Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghệ Thuật Chọn Lựa

Trong cuốn Nghệ thuật chọn lựa, giáo sư đại học Columbia, Sheena Iyengar, một chuyên gia hàng đầu về chọn lựa, đặt mình vào nhiệm vụ nặng nề đó là giúp chúng ta trở thành những người chọn lựa sáng suốt hơn. Cô đã nêu ra nhiều câu hỏi đầy thú vị: Khao khát lựa chọn là bẩm sinh hay được tạo nên bởi văn hóa? Tại sao đôi khi chúng ta chọn lựa những điều ngược lại với sở thích của cá nhân? Chúng ta thực sự có bao nhiêu quyền năng đối với những chọn lựa của mình? Cuối cùng, cô đưa ra những câu trả lời bất ngờ và rất sâu sắc, từ nghiên cứu nghiêm túc, bài bản đã được trao giải thưởng của cô. Trong cuốn sách này, bạn sẽ được học về mối quan hệ phức tạp giữa lựa chọn và tự do, và tại sao hai thứ này lại thường không song hành với nhau. Bạn sẽ thấy rằng quá nhiều lựa chọn có thể áp đảo chúng ta, dẫn tới những kinh nghiệm không lấy gì làm dễ chịu, từ  “tội lỗi Tivo” do quá nhiều chương trình TV trong khi không thể xem hết tới sự bối rối trước hàng loạt kế hoạch bảo hiểm sức khỏe. Có lẽ điều quan trọng nhất, bạn sẽ khám phá ra lựa chọn của bạn - cả điều nhỏ nhặt bình thường cho tới những quyết định quan trọng - được hình thành nên bởi rất nhiều tác động khác nhau ra sao, cả hữu hình lẫn vô hình. Tác phẩm đặc sắc này soi rọi những niềm vui và thách thức của sự chọn lựa, cho chúng ta thấy cách chúng ta xây dựng nên cuộc sống của mình ra sao, qua từng lựa chọn. Sheena Iyengar là giáo sư của Trường Kinh doanh Columbia, thuộc Đại học Columbia, đồng thời được bổ nhiệm vào Khoa Tâm lý học. Cô được xem là một trong những chuyên gia nghiên cứu về lựa chọn hàng đầu thế giới, từng nhận được rất nhiều bằng danh dự, nổi tiếng nhất là Giải thưởng Tổng thống dành cho các Khoa học gia và Kỹ sư khởi đầu sự nghiệp (Presidental Early Career Award) vào năm 2002. Công trình nghiên cứu của cô thường xuyên được khen ngợi trên các tờ báo nổi tiếng như Thời báo New York, Tạp chí Phố Wall, tạp chí Fortune, và tạp chí Times cũng như trong các quyển sách bán chạy như Blink (Trong chớp mắt) của Malcolm Gladwell, The paradox of choice (Nghịch lý của chọn lựa) của Barry Schwart. *** Quá khứ là khúc dạo đầu Mọi sự đều có nguồn cơn - Joseph Campbell   Tôi sinh ra ở Toronto. Mẹ tôi sinh non một tháng giữa lúc cơn bão bao phủ thành phố dưới tuyết lạnh và một bầu không khí câm lặng. Sự đột ngột và điều kiện thời tiết nhập nhoạng vào lúc tôi ra đời là những điềm gở dù rằng khi ấy chẳng ai để ý đến chúng. Mẹ tôi vừa mới di cư từ Ấn Độ sang, bà là người thuộc về cả hai thế giới và bà đã truyền sang tôi tính cách của một người thuộc nhiều nền văn hóa [1] . Bố tôi đang trên đường sang Canada, nhưng ông không đến kịp; việc ông vắng mặt lúc tôi ra đời là dấu hiệu của sự vắng mặt lâu hơn sau này. Ngẫm lại, tôi nhận ra mọi nẻo đời mình đã được định sẵn ngay thời điểm tôi chào đời. Dù là những vì tinh tú trên trời hay chỉ là hòn đá cuội bên đường, dù do bàn tay của Chúa trời hay bởi thế lực vô hình, thì số mệnh đã được định đoạt và mọi chuyện sau này của tôi chỉ để xác nhận điều này mà thôi. Đó là một câu chuyện. Còn đây là câu chuyện khác. Bạn chẳng biết được đâu. Đó là cuộc đời kiểu đồ chơi “chú hề trong hộp” (jack-in-the-box): Bạn thận trọng mở nó, từng hộp một, ấy thế mà mọi thứ vẫn bung xổ ra. Tôi bước vào thế giới này như thế - thật đột ngột - sớm một tháng so với dự tính. Bố tôi thậm chí không kịp có mặt, ông vẫn còn ở Ấn Độ, nơi mẹ tôi vẫn hằng nghĩ rằng bà cũng ở đó. Ấy thế mà không hiểu sao rốt cuộc bà ẵm tôi trên tay ở Toronto, và bên ngoài cửa sổ, bà có thể nhìn thấy tuyết đang bị cuốn đi. Giống những bông tuyết ấy, chúng tôi trôi dạt đến nhiều nơi khác nữa: Flushing, Queens rồi đến Elmwood Park, bang New Jersey. Tôi lớn lên trong cộng đồng dân di cư người Sikh, những người cũng giống như bố mẹ tôi, đã rời hẳn Ấn Độ nhưng vẫn mang nó theo mình. Và thế là tôi được nuôi nấng trên một đất nước trong lòng đất nước khác, bởi vì bố mẹ tôi luôn cố gắng lập lại cuộc sống họ vẫn hằng quen thuộc. Cứ mỗi tuần ba ngày, bố mẹ dẫn tôi đến gurudwara , một đền thờ, tại đó tôi ngồi ở phía bên phải cùng những người đàn bà, trong khi đám đàn ông túm tụm mé bên trái. Theo tín điều của đạo Sikh, tôi để tóc dài và không được cắt tóc, tượng trưng cho sự sáng tạo hoàn hảo của Chúa trời. Ở cổ tay phải tôi đeo kara , một loại vòng tay bằng thép, tượng trưng cho sự vững tin và ngoan đạo và đó cũng chính là lời răn đe rằng bất kể tôi làm gì cũng đều diễn ra dưới ánh mắt trông chừng của Chúa trời. Và trong mọi lúc, kể cả khi tắm, tôi phải mặc kachchha , một loại đồ lót gần giống như quần lót boxers, biểu hiện của sự kiềm chế dục vọng. Đây chỉ là một trong vô số phép tắc mà tôi phải theo, mọi người theo đạo Sikh đều thế, và những gì mà đạo Sikh không ra lệnh thì do bố mẹ tôi quyết định. Điều này có vẻ như tốt cho bản thân tôi, nhưng cuộc sống luôn có cách chọc thủng các kế hoạch của bạn hay các kế hoạch người khác vạch ra cho bạn. Đến khi chập chững, tôi luôn va vào mọi thứ, và thoạt đầu bố mẹ cứ nghĩ tôi chỉ là một con bé hết sức vụng về. Nhưng một chiếc đồng hồ tính tiền đỗ xe hẳn phải đủ lớn để né tránh chứ? Và tại sao tôi lại cần người khác nhắc nhở thường xuyên phải cẩn thận mỗi khi đi đứng? Đến khi rõ ra tôi không phải là một con bé vụng về thông thường nữa, tôi được đưa đến một chuyên gia thị lực tại bệnh viện Các tín đồ Columbia. Ông ta nhanh chóng giải đáp điều bí ẩn: tôi bị mắc dạng hiếm gặp của chứng viêm võng mạc sắc tố (retinitis pigmentosa), một chứng bệnh di truyền về thoái hóa võng mạc, và thị lực của tôi chỉ là 20/400. Trước khi vào trung học, tôi đã mù hẳn, chỉ còn nhận biết là có ánh sáng mà thôi. Tôi cho rằng điều bất ngờ xảy ra hôm nay giúp ta sẵn sàng cho những bất ngờ sắp tới. Đương đầu với mù lòa hẳn đã giúp tôi kiên cường hơn. (Hay tôi có thể đương đầu tốt do bẩm sinh tôi đã kiên cường?) Thế nhưng, dù có chuẩn bị kỹ đến đâu, chúng ta vẫn có thể phải hứng chịu nỗi đau quặn lòng. Bố mất năm tôi 13 tuổi. Sáng đó, ông thả mẹ tôi xuống chỗ làm ở Harlem và hứa sẽ đi gặp bác sĩ để khám cái chân đau và những vấn đề hô hấp mà ông đang mắc phải. Tuy nhiên, tại phòng khám bệnh, do nhầm lịch hẹn nên chẳng ai đến khám cho ông khi đó. Bực bội vì chuyện này - và sẵn đang bị stress từ những chuyện khác - ông hét mắng, lao ra khỏi phòng khám và nện chân thình thịch xuống vỉa hè cho đến khi ông gục xuống trước một quán bar. Nhân viên pha chế của quán đã kéo ông vào bên trong và gọi xe cứu thương. Cuối cùng thì bố tôi cũng được đưa đến bệnh viện, nhưng ông không sống nổi vì lên cơn đau tim nhiều lần trên đường đến đó. Chuyện này không có ý nói rằng cuộc đời chúng ta chỉ được định hướng bởi những sự kiện ngẫu nhiên, hú họa và chẳng mấy dễ chịu, nhưng có vẻ như, bất chấp kết quả ra sao, “chiếc xe cuộc đời” vẫn tiến vào vùng đất phần lớn chưa có trên bản đồ. Bạn có thể điều khiển chiếc xe đó được đến đâu khi mà tầm nhìn chỉ có chừng ấy và thời tiết lại thay đổi còn nhanh hơn việc bạn có thể kịp thốt lên mấy tiếng “Bất ngờ quá!”? ........................................ Hượm đã. Tôi vẫn còn một câu chuyện khác để kể cho bạn. Và mặc dù đây là câu chuyện về tôi, nhưng một lần nữa tôi ngờ rằng lần này bạn cũng sẽ thấy chính mình trong đó. Năm 1971, bố mẹ tôi di cư từ Ấn Độ sang Mỹ theo ngả Canada. Như nhiều người đi trước, khi đặt chân lên vùng đất mới và cuộc đời mới này, họ đi tìm một “giấc mơ Mỹ”. Họ sớm phát hiện ra rằng việc theo đuổi giấc mơ đó dẫn đến nhiều thách thức gian khổ, nhưng họ vẫn bền chí. Tôi được sinh ra trong giấc mơ đó, và tôi cho rằng mình hiểu rõ nó hơn bố mẹ vì tôi thông thạo văn hóa Mỹ hơn. Cụ thể tôi nhận thức được rằng thứ tuyệt đẹp tỏa sáng ở trung tâm của giấc mơ này chính là sự lựa chọn - sáng đến nỗi bạn vẫn có thể thấy được nó ngay cả khi bạn, cũng giống như tôi, có mù lòa đi nữa. Bố mẹ tôi đã chọn đến đất nước này, nhưng họ cũng đã chọn việc giữ lại càng nhiều càng tốt những điều liên quan đến đất nước Ấn Độ. Họ sống cùng những người Sikh khác, tuân theo giáo lý của đạo và dạy cho tôi ý nghĩa của sự phục tùng. Ăn gì, mặc gì, học gì và sau này là làm việc ở đâu, kết hôn với ai - tôi đều phải theo phép tắc của người Sikh và ý nguyện của gia đình. Thế nhưng tôi được học ở trường rằng tự quyết định mọi việc cho chính mình không chỉ là điều hợp lẽ tự nhiên mà còn là điều đáng khao khát nữa. Đây chẳng phải là vấn đề liên quan đến nền tảng văn hóa, cá tính hay khả năng; đơn giản đó là sự thật và lẽ phải. Nói cách khác, với một cô gái mù người Sikh bị lệ thuộc vào quá nhiều điều cấm đoán, đây là một tư tưởng hết sức mạnh mẽ. Tôi có thể nghĩ đến đời mình kiểu như định mệnh đã an bài, như thế có lẽ đúng ý với bố mẹ hơn. Hay tôi có thể nghĩ đến nó như một chuỗi tai họa ngoài tầm kiểm soát, đó cũng là một cách lý giải cho sự mù lòa của tôi và cái chết của bố. Tuy nhiên, có vẻ như tình hình sẽ hứa hẹn hơn nếu tôi nghĩ rằng cuộc đời là một chuỗi những lựa chọn, là những điều vẫn còn có thể xảy ra, và là những việc mà tôi có thể biến thành hiện thực. Nhiều người trong số chúng ta nghĩ đến và kể lại câu chuyện của mình chỉ bằng loại ngôn ngữ mà chúng ta đã lựa chọn. Đó hẳn nhiên là ngôn ngữ chung của nước Mỹ, và việc dùng ngôn ngữ này đã gia tăng nhanh chóng ở phần lớn các nơi khác trên thế giới. Chúng ta có lẽ dễ chấp nhận những câu chuyện của người kia hơn khi chúng được kể bằng loại ngôn ngữ này, và như hy vọng của tôi sẽ được trình bày trong quyển sách, “lựa chọn để nói” (speaking choice) mang lại nhiều lợi ích. Nhưng tôi cũng hy vọng sẽ khám phá ra được nhiều nẻo đường khác mà trong đó chúng ta sống và kể lại câu chuyện của mình, hình thành nên những câu chuyện kể phức tạp và mang nhiều sắc thái hơn những ngả rẽ thô thiển của Số phận và Cơ hội mà tôi trình bày ở trên. ........................................ Bài học cuộc đời về sự lựa chọn mà tôi có được từ thuở bé dần dần trở thành những kiến thức hàn lâm khi tôi vào đại học. Tại Đại học Pennsylvania, tôi đã nghiên cứu nhiều nhóm tôn giáo khác nhau để tìm hiểu tôn giáo ảnh hưởng đến nhân sinh quan của con người như thế nào. Nghiên cứu này cho thấy các quan điểm về lựa chọn rất khác nhau, rằng các trải nghiệm của tôi trong vai trò là một người Sikh và một người Mỹ cũng chỉ cho phép tôi biết đến một nhóm nhỏ trong số đó. Sau này, khi là nghiên cứu sinh tiến sĩ khoa tâm lý xã hội tại Đại học Stanford, tôi đã so sánh sự hình thành và thực tiễn của lựa chọn giữa các nền văn hóa. Tôi nghiên cứu sự khác biệt về văn hóa và cả những yếu tố quen thuộc ảnh hưởng đến lựa chọn hàng ngày của chúng ta. Đây chính là trọng tâm của sự nghiệp nghiên cứu của tôi trong 15 năm qua. Khái niệm “lựa chọn” bao hàm quá nhiều ý nghĩa khác nhau và có quá nhiều hướng khác nhau để nghiên cứu về chúng, cho nên tôi không thể nào nêu lên đầy đủ trong một quyển sách được. Tôi chỉ nhắm đến việc khám phá những khía cạnh tôi nhận thấy đáng suy nghĩ và có liên quan nhiều nhất đến cách sống của chúng ta. Quyển sách này được đặt trên cơ sở tâm lý học, nhưng tôi cũng viện đến nhiều lĩnh vực và chuyên môn khác, bao gồm kinh doanh, kinh tế học, sinh học, triết học, nghiên cứu văn hóa, chính sách công và y tế. Với cách làm như vậy, tôi hy vọng thể hiện được hết mức có thể các quan điểm và đem ra bàn luận những quan niệm mà chúng ta đã biết về vai trò và thực tiễn của lựa chọn trong cuộc sống. Mỗi chương trong bảy chương sau sẽ nhìn nhận lựa chọn ở một lợi điểm khác nhau và giải quyết nhiều câu hỏi khác nhau về cách mà lựa chọn tác động đến cuộc sống của chúng ta. Vì sao lựa chọn lại có sức mạnh như vậy và sức mạnh này đến từ đâu? Có phải tất cả chúng ta đều chọn lựa theo cùng một cách? Mối liên quan giữa cách chúng ta chọn lựa và địa vị của chúng ta là như thế nào? Vì sao chúng ta lại thường xuyên thất vọng bởi những lựa chọn của mình, và chúng ta làm thế nào để tận dụng công cụ lựa chọn một cách hiệu quả nhất? Chúng ta kiểm soát lựa chọn hàng ngày của mình nhiều đến đâu? Chúng ta sẽ chọn lựa ra sao nếu quyền lựa chọn của mình gần như không có giới hạn? Chúng ta có nên để người khác chọn lựa thay mình hay không, và nếu có thì đó là ai và vì sao? Dù bạn có đồng ý với các quan điểm, gợi ý và kết luận của tôi hay không - và tôi dám chắc là không phải lúc nào chúng ta cũng đồng ý với nhau đâu - thì chỉ với quá trình tìm hiểu về những vấn đề này cũng có thể giúp bạn có được những quyết định sâu sắc hơn. Lựa chọn, từ việc nhỏ nhặt cho đến một sự kiện thay đổi cuộc đời, cả lúc hiện hữu lẫn khi vắng mặt, là một phần không thể tách rời của các câu chuyện về cuộc đời của chúng ta. Khi bạn đọc quyển sách này, tôi hy vọng bạn có thể thấu hiểu chính bản thân mình, cuộc đời mình, rằng mọi sự đã bắt đầu như thế nào và nó sẽ hướng về đâu. [1] Nguyên văn “multiple identity”.   *** SỐNG SÓT   Bạn sẽ làm gì nào? Nếu bạn bị bỏ rơi ngoài biển trên một chiếc phao nhỏ hay kẹt lại trên núi với chiếc chân gãy hay nói chung gặp trở ngại theo kiểu “bơi ngược dòng không mái chèo” - như mọi người thường nói - thì bạn nghĩ mình sẽ làm gì? Bạn sẽ bơi được trong bao lâu rồi mới xuôi tay? Bạn có thể nuôi hy vọng trong bao lâu? Chúng tôi đưa ra những câu hỏi này, sau khi dùng bữa, trong những lúc tiệc tùng họp mặt, vào những chiều Chủ nhật nhàn rỗi, chẳng phải để tìm vài mẹo vặt hòng sống sót mà vì chúng tôi bị mê hoặc bởi sức chịu đựng tối đa và khả năng ứng phó của chúng ta khi lâm vào tình cảnh cực kỳ khó khăn mà lại không hề được chuẩn bị hoặc không lường trước được. Chúng tôi muốn biết trong số chúng ta, ai sẽ còn sống sót để kể lại câu chuyện? Ví dụ như trường hợp của Steven Callahan. Vào ngày 5 tháng 2 năm 1982, khoảng 800 dặm phía Tây quần đảo Canaria [3] , thuyền của ông, chiếc Napoleon Solo, bị bão đánh lật úp. Callahan, khi đó 30 tuổi, nhận ra chỉ còn mình ông trơ trọi lênh đênh trên biển với một chiếc phao rò rỉ cùng vài nguồn dự trữ ít ỏi. Ông hứng nước mưa để uống và tự làm lao đâm cá. Ông ăn hàu và thỉnh thoảng bắt được những con chim sà xuống ăn phần thịt hàu thừa. Để giữ mình tỉnh táo, ông ghi lại những gì đã trải qua và tập yoga mỗi khi cơ thể yếu ớt của ông cho phép. Còn lại là, chờ đợi và trôi dạt về phía Tây. Bảy mươi sáu ngày sau, ngày 21 tháng 4, một chiếc tàu đã phát hiện ra Callahan ở ngoài khơi miền duyên hải quần đảo Guadeloupe [4] . Thậm chí cho đến ngày nay, ông là một trong số ít ỏi những người cầm cự được trên biển một mình trong hơn một tháng. Không chút nghi ngờ rằng Callahan - một con sói biển - đã nắm vững những kỹ năng đi biển hết sức quan trọng để sống sót, nhưng liệu chỉ với những kỹ năng này thì có đủ để cứu sống ông hay không? Trong cuốn sách của mình, Lênh đênh: Bảy mươi sáu Ngày Lưu lạc trên Biển (Adrift: Seventy-six Days Lost at Sea) ông miêu tả tâm trạng của mình không lâu sau khi xảy ra thảm họa như sau: Quanh tôi lởn vởn mảnh vụn của chiếc Solo . Các thiết bị của tôi được tuyệt đối an toàn, những hệ thống quan trọng nhất vẫn đang hoạt động, công việc ưu tiên trong ngày đã định ra, thứ tự ưu tiên không có gì phải bàn cãi. Dù thế nào chăng nữa, tôi vẫn phải nén lại những nỗi lo lắng, đau đớn, sợ hãi đang trỗi dậy. Tôi là thuyền trưởng của chiếc tàu bé xíu giữa những cơn sóng đầy phản trắc. Tôi đã thoát được trạng thái bấn loạn sau khi mất chiếc Solo và sau cùng cũng đã có nước uống và thức ăn. Tôi vượt qua được cái chết mười mươi và giờ đây tôi đứng trước một lựa chọn: tự mình hướng đến một cuộc sống mới hoặc là đầu hàng và tự nhìn mình chết dần. Tôi chọn cách chiến đấu đến cùng. Callahan đã hình dung lại tình cảnh của mình, dẫu rằng cực kỳ tồi tệ, qua những lựa chọn. Đại dương mênh mông, bốn bề thăm thẳm. Ông chẳng thấy gì khác ngoài một mặt biển xanh bất tận, ẩn chứa bên dưới nhiều nỗi lo sợ và hiểm họa bất chợt. Tuy nhiên, trong tiếng sóng vỗ bập bềnh và tiếng gió rít ông không nghe thấy lời phán quyết phải chết mà thay vào đó là câu hỏi: “Có muốn sống hay không?” Khả năng nghe được câu hỏi đó và trả lời bằng một câu khẳng định - để đòi lại cho mình sự lựa chọn mà dường như hoàn cảnh đã tước bỏ trước đó - có thể là thứ đã giúp ông sống sót. Lần tới, nếu ai đó hỏi rằng “Bạn sẽ làm gì nào?”, bạn có thể trích một trang từ quyển sách của Callahan và trả lời, “Tôi sẽ chọn lựa.” Một người sống sót nổi tiếng khác, Joe Simpson, suýt chết khi leo xuống từ một ngọn núi trong số những đỉnh núi băng nằm trên lãnh thổ Peru của dãy Andes [5] . Sau khi bị ngã gãy chân, ông không thể bước đi được, vì thế người bạn cùng leo núi, Simon Yates đã cố gắng dùng dây thừng để hạ ông xuống nơi an toàn. Do không thể nhìn và nghe thấy Simpson nên khi Yates vô tình hạ ông xuống một gờ đá, Simpson không thể giữ chắc được và ông cũng không thể leo ngược lên được. Giờ đây, Yates phải gánh chịu toàn bộ trọng lượng của Simpson; sớm muộn gì, ông (Yates) cũng không chịu nổi và cả hai sẽ rơi xuống chết. Sau cùng, nhận thấy không còn cách nào khác, Yate cắt sợi thừng, và đinh ninh rằng ông đã kết án tử hình bạn mình. Những gì xảy ra sau đó thật lạ thường: Simpson đã rơi xuống ngay trên rìa của một khe băng, trong vài ngày kế tiếp ông đã bò năm dặm xuyên qua một con sông băng và đến được nơi cắm trại ngay trước khi Yates chuẩn bị bỏ đi. Trong cuốn “Chạm cõi hư không” (Touching the Void) kể về tai nạn này, Simpson viết: Thôi thúc từ bỏ không leo xuống nữa là một điều nhục nhã, không thể chịu đựng được. Tôi không mường tượng được có gì bên dưới nhưng tôi chắc chắn hai điều: Simon đã bỏ đi và sẽ không quay lại. Nghĩa là cứ nằm trên mỏm băng này thì đời tôi thế là chấm dứt. Phía trên không còn lối thoát, và buông mình sang mé bên kia thì chẳng khác nào là một lời mời mọc chấm dứt nhanh chóng mọi chuyện này. Tôi đã bị cám dỗ bởi điều đó, nhưng thậm chí ngay trong cơn tuyệt vọng, tôi thấy rằng mình không đủ can đảm để tự kết liễu cuộc đời. Còn rất lâu mới đến lúc giá rét và sự kiệt sức đánh quỵ tôi trên mỏm băng này, và nghĩ đến việc phải một mình nằm chờ điều đó đến và sẽ loạn trí bởi thời gian quá lâu như vậy đã buộc tôi có lựa chọn này: tụt xuống cho đến khi có thể tìm lối thoát hoặc là chết giữa đường. Tôi thà đi gặp cái chết còn hơn để nó tìm đến mình. Giờ thì chẳng còn đường lùi, dù trong tôi đang gào lên là hãy từ bỏ đi. Với những người có ý chí sắt đá như Callahan và Simpson, việc họ có sống sót hay không chỉ phụ thuộc vào lựa chọn của họ mà thôi. Và như Simpson đã trình bày cụ thể, lựa chọn là một mệnh lệnh chứ không phải là cơ hội; bạn có thể lãng phí cơ hội, nhưng gần như không thể chống lại mệnh lệnh. Dù phần lớn chúng ta sẽ chẳng bao giờ trải qua những hoàn cảnh cực kỳ khắc nghiệt như trên (hy vọng là vậy), thế nhưng hàng ngày chúng ta vẫn phải đối diện với những mệnh lệnh của bản thân, buộc mình phải chọn lựa. Chúng ta nên hành động hay nên dừng lại và quan sát? Bình tĩnh chấp nhận bất kể việc gì xảy ra với mình, hay gan lì theo đuổi những mục tiêu mà mình tự đặt ra? Chúng ta đo cuộc đời mình bằng nhiều thước đo khác nhau: là tháng năm, là những sự kiện lớn, là những thành tựu. Chúng ta cũng có thể đo cuộc đời bằng những lựa chọn mà chúng ta đã thực hiện. Tổng hợp toàn bộ những lựa chọn này mang lại cho chúng ta nơi sinh sống và địa vị xã hội hiện tại, bất kể ta là ai, ta ở đâu. Khi nhìn cuộc đời qua lăng kính này, rõ ràng sự lựa chọn là một nguồn lực vô cùng mạnh mẽ, một yếu tố đóng vai trò quyết định cách sống của chúng ta. Nhưng sức mạnh của sự lựa chọn bắt nguồn từ đâu, và khả năng chúng ta có thể tận dụng triệt để nó ra sao? Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Chọn Lựa của tác giả Sheena Iyengar.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghệ Thuật Theo Đuổi Sự Tối Giản
Bạn đã bao giờ cảm thấy quá tải? Bạn đã bao giờ cảm thấy mình tuy làm việc hết sức nhưng không được trọng dụng? Bạn đã bao giờ thấy mình chỉ tập trung vào các việc nhỏ nhặt? Bạn đã bao giờ cảm thấy mình luôn bận rộn nhưng lại không đạt được hiệu quả? Nếu câu trả lời là “có” cho tất cả các câu hỏi này thì giải pháp chính xác dành cho bạn chính là hãy trở thành “Con người tối giản”. Nếu bạn đang rơi vào một trong những tình trạng trên thì đã đến lúc tìm hiểu về Cách tối giản hóa công việc của những người thành công. Tối giản công việc ở đây không có nghĩa là thực hiện được nhiều công việc trong thời gian ngắn hạn mà là chỉ hoàn thành những công việc thực sự cần thiết. Cuốn sách cũng không phải là cuốn chiến lược quản lý thời gian hay phương pháp cải tiến hiệu suất công việc. Nghệ Thuật Theo Đuổi Sự Tối Giản như là một cuốn giáo trình có hệ thống giúp bạn xác định được những công việc hoàn toàn cần thiết, sau đó là loại bỏ những thứ thừa thãi, như vậy bạn có thể tập trung hoàn thành cốt lõi công việc của mình. Nghệ Thuật Theo Đuổi Sự Tối Giản không đơn thuần chỉ dành cho công việc mà có thể áp dụng cho mọi thứ xung quanh bạn. Đó là cuốn sách không thể thiếu cho các nhà lãnh đạo, quản lý và cả những cá nhân muốn giảm khối lượng công việc của mình nhưng vẫn đem lại hiệu quả công việc cao hay đơn giản hơn là cải thiện chính cuộc sống của mình. *** NGƯỜI THEO CHỦ NGHĨA TỐI GIẢN Sống đời thông thái tức là biết loại bỏ những điều không cần thiết − Lâm Ngữ Đường − Sam Elliot1, một quản trị viên đầy năng lực ở Thung lũng Silicon luôn cảm thấy quá tải sau khi công ty của ông bị một tập đoàn lớn thâu tóm. 1 Tên nhân vật đã được thay đổi. Là một người đầy trách nhiệm trong công việc và luôn muốn khẳng định mình ở môi trường mới, ông thường chấp nhận nhiều yêu cầu đưa ra cho mình mà không thực sự suy nghĩ về chúng. Hậu quả là ngày nào ông cũng phải tham dự hết cuộc họp này đến hội thảo khác để cố gắng làm mọi người hài lòng và hoàn thành tất cả những việc được giao. Những căng thẳng của ông ngày càng gia tăng, trong khi chất lượng công việc lại giảm sút. Giống như việc bạn chỉ tập trung vào các hoạt động vụn vặt khiến chất lượng công việc không được như ý muốn, làm thất vọng những người mà bạn đang hết sức cố gắng để làm hài lòng. Sau đó, đại diện của tập đoàn đã đến gặp và đề nghị ông nghỉ hưu sớm. Tuy nhiên, Sam mới chỉ ngoài 50 tuổi và chưa có ý định về hưu. Ông đã tính đến việc thành lập một công ty tư vấn thuộc chuyên ngành của mình và thậm chí còn dự định cung cấp dịch vụ này cho công ty hiện nay với vai trò tư vấn. Mặc dù vậy, những lựa chọn này không mấy thú vị nên ông đã tham khảo ý kiến một cố vấn dạn dày kinh nghiệm và người này đã cho ông một lời khuyên khá ngạc nhiên: “Hãy ở lại công ty, nhưng chỉ làm việc như một tư vấn viên và không nhận thêm việc gì cả. Đừng kể với ai về điều này”. Nói một cách khác, người cố vấn đã khuyên ông chỉ làm những việc mà ông thấy cần thiết và từ chối những công việc được giao khác. Sam đã thực hiện theo lời khuyên này và kiên quyết nói “Không” với những việc không cần thiết. Ông bắt đầu từ chối nhiều lời đề nghị: lúc đầu, ông còn ngập ngừng và đánh giá các đề nghị đó dựa trên những tiêu chuẩn khá dễ chịu: “Mình có thể thực hiện được công việc này với thời gian và khả năng cho phép không?” Nếu câu trả lời là “Không”, ông sẽ từ chối. Ông khá ngạc nhiên và hài lòng khi phát hiện ra rằng mặc dù mới đầu mọi người có vẻ hơi thất vọng nhưng dường như họ tôn trọng sự thẳng thắn của ông. Được khích lệ bởi những thắng lợi bước đầu đó, ông từ chối nhiều hơn. Giờ đây, khi có một đề nghị dành cho mình, ông sẽ dành thời gian cân nhắcđề nghị đó với những tiêu chuẩn khắt khe hơn: “Đây có phải là điều quan trọng nhất mà mình nên làm với thời gian và khả năng hiện có của mình?” Nếu không thể trả lời “Có” một cách chắc chắn, ông sẽ từ chối lời đề nghị. Ông vui mừng phát hiện ra rằng ban đầu đồng nghiệp có vẻ thất vọng, nhưng chẳng bao lâu sau họ bắt đầu tôn trọng ông hơn vì đã từ chối. Với thành công đó, không chỉ với những công việc trực tiếp giao cho mình, ông bắt đầu áp dụng phương pháp lựa chọn này vào mọi việc. Nếu trước đây ông luôn tình nguyện nhận việc chuẩn bị các phần trình bày hoặc những công việc được giao khácvào phút chót thì giờ đây ông bắt đầu biết cách từ chối chúng. Nếu trước đây ông luôn là người đầu tiên trả lời các e-mail trao đổi công việc thì giờ ông thường im lặng và để cho những người khác có ý kiến trước. Ông không tham dự các cuộc họp nếu không quan tâm lắm; không dự các buổi giao ban hằng tuần nếu thấy không cần thêm thông tin; không tham gia vào các cuộc họp đã được lên lịch sẵn nếu cá nhân ông không có đóng góp gì trực tiếp vào đó. Ông giải thích với tôi rằng: “Được mời tham dự khôngcó nghĩa là tôi phải tham gia các buổi họp đó”. Lý luận này nghe có vẻ hơi ích kỷ nhưng nhờ chọn lọc như vậy, ông đã tạo được cho mình nhiều khoảng không hơn để tìm thấy sự tự do sáng tạo. Ông có thể tập trung nỗ lực vào một dự án, lập kế hoạch kỹ lưỡng, dự đoán trước được những trở ngại và tìm giải pháp vượt qua chúng. Thay vì cố gắng hoàn thành mọi việc, ông có thể hoàn thành tốt những công việc cần thiết. Phương pháp mà ông tìm ra − chỉ tập trung làm những việc thực sự quan trọng và loại bỏ những thứ không cần thiết khác − đã giúp ông khôi phục được chất lượng công việc của mình. Thay vì chỉ đạt được tiến bộ ít ỏi trong rất nhiều công việc khác nhau, ông bắt đầu tập trung nỗ lực hoàn thành những việc thực sự quan trọng. Sau vài tháng áp dụng phương pháp này, ông nhận ra mình không chỉ đạt được những thành công như trước đây mà còn có thêm nhiều thời gian hơn cho gia đình. Ông nói: “Tôi đã lấy lại được cuộc sống gia đình của mình! Tôi có thể về nhà đúng giờ.” Giờ đây, thay vì là nô lệ cho chiếc điện thoại, ông tắt nó đi để tập thể thao, ra ngoài ăn tối với vợ, v.v.. Ông vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra thử nghiệm này không dẫn đến hậu quả tiêu cực nào: Cấp trên không gây khó dễ cho ông, đồng nghiệp không bực tức với ông. Trái lại, vì được giao những dự án có ý nghĩa và thực sự có giá trị đối với công ty, ông bắt đầu nhận được sự tôn trọng cũng nhưđược đánh giá cao trong công việc hơn rất nhiều so với trước đây. Cuối năm đó, ông nhận được mức thưởng cao chưa từng có trong sự nghiệp của mình. Ví dụ này là một minh chứng rõ ràng của chủ nghĩa tối giản: chỉ khi bạn ngừng cố gắng làm tất cả mọi việc hoặc nói “Có” với tất cả mọi người, bạn mới có thể có được những đóng góp tốt nhất cho những điều thật sự có ý nghĩa. Đã bao lần bạn trả lời “Có” với những đề nghị mà không hề suy nghĩ về nó? Đã bao lần bạn bực bội vì đã đồng ý nhận làm việc gì đó rồi tự hỏi: “Tại sao mình lại nhận việc này nhỉ?” Bạn có thường xuyên trả lời “Có” chỉ để làm hài lòng người khác? Hay để tránh rắc rối? Hay bởi “Có” đã trở thành câu trả lời quen thuộc của bạn? Giờ hãy trả lời các câu hỏi sau: Bạn đã bao giờ cảm thấy quá tải? Bạn đã bao giờ cảm thấy mình tuy làm việc hết sức nhưng không được trọng dụng? Bạn đã bao giờ thấy mình chỉ tập trung vào các việc nhỏ nhặt? Bạn đã bao giờ cảm thấy mình luôn bận rộn nhưng lại không đạt được hiệu quả? Giống như việc bạn luôn di chuyển nhưng chẳng đi được đến đâu cả? Nếu câu trả lời là “Có” cho tất cả các câu hỏi này thì giải pháp chính xác dành cho bạn là hãy trở thành “Con người tối giản”. PHƯƠNG CHÂM CỦA NGƯỜI THEO CHỦ NGHĨA TỐI GIẢN Dieter Rams là nhà thiết kế chính của công ty Braun trong nhiều năm. Ông luôn được thôi thúc bởi ý tưởng rằng hầu hết mọi thứ trong cuộc sống đều là tín hiệu nhiễu và có rất ít điều là thực chất. Công việc của ông là lọc các tín hiệu đó cho đến khi đạt được đến điểm cốt lõi của nó. Năm ông 24 tuổi, công ty yêu cầu ông cải tiến thiết kế của chiếc máy quay đĩa. Vào thời đó, mâm quay ở chiếc máy quay đĩa tiêu chuẩn thường được phủ một lớp gỗ hay thậm chí tích hợp chiếc máy như một món đồ gỗ trang trí trong phòng khách. Thay vì đi theo lối thiết kế cũ, ông và các đồng nghiệp đã bỏ đi những chi tiết thừa và thiết kế chiếc máy quay đĩa chỉ với một lớp nhựa mỏng phía trên mà không có thêm bộ phận nào khác. Đó là lần đầu tiên, một kiểu máy được thiết kế như vậy và nó mang tính cách mạng đến nỗi nhiều người lo lắng rằng thiết kế này sẽ khiến công ty phá sản vì không ai mua sản phẩm đó. Việc cần phải có lòng can đảm để loại bỏ những thứ không cần thiết là lẽ đương nhiên. Vào những năm 1960, mẫu thiết kế thẩm mỹ nhưng đơn giản này đã thu hút được rất nhiều sự chú ý và chẳng bao lâu sau đã trở thành mẫu thiết kế mà mọi máy quay đĩa đều phỏng theo. Tiêu chuẩn thiết kế của Dieter có thể được tóm tắt bởi một nguyên tắc cô đọng đặc trưng bằng ba từ tiếng Đức Weniger aber besser, có nghĩa là “ít nhưng chất”. Khó có định nghĩa nào về chủ nghĩa tối giản có thể mô tả nó chính xác hơn thế. Phương châm của những người theo chủ nghĩa tối giản là theo đuổi một cách không mệt mỏi cái “ít hơn nhưng tốt hơn”. Điềunày không có nghĩa áp dụng nguyên tắc đó một cách cứng nhắc, mà là theo đuổi nó một cách có kỷ luật. Phương châm này không có nghĩa rằng người theo chủ nghĩa tối giản xác định mục tiêu trong năm tới của mình là từ chối nhiều hơn hay thực hiện một chiến lược mới về quản lý thời gian. Nó là việc họ thường xuyên tạm dừng để tự hỏi “Mình có đang đầu tư vào một việc đúng đắn hay không?” Cơ hội và các hoạt động trong cuộc sống là vô hạn nhưng thời gian và nguồn lực của chúng ta lại có hạn. Mặc dù nhiều cơ hội trong số đó là tốt, thậm chí rất tốt nhưng thực tế, rất ít trong số chúng cần thiết cho bạn. Người theo chủ nghĩa tối giản học cách nhận biết sự khác biệt đó, cân nhắc các lựa chọn và chỉ làm những việc thực sự cần thiết. Chủ nghĩa tối giản không phải là tìm cách để làm được nhiều việc hơn mà là làm điều gì thực sự cần thiết với bạn. Điều đócũng không có nghĩa bạn chỉ cần làm ít đi mà là bạn cần đầu tư thời gian và công sức của mình một cách hợp lý và sáng suốt để đóng góp được ở mức cao nhất bằng cách chỉ làm những việc cần thiết đối với mình. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Theo Đuổi Sự Tối Giản của tác giả Greg McKeown.
Đầu Tư Tương Lai
Tập sách nhỏ bạn cầm trên tay đây chính là kết quả trong mấy tháng đầu của việc khai sáng Học viện Nhân Xã. Như bạn đã biết, Học viện Nhân Xã được thành lập với mục đích giảng huấn các môn đào luyện con người Tự lập thân. Môn học đó gọi là Vi nhân học mà người Anh, Mỹ gọi là Self-improvement, người Pháp gọi là Culture humaine. Sở học ấy có tính cách ứng dụng vào đời sống thực tế. Vì phần nhiều nó không được học đường trung hay đại học dạy nên người ta kêu nó là giáo dục hậu học đường: Giáo dục đón tiếp người vừa bỏ ngưỡng cửa nhà trường cổ điển, ra đời chân ướt chân ráo, tay trắng sự nghiệp mà muốn nên thân với đời. Trong mấy tháng đầu khai khóa, tại Học viện Nhân Xã, tôi viết một số bài ngắn coi như những món ăn khai vị cho học viện đi sâu vào nhân xã học. Các bài ngắn ấy dọn đường khai triển những môn học rèn đúc cá nhân tính và xã hội tính trong con người. Tôi mượn từ ngữ Anthropos của Hy Lạp và từ ngữ Socialis của Latinh để tạo ra những tân ngữ dịch các danh từ “Nhân xã thuyết” là “Anthroposocialisme” và “Nhân xã học” là “Anthroposociologie”. Theo đây thì nhân xã viết liền nhau không có nghĩa là nhân vị thuyết cộng với xã hội thuyết mà là hai ngữ tố để diễn tả một ý thức hệ mà tôi đã trình bày từ năm 1953 trong mấy chục tác phẩm và trong tờ báo Nhân Xã ra đời năm 1966. Các bài bạn đọc sau đây phảng phất nội dung của chủ thuyết ấy. Mỗi bài có tác dụng chuẩn bị cho người bạn trẻ lăn vào đời để bớt thất bại. Bạn sẽ thấy toàn là những đề tài thông thường, nhưng cũng toàn là những vấn đề quan hệ đến kiếp người, đến xã hội, đến định mệnh của bất cứ ai muốn giá trị hóa đời mình. Vấn đề căn bản được đặt ra trong tập sách này là ta phải bổ khuyết toàn diện vốn học nhà trường thì mới đủ bí quyết chịu đựng vô số thử thách ngoài cuộc đời tràn ngập thực tế đắng cay. Bổ khuyết này là việc tối thiết chứ không phải là việc phù phiếm, có cũng được mà không có cũng chả sao. Vô số tri thức hay người chỉ có vốn học chủ trí, khoa cử của nhà trường cổ điển hoặc không biết hoặc khinh bỉ bổ khuyết ấy. Song hằng ngày họ vẫn cần nó bởi họ đụng đầu với đủ thứ vấn đề vì thiếu nó mà giải quyết sai, giải quyết thất bại. Thí dụ một giáo sư đại học coi rẻ Vi nhân học, viết một bài chửi bới bạn đồng nghiệp của mình vì coi thường Vi nhân học là môn nhắc cho ông biết rằng càng trí thức càng phải khiêm tốn, rằng ngậm máu phun người dơ miệng mình trước, rằng phê bình không có nghĩa là chửi lộn. Vì coi rẻ Vi nhân học như vậy nên ông mất uy tín, gây thù oán bất lợi cho nghề nghiệp của mình. Rước lấy các hậu quả chua chát này ông đâu có thích nhưng ông không biết tại vì là thiếu đào luyện tư cách là cái tối cần bổ khuyết cho văn bằng tiến sĩ, thạc sĩ của ông để thành công trọn vẹn. Trong cuốn Rèn nhân cách có chỗ tôi cũng đã nói chính nhiều bậc tu hành cũng khinh bỉ sự đào tạo nên người. Dĩ nhiên tu là người ta nói tu tâm dưỡng tính đấy. Nhưng trong thực tế người ta nghiên cứu, học hỏi những gì liên quan đến hậu kiếp: Họ chỉ là nhà thông thái về thứ học như vậy cũng như những nhà thông thái chuyên môn về toán, lý, hóa hay sinh lý học. Mà bạn đã biết thông thái là một chuyện còn tâm hồn được đào luyện và có tư cách, hoạt động đắc lực hay không lại là một chuyện khác. Nhà giáo dục chân chính nào cũng ngạc nhiên không biết tại sao những người hữu trách ở Bộ Giáo dục không chịu đem Vi nhân học vào chương trình giáo dục bắt buộc. Tội nghiệp biết bao tuổi trẻ chỉ có vốn học khoa cử ra đời vênh vênh tự đắc với cấp bằng lý thuyết phải bỏ ra 5, 10 năm làm lại việc giáo dục, tự học nhiều khoa và thu thập kinh nghiệm mới gọi là chững chạc trên đường lập thân. Con người học vấn thượng thăng mà vì thiếu Vi nhân học, đành gặt hái thứ thành công không tương xứng với mấy chục năm đèn sách và khoa cử. Có người khác thất bại thê thảm vì chạm trán với thực tế ác liệt rồi sa lầy trong việc nuôi vợ nuôi con mà cũng sống hết sức bấp bênh, bê bối. Đó là chưa nói đông như kiến cỏ hạng người vỗ ngực là khoa bảng mà coi rẻ những việc nhỏ, ngày tối mơ ước việc vĩ đại rồi vì quá siêu thực tế lại không gặp thời nên tinh thần khủng hoảng. Hiện tượng bi thảm là có một đêm trắng thao thức hãi hùng trong tận đáy lòng họ. Do đó họ ưu tư, chán đời. Họ thành công hay thất bại, bạn thử đoán coi. Mấy chục bài ngắn sau đây tôi coi như những liều thuốc bổ để bạn dùng củng cố tinh thần, tránh bớt các nguy hiểm trên. Nếu bạn coi những gì bạn đọc sau đây là những tâm thư cũng được bởi lẽ, tôi vì quyền lợi chính cá nhân của bạn mà viết. Tôi cũng cảm thấy yên tâm khi có khuyết điểm nào mà được bạn coi như tri kỷ rồi chín bỏ làm mười cho. Thân ái, HOÀNG XUÂN VIỆT Trung Thu 1969 *** Hoàng Xuân Việt – Người thầy đáng kính Trong đời luôn có những mối nhân duyên không thể nào quên. Với tôi, được biết thầy Hoàng Xuân Việt chính là một duyên lành mà tôi vô cùng trân quý. Thầy là một trong những người có ảnh hưởng rất lớn để có tôi của ngày hôm nay. Từ nhỏ tôi đã yêu thích trở thành một người dẫn chương trình nổi tiếng. Nhưng để đi đến thành công là một con đường dài, là cả quá trình không ngừng nỗ lực, kiên trì học tập, trau dồi cả về kiến thức lẫn kỹ năng. Sau những năm tháng học tập tại Nga, năm 1985 tôi trở về Việt Nam với bầu nhiệt huyết căng tràn, háo hức bắt tay gây dựng sự nghiệp, thực hiện ước mơ thuở nhỏ. Và thật may mắn cho tôi khi vào thời điểm quan trọng nhất đó tôi đã gặp được thầy Hoàng Xuân Việt và tiếp thu những tri thức về kỹ năng giao tiếp, hùng biện, những bài học giá trị để “nên thân với đời”. Tôi vẫn còn nhớ như in, đó là năm 2002, tại một triển lãm ở Công viên Tao Đàn, lần đầu tiên tôi gặp thầy Việt, một người đàn ông tầm thước với vầng trán cao rộng, toát lên khí chất của một vị học giả uyên bác nhưng giản dị và gần gũi vô cùng. Kể từ đó, với tư cách là khách mời, tôi thường xuyên cùng thầy tham gia các chương trình, những buổi giảng dạy, giao lưu mà thầy tổ chức ở trường của thầy - Trường Hán Nôm Học làm người Nguyễn Trãi và nhiều nơi khác. Tuy đến với tư cách là khách mời, nhưng tôi vẫn thích được nhắc đến là một học trò của thầy hơn, bởi quả thực tôi cũng là một trong những học viên tiếp nhận say sưa các kiến thức mà thầy truyền dạy. Khi đã trở thành một nghệ sĩ, một MC được người hâm mộ Việt Nam công nhận, yêu mến, tôi vẫn luôn giữ liên lạc thường xuyên với thầy. Mỗi lúc rảnh rỗi, hay khi trong cuộc sống có điều gì khó gỡ tôi lại tìm đến gặp và trò chuyện cùng thầy. Thầy luôn đón tiếp vui vẻ, đầy trìu mến và đưa ra nhiều lời khuyên hữu ích, không ngừng truyền động lực sống tốt đẹp cho tôi. Giờ thầy đã đi xa, tôi không còn được lui đến gặp thầy nữa, nhưng tôi luôn giữ trong tim mình hình ảnh người thầy đáng kính. Mỗi năm đến dịp giỗ thầy, tôi và một số người bạn đều là học trò cũ của thầy lại đến tư gia cùng ôn lại những kỷ niệm về quãng thời gian được học tập với thầy. Tôi kính trọng thầy Việt không chỉ vì thầy là một học giả uyên bác mà còn vì tấm lòng và tâm huyết mong muốn truyền dạy lại những lề luật, cột trụ để thành người. Ngoài viết sách, thầy dành cả đời mình để mở các khóa dạy, truyền đạt kinh nghiệm sống, các quy chuẩn đạo đức, những cách thức ứng xử sao cho văn minh, lịch thiệp... Ðáng quý lắm khi thầy xây dựng nên mô hình “trường học làm người” mở tại tư gia, dạy học viên không phân biệt đối tượng, độ tuổi. Thầy từng nói về việc “học nghề làm người” rằng: “Tất cả cho ta thấy rằng khai trí là một chuyện, đi tu là một chuyện, còn học nghề làm người quả thực là một chuyện khác. Theo các nhà tâm lý học “học nghề làm người” là khoa tâm lý áp dụng vào đời sống được điều khiển. Nó cũng gọi là khoa học của tinh thần vì tinh thần tượng trưng cho con người, là cái làm cho con người hãnh diện nhất trong các vật thụ tạo”. Và học làm người chưa bao giờ là dễ dàng: “Chắc chắn kết quả không như trở bàn tay vì là tâm lý học ứng dụng chứ không phải “ma thuật” hay một thứ phép mầu nào. Tuy nhiên nỗ lực của bạn sẽ an ủi bạn sau một thời gian vì bạn thấy con người bạn thay đổi, tự tri hơn, thành công hơn, thấy yêu đời và tận tụy giúp đời hơn”. Thời của chúng tôi, được học những kiến thức đó là điều quý giá lắm. Những bài học mà chúng tôi chưa được học trên ghế nhà trường chính thống, những bài học để chúng tôi hoàn thiện bản thân. Các bài giảng cùng hàng trăm đầu sách dạy làm người của thầy, đều được truyền đạt súc tích, dễ hiểu, không hề khuôn sáo, sách vở hay nặng về lý thuyết. Nhắc đến Tủ sách học làm người của thầy Việt, tôi nhớ đến những cái tên quen thuộc như Thất nhân tâm; Thuật hùng biện; Nên thân với đời; Rèn nhân cách; Đức tự chủ; Thinh lặng cũng là hùng biện; Tâm lý bạn trai; Tâm lý bạn gái... Sách vở ngày nay vô cùng, nhưng tôi dám cả quyết rằng những tác phẩm của thầy Việt vẫn nguyên giá trị giáo dục, giá trị thời sự và chắc chắn sẽ giúp khai trí cho người trẻ, để họ hoàn thiện bản thân, có tương lai vững chắc, xán lạn. Khi biết Công ty Cổ phần Văn hóa Truyền thông Sống xuất bản lại một số đầu sách của thầy và liên hệ với tôi nhờ viết mấy dòng giới thiệu này, tôi rất vui mừng và cũng lấy làm hân hạnh. Mong các bạn đọc thời nay đón nhận và tự học được nhiều bài học quý giá từ bộ sách! — MC THANH BẠCH Mời các bạn đón đọc Đầu Tư Tương Lai của tác giả Hoàng Xuân Việt.
Thuật Nói Chuyện Hàng Ngày
Đừng già hàm Vô đa ngôn: đa ngôn đa bại. — Khổng Tử Bạn hãy thử nghe câu chuyện sau đây: “Tôi có thói quen đi thành thị mỗi tháng. Ngày nọ tôi đem tiền theo nhiều. Tôi thấy gần bến xe có bán nhiều bồ câu đẹp quá. Tôi mua một cặp về nuôi chơi. À! Tôi đóng cái lồng rất khéo vì tôi thường biết, bồ câu thích ở nơi chuồng sơn nhiều màu. Lúc ấy vợ tôi phụ đóng chuồng với tôi. Hai chúng tôi lấy làm sung sướng vì có cặp bồ câu ngộ nghĩnh. Con mái vừa đẻ được một trứng. Nhưng đau đớn thay, nó bị con chó cắn chết”. Đó là câu chuyện thật của một người lân cận với chúng tôi, có danh là “già hàm”. Anh chỉ muốn nói với chúng tôi, con bồ câu mái của anh chị bị chó cắn mà anh thuyết ngần ấy. Bạn thử nghe có mệt không? Thưa bạn, trong xã hội có biết bao người có tật đa ngôn như người lân cận này của chúng tôi. Họ mở miệng ra không phải nói những điều đã suy nghĩ, bổ ích, mà chỉ thích nói cho đã, không lúc nào để miệng “kéo da non”. Họ không cần biết nghệ thuật nói chuyện là gì, mà sung sướng, tự đắc làm một cái “máy nói.” Người xung quanh khi gặp họ, phải mệt cả óc, ù cả tai để nghe họ nói hàng giờ điều mà một người khéo nói có thể nói trong 10 phút. “Đặc sắc” của họ là gặp ai, bất kỳ lạ quen, có dịp là họ thuyết. Người bàn chuyện của họ có óc tinh tế, chú trọng lịch sự, có công chuyện gấp, có thái độ khinh rẻ họ, tỏ ra nhàm chán họ, bằng những cái ngáp hay giã từ. Mặc kệ. Họ cứ nói. Đến những nơi có người ăn học cao, ngồi đứng với thái độ trầm ngâm, nói năng điềm đạm, họ rộ tiếng lên như muốn giục bao kẻ xung quanh “nhóm chợ” với họ. Người ta mắc cỡ, ngượng ngùng giùm cho họ mà họ không ý thức được. Sống trong chỗ đông, họ không quan tâm đến bổn phận, mà đi cà rểu hết bạn bè này đến người thân kia để kể con cà con kê. Trong khi họ già hàm, điều bạn thấy nổi bật nơi họ, là chuyện “chuột đẻ” họ nói ra “núi chuyển bụng”. Có khi chỉ vài ý tưởng xàm láp1 gì đó thôi, họ vô đề đại cà sa2, thuật cả một lịch sử rồi phê bình, rồi than thở, rồi nói lại, rồi dẫn giải, rồi mới nói ra ý mình, thứ chỉ vài tiếng ngăn ngắn là diễn đạt đủ. Họ chỉ cần có mặt người nghe thôi, có mặt để họ nói vô ý thức như cái máy. Người nghe nào, khi chưa quen biết họ, tưởng họ là bậc trí thức cao giỏi hùng biện, nhưng trong vài phút sống với họ người ta phải nhăn mặt nhàm chán. Người nghe muốn lánh mặt họ ư? Không được. Họ nói cà nhằng3, họ bàn đủ thứ chi tiết, họ giả bộ hỏi, rồi cướp câu trả lời. Họ sửa soạn ra về nhưng ngồi lại, ra tới cửa nhưng đứng đó, lại thuyết bất tuyệt. Bạn đừng trông ở câu chuyện của họ có một cứu cánh nhé. Đến bàn chuyện với ai, họ tỏ ra lo lắng về kẻ ấy, làm người ta ngạc nhiên tưởng có gì quan hệ. Nhưng rồi sau cùng phải ngáp dài với lời nói tấp nập như thác nước của họ, và không thu hoạch ở họ một kết luận nào hay đẹp cả. Trong câu chuyện, họ cũng hay lặp đi lặp lại rằng, mình không muốn nói nhiều. Họ hay bảo: “Thiệt tôi buộc lòng lắm mới nói, tôi chẳng muốn nói nhiều vì nói nhiều người ta nói mình không thật...” Nói vậy nhưng họ vẫn thuyết gần đứt hơi. Có nhiều người lịch sự, không chận lời nói của họ, họ tưởng các kẻ này mê say câu chuyện của họ, coi họ là tay hùng biện, nên họ tha hồ nói với nét mặt và điệu bộ dương dương tự đắc. 1 Linh tinh, nhảm nhí, không có căn cứ. * Các chú thích trong sách là của người biên tập trong lần xuất bản này. 2 Nói tràn lan, không có nội dung, chủ đích. 3 Cũng ý nói linh tinh, nhảm nhí. Nực cười nữa là khi nào có nhiều tay già hàm hội lại. Đúng là một cái chợ. Họ gân cổ, lấy hơi không kịp để nói, tranh nói như ăn cướp, họ giựt lời nhau. Người này hỏi người kia, người kia mới hé trả lời là bị người nọ giựt lời. Người giựt lời nói vài tiếng là bị kẻ khác chận lại để cắt nghĩa, để phê bình, để chế giễu. Không biết bạn có lần nào nghe nhiều tay già hàm họp mặt chưa. Ai rủi nghe họ đối khẩu thì mắc mệt như sắp lìa trần. Không cần chúng tôi nói, bạn dư biết rằng, những người đa ngôn trong xã hội làm đối tượng cho thiên hạ oán ghét, khinh chê. Những khi nói chuyện với bất kỳ ai, họ không sao thuyết phục được. Người nghe họ nói là một thứ hình phạt. Vậy muốn thuyết phục thính giả của mình xin bạn chịu khó đừng nói nhiều quá. Hãy coi tật đa ngôn như một thứ bệnh dịch của uy tín và nhân cách của mình. Nó là cái lỗ mọt làm tiêu tan dũng khí của tâm hồn, để rồi bị kẻ khác chi phối. Bạn thử thí nghiệm đi. Khi bạn sống chung với nhiều người nếu bạn ít nói bạn có vẻ thinh lặng, tự nhiên bạn nghe con người của mình hùng dũng, lời nói của mình có “ma lực” lôi kéo sự chú ý của kẻ khác, còn nếu sau đó bạn nói đủ thứ chuyện và nói như đê vỡ, tự nhiên bạn cảm thấy con người của mình yếu đuối, bẽn lẽn, không còn đủ lực dẫn dụ kẻ khác. Vậy từ đây, khi gặp ai để tiếp chuyện, xin bạn hãy đề phòng tật già hàm, mỗi khi mở miệng nên nhớ lời khuyên chí lý này của Lưu Hội: “Nhất ngôn bất trúng, thiên ngôn vô dụng - Nói trật một lời thì thuyết ngàn lời cũng vô ích”. Trong trường hợp gặp người già hàm, bắt bạn phải nghe chuyện xàm láp của họ, thì bạn phải làm sao? Bạn mạnh tiếng bảo họ câm ư? Đáng lẽ phải vậy, nhưng không lịch sự chút nào. Mà dù sao, cũng phải chận cái biển lời của họ lại, bằng không bạn tốn thì giờ vô ích, phải bực dọc đến mất đức yêu người. Bạn có thể trầm tĩnh, chậm chậm, vừa ngó ngay mắt họ vừa nói: “Xin ông hay bà... cho tôi có ý kiến này.” Họ chắc chắn không chịu và cướp lời bạn. Nhưng bạn cương quyết bảo: “Ông hay bà phải như thế này hay thế kia.” Thái độ này có thể không nên dùng với người tinh tế, nhưng với những kẻ già hàm, nhất định bạn phải dùng bằng không bạn tốn thì giờ vô ích, mà không đi đến kết quả nào. Giá khi cần thiết, hỏi họ điều gì, thì bạn hãy tinh tường sáng suốt, đặt vấn đề cho rõ rệt, lúc nào cũng chú ý kéo họ về câu trả lời mà bạn yêu cầu. Nếu bạn “đắc nhân tâm” không đúng chỗ, ngồi nghe họ tự do nói, thì thưa thật với bạn, sau cùng bạn phải thất vọng và mất thiện cảm với họ. Điều bạn hỏi có khi chỉ vài tiếng là trả lời xong, họ lại lo “diễn thuyết” cho bạn đủ điều. *** Hoàng Xuân Việt – Người thầy đáng kính Trong đời luôn có những mối nhân duyên không thể nào quên được. Với tôi, được biết thầy Hoàng Xuân Việt là một duyên lành mà tôi vô cùng trân quý. Thầy là một trong những người có ảnh hưởng rất lớn để có tôi của ngày hôm nay. Từ nhỏ tôi đã mơ ước trở thành một người dẫn chương trình nổi tiếng. Nhưng để đi đến thành công là một con đường dài, là cả quá trình không ngừng nỗ lực, kiên trì học tập, trau dồi cả về kiến thức lẫn kỹ năng. Sau những năm tháng học tập tại Nga, năm 1985 tôi trở về Việt Nam với bầu nhiệt huyết căng tràn, háo hức bắt tay gây dựng sự nghiệp, thực hiện ước mơ thuở nhỏ. Và thật may mắn cho tôi khi vào thời điểm quan trọng nhất đó tôi đã gặp được thầy Hoàng Xuân Việt và tiếp thu những tri thức về kỹ năng giao tiếp, hùng biện, những bài học giá trị để “nên thân với đời”. Tôi vẫn còn nhớ như in, đó là năm 2002, tại một triển lãm ở Công viên Tao Đàn, lần đầu tiên tôi gặp thầy Việt, một người đàn ông tầm thước với vầng trán cao rộng, toát lên khí chất của một vị học giả uyên bác nhưng giản dị và gần gũi vô cùng. Kể từ đó, với tư cách là khách mời, tôi thường xuyên cùng thầy tham gia các chương trình, những buổi giảng dạy, giao lưu mà thầy tổ chức ở trường của thầy - Trường Hán Nôm Học làm người Nguyễn Trãi và nhiều nơi khác. Tuy đến với tư cách là khách mời, nhưng tôi vẫn thích được nhắc đến là một học trò của thầy hơn, bởi quả thực tôi cũng là một trong những học viên tiếp nhận say sưa các kiến thức mà thầy truyền dạy. Khi đã trở thành một nghệ sĩ, một MC được người hâm mộ Việt Nam công nhận, yêu mến, tôi vẫn luôn giữ liên lạc thường xuyên với thầy. Mỗi lúc rảnh rỗi, hay khi trong cuộc sống có điều gì khó gỡ tôi lại tìm đến gặp và trò chuyện cùng thầy. Thầy luôn đón tiếp vui vẻ, đầy trìu mến và đưa ra nhiều lời khuyên hữu ích, không ngừng truyền động lực sống tốt đẹp cho tôi. Giờ thầy đã đi xa, tôi không còn được lui đến gặp thầy nữa, nhưng tôi luôn giữ trong tim mình hình ảnh người thầy đáng kính. Mỗi năm đến dịp giỗ thầy, tôi và một số người bạn đều là học trò cũ của thầy lại đến tư gia cùng ôn lại những kỷ niệm, về quãng thời gian được học tập với thầy. Tôi kính trọng thầy Việt không chỉ vì thầy là một học giả uyên bác mà còn vì tấm lòng và tâm huyết mong muốn truyền dạy lại những lề luật, cột trụ để thành người. Ngoài viết sách, thầy dành cả đời mình để mở các khóa dạy, truyền đạt kinh nghiệm sống, các quy chuẩn đạo đức, những cách thức ứng xử sao cho văn minh, lịch thiệp... Ðáng quý lắm khi thầy xây dựng nên mô hình “trường học làm người” mở tại tư gia, dạy học viên không phân biệt đối tượng, độ tuổi. Thầy từng nói về việc “học nghề làm người” rằng: “Tất cả cho ta thấy rằng khai trí là một chuyện, đi tu là một chuyện, còn học nghề làm người quả thực là một chuyện khác. Theo các nhà tâm lý học “học nghề làm người” là khoa tâm lý áp dụng vào đời sống được điều khiển. Nó cũng gọi là khoa học của tinh thần vì tinh thần tượng trưng cho con người, là cái làm cho con người hãnh diện nhất trong các vật thụ tạo”. Và học làm người chưa bao giờ là dễ dàng: “Chắc chắn kết quả không như trở bàn tay vì là tâm lý học ứng dụng chứ không phải “ma thuật” hay một thứ phép mầu nào. Tuy nhiên nỗ lực của bạn sẽ an ủi bạn sau một thời gian vì bạn thấy con người bạn thay đổi, tự tri hơn, thành công hơn, thấy yêu đời và tận tụy giúp đời hơn”. Thời của chúng tôi, được học những kiến thức đó là điều quý giá lắm. Những bài học mà chúng tôi chưa được học trên ghế nhà trường chính thống, những bài học để chúng tôi hoàn thiện bản thân. Các bài giảng cùng hàng trăm đầu sách dạy làm người của thầy, đều được truyền đạt súc tích, dễ hiểu, không hề khuôn sáo, sách vở hay nặng về lý thuyết. Nhắc đến Tủ sách học làm người của thầy Việt, tôi nhớ đến những cái tên quen thuộc như Thất nhân tâm; Thuật hùng biện; Nên thân với đời; Rèn nhân cách; Đức tự chủ; Thinh lặng cũng là hùng biện; Tâm lý bạn trai; Tâm lý bạn gái... Sách vở ngày nay vô cùng, nhưng tôi dám cả quyết rằng những tác phẩm của thầy Việt vẫn nguyên giá trị giáo dục, giá trị thời sự và chắc chắn sẽ giúp khai trí cho người trẻ, để họ hoàn thiện bản thân, có tương lai vững chắc, xán lạn. Khi biết Công ty Cổ phần Văn hóa Truyền thông Sống xuất bản lại một số đầu sách của thầy và liên hệ với tôi nhờ viết mấy dòng giới thiệu này, tôi rất vui mừng và cũng lấy làm hân hạnh. Mong các bạn đọc thời nay đón nhận và tự học được nhiều bài học quý giá từ bộ sách! - MC THANH BẠCH Mời các bạn đón đọc Thuật Nói Chuyện Hàng Ngày của tác giả Hoàng Xuân Việt.
Thất Nhân Tâm
 Trong thực tế của xử thế hằng ngày cũng như giao tiếp doanh nghiệp, chúng ta nhiều khi phải nói và ứng xử thất nhân tâm hơn là đắc nhân tâm. Nói cách khác, chúng ta chọc thiên hạ ghét nhiều hơn là chúng ta làm cho kẻ khác quý mến ta. Vậy tại sao kẻ khác dễ ghét ta hơn là dễ thương ta? Lý do thứ nhất: Cứ thông thường thì sự xa lạ, sự quen thân ít, sự lãnh đạm tạo môi trường thuận tiện cho sự nghi ngờ, sự đề phòng và cũng dọn đường cho sự phủ nhận, sự tấn công. Trong đời sống xã hội, các sự kiện kể trên là tình trạng tâm lý xảy ra Đông Tây kim cổ. Người khác đối với ta như vậy mà ta đối với người khác cũng như vậy. Tiếp xúc với một người lạ hay chỉ quen biết sơ sơ thôi và nếu họ ăn nói, cư xử lãnh đạm với ta thì ta tiếp xúc với thế thủ. Ta dè dặt lời nói. Ta quyết định cẩn thận. Nếu họ có tướng diện xấu, ăn nói vụng về, ăn mặc khiếm nhã, xét đoán chủ quan, hồ đồ, có cái nhìn soi mói... thì ta khó có thiện cảm với họ và rất có thể ta ghét họ nữa. Mà họ đã gây ác cảm với ta như vậy rồi, còn mong gì họ nói ta nghe, mong gì họ yêu cầu ta cái gì mà ta giúp. Rồi còn lâu mới làm ta giao du với họ hoặc hợp tác công việc với họ. Giữa ta và họ coi như “rút cầu”. Họ đối xử với ta như vậy, ta ghét họ. Hoặc ngược lại họ cũng ghét ta. Đó là tâm lý tự nhiên phần đông loài người. Đây là vấn đề bẩm phú, trừ một số nhỏ có “bẩm phú” ngược lại. Lý do thứ hai: Ta dễ thất nhân tâm bởi vì ta tự nhiên có khuynh hướng bày tỏ con người của ta một cách chủ quan. Ta thích suy nghĩ phán đoán như vậy. Ta thích phát biểu thế kia. Ta thích nhìn mà ngó ngang liếc dọc. Ta thích cười giòn, cười pháo nổ, cười như một loài chim rừng gáy, hay cười khú khú. Ta thích ăn mà ngốn. Ta thích nhai đồ ăn gây ồn ào. Ta thích húp canh có âm thanh sao đó. Chính cái “thích” ấy của ta làm cho kẻ khác không thích ta. Mà như vậy là ta thất nhân tâm. Lý do thứ ba: Đó là chưa nói có vô số trường hợp mà nếu muốn đừng làm cho kẻ khác ghét ta, đừng làm cho kẻ khác thù oán ta thì ta phải tự kiềm chế, tự giới hạn dữ dội lắm để ta đừng nói năng xúc phạm kẻ khác, đừng cư xử hồ đồ, suồng sã, đừng hỏi những câu tỏ ra tò mò đời tư của họ, thông tin đầu này đầu nọ ghét họ (họ ghét luôn tới ta). Biết bao trường hợp giao tiếp mà ta kém tế nhị, kém kín đáo lỡ hớ một hai lời nói là ta bị kẻ khác ngờ vực hoặc có ác cảm với ta ngay. Lý do thứ tư: Ai trong chúng ta cũng quen mang trong mình một “ông thần” chuyên môn chọc cho kẻ khác ghét ta cực độ. Ông thần ấy có tên là “tự ái”. Nơi bất cứ ai, nhất là nơi kẻ bình dân, ít học, kém luyện tâm trí, đặc biệt là nơi kẻ thuộc hạ của ta, “ông thần tự ái” là một cái gì đáng kinh khủng. Nghĩa là sao? Thưa, nghĩa là ai nói xúc phạm họ, có cử chỉ gì va chạm quyền lợi hay danh dự của họ, thì mặt họ hoặc đỏ bừng lên như gấc hoặc tái mét đi như chàm đổ, rồi họ nhăn mặt, nhíu mày, cau có, la hét chửi mắng trả đũa. Ông thần tự ái tạm thời biến họ thành một thứ điên trong cơn lôi đình. Ai khác hay nếu ta nô lệ thần tự ái như vậy thì còn gì nữa mà không thất nhân tâm.  Như đã nói ở trên, chúng ta có khuynh hướng thất nhân tâm mạnh hơn đắc nhân tâm. Lý do cơ bản là vì ta mang trong mình khuynh hướng ích kỷ, chủ quan tự ái, thích trấn áp toàn những thứ chống lại kẻ khác. Bây giờ nếu muốn làm cho kẻ khác bằng lòng bằng mặt quý mến ta, thì ta phải nỗ lực chế ngự các loại khuynh hướng trên. Cho nên gây thiện cảm khó làm hơn ác cảm là tại vậy. Ta đứng gần con ngựa, khi nó muốn ngáp, nó cứ ngáp. Ngựa cùng bao nhiêu loài thú khác không có ý thức đời sống xã hội, nên khi ngáp không tìm cách che mồm miệng lại. Còn con người, có thú tính, cũng có lý trí, ý thức rằng sống trong xã hội phải giữ phép lịch sự. Vì lẽ đó khi ngồi trước mặt khách, ta vốn thích ngáp há miệng to cho đã quai hàm, nhưng ta lại phải lấy tay che miệng lại và nỗ lực hãm phanh cái ngáp, bạn thử nghĩ coi ngáp há to miệng (thất nhân tâm) với ngáp mà hãm ngáp (đắc nhân tâm) cái nào khó làm hơn? — HOÀNG XUÂN VIỆT *** Hoàng Xuân Việt – Người thầy đáng kính Trong đời luôn có những mối nhân duyên không thể nào quên. Với tôi, được biết thầy Hoàng Xuân Việt là một duyên lành mà tôi vô cùng trân quý. Thầy là một trong những người có ảnh hưởng rất lớn để có tôi của ngày hôm nay. Từ nhỏ tôi đã mơ ước trở thành một người dẫn chương trình nổi tiếng. Nhưng để đi đến thành công là một con đường dài, là cả quá trình không ngừng nỗ lực, kiên trì học tập, trau dồi cả về kiến thức lẫn kỹ năng. Sau những năm tháng học tập tại Nga, năm 1985 tôi trở về Việt Nam với bầu nhiệt huyết căng tràn, háo hức bắt tay gây dựng sự nghiệp, thực hiện ước mơ thuở nhỏ. Và thật may mắn cho tôi khi vào thời điểm quan trọng nhất đó tôi đã gặp được thầy Hoàng Xuân Việt và tiếp thu những tri thức về kỹ năng giao tiếp, hùng biện, những bài học giá trị để “nên thân với đời”. Tôi vẫn còn nhớ như in, đó là năm 2002, tại một triển lãm ở Công viên Tao Đàn, lần đầu tiên tôi gặp thầy Việt, một người đàn ông tầm thước với vầng trán cao rộng, toát lên khí chất của một vị học giả uyên bác nhưng giản dị và gần gũi vô cùng. Kể từ đó, với tư cách là khách mời, tôi thường xuyên cùng thầy tham gia các chương trình, những buổi giảng dạy, giao lưu mà thầy tổ chức ở trường của thầy - Trường Hán Nôm Học làm người Nguyễn Trãi và nhiều nơi khác. Tuy đến với tư cách là khách mời, nhưng tôi vẫn thích được nhắc đến là một học trò của thầy hơn, bởi quả thực tôi cũng là một trong những học viên tiếp nhận say sưa các kiến thức mà thầy truyền dạy. Khi đã trở thành một nghệ sĩ, một MC được người hâm mộ Việt Nam công nhận, yêu mến, tôi vẫn luôn giữ liên lạc thường xuyên với thầy. Mỗi lúc rảnh rỗi, hay khi trong cuộc sống có điều gì khó gỡ tôi lại tìm đến gặp và trò chuyện cùng thầy. Thầy luôn đón tiếp vui vẻ, đầy trìu mến và đưa ra nhiều lời khuyên hữu ích, không ngừng truyền động lực sống tốt đẹp cho tôi. Giờ thầy đã đi xa, tôi không còn được lui đến gặp thầy nữa, nhưng tôi luôn giữ trong tim mình hình ảnh người thầy đáng kính. Mỗi năm đến dịp giỗ thầy, tôi và một số người bạn đều là học trò cũ của thầy lại đến tư gia cùng ôn lại những kỷ niệm về quãng thời gian được học tập với thầy. Tôi kính trọng thầy Việt không chỉ vì thầy là một học giả uyên bác mà còn vì tấm lòng và tâm huyết mong muốn truyền dạy lại những lề luật, cột trụ để thành người. Ngoài viết sách, thầy dành cả đời mình để mở các khóa dạy, truyền đạt kinh nghiệm sống, các quy chuẩn đạo đức, những cách thức ứng xử sao cho văn minh, lịch thiệp... Ðáng quý lắm khi thầy xây dựng nên mô hình “trường học làm người” mở tại tư gia, dạy học viên không phân biệt đối tượng, độ tuổi. Thầy từng nói về việc “học nghề làm người” rằng: “Tất cả cho ta thấy rằng khai trí là một chuyện, đi tu là một chuyện, còn học nghề làm người quả thực là một chuyện khác. Theo các nhà tâm lý học “học nghề làm người” là khoa tâm lý áp dụng vào đời sống được điều khiển. Nó cũng gọi là khoa học của tinh thần vì tinh thần tượng trưng cho con người, là cái làm cho con người hãnh diện nhất trong các vật thụ tạo”. Và học làm người chưa bao giờ là dễ dàng: “Chắc chắn kết quả không như trở bàn tay vì là tâm lý học ứng dụng chứ không phải “ma thuật” hay một thứ phép mầu nào. Tuy nhiên nỗ lực của bạn sẽ an ủi bạn sau một thời gian vì bạn thấy con người bạn thay đổi, tự tri hơn, thành công hơn, thấy yêu đời và tận tụy giúp đời hơn”. Thời của chúng tôi, được học những kiến thức đó là điều quý giá lắm. Những bài học mà chúng tôi chưa được học trên ghế nhà trường chính thống, những bài học để chúng tôi hoàn thiện bản thân. Các bài giảng cùng hàng trăm đầu sách dạy làm người của thầy, đều được truyền đạt súc tích, dễ hiểu, không hề khuôn sáo, sách vở hay nặng về lý thuyết. Nhắc đến Tủ sách học làm người của thầy Việt, tôi nhớ đến những cái tên quen thuộc như Thất nhân tâm; Thuật hùng biện; Nên thân với đời; Rèn nhân cách; Đức tự chủ; Thinh lặng cũng là hùng biện; Tâm lý bạn trai; Tâm lý bạn gái... Sách vở ngày nay vô cùng nhưng tôi dám cả quyết rằng những tác phẩm của thầy Việt vẫn nguyên giá trị giáo dục, giá trị thời sự và chắc chắn sẽ giúp khai trí cho người trẻ, để họ hoàn thiện bản thân, có tương lai vững chắc, xán lạn. Khi biết Công ty Cổ phần Văn hóa Truyền thông Sống xuất bản lại một số đầu sách của thầy và liên hệ với tôi nhờ viết mấy dòng giới thiệu này, tôi rất vui mừng và cũng lấy làm hân hạnh. Mong các bạn đọc thời nay đón nhận và tự học được nhiều bài học quý giá từ bộ sách! — MC THANH BẠCH Mời các bạn đón đọc Thất Nhân Tâm của tác giả Hoàng Xuân Việt.