sốt rét. Người Hoa vẫn giữ tập quán thâm canh, ở đất cao, làm rẫy rau cải, không xông xáo “phá sơn lâm, đâm Hà bá” như dân Việt. Dân ta đã định cư ở nơi đất thấp, nước phèn, đốn củi, phá rừng… Vùng đất Nam bộ, vùng đất Sài Gòn - Gia Định ngày nay, công ơn của tổ tiên thật là to lớn.” Từ những câu văn thấm đẫm mồ hôi của Sơn Nam, toát lên sự hoài cổ và lòng yêu nước thâm trầm của ông. Đọc Đi và ghi nhớ của Sơn Nam, bạn sẽ có thêm những kiến thức rất mới và rất lạ mà ngỡ như chỉ có ở Sơn Nam - ông già Nam bộ. Chẳng hạn trong bài viết này, Sơn Nam đã đem đến cho bạn đọc một hình ảnh cây me rất quen thuộc ở miền Trung nhưng lại rất hiếm hoi trên đất Sài Gòn: Ở Sài Gòn, “ Phải chăng cây me khó thích hợp với nơi khí hậu bốn mùa nên trở thành quí giá? Nét thơ mộng của cành lá me không thể chối cãi. Đường phố Sài Gòn, nơi nào có me là chỉ thị của con đường xưa, từ đầu thế kỷ 20 về trước. Giới đô đốc Pháp chuộng cây me; về sau, Hội đồng đô thành Sài Gòn phản đối, cho rằng lá me giữ nước mưa, tạo không khí ẩm ướt, mưa tạnh rồi mà còn nước rơi (ta gọi là mưa lá me), lại quyến rũ loài muỗi gây sốt rét… trong giới nho sĩ và bình dân Nam bộ, cây me tượng trưng cho kẻ tiểu nhân. Thời xưa, chẳng ai trồng me làm cây cảnh, nếu có thì chưng bày ở góc sân sau hè.” Quả là một sự hiểu biết quí giá mà nhà văn đã hào phóng cho bạn đọc biết về một loài cây quen thuộc. Tìm mua: Đi Và Ghi Nhớ TiKi Lazada Shopee Với lối viết giản dị, chân phương mà vẫn sâu sắc và dí dỏm, Đi và ghi nhớ của Sơn Nam như là người hướng dẫn một tua du lịch đưa bạn đọc trở về với cội nguồn của những giá trị lịch sử và địa lí của một vùng đất nổi tiếng, Nam bộ và Sài Gòn. Từ những vùng đất và con người, từ những trang viết của nhà văn miệt vườn Sơn Nam, “Người Sài Gòn hiện rõ là những con người năng động, hiếu khách, trọng nghĩa tình bè bạn.” Và nhà văn Sơn Nam giải thích, sở dĩ có được những phẩm chất ấy là do người Sài Gòn sống gần gũi và chịu ảnh hưởng trực tiếp của người Pháp. Một cách cắt nghĩa rất khoa học của Sơn Nam bởi chúng ta vẫn nói rằng “Hoàn cảnh xã hội quyết định ‎‎‎ý thức xã hội.” Đi và ghi nhớ của Sơn Nam không chỉ nói về đất và người nói chung mà với cái nhìn biện chứng, khoa học của một nhà lịch sử, ông còn tìm dịp để phục hồi danh dự, vinh danh cho nhà nho yêu nước Phan Thanh Giản, người mà một thời đã bị gán cho tội phản quốc. Ông thẳng thắn đề nghị: Sách giáo khoa nên có bài về Phan Thanh Giản. Trong một chuyến đi về Vĩnh Long, Sơn Nam đã phát hiện ra rằng, từ thòi xa xưa, người dân Vĩnh Long đã dựng miếu Văn Thánh để thờ cụ Phan Thanh Giản với tư cách là một nhà trí thức tiết tháo và yêu nước. Và họ đã trọng vọng cụ Phan còn hơn cả Khổng Tử, Tăng Sâm, Tử Lộ… Người Vĩnh Long từ xưa đã biết giở nón, cúi đầu mỗi khi đi qua miếu Văn Thánh để kính cẩn chào cụ Phan Thanh Giản. Nhà văn đề nghị: “Trong chương trình sử học cho học sinh, nên có một bài nói về Phan Thanh Giản, đủ tình, đủ lí.” Từ chuyện lớn về lịch sử sang chuyện nhỏ như ăn nhậu, ngòi bút của Sơn Nam nhiều lúc khiến người đọc phát thèm bởi những món ăn đặc trưng Nam bộ được ông miêu tả một cách sinh động. Chẳng hạn như món chuột đồng ‎mà ông đã viết: “Ngày nay món nhậu có thể là con chuột mập béo đầu mùa, sống ngoài đồng lúa chín, chuột khá sạch sẽ, trời sa mưa, chuột ăn toàn cỏ non, không bẩn như chuột cống ở thành phố. Chuột rô ti ăn với xoài chua đầu mùa băm nhỏ, vị chua sẽ đánh tan mùi hôi chuột.” Những bài viết của Sơn Nam về đất và người Nam bộ, Sài Gòn - Gia Định là vốn quí về lịch sử và địa lí một vùng đất máu thịt của Tổ quốc. Nó đã trở thành nguồn tư liệu giàu có cho nhiều nghiên cứu sinh cao học và tiến sĩ tìm đến trong các bản luận văn lịch sử, văn học và địa lí. Và cũng từ đó, Đi và ghi nhớ của Sơn Nam là một tập hợp gồm nhiều chủ đề, thể loại khác nhau, nhưng chủ yếu là khảo cứu các vấn đề lịch sử, văn hóa, tập quán của Sài Gòn - Nam bộ xưa và nay. Đi và ghi nhớ cũng là một thành tựu khác của nhà văn Sơn Nam bên cạnh thành tựu văn học phong phú rất Nam bộ của Sơn Nam.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Sơn Nam":Cá Tính Của Miền NamHồi Ký Sơn Nam Toàn TậpLịch Sử Khẩn Hoang Miền NamSài Gòn Xưa, Ấn Tượng 300 Năm Và Tiếp Cận Với Đồng Bằng Sông Cửu LongĐi Và Ghi NhớCon Sấu Cuối Cùng26 Truyện Ngắn Sơn NamBiển Cỏ Miền Tây Hình Bóng CũChuyện Xưa Tích CũTuyển Tập Truyện Ngắn Sơn NamLễ Hội Dân Gian Miền NamNgười Bạn Triệu PhúVạch Một Chân Trời, Chim Quyên Xuống ĐấtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đi Và Ghi Nhớ PDF của tác giả Sơn Nam nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.