Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tội Ác Của Sylvestre Bonnard

Sylvestre Bonnard, một học giả già lỗi lạc đang gặp các vấn đề bất ngờ khi ông bắt tay vào tìm kiếm một vài tài liệu văn học cổ xưa của Giáo Hội để mang từ Paris đến Sicily và ghi dấu vào lịch sử cuộc đời của chính mình. Vì lợi ích của công lý và tình yêu, ông cố gắng hoàn thành công việc sao cho tốt nhất nhất là tính hợp pháp nghi ngờ. Với "Tội phạm của Sylvestre Bonnard", Anatole France (1844-1924) đã viết một cuốn tiểu thuyết vừa thông minh và khôn ngoan và theo cách thức của các bậc thầy vĩ đại của phong cách văn học - một cuốn sách đầy đủ lẫn hồi hộp từ đầu đến cuối. *** Một câu chuyện cảm động và kết thúc đẹp như mong ước, một cái kết gần giống như kết của 'Những người khốn khổ' (Les Miserables), với một đôi trẻ hạnh phúc, nhưng không kém phần hồi hộp khiến ta phải lo âu theo dõi. Sylvestre Bonnard, người kể chuyện, một ông lão tuổi ngoài 60 sống tại Paris, nước Pháp nửa sau thế kỷ XIX, sống cuộc sống độc thân giản nhị nhưng không quá túng thiếu với Thérèse người quản gia cũng già đã phục vụ ông qua mấy chục năm. Một con người khá cô độc nhưng không ghét loài người, sống bình lặng với người quản gia, con mèo, cùng công việc yêu thích là nghiên cứu các văn bản cổ, và dịu dàng, nhân ái với mọi người. Phần 1 - 'Khúc củi' với diễn biến về sau khá bất ngờ, khi ông theo đuổi một bản thảo cổ từ Ý trở lại Paris, trong quá trình đó gặp một người phụ nữ bí ẩn, và cuối cùng bản thảo bị người phụ nữ bí ẩn trả giá cao trong cuộc bán đấu giá. Người phụ nữ, hóa ra từng là vợ của một người nghèo khổ sống cùng tòa nhà với ông, nay đã là mệnh phụ, sẵn lòng mua bản thảo với giá cao để đáp lại ân tình của Bonnard khi trước. Một kết thúc theo kiểu gieo nhân nào gặp quả nấy. Phần 2 - 'Tiểu thư Jeanne Alexandre' là sự quyến luyến của ông lão Bonnard đối với Jeanne, cô bé là cháu gái của Clementine, người con gái mà ngày còn trẻ ông mến mộ. Do phá sản, bố mẹ cô khi mất đã để Jeanne bơ vơ giữa đời phải sống trong một trường nội trú với những điều kiện khắc nghiệt và người giám hộ không được tử tế. Nhờ danh vị thành viên Học viện mà Bonnard được cô Préfère nể trọng đón tiếp tử tế và cuộc sống của Jeanne đỡ khổ ải hơn. Nhưng khúc quanh của câu chuyện khá bất ngờ khi cô cấm ông Bonnard không được đến thăm Jeanne tại trường và cô bé lại tiếp tục chịu cuộc sống hà khắc dưới quyền cô. Người đọc hồi hộp theo dõi liệu ông lão Bonnard có thể phạm tội ác gì (theo hướng chống lại cô Préfère) nhằm giành giật lại cô bé mà ông yêu quý và muốn bù đắp cho. Kết cục, như ta đã biết là tốt đẹp, và cô bé Jeanne cũng đã có hạnh phúc lứa đôi với chàng công chức cùng nghề với Bonnard, khi còn là sinh viên đã tìm đến ông để trao đổi về học thuật. Trong Phần 2 này những trao đổi giữa ông lão Bonnard và chàng sinh viên Gélis về lịch sử (trang 224 - 225 - 226, Bản dịch của Nguyễn Xuân Phương, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, tháng 4.2001) là khá thú vị, hay trao đổi giữa Bonnard và cô Thèrése về giáo dục (trang 156) đến bây giờ vẫn hoàn toàn đúng đắn. Cũng ở Phần 2 này theo lời kể của Bonnard ta cũng thấy nước Pháp những năm 1800 vẫn còn chia rẽ khá sâu sắc giữa những người ủng hộ Napoleon (những kẻ cướp vùng Loire) và những người bảo hoàng Bourbons. - Con người (mặc giáp sắt thời Trung cổ) được bọc sắt như con bọ hung. Sự yếu đuối của họ là ở bên trong. (trang 18) - hãy đối xử rộng lượng với đồng loại để họ rộng lượng với chúng ta (trang21) - Người nghèo không tham vọng là có món tài sản vĩ đại nhất, hắn tự kiềm chế được mình, còn người giàu mà thèm muốn thì chỉ là một tên nô lệ khốn khổ (trang 22). - cái thú chuyện trò với một trí tuệ ưu việt và ôn hòa, cái thú ăn tối với một anh bạn thân (trang 22) - những thèm muốn thuở hoa niên là ghê gớm biết bao nhiêu (trang 22) - chúng cháu (tuy là người lớn) mãi mãi là trẻ con, chúng cháu không ngừng đuổi theo những đồ chơi mới lạ (trang 28) - người thiếu phụ ấy không trở nên xấu cũng không trở nên tốt. Hãy đợi chị ta kết thúc cuộc đời mới nên phán xét (trang 29) - điệu bộ bạo dạn ở những kẻ nhát gan (trang 37) - với ba xu, tôi có thể ăn, uống và rửa mặt tất tần tật với một lát dưa hấu bày trên chiếc bàn con (trang 38) - Phải thương xót họ: của cải vây quanh lấy họ mà không thấm thấu vào họ; họ đáng thương, nội tâm cùng quẫn. Sự khốn khổ của người giàu thật thê thảm. (trang 43) - Những người yêu tha thiết không viết về hạnh phúc của mình (trang 45) - người ta có học được đôi điều qua sách vở, nhưng người ta càng học tập được nhiều hơn khi đi đây đi đó. (trang 47) - những nỗi buồn, đó là một cách tiêu khiển quan trọng. (trang 51) - người mà ta yêu thương mãi mãi chỉ là một hình bóng, nhưng kỷ niệm về nàng mãi mãi là niềm mê say của đời ta. (trang 76) - con người chỉ làm chủ thời gian khi chia no ra thành giờ, thành phút, thành giây, nghĩa là thành những khoảng cách cân đối với đời người ngắn ngủi, bởi vì thời gian chính là cuộc đời. (trang 81) - đối với phái yếu, mọi việc đều đượcphép, mọi hành động của họ là đặc ân, là sủng ái. (trang 90) - Có trí thức chẳng là gì hết, tưởng tượng sáng tạo mới quan trọng. Chỉ cái gì người ta suy nghĩ sáng tạo ra mới tồn tại. (trang 91) - Nhân loại hầu như toàn là người chết. So với số người đã chết thì người còn sống chẳng là bao nhiêu. Cuộc đời này là gì, ngắn ngủi hơn trí nhớ, ngắn ngủi hơn con người. (trang 100) - cuộc đừi là vĩnh hằng, ta phải yêu quý nó trong những hình thái không ngừng đổi mới (trang 100-101) -điếc như bao than, chậm chạp như tổ chức tư pháp. (trang 108) - Hãy trù liệu cho những việc lớn, nên biết rằng ý định là thực tế duy nhất trên đời. (trang 109) - Hãy coi trọng vỏ bánh mì khô trong chiếc đãy hai túi của anh hơn những chim sẻ vườn được quay trong bếp của lãnh chúa. (trang 110) - Tất cả chúng ta đều có trong người một Don Quixote và một Sancho mà chúng ta nghe theo, và cả đang khi Sancho thuyết phục chúng ta thì chính là Don Quixote mà chúng ta phải khâm phục. (trang 110) - Thời gian chỉ êm dịu đối với những ai khoan thai thận trọng đón nhận nó. (trang 112) - thực tế vũ trụ là phản ảnh của tâm hồn chúng ta. (trang 113) - Goethe ví đại có sức sống lạ thường, thực sự tin rằng người ta chỉ chết khi người ta muốn, nghĩa là khi tất cả sức mạnh chống lại sự phân hủy cuối cùng, khi toàn bộ khí lực làm nên sự sống bị hủy diệt đến tận cùng. Nói cách khác, ông nghĩ rằng người ta chỉ chết khi khôn muốn sống nữa. (trang 141-142) - tôi vẫn thích sự đam mê điên rồ hơn sự đứng đắn dửng dưng. (trang 144) - một thằng ngu, không phải bằng ba chữ mà đúng là bằng mười hai tập. (trang 147) - Những kẻ không có nhược điểm thì thật ghê gớm; không ai tác động đến họ được. (trang 150) - điều thực sự xấu xa trong thời đại chúng ta là khôn ai bằng lòng địa vị của mình, trong xã hội, trong mọi tầng lớp, từ trên xuống dưới, bao trùm sự túng thiếu, nỗi khắc khoải lo âu, sự khát khao hạnh phúc. (trang 153) - Không có thời đại nào con người lại thèm muốn sự túng thiếu. Họ luôn luôn tìm cách cải thiện địa vị xã hội của mình. Sự cố gắng kiên trì này đã sản sinh ra những cuộc cách mạng trường kỳ. Nó tiếp tục, thế thôi. (trang 153) - nghệ thuật giảng dạy chỉ là nghệ thuật kích thích tính tò mò ham biết của những tâm hồn non trẻ, tiếp đó là thỏa mãn tính tò mò ham biết đó, và tính tò mò ham biết chỉ mãnh liệt và lành mạnh trong những đầu óc sung sướng. Dùn quyền lực nhồi nhét kiến thức vào những đầu óc thông minh là bịt chúng lại, bóp nghẹ chúng. Trí thức phải được nuốt vào một cách ngon lành thì mới tiêu hóa được. (trang 155-156) *** Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire.     Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.   - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.   - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.   - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:    + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)   + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)   + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)   + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)   - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.     Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:     - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972   - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.   - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.   - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.   - Thais-Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.   - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987. ***  Tôi xỏ chân vào giày vải, khoác lại áo mặc trong nhà rồi lau giọt nước mắt do cơn gió bấc thổi ngoài bến tàu làm cho tôi tối tăm mặt mũi. Lửa rực sáng trong lò sưởi phòng làm việc của tôi. Những tinh thể băng tuyết hình lá dương xỉ phủ đầy bên ngoài mặt kính các cửa sổ, che lấp con sông Seine, các cây cầu và cung điện Louvre des Valois.   Tôi đẩy ghế bành và bàn di động đến gần lò sưởi chiếm lấy chỗ của chú mèo Hamilcar. Nó nằm khoanh tròn trên chiếc ghế lông, bốn chân ôm lấy mũi, ở đầu các thanh gác củi. Một làn gió đều đều phe phẩy bộ lông dày và nhẹ của nó. Thấy tôi đến gần, nó hé hai hàng mi, đưa cặp mắt mã não ra nhìn dịu dàng rồi nhắm lại ngay, nghĩ rằng: “Không hề gì, đó là bạn ta.” “Hamilcar!”. Tôi vừa kéo chân vừa gọi nó – “Hamilcar, ông hoàng ngủ gà của khu nhà sách, người canh gác ban đêm ơi! Mày chống lũ gặm nhấm hèn hạ, bảo vệ những bản thảo và ấn phẩm mà nhà bác học già nua đã mua với số tiền dành dụm ít ỏi là lòng nhiệt thành không mệt mỏi. Hamilcar, trong chốn thư viện im lặng này được các đức tính nhà binh của mày bảo vệ, mày hãy ngủ ung dung đài các như một bà hoàng! Bời vì ở mày hội tụ được dáng vóc tuyệt vời của một quân nhân Hung Nô với vẻ yêu kiều của một phụ nữ phương Đông. Hỡi chú Hamilcar anh hùng và thích khoái lạc, hãy vừa ngủ vừa chờ cơ hội lũ chuột nhảy múa dưới ánh trăng, trước giáo đường của nhà thông thái giáo phái Bông-lăng”.   Lời mở đầu bài diễn văn này làm vui lòng con Hamilcar, nó phụ theo bằng một tiếng khò khò trong họng như tiếng reo trong ấm nước sôi. Nhưng khi tôi cất cao lời nói, con Hamilcar cụp tai xuống, nhăn cái trán vằn, có ý cảnh cáo tôi nói năng cầu kỳ hoa mỹ như vậy là nghe chướng và nó nghĩ:   “Con người sách vở này nói năng chẳng đâu vào đâu, còn bà quản gia thì bao giờ cũng chỉ tuôn ra những lời lẽ đầy ý nghĩa, chứa đựng sự việc, hoặc báo tin một bữa ăn hoặc một trận đòn. Người ta biết chắc điều gì bà nói. Còn ông già này ghép lại những âm chẳng có ý nghĩa gì hết”.   Con Hamilcar nghĩ như vậy đó. Để mặc cho nó suy tư, tôi mở một cuốn sách và chăm chú đọc. Đó là cuốn danh mục các bản thảo. Tôi thấy không có gì dễ dàng hơn, thú vị hơn, êm đềm hơn bằng đọc một cuốn danh mục. Cuốn danh mục tôi đọc, do ông Thompson, cán bộ thư viện của ngài Thomas Raleigh, soạn thảo vào năm 1824 là cuốn sách hỏng, đúng thế, vì sự vắn tắt quá đáng và không thể hiện chút nào thứ chính xác mà các nhà lưu trữ thế hệ tôi đầu tiên đưa vào các tác phẩm về ngoại giao và về khoa chữ cổ. Nó chưa hoàn hảo, phái đoán mò. Có lẽ vì thế mà khi đọc nó, theo một bản tính tưởng tượng phong phú hơn bản tính của mình, tôi có cái cảm giác đáng được gọi là sự mơ mộng. Tôi lâng lâng thả mình trong dòng suy tư lơ mơ thì chị quản gia bằng một giọng cáu kỉnh bảo tôi biết có ông Coccoz yêu cầu nói chuyện với tôi.   Quả nhiên, một người nào đó lặng lẽ theo chị đi vào thư viện. Đó là một con người bé nhỏ, một con người bé nhỏ thảm hại, vẻ mặt ốm yếu, mặc chiếc áo mỏng dài đến đầu gối. Anh tiến về phía tôi, cúi chào mỉm cười nhiều lần, một cách tự tin. Anh rất đỗi xanh xao, tuy còn trẻ và nhanh nhẹn, nhưng hình như đang ốm. Nhìn anh, tôi nghĩ tới một con sóc bị thương. Anh cầm trong tay một mảnh vải bọc hàng màu xanh, đặt lên ghế, rồi mở bốn đầu mối của mảnh vải, để lộ một lô sách màu vàng.   - Thưa ông – lúc ấy anh cất tiếng – tôi không có hân hạnh được ông quen biết. Thưa ông, tôi là người môi giới cho hiệu sách. Tôi làm việc này cho các nhà buôn chính ở thủ đô, và với hy vọng rằng ông vui lòng cho tôi được hết sức tự hào về sự tin cậy của ông, tôi xin tự tiện mời ông một vài cuốn sách mới.   Trời đất ơi! Sách mới gì mà con người Coccoz nhỏ bé này mời tôi mua thế. Tập thứ nhất anh ta đặt vào tay tôi là cuốn Lịch sử tháp chiến Nesle với những chuyện dan díu giữa Margurite de Bourgogne và đại tá Buridan.   - Đó là cuốn sách lịch sử. – Anh vừa cười vừa bảo tôi. – Một cuốn sách đích thực.   - Trong trường hợp này – tôi đáp – thì chán lắm, bởi vì những cuốn sách lịch sử mà không nói láo thì đều buồn thiu buồn thỉu. Chính tôi đã viết những sách xác thực kia và nếu chẳng may cho anh, anh đi từ nhà này sang nhà khác giới thiệu cuốn nào, anh sẽ có nguy cơ suốt đời giữ nó lại trong cái bọc vải xanh của anh, không bao giờ tìm ra một chị cấp dưỡng nào khá kém chín chắn mua cho anh.   - Thưa ông, tất nhiên – Con người nhỏ bé đáp lại hoàn toàn chiều theo ý tôi.   Và vừa cười, anh ta đưa cho tôi cuốn Những chuyện dan díu của Héloise và Abeilard, nhưng tôi làm cho anh hiểu ngay rằng ở tuổi tôi, tôi chẳng làm gì với một chuyện tình.   Vẫn nụ cười trên môi, anh đề nghị tôi mua cuốn Luật về trò chơi đông người bài pikê, bài béji, bài các tê, bài uýt, bài súc sắc, bài con đam, cờ tướng.   - Chao ơi! – Tôi bảo anh ta – nếu anh muốn tôi nhớ lại luật chơi bài béji, anh hãy trả lại ông bạn già Bignan của tôi đã cùng tôi chơi bài mỗi buổi chiều, trước lúc ông ấy được năm viện hàn lâm long trọng đưa đến nghĩa địa, hoặc anh hãy làm xẹp sự thông minh trang trọng của con Hamilcar mà anh thấy nằm ngủ trên chiếc gối này, đối với chuyện phù phiếm về các trò chơi của con người, vì ngày nay, nó là người bạn duy nhất trong các buổi tối của tôi.   Nụ cười của con người nhỏ bé trở nên mơ hồ và hốt hoảng.   - Đây – anh bảo tôi – một tập mới xuất bản về các trò giải trí đông người, những câu pha trò, những trò chơi chữ, với những cách đổi một hoa hồng đỏ thành hoa hồng trắng.   Tôi bảo anh rằng từ lâu tôi đã rối lên với những hoa hồng, còn đối với những câu pha trò thì tôi chỉ cần những câu nào tôi được phép dùng một cách tự nhiên trong quá trình tiến hành các công việc khoa học.   Con người bé nhỏ lại đưa cho tôi cuốn sách cuối cùng với nụ cười lần chót. Anh nói:   - Đây là Sách giải mộng, giải thích tất cả mọi giấc mộng của người đời: mộng được vàng, mộng thấy mình là kẻ trộm, mộng thấy mình chết, mộng thấy từ trên cao trơi xuống… Đủ cả!   Tôi cầm cái gắp than, vung mạnh và trả lời ông khách luôn:   - Đúng, anh bạn ạ, nhưng những giấc mơ đó và muôn nghìn giấc mơ khác, vui có, buồn có, tóm lại chỉ là một mà thôi, đó là giấc mộng cuộc đời, và cuốn sách bìa vàng nhỏ của anh có cho tôi cái chìa khóa để giải giấc mộng đó không? Mời các bạn đón đọc Tội Ác Của Sylvestre Bonnard của tác giả Anatole France.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mộng Đổi Đời
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Mộng Đổi Đời của tác giả Đông Tây & Nguyên Trần (dịch): Khát vọng đổi đời như một hạt giống được gieo mầm, truyền từ đời này sang đời khác. Đôi khi hạt giống nơi đất cằn cũng tự phát triển mập mạp, nhưng phần lớn nhanh chóng bị èo uột giữa chừng bởi những điều kiện khách quan. Vấn đề là cần tìm cho nó một mảnh đất tốt để gửi gắm. Uông Trường Xích thi đại học dư hơn 20 điểm chuẩn nhưng không được tuyển đỗ khiến Uông Hòe cha anh rất bất bình. Với mong muốn giúp con thoát khỏi kiếp nông dân nghèo giống mình, Uông Hòe quyết tâm đòi công lý cho con với kết quả… bị tàn phế phải ngồi xe lăn suốt đời. Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải ôm giấc mộng đổi đời mà bố truyền lại, lên thành phố lăn lộn kiếm sống. Cuộc sống thành thị tàn nhẫn đã rút hết hơi sức của anh, khiến anh mất vợ, mất con, mất bạn bè, mất cả niềm tin vào công lý và con người. Để hoàn thành tâm nguyện của người cha, và để Uông Đại Chí-đứa cháu độc nhất của dòng họ Uông không đi lại con đường mòn như cha ông nó đã từng đi, Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải đưa ra một quyết định đắt giá… *** Tác giả: Đông Tây, tên thật là Điền Đại Lâm, sinh năm 1966 tại Quảng Tây. Là nhà văn-nhà biên kịch đương đại nổi tiếng Trung Quốc. Hiện là Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học tỉnh Quảng Tây khóa 8. Hội viên Hội nhà văn Trung Quốc. Giảng dạy tại Trường Đại học dân tộc Quảng Tây. Các giải thưởng: Giải văn học Lỗ Tấn lần thứ 1 (tiểu thuyết Cuộc sống không có ngôn ngữ). Bộ phim Người tình trên trời được cải biên từ tiểu thuyết của ông đã đoạt giải Cống hiến nghệ thuật xuất sắc nhất tại LHPQT Tokyo lần thứ 15 (10/2002). Các tác phẩm chính: Mộng đổi đời, Hối hận, Vành tai sáng loáng, Cuộc sống không có ngôn ngữ, Bố chúng tôi, Bạn không biết cô ấy đẹp, Cứu mạng, Tại sao tôi không có Tiểu Mật, Trận đấu đau đớn, Tuyển tập Đông Tây… Là nhà văn đại biểu cho “thế hệ tân sinh”. Nhiều tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim truyền hình và được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Thái, Việt Nam, Hy Lạp, Hàn, Nhật, Đức, Pháp… Mộng đổi đời đã lần lượt đoạt giải Tiểu thuyết gia 2005 của Giải truyền thông Hoa ngữ lần thứ 4 bình chọn, giải Sách hay thể loại văn hóa văn nghệ năm 2005 do thời báo Tin tức Bắc Kinh (Beijing News) bình chọn. Mộng đổi đời đã được chuyển thể thành phim truyền hình 44 tập mang tên Yêu con trọn đời, phát sóng trên giờ vàng Đài truyền hình Hồ Bắc (Trung Quốc). “Đọc xong Mộng đổi đời, tôi muốn tìm một từ nào đó để nói rõ cảm nhận đối với ngôn ngữ trong sách nhưng phát hiện thấy không hề dễ. Nói nó là ngôn ngữ cuộc sống nhưng cũng không thiếu cách diễn đạt ngôn ngữ sách vở. Nói nó là ngôn ngữ sách vở thì lại thiếu hụt những quy định về ngôn ngữ sách vở. Tôi nhớ đến tiếng lách tách khi dẫm lên vỏ hạt dưa trong rạp chiếu phim ở Đông Hưng 20 năm về trước. Lách tách, chính là nó. Đông Tây đã dùng cách này để miêu tả thật sinh động việc áp bức và phản kháng, cũng như những mặt xấu và cái đẹp.” -Nhà văn Dư Hoa (tác giả các tác phẩm Phải sống, Huynh đệ…) *** Tóm tắt: Uông Trường Xích là một thanh niên nông dân nghèo, thi đại học dư hơn 20 điểm chuẩn nhưng không được tuyển đỗ. Cha anh, Uông Hòe, quyết tâm đòi công lý cho con nhưng đã bị tàn phế. Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải lên thành phố tìm kiếm cơ hội đổi đời. Cuộc sống thành thị tàn nhẫn đã vùi dập Uông Trường Xích. Anh mất vợ, mất con, mất bạn bè, mất cả niềm tin vào công lý và con người. Để hoàn thành tâm nguyện của cha, và để Uông Đại Chí, đứa cháu độc nhất của dòng họ Uông, không đi lại con đường mòn như cha ông nó đã từng đi, Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải đưa ra một quyết định đắt giá. Review: Mộng đổi đời là một cuốn tiểu thuyết hiện thực xã hội của tác giả Đông Tây. Cuốn sách đã giành được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Tiểu thuyết gia 2005 của Giải truyền thông Hoa ngữ lần thứ 4 bình chọn, giải Sách hay thể loại văn hóa văn nghệ năm 2005 do thời báo Tin tức Bắc Kinh (Beijing News) bình chọn. Cuốn sách kể về câu chuyện của Uông Trường Xích, một thanh niên nông dân nghèo với khát vọng đổi đời. Chàng trai ấy đã phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách để đạt được ước mơ của mình. Cốt truyện của Mộng đổi đời được xây dựng chặt chẽ, logic. Các nhân vật trong truyện được khắc họa sinh động, chân thực. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc. Mộng đổi đời là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về con người, về khát vọng đổi đời. Đánh giá: Ưu điểm: Cốt truyện chặt chẽ, logic Nhân vật được khắc họa sinh động, chân thực Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc Nhược điểm: Một số tình tiết có phần hơi phi lý Kết luận: Mộng đổi đời là một cuốn tiểu thuyết hiện thực xã hội đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về con người, về khát vọng đổi đời.   Mời các bạn mượn đọc sách Mộng Đổi Đời của tác giả Đông Tây & Nguyên Trần (dịch).
Khác Biệt Hay Là Chết
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Khác Biệt Hay Là Chết của tác giả Steve Rivkin & Jack Trout & Phạm Thảo Nguyên (dịch): Trong Đế chế của sự chọn lựa và chọn lọc ngày nay, nếu bạn không phải là một Coca-Cola hay một Nike nào đó thì quả là khó để có thể giành lấy một chỗ đứng vững vàng trong tâm trí của người tiêu dùng. Và nếu bạn đã là một thương hiệu hàng đầu thì cũng không phải là dễ dàng để có thể bảo vệ được vị thế đó mãi mãi bền vững cho dù là bạn đã có được cái lợi thế hơn người đó. Nếu bảo bạn phải tìm ra một hạt nếp trong một rá gạo tẻ thì quả là không dễ, nhưng nếu bạn chỉ phải tìm ra một hạt lúa trong đó thì rõ ràng nhiệm vụ này dễ hơn nhiều. Nhưng dù sao việc tìm này cũng không phải là hoàn toàn đơn giản, bạn cũng cần đến kỹ năng để làm cho hạt lúa kia nổi lên bề mặt của những hạt gạo để bạn có thể nhận diện được nó. Để có thể giành được một chỗ đứng trong tâm trí của người tiêu dùng, thương hiệu của bạn cần phải là một hạt thóc chứ không phải là một hạt nếp trong rá gạo tẻ này. Đó là sự khác biệt mà bạn cần phải có. Để làm cho hạt thóc (hay viên ngọc ?) của bạn nổi lên trên bề mặt và được nhận biết lâu bền trong tâm trí của người tiêu dùng thì đó lại là nhiệm vụ của chúng tôi, những công ty quảng cáo và marketing. Tìm ra và làm nổi bật sự khác biệt đặc thù của bạn. Tôi tâm đắc mà giới thiệu với các bạn cuốn sách này, Differentiate or Die hay Khác Biệt hay là Chết. Nguyễn Nam Trung Chủ tịch Cty Quảng cáo StormEye *** Hầu như trong suốt một đời làm việc của chúng tôi, tôi và các đồng sự của tôi đều luôn rao truyền về tầm quan trọng của việc "là khác biệt". Trong cuốn Vị thế hoá (Positioning), là khác biệt có nghĩa là tự cá biệt hoá trong tâm trí của các đối tượng tiềm năng. Trong cuốn Chiến cuộc Marketing (Marketing Warfare), là khác biệt có nghĩa là dùng một tư tưởng cá biệt hoá để bảo vệ, để tiến công, để đánh bọc hậu hay để trở thành một du kích, một "Che". Trong cuốn 22 Quy luật Marketing bất biến (22 Immutable Laws of Marketing), là khác biệt có nghĩa là dùng một tư tưởng cá biệt hoá để xây dựng một thương hiệu. Trong cuốn Đơn giản là Hoàn hảo (The Power of Simplicity), là khác biệt có nghĩa là thiết lập một chiến lược cá biệt hoá. Là khác biệt hầu như luôn là trọng tâm của mọi việc mà chúng tôi đã làm trong suốt ba mươi năm vừa qua. Bạn có thể cho rằng lúc này, thông điệp về việc "là khác biệt" của chúng tôi đã được loan truyền rộng rãi. Hầu như mọi người, ai ai cũng đang bận rộn xây dựng sự khác biệt trong các kế hoạch của họ. Không một ai không góp mặt với đời với một ý tưởng khác biệt trong đầu của anh ta, ông ta hay cô ta, bà ta. Có đúng như vậy không ? Không hẳn như vậy. Định ý của chúng tôi khi viết cuốn sách này là xét đến hai loại tổ chức. Một loại chưa hề bao giờ để tâm đến chuyện là khác biệt. Họ vào cuộc, mở ra những trận chiến với những yếu tố cạnh tranh như "chất lượng cao," "giá trị tốt" hay một điều cũ kỹ vẫn luôn có vẻ hấp dẫn - "sản phẩm tốt hơn." Họ tin tưởng vào những lợi thế cạnh tranh mà họ tự đặt ra cho mình là hơn hẳn mọi đối thủ nhưng rồi chính những gì họ tin tưởng này lại chính là những gì nhanh chóng loại họ ra khỏi cuộc chơi. Họ tụ tập chung quanh họ với những "bậc thầy chuyên nghiệp," những người luôn miệng nói về chất lượng, về trao quyền, về việc định hướng vào khách hàng và vô vàn những hình thức lãnh đạo từ nghệ thuật đến phi nghệ thuật khác. Bất hạnh thay, mọi đối thủ của họ cũng được bao quanh bằng những "bậc thầy" tương tự. Không có gì là khác biệt. Một loại các tổ chức khác, là những tổ chức hiểu được nhu cầu của việc là khác biệt. Nhưng rồi sau một vài nỗ lực phải nói là không đáng kể, họ đành phải chấp nhận là họ không thể và không biết làm sao để có thể tự khác biệt hoá. Họ đành phải chấp nhận là sản phẩm cũng như cách thức bán hàng của họ quả là không khác biệt bao nhiêu với các đối thủ của họ. Họ đành phải nhắm đến những phương pháp kích hoạt mãi lực vẫn được tin tưởng và áp dụng rộng rãi. Đáng buồn thay, họ vẫn không thể tạo thành sự khác biệt họ muốn có với cùng những phương cách và nhân tố tương tự như mọi đối thủ chung quanh họ. Những tổ chức này cũng không gặt hái được bao nhiêu hỗ trợ từ những tên tuổi khoa bảng lớn. Ví dụ như Michael Porter của trường đại học Havard, người đã nói về nhu cầu của một Đề nghị Bán Độc quyền (USP, unique selling proposition) nhưng lại không thể nói chính xác là các công ty cần phải làm những gì để đạt được cái Đề nghị Bán Độc quyền này. Ông Porter thực sự chỉ nói đến những gì bên lề như tính liên tiến chiến lược, vị thế chiến lược, thương mại chiến lược và còn nhiều nữa cho tất cả những ai có thể trả chi phí cho những điều mà ông nói. Vẫn không có gì là khác biệt. Sự hỗ trợ từ các công ty quảng cáo cũng không đem lại cho họ điều gì tốt hơn. Họ nói và nghe về những gì như tính dễ thương, tính đột phá v.v… Đối với họ những thứ này có vẻ nghệ thuật hơn là kỹ thuật. Vẫn không có gì là khác biệt ở đây. Cuốn sách này được viết ra là để thay đổi tất cả những quan điểm được nói đến ở trên. Nó vạch ra nhiều cách để bạn có thể tự mình là khác biệt và tránh khỏi sự cám dỗ của những gì có vẻ là khác biệt nhưng thực sự lại tương đồng. Với cuốn sách này trong tay, các bạn sẽ ở trong một vị thế tốt hơn để phát triển vững vàng hơn trong môt thế giới đầy cạnh tranh, không hề khoan nhượng. Đây là một cuốn sách có thể tạo ra sự khác biệt cho công cuộc kinh doanh của bạn. *** Tóm tắt: Cuốn sách "Khác Biệt Hay Là Chết" của Jack Trout và Steve Rivkin cho rằng trong một thị trường cạnh tranh gay gắt, chỉ những thương hiệu khác biệt mới có thể tồn tại và thành công. Sự khác biệt có thể đến từ sản phẩm, dịch vụ, giá cả, hình ảnh thương hiệu, hoặc bất kỳ yếu tố nào khác khiến thương hiệu trở nên nổi bật và thu hút sự chú ý của khách hàng. Review: Cuốn sách được chia thành 10 chương, mỗi chương đề cập đến một khía cạnh khác nhau của sự khác biệt. Trong chương đầu tiên, các tác giả giải thích rằng sự khác biệt là chìa khóa để thành công trong thị trường cạnh tranh ngày nay. Họ lập luận rằng các thương hiệu không thể dựa vào giá cả hoặc phân phối để cạnh tranh, mà cần phải tìm ra một điểm khác biệt độc đáo để thu hút khách hàng. Các chương tiếp theo cung cấp các nguyên tắc và chiến lược cụ thể để tạo ra sự khác biệt. Các tác giả đề xuất rằng các thương hiệu nên tập trung vào những gì họ có thể làm tốt nhất, và tránh cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ. Họ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một thương hiệu mạnh mẽ và có tính liên kết với khách hàng. Đánh giá: "Khác Biệt Hay Là Chết" là một cuốn sách kinh doanh quan trọng dành cho các doanh nghiệp ở mọi quy mô. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn sâu sắc về tầm quan trọng của sự khác biệt trong thị trường cạnh tranh. Dưới đây là một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cuốn sách cung cấp một cái nhìn toàn diện về sự khác biệt, từ lý thuyết đến thực hành. Các tác giả đưa ra các nguyên tắc và chiến lược cụ thể để tạo ra sự khác biệt. Cuốn sách được viết một cách súc tích và dễ hiểu. Kết luận: "Khác Biệt Hay Là Chết" là một cuốn sách kinh doanh quan trọng mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng nên đọc. Cuốn sách cung cấp các kiến thức và thông tin cần thiết để giúp các doanh nghiệp tạo ra sự khác biệt và thành công trong thị trường cạnh tranh. Đánh giá của tôi: Tôi đồng ý với quan điểm của tác giả rằng sự khác biệt là chìa khóa để thành công trong thị trường cạnh tranh ngày nay. Trong một thế giới mà mọi thứ đều giống nhau, khách hàng sẽ chỉ nhớ đến những thứ khác biệt. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn sâu sắc về tầm quan trọng của sự khác biệt và cách tạo ra sự khác biệt. Tôi đặc biệt thích chương 2, trong đó các tác giả thảo luận về các loại khác biệt khác nhau. Chương này đã giúp tôi hiểu rõ hơn về những điều cần cân nhắc khi tạo ra sự khác biệt cho thương hiệu của mình. Tôi khuyên bạn nên đọc cuốn sách này nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của sự khác biệt và cách tạo ra sự khác biệt cho thương hiệu của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Khác Biệt Hay Là Chết của tác giả Steve Rivkin & Jack Trout & Phạm Thảo Nguyên (dịch).
Căn Phòng Của Giovanni
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Căn Phòng Của Giovanni của tác giả James Baldwin & Đoàn Duy (dịch): Đặt bút viết Căn phòng của Giovanni là một quyết định liều lĩnh, nhưng là một quyết định tôi buộc lòng thực hiện, nhằm khai sáng cho bản thân về niềm tuyệt vọng khôn kham của thân phận hiện sinh và giải mã những chất liệu kỳ dị đã dệt thành bản ngã của tôi. Đây không chỉ là một tiểu thuyết về đề tài đồng tính, đồng tính đơn thuần là phương tiện chuyên chở những gì cuốn sách muốn truyền tải. Với cá nhân tôi, tính dục có mối liên hệ mật thiết với tâm lý con người, xung đột nội tâm về đạo đức, và ý chí lập nghiệp với tư cách một nhà văn. Nếu như không viết Căn phòng của Giovanni, có lẽ tôi sẽ không thể cầm bút viết một tác phẩm nào nữa... (James Baldwin) *** Ẩn dụ bao trùm cuốn sách này chắc chắn là căn phòng của chàng người tình Giovanni, nơi cậu và David ẩn náu, căn phòng nơi cuộc sống trong đó “như đang xảy ra trong lòng biển. Thời gian trôi qua hững hờ bên trên chúng tôi; ngày giờ nào còn ý nghĩa gì”. Một người đàn ông da đen trần truồng trong một khu vườn nguyên sơ tựa như quần đảo Taihiti nơi xa khơi của Paul Gauguin, người đàn ông đó ngồi vắt chân, vừa có vẻ thoải mái mà cũng vừa có vẻ gượng gạo, người đàn ông đó là James Baldwin, hay nói đúng hơn, bức chân dung mang tên Dark Rapture (Sự mê ly tăm tối) về nhà văn James Baldwin trong mắt họa sĩ Beauford Delaney, được vẽ theo trường phái Dã Thú với những đường cọ rốt ráo nhưng thiếu dứt khoát và màu sắc mãnh liệt nhưng bị xé lẻ. Delaney vẽ rất nhiều tranh về Baldwin, đến mức làm cả một hợp tuyển mang tên Chúa đã làm ra gương mặt tôi. Nhưng trong số những bức tranh ấy, có lẽ không một bức tranh nào soi tỏ tâm hồn Baldwin rõ ràng hơn bức tranh này: một người Negro mới như đã sẵn sàng phô bày mình triệt để nhưng vẫn còn đó những nghi vấn, những mặc cảm và tội lỗi không thể giãi bày. James Baldwin ra đời năm 1924. Tình cờ hay định mệnh, đó cũng là năm phong trào Phục Hưng Harlem1 chính thức khởi điểm, sau một bữa tiệc ở câu lạc bộ Civic tại New York do nhà xã hội học kiêm biên tập viên của tờ tập san Opportunity là Charles S. Johnson  tổ chức, với sự xuất hiện của hơn 100 văn sĩ cả da màu lẫn da trắng. Năm 13 tuổi, Baldwin có bài báo đầu tiên đăng trên tạp chí trường trung học, với tựa đề: “Harlem, ngày đó và bây giờ” Harlem, khu phố của người Mỹ gốc Phi, nơi những Langston Hughes, Martin Luther King, Malcolm X, Ralph Ellison, George và Ira Gershwin, Oscar Hammerstein, anh em nhà Marx, Louis Armstrong, Billie Holiday, Bud Powell, Duke Ellington, Fats Waller, Nina Simone đều từng một thời lưu trú, là mối quan tâm suốt đời của James Baldwin. Sau tiểu thuyết đầu tay Go tell it on the mountain lấy bối cảnh Harlem, độc giả chờ đợi tác phẩm thứ hai của James Baldwin cũng là một tiểu cảnh Harlem nữa, nhưng không, đến Giovanni’s Room (theo bản dịch của Đoàn Duy do NXB Hội Nhà Văn và Tao Đàn phát hành là Căn phòng của Giovanni), Baldwin thoát ly khỏi Harlem, thậm chí, khỏi nước Mỹ, đẩy nhân vật của ông đến Paris và Cựu lục địa, và nhân vật của ông, lần này, thậm chí còn không phải một người da đen, mà là một người đàn ông da trắng: “Tổ tiên tôi từng chinh phục một lục địa, băng qua những bình nguyên đầy chết chóc, cho tới khi họ đến một đại dương quay lưng lại châu Âu nhìn vào một quá khứ tăm tối hơn” – không phải một chủng tộc Caucasian thượng đẳng và kiêu hãnh, mà là những kẻ chinh phục đã vượt qua địa ngục để chỉ đành đoạt lấy một miền đất buồn. Đằng nào thì con người dù đội lốt ra sao, đen hay trắng, cũng không qua mặt được những nỗi đau tham lam đã rình sẵn để ngốn ngấu lấy họ. Giờ đây, David, một người đàn ông Mỹ da trắng quay lại nơi bắt đầu, để, như trong cuốn tiểu luận Một câu hỏi về danh tính mà Baldwin từng viết, “chịu đựng những ống nước tồi tàn của Paris, những nhà tắm công cộng, tuổi đời của Paris, và sự bẩn thỉu – để theo đuổi một điều kỳ cùng nào đó, bí ẩn và đa phần là không thể diễn giải rõ, mà có thể gói gọn lại một cách tùy tiện trong một động từ là học”. Dĩ nhiên, sự học mà ông nhắc đến ở tiểu luận này là làm một  sinh viên, còn trong Căn phòng của Giovanni, nhân vật chính đã học về những cặn lắng trong bản ngã của mình, anh thả mình vào một dung môi mới, để những cặn lắng cũ xưa nổi lên – anh bị kéo vào một cuộc tình không thể cưỡng bách với một chàng trai tên Giovanni, hay nói một cách không hoa mỹ, anh “come out” với những khát khao đồng tính. Niềm khao khát nhúc nhắc như một sinh vật biết trườn dần siết chặt lấy anh và nếu muốn thoát ra khỏi nó, anh chẳng còn cách nào khác ngoài cách giết bỏ nó. Lời đề tựa của Căn phòng của Giovanni được trích từ thơ Walt Whitman: “Tôi là con người, tôi đã khổ đau, tôi đã ở đó.” Nó khiến người ta nhớ đến câu đầu tiên trong lá thư tình bất hủ De Profundis của Oscar Wilde gửi người tình đồng tính của mình khi ông ngồi trong ngục thất: “Sự đau khổ là một khoảnh khắc rất dài. Chúng ta không thể chia nó theo các mùa. Chúng ta chỉ có thể lưu trữ những tâm trạng của nó, và biên niên ký lại mỗi lần nó trở về”. Cả hai tác phẩm đều là những lời tự thú, nhưng khác với Oscar Wilde, nhân vật của James Baldwin chịu nỗi đau của người không bị xét xử, người sẽ bị hành hình cuối cùng không phải là anh, thứ duy nhất mà anh phải hứng chịu là một sự yên ổn nằm ngoài sức chịu đựng. James Baldwin dắt ta đi một con đường vòng dài quanh co mà phong cảnh hai bên trải dài tít tắp những trạng huống bi kịch, không điểm tận cùng, không có đích, bởi với một kẻ phạm tội không bị xử tội thì đích cũng đồng nghĩa với sự trở về vạch xuất phát. Ẩn dụ bao trùm cuốn sách này chắc chắn là căn phòng của chàng người tình Giovanni, nơi cậu và David ẩn náu, căn phòng nơi cuộc sống trong đó “như đang xảy ra trong lòng biển. Thời gian trôi qua hững hờ bên trên chúng tôi; ngày giờ nào còn ý nghĩa gì”. Trong văn chương, những căn phòng hoặc là chứa đựng một bí mật kinh hoàng hoặc là một thiên đường kỳ diệu. Căn phòng của Giovanni là cả hai điều đó. Căn phòng ấy là một mật thất của một tình yêu bị cấm, cũng là một tầng hầm của những giấc mơ đóng bụi. Những vách ngăn của căn phòng vừa là nơi trú ngụ và cư lưu, vừa là song sắt chắn giữ không để những say đắm lọt ra ngoài; rồi đến một ngày, căn phòng ấy cũng chính là lăng mộ chôn sống đối tượng của sự say đắm ấy. Phải, dường như Giovanni không phải đợi đến khi bị xử tử mới chết đi, cậu đã chết ngay trong căn phòng của mình vào lần cuối mà David bước vào đó, dưới ánh nắng lóa mắt ngập tràn chiếu lên thân thể cậu trần truồng, trắng bệch và bại hoại. Khi James Baldwin quyết định di cư sang Paris vào năm 24 tuổi, ông nói không muốn mình được đọc “chỉ như một người da đen; hay, thậm chí, chỉ như một cây bút da đen”. Có lẽ đó là một phần nguyên nhân khiến Căn phòng của  Giovanni là một cuốn sách toàn-tập-trắng. Nhưng chính qua sự phản tư của một người đàn ông da trắng bỗng thấy mình bị dạt ra vùng biên và lâm vào tình thế “đồng tính”, anh ta sẽ chiêm ngưỡng thế giới bị màu đen chiếm lấp ra sao. Màu đen không chỉ là một màu da, một dòng giống, một tộc người, mà ở đây, nó hiện diện trong bóng tối, trong những ngày nhập nhoạng Paris, trong một cuộc sống lấp liếm bên dưới bề mặt đời sống thường nhật, trong nỗi âu lo ngột ngạt bị phát giác, trong chính căn hầm mục rữa của tâm hồn anh, nó là tất cả những gì đối lập với ánh sáng lóa mắt của một người đàn ông da trắng dị tính. Thay vì vạch ra biên giới của màu đen, James Baldwin vạch ra biên giới của những gì không phải là màu đen, và trong khi màu trắng (sự sáng tỏ) ngày càng co cụm lại trong nỗi ân hận của mình thì màu đen (sự che đậy) của những nỗi thống khổ ngày càng dâng cao vời vợi. Vậy là, sẽ có lúc, ngay cả một người da trắng cũng sẽ sa vào bóng đen, ngay cả một kẻ ở trung tâm cũng sẽ thấy mình đã mất phương hướng và kẹt ở phía ngoại vi. Đen – trắng, đồng tính – dị tính, chúng chỉ là ẩn dụ của những xung đột giữa sự thật về con người và những kỳ vọng không tưởng mà ngoại cảnh áp đặt lên con người. Nhưng để làm gì? Đằng nào thì con người dù đội lốt ra sao, đen hay trắng, cũng không qua mặt được những nỗi đau tham lam đã rình sẵn để ngốn ngấu lấy họ. *** Tôi đứng bên cửa sổ ngôi nhà lớn này ở miền nam nước Pháp khi đêm xuống, cái đêm dẫn lối tôi đến buổi sáng kinh khủng nhất đời mình. Tôi cầm trên tay ly rượu, chai rượu cặp giữa khoeo tay. Tôi quan sát bóng mình trong khung cửa sổ lấp loáng đương tối dần. Cái bóng của tôi cao, có lẽ khá giống một mũi tên, mái tóc vàng lấp loáng. Khuôn mặt tôi giống một khuôn mặt bạn đã gặp nhiều lần. Tổ tiên tôi từng chinh phục một lục địa, băng qua những bình nguyên đầy chết chóc, cho tới khi họ đến một đại dương quay lưng lại châu Âu nhìn vào một quá khứ tăm tối hơn. Tôi có thể say trước khi trời sáng, nhưng sẽ chẳng ích gì. Kiểu gì tôi cũng sẽ bắt tàu đi Paris. Chuyến tàu sẽ vẫn vậy, những hành khách xoay xở trên những băng ghế gỗ thẳng lưng của toa hạng ba để được thoải mái, thậm chí giữ thể diện, sẽ vẫn vậy, và tôi sẽ y vậy. Chúng tôi sẽ lướt qua vẫn phong cảnh đồng quê không ngừng thay đổi ấy, để lên phía bắc, bỏ lại sau lưng những hàng ô-liu, biển cả và mọi vẻ huy hoàng của bầu trời miền nam giông bão, để tiến vào vùng mưa khói của Paris. Ai đó sẽ mời tôi ăn chung sandwich, ai đó sẽ mời tôi nhấp ngụm rượu vang, ai đó sẽ hỏi xin tôi tí lửa. Người người sẽ tha thẩn ngoài hành lang bên ngoài, nhìn ra cửa sổ, nhìn ngó chúng tôi. Đến mỗi ga, đám tân binh quân phục nâu thùng thình đầu đội mũ màu sẽ mở cửa dòm vào và hỏi Complet?1 Tất cả sẽ gật đầu Phải, như đồng lõa, yếu ớt mỉm cười với nhau khi họ đi khắp tàu. Hai hay ba người sẽ dừng bước trước cửa khoang chúng tôi, hét vào mặt nhau bằng chất giọng nặng nề, tục tĩu, hút thứ điếu nhà binh kinh tởm. Sẽ có một cô gái ngồi đối diện, tự nhủ sao tôi không ve vãn nàng, sẽ bồn chồn trước sự hiện diện của đám tân binh. Tất cả sẽ vẫn vậy, chỉ có tôi là nín lặng hơn. Và miền quê đêm nay cũng nín lặng, miền quê này phản chiếu xuyên qua hình ảnh của tôi trên tấm kính. Ngôi nhà này ở ngay bên ngoài một khu nghỉ dưỡng mùa hè nhỏ bé - vốn hãy còn trống vắng, mùa nghỉ vẫn chưa bắt đầu. Nó nằm trên một ngọn đồi nhỏ, ta có thể nhìn xuống những ngọn đèn phố thị và nghe thấy tiếng thình thịch của biển. Bạn gái tôi, Hella, và tôi thuê ngôi nhà này ở Paris sau khi xem mấy tấm ảnh chụp cách đây mấy tháng. Giờ thì nàng đã đi được một tuần. Giờ nàng đang ở ngoài khơi, trên đường quay về Mỹ. Tôi có thể thấy nàng, rất đỗi thanh lịch, căng thẳng, lấp lánh, bao quanh là ánh đèn vốn đang lấp đầy khách sảnh trên con tàu viễn dương, nốc rượu ừng ực, cười cợt, và quan sát bọn đàn ông. Đó là cách tôi gặp nàng trước đây, trong một quán bar ở Saint- Germain-des-Prés, khi ấy nàng đang uống rượu và quan sát, đó cũng là lý do tại sao tôi thích nàng, tôi đã tưởng nàng hẳn sẽ là người vui nhộn để cùng vui thú. Đó là cách chuyện này khởi sự, toàn bộ chuyện này chỉ có ý nghĩa đến thế là cùng; mặc cho mọi sự, giờ đây tôi không chắc rằng nó có bao giờ thực sự có ý nghĩa nhiều hơn thế đối với tôi không. Và tôi không nghĩ nó có bao giờ thực sự mang nhiều ý nghĩa hơn thế đối với nàng - ít nhất là không cho đến khi nàng làm một chuyến tới Tây Ban Nha, và có lẽ khi thấy mình cô độc, nàng bắt đầu tự vấn rằng liệu cả một đời uống rượu và quan sát đàn ông có phải chính xác là thứ nàng muốn. Nhưng tới lúc đó thì quá trễ tràng. Tôi đã ở cùng với Giovanni rồi. Tôi đã cầu hôn nàng trước khi nàng lên đường đi Tây Ban Nha; và nàng bật cười rồi tôi bật cười nhưng chuyện đó, vì lẽ nào đấy lại làm cho mọi thứ trở nên nghiêm trọng hơn đối với tôi, bao giờ củng thế, và tôi cứ kiên trì; rồi sau đó nàng bảo nàng sẽ phải đi khỏi đây và nghĩ về chuyện đó. Và ngay vào đêm cuối cùng nàng ở đây, ngay lần cuối cùng tôi gặp nàng, khi nàng đang gói ghém đồ đạc, tôi bảo nàng rằng tôi đã từng yêu nàng và tôi khiến bản thân mình tin là vậy. Nhưng tôi tự hỏi liệu có đúng thế không. Khi ấy hẳn là tôi đang nghĩ về những đêm của chúng tôi trên giường, về sự ngây thơ và sự tự tin đến dị kỳ, vốn sẽ không bao giờ trở lại, vốn là thứ làm cho những đêm ấy trở nên quá sức khoái cảm, quá sức khập khiễng với quá khứ, hiện tại, hay bất kỳ thứ gì sẽ đến, và rốt cục quá sức khập khiễng với cuộc đời tôi vì tôi thấy mình không cần đảm lấy bất kỳ trách nhiệm nào ngoại trừ trách nhiệm máy móc nhất cho những đêm đó. Và những đêm này được thực hiện dưới một bầu trời ngoại quốc, không ai trông chừng, không án phạt nào kèm theo - chính cái sự sau cuối này dẫn đến sụp đổ giữa chúng tôi, bởi không gì khôn kham hơn sự tự do, một khi ta đã có nó. Tôi cho đây là lý do tại sao tôi cầu hôn nàng: để ban cho chính tôi một thứ mà neo vào. Có lẽ đây là lý do tại sao, ở Tây Ban Nha, nàng quyết định là nàng muốn cưới tôi. Nhưng buồn thay, người ta đâu thể nào chế ra cột neo, chế ra tình nhân và bạn hữu, giống như họ đâu thể chế ra cha mẹ mình. Đời trao những thứ này rồi lại lấy chúng đi và điều khó khăn ghê gớm là nói Vàng với đời. Mời các bạn mượn đọc sách Căn Phòng Của Giovanni của tác giả James Baldwin & Đoàn Duy (dịch).
Biến Thể - Những Huyền Thoại Hy-La Chọn Lọc Và Kể Lại
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Biến Thể - Những Huyền Thoại Hy-La Chọn Lọc Và Kể Lại của tác giả Ovide & Quế Sơn (dịch): Tóm tắt: Biến Thể (Metamorphoses) của Ovid là một tác phẩm văn học vĩ đại của thế giới, kể về các huyền thoại Hy Lạp và La Mã cổ đại. Tác phẩm gồm 15 thiên, tổng cộng hơn 12.000 dòng thơ, được Ovid hoàn thành vào năm 8 sau Công nguyên. Chủ đề xuyên suốt của Biến Thể là sự biến đổi, không chỉ là sự biến đổi hình dạng của con người, động vật, cây cối mà còn là sự biến đổi của tâm hồn, số phận. Ovid tin rằng mọi thứ trong vũ trụ đều luôn thay đổi, không có gì là bất biến. Review: Biến Thể là một tác phẩm văn học có giá trị to lớn, không chỉ về mặt văn học mà còn cả về mặt triết học. Tác phẩm đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học và nghệ thuật phương Tây. Về mặt văn học, Biến Thể là một tác phẩm nghệ thuật bậc thầy. Ovid có một vốn từ vựng phong phú và khả năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện. Ông đã kể lại các huyền thoại một cách sinh động và hấp dẫn, kết hợp giữa yếu tố thần thoại và hiện thực. Về mặt triết học, Biến Thể thể hiện tư tưởng của Ovid về sự biến đổi. Ovid tin rằng mọi thứ trong vũ trụ đều luôn thay đổi, không có gì là bất biến. Sự biến đổi có thể là tích cực hoặc tiêu cực, nhưng nó là một phần tất yếu của cuộc sống. Đánh giá: Biến Thể là một tác phẩm văn học kinh điển, xứng đáng được đọc và suy ngẫm. Tác phẩm mang lại cho người đọc những trải nghiệm phong phú về văn học, triết học và nghệ thuật. Một số ý kiến đánh giá khác: "Biến Thể là một tác phẩm nghệ thuật bậc thầy, một bức tranh toàn cảnh về thế giới cổ đại." - Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh "Biến Thể là một tác phẩm triết học sâu sắc, thể hiện tư tưởng của Ovid về sự biến đổi." - Giáo sư Nguyễn Văn Trung "Biến Thể là một tác phẩm văn học có giá trị to lớn, xứng đáng được đọc và suy ngẫm." - Nhà phê bình văn học Nguyễn Thị Minh Thái *** Huyền thoại thơ Ovid NHẬT CHIÊU Hoa thủy tiên tàn nàng Echo im lặng hoa làm sao dư vang thánh ca thầm gởi hoa tàn gió trên mặt nước còn lan sóng tình mà sao lấy bóng bỏ hình.[1] Đọc Biến Thể (Metamorphoses) của Ovid sau hơn hai nghìn năm, ta vẫn còn cảm thấy cái tươi tắn mới mẻ lạ thường của nó như thể nó viết cho ngày hôm nay hay nó viết cho bất kỳ ngày nào khi con người vẫn còn là con người, chứ chưa phải là cái máy, khi con người còn sống trong dòng biến dịch luân lưu vô tận như tư tưởng biến thể của Ovid. Chính kiệt tác của Ovid cũng biến thể không ngừng kể từ khi nó xuất hiện, lưu hành vào năm thứ 8 của Tây lịch, được viết vào những ngày mà Chúa Jesus có thể vừa bắt đầu nói chuyện như một trẻ thơ. Từ hoàng đế Augustus ra lệnh lưu đày Ovid ngay khi tác phẩm vừa hoàn thành đến người bình thường biết đọc và từ đó trải qua hơn hai mươi thế kỷ người ta đọc Ovid, trong đó có tôi và bài thơ trên lấy cảm hứng từ truyện Echo và Narcissus trong Biến Thể, một truyện có thể gợi lên nhiều ý nghĩa khác nhau như hầu hết các huyền thoại Hy La mà Ovid kể lại bằng giọng điệu bông đùa nhưng đầy hiểu biết về tâm lý con người, sự sống thiên nhiên và những tương quan thân mật trong vũ trụ. ••• Publius Ovidius Naso ra đời vào năm 43 trước Tây lịch trong một gia đình La Mã thượng lưu. Lớn lên trong một thời đại bình yên dưới triều Augustus, Ovid yêu đời sống lộng lẫy của kinh thành, quyết định trở thành nhà thơ của tình yêu và chẳng mấy chốc lừng danh với tác phẩm Ars Amatoria (Nghệ Thuật Yêu Đương). Nhưng hoàng đế Augustus bỗng dưng muốn thiết lập một trật tự mới và luân lý mới cho La Mã, trong năm thứ 8 đầu Tây lịch ra lệnh lưu đày Ovid đến tận Biển Đen, cách ly ông với đời sống tráng lệ của kinh thành và nhà thơ chết trong đau buồn đày ải vào năm 17 hay 18 chưa một lần được đặt chân trở lại La Mã. Tại sao Ovid bị lưu đày thì chưa bao giờ được giải thích rõ ràng. Có thể vì viết sách “vô luân” như Nghệ Thuật Yêu Đương. Có thể vì dan díu với nàng Julia cháu gái Augustus hay có liên quan đến một âm mưu chống hoàng đế. Mọi lý do đều có vẻ vô lý. Nhưng bạo quyền thì hợp lý bao giờ? Chỉ biết trước khi rời La Mã, ông đã hoàn thành bản thảo của kiệt tác Metamorphoses (Biến Thể) và trong tâm trạng bất an, ông tự tay đốt bản thảo nhưng may mắn là nhiều phiên bản chép lại đã lưu hành trong vòng bạn bè và người hâm mộ. Tuy lệnh lưu đày không kèm theo biện pháp trừng phạt nào khác, các tác phẩm của Ovid (trong hình thức các tập giấy không đóng, giấy cuộn theo kiểu sách thời đó), vẫn âm thầm biến mất khỏi thư viện thành phố dù nhiều người kín đáo lưu giữ và đọc Ovid với bản chép tay mà mình có được, từ Nghệ Thuật Yêu Đương cho đến Biến Thể. Ovid bị đày đến bờ phía tây của Hắc Hải, một thị trấn gọi là Tomis, biên cương xa nhất của Đế chế La Mã (ngày nay là Constanta thuộc Romania). Trong những năm tháng buồn chán còn lại sau kiệt tác Biến Thể, Ovid vẫn viết. Bắt đầu là Fasti (Lễ Hội) về lịch pháp của những lễ hội La Mã nhưng không hoàn thành, chỉ chạm đến 6 tháng trong năm qua 6 chương sách. Kế đó là Tristia (Buồn) một loạt những bức thư tưởng tượng từ những nhân vật huyền thoại viết theo hình thức bi ca tự tình. Ngoài hư cấu, còn có tác phẩm viết từ trải nghiệm thực là Epistulae ex Ponto (Thư từ Hắc Hải). Nhưng thực ra chỉ cần Metamorphoses (Biến Thể) thôi, Ovid đã là nhà thơ hàng đầu La Mã rồi, kế vị xuất chúng Virgil, tác giả sử thi Aeneid, Nhưng Ovid là nhà thơ của tình yêu, của niềm đam mê đời sống, của dòng luân lưu biến thể, của chơi đùa chứ không triết lý và nghiêm trang như Virgil. Có một niềm thân thiết vũ trụ lạ lùng trong thơ Ovid. Thần linh với con người, các thời đại bao la, thiên nhiên với từng cá nhân, con người biến thành cỏ hoa (lau sậy, thủy tiên, nguyệt quế…); thành cầm thú (gấu, chim, nhện…); thành những vì sao; thậm chí thành âm vang. Hoặc ngược lại, đá có thể thành người hay nam nữ hoàn chuyển hoặc hòa làm một… tất cả biến đổi liên tục. Từ hình thể này sang hình thể kia. Không có hữu thể bất dịch, chỉ có biến thể. Tất nhiên, không phải Ovid sáng tác ra các huyền thoại đó, cũng không tạo dựng ra triết lý biến thể mà ông mượn huyền thoại và tư tưởng biến thể từ nhiều nguồn khác nhau. Nhưng tất cả đi vào thơ ông, hòa quyện với nhau một cách mới mẻ, sinh động lạ lùng. Và dù không có gì mới dưới ánh mặt trời, sau hơn hai nghìn năm, đọc Ovid vẫn còn kinh ngạc và choáng ngợp. Độc giả Việt Nam lần đầu tiên đọc bản dịch Biến Thể sẽ khó tin nó được viết khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Còn ở Phương Tây, xưa nay nó vẫn là nguồn ảnh hưởng lớn đến mức các thiên tài hàng đầu đều hầu như chịu mang nợ Ovid, một ảnh hưởng tràn ngập trong văn chương và mỹ thuật. Những Chaucer, Shakespeare, Milton, Goethe… cho đến Joseph Brodsky và hàng loạt Borges, Bulgakov, Calvino, Marquez, Joyce, Rusdie… không sao kể xiết! Kiệt tác Biến Thể tuy kể về các huyền thoại khác nhau, trên 250 truyện, chia làm 15 thiên, tổng cộng dài hơn 12.000 dòng thơ nhưng vẫn là một tác phẩm có hình thức nhất quán như sử thi do giọng điệu độc đáo của Ovid và chủ đề Biến Thể không ngớt trở đi trở lại dù không phải lúc nào nhà thơ cũng nhất quyết kể một chuyện là phải có biến hóa hình hài. “Biến Thể” là một từ mà Ovid không dùng để gọi tên tác phẩm của mình, “Metamorphoses” theo tiếng Hy Lạp; chính là đời sau, (thời của Seneca chẳng hạn) đã gọi kiệt tác của Ovid như thế và nó đã trở thành cái tên bất tử như ta biết ngày hôm nay. Mở đầu với cuộc biến thể khởi nguyên của vũ trụ. Vũ trụ thành hình từ hỗn mang (chaos) rồi nhân loại đến, bước qua các thời đại Vàng, Bạc, Đồng, Sắt. Gần phần ba các truyện đầu, biến thể là do thần linh gây ra với truyện tình đầu tiên là Daphne hóa thành cây nguyệt quế để thoát khỏi cuộc theo đuổi mê cuồng của thần Apollo. Hơn phần ba kế tiếp, ta chứng kiến những đam mê dữ dội của bản thân con người. Và những huyền thoại từ đầu đến đây hầu hết thuộc về Hy Lạp. Mãi đến cuối thiên 14, huyền thoại La Mã mới xuất hiện với Aeneas đi tìm đất mới (Italy) để lập quốc và khi xong việc Aeneas cũng hóa thần. Tuy vậy hành trình của chàng vẫn đan xen nhiều huyền thoại Hy Lạp. Biến thể cuối cùng Tướng quân Julius Caesar hóa thành một ngôi sao. ••• Nói rằng Ovid đam mê thám hiểm những đam mê trong tâm hồn con người với những hành động liều lĩnh hơn là trầm tư triết lý như Virgil thì không hẳn là đúng. Biến Thể được bọc trong một làn sương triết lý về biến dịch có thể thấy ngay ở những trang đầu và cuối: “Tôi sẽ chú tâm kể chuyện về những hình hài biến đổi thành những hình thể mới. Hỡi chư vị thần linh, chính các ngài cũng đã tạo ra những sự biến dịch, vậy hãy truyền cho tôi nguồn thần cảm cho sự sáng tạo này, và hãy đi cùng bản trường ca của tôi với những giai điệu miên man từ thuở khai thiên lập địa cho tới tận ngày nay…”, “Không sự vật nào giữ được mãi hình thể của nó; mọi thứ đều đối nghịch bởi vì ngay trong một vật thể, cái lạnh đấu tranh chống cái nóng, cái ẩm chống cái khô, cái mềm chống cái cứng, cái nặng chống cái nhẹ.”[2] Và mượn tư tưởng Pythagoras, Ovid biến triết gia này thành nhân vật của mình trong Biến Thể và để cho ông phát ngôn: “… Tự nhiên, kẻ làm mới vĩ đại, luôn tạo ra những hình dạng khác. Trong toàn thể vũ trụ, hãy tin tôi đi, không có cái gì chết đi, nó chỉ biến đổi và làm mới hình dạng nó thôi.” Tư tưởng bao quát Biến Thể đó cũng như tư tưởng Tài Mệnh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du tuy không có gì là mới nhưng được tập trung thể hiện qua những hình tượng khắc họa trong những mê cung tâm lý ly kỳ diệu vợi đã làm cho hai kiệt tác có sức hút mãnh liệt. Có thể thấy điều đó qua đơn cử truyện Echo và Narcissus. Narcissus là chàng trai tuyệt đẹp, tự yêu bóng mình dưới nước, chết thành hoa thủy tiên. Echo là tiểu nữ thần, bị trừng phạt chỉ thốt ra một ít lời âm vang theo người khác. Hai huyền thoại này được Ovid kết hợp, tạo nên một câu chuyện đáng nhớ đầy ý nghĩa tâm lý và triết lý. Narcissus là một thiếu niên 16 tuổi vĩnh cửu, chàng bắt đầu tự ý thức về tình yêu của mình với cái bóng của chính mình. Ý thức về tôi và kẻ khác, tôi và chính tôi. Cũng như Echo ý thức được tiếng nói của mình chỉ là bắt chước người khác, đau khổ vì mất tiếng nói riêng. Nhưng cái chính là Ovid đã thể hiện thế nào những nội tâm đầy tính phân ly ấy trong thơ? Narcissus nói: “…Cái mà tôi ham muốn thì tôi có đây. Sự giàu có cảm xúc khiến tôi cảm thấy thiếu thốn. Ôi, giá gì tôi có thể tách mình ra khỏi thân thể mình! Và đây là điều ước nguyện lạ lùng đối với một người tình si, tôi mong cho người tôi yêu hãy ở xa tôi…” Trong tình hình dịch thuật ở Việt Nam, bản dịch Biến Thể đầy đủ của Quế Sơn giúp người đọc lần đầu đến với Ovid một niềm vui mới, hiểu biết mới và tình yêu mới. Giảng dạy và học tập văn học nước ngoài, nhất là ở đại học, có cơ duyên quen biết với một thiên tài tuyệt vời xa cách hơn hai thiên niên kỷ bất ngờ có thể đi giữa chúng ta, ấm áp thân tình với nụ cười bất tuyệt. Cực kỳ tài tình, Ovid diễn tả những nghịch lý lạ lùng nhất trong tâm hồn con người khi họ rơi vào những tình huống bi đát khi yêu bóng mình, yêu người đồng giới, yêu người đồng huyết thống, hoặc tình yêu và cái chết diễn ra trong cùng một thời điểm cho thấy những chân dung đa dạng vô cùng khi con người cố vượt lên vận mệnh, xoay mình giữa hai bản năng trọng yếu: Chết và Yêu (Thanatos và Eros). Ovid, có thể gọi chàng là nhà thơ của tình yêu hay nhà thơ của nhà thơ? Mời các bạn mượn đọc sách Biến Thể - Những Huyền Thoại Hy-La Chọn Lọc Và Kể Lại của tác giả Ovide & Quế Sơn (dịch).