Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Đường Đau Khổ - Aleksey Nikolayevich Tolstoy

Con đường đau khổ là đỉnh cao chói lọi của tài năng A.Tôlxtôi, là cuốn tiểu thuyết cổ điển của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. A.Tôlxtôi đã viết bộ tiểu thuyết này trong hơn hai mươi năm (từ 1919 đến 1941) và quá trình viết cuốn tiểu thuyết ấy cũng là quá trình lớn lên trong tầm nhận thức của nhà văn đối với cách mạng. Tập đầu của bộ tiểu thuyết, cuốn Hai chị em, có thể xem là một thiên tự sự về vận mệnh cá nhân của các nhân vật trí thức đang tìm đường giữa những biến động dữ dội của cuộc sống. Mở đầu cuốn sách, A.Tôlxtôi đưa ta vào không khí của kinh thành Pêtecburg năm 1914, những ngày trước chiến tranh. Pêtecburg và cả nước Nga đang sống trong những ngày tháng hấp hối của xã hội tư sản, những ngày tháng chán chường, phờ phạc, sặc nồng mùi vốtka và ái ân không tình yêu. Xã hội tư sản đang sống những ngày tàn của nó và những nguời trí thức tiểu tư sản, như "những con bướm", "không dính dáng gì đến khía cạnh nào của nước Nga cả", đang khắc khoải, hoảng hốt đi tìm "con đường thứ ba" làm giải pháp phá vỡ bế tắc của cuộc sống. Sống trong không khí xã hội ấy, những nhân vật của A.Tôlxtôi do bản chất của mình, cũng đã dấn mình vào những cuộc tình phù du, những cuộc "dạ đàm" triết học và nghệ thuật, vào những suy tư dằn vặt vô vọng và đau đớn để tìm cách thoát ra khỏi xã hội và thoát ra khỏi chính mình. Katia, Đasa, Rốtsin... kẻ ít người nhiều, đều đã sống như những "thân phận cô đơn", những kẻ bị "lưu đày" trong xã hội ấy. Cuối cùng, họ sẽ đi tới đâu với những ưu tư ấy? Như tác giả sau này sẽ cho thấy, con đường của họ sẽ là con đường lạc lối, nếu không có một giải pháp thực sự cách mạng. Mặc dù trong tập đầu này, A.Tôlxtôi không có ý định mô tả chính quá trình lịch sử và có ý định viết một cuốn tiểu thuyết sử thi về nội chiến và cách mạng, Hai chị em vẫn không phải là một cuốn tiểu thuyết thuộc loại sinh hoạt gia đình tầm thường. "Hai chị em không phải là tiểu thuyết lịch sử. Đó là hình ảnh thời đại qua những ấn tượng riêng tư" (A.Tôlxtôi). Trong tập đầu tác phẩm này, A.Tôlxtôi đã chú ý xác định mối quan hệ giữa trí thức và cách mạng hơn là mô tả những biến cố đang diễn ra trên dòng lịch sử. Vào thời bấy giờ, đây chính là vấn đề thời sự của toàn thể giới trí thức Nga. Âm điệu của cuốn tiểu thuyết là âm điệu triết lý xã hội đi đôi với trữ tình cá nhân và điều đó được thể hiện ngay từ những trang đầu của cuốn tiểu thuyết. Sức hấp dẫn của tác phẩm trước hết là ở chỗ này, ở chỗ vận mệnh cá nhân các nhân vật đã được A.Tôlxtôi thể hiện trong sự tha thiết đối với vận mệnh của nước Nga, trong nhiệt hứng cải biến cách mạng, mặc dù chính tác giả đã không hiểu rõ thực chất của cách mạng. Nghệ thuật của tác giả trong việc tạo ra những bức tranh giàu màu sắc, trong việc sử dụng ngôn từ và chất thơ trữ tình đằm thắm, sự "miêu tả lý thú và tinh tế tâm lý của một người con gái Nga đến tuổi yêu đương" như lời nhận xét của Gorki... tất cả đã góp phần tạo nên hứng thú đặc biệt của cuốn sách. Kết thúc tập I, tác giả, qua lời nhân vật Rốtsin như muốn nói lên một tư tưởng chính của tác phẩm: "Năm tháng sẽ trôi qua, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét và sẽ còn lại không phôi pha tấm lòng em nhẫn nại dịu dàng và chan chứa tình yêu thương..." Các nhân vật trong tập I đã tìm đến với tình yêu và nghĩ rằng tình yêu ấy sẽ là điểm chót cùng của hạnh phúc và hi vọng. Tình yêu muốn vượt lên cao hơn cuộc sống, tự biến thành vương quốc của tự do, vịnh biển bình yên cho những con tàu trong bão táp. Đối với A.Tôlxtôi, đây là một tư tưởng không mới. Đây chỉ là một tư tưởng mà A.Tôlxtôi khẳng định lại một lần nữa trong hoàn cảnh khác. Trong phần mở đầu vở kịch Ngày chiến trận viết từ năm 1914, qua lời nhân vật của mình, A.Tôlxtôi cũng đã tuyên bố sức mạnh toàn năng của tình yêu: "Những ngày của chúng ta sẽ trôi qua, những cơn bão táp sẽ lắng dần, lúc bấy giờ niềm vui sẽ trở thành sức mạnh thống trị toàn năng... Cần phải tin vào thời đại trị vì của niềm vui và biết rằng con đường của nó dẫn đến những cánh cổng vàng của tình yêu...". Nhưng chủ đề đi tìm hạnh phúc cá nhân, chủ đề chủ yếu trong phần đầu của cuốn tiểu thuyết, về sau đã bị phủ định vì chính cuộc sống đã bác bỏ quan niệm cũ kỹ này. Và nếu như tác phẩm kết thúc ở đấy, thì chính A.Tôlxtôi đã bỏ rơi các nhân vật của mình vào lúc cuộc sống của họ bước vào một giai đoạn gay go hơn bao giờ hết trước những biến chuyển đột ngột của cuộc đời. Thực ra, đây là một vấn đề dễ hiểu vì chính bản thân A.Tôlxtôi cũng đang choáng váng trước những chuyển động cách mạng, bản thân ông cũng đang ở trong tâm trạng hoài nghi, đau đớn. Với một tâm trạng như vậy làm sao có thể tìm thấy lối ra cho nhân vật? Tác giả bế tắc, thì nhân vật cũng bế tắc, đó là điều có tính quy luật trong nghệ thuật. Trong một bức thư viết sau này. A.Tôlxtôi đã giải thích sự kết thúc Hai chị em trong tâm trạng ấy: "Tôi đã viết xong Con đường đau khổ ở Campa, nơi đây tôi đã viết các chương cuối trong vòng một tháng. Đoạn cuối tôi đã thất bại, và tôi đã có lần xé nó đi, vứt qua cửa sổ. Sở dĩ tôi thất bại trong phần cuối là do một mẫn cảm sâu sắc có tính quy luật của nghệ sĩ, vì ngay từ lúc bấy giờ tôi hiểu rằng cuốn này chỉ là phần đầu của một thiên anh hùng ca và thiên anh hùng ca đó sẽ khai triển. Chính vì thế mà có sự thất bại ở phần cuối chứ không phải vì như người ta nói, hồi bấy giờ tôi chưa bước lên những đỉnh cao để nhìn lại những sự việc đã xảy ra. Người nghệ sĩ còn có thể bước lên đỉnh cao như thế nào khi mà anh ta bắt đầu hiểu rằng mình đang ở trong sương mù, đang mò mẫm trong bóng tối, rằng mọi sự đều trở thành mơ hồ, rối ren, và muốn hiểu được những điều ấy thì phải đợi đến một lúc nào đó trong tương lai. Ngay khi tôi đã chữa lại, cuốn tiểu thuyết này vẫn không thể nói là có một kết thúc. Vả chăng không thể có như thế được vì nó chỉ là phần đầu của một bộ tiểu thuyết ba tập". * K.Fêđin, một nhà văn Liên Xô nổi tiếng, đã có một nhận xét đáng chú ý về sự chuyển tiếp giữa Hai chị em và cuốn tiếp theo Năm 1918: "Trong Hai chị em ta nghe thấy bước đi của chính lịch sử, lúc đầu vang lên khe khẽ, sau đó rõ dần, kiên trì, kéo dài và cuối cùng lấn át tất cả. Trong khi xây dựng cuốn tiểu thuyết Năm 1918 tác giả đã để cơn bão táp tràn vào tất cả các cửa lớn, cuốn phăng đi tất cả những số phận cá nhân nhỏ bé, đáng yêu và tuyệt vọng của nhân vật tiểu thuyết". Hai chị em là tác phẩm về số phận của mình, của thế hệ mình. "Ấn tượng riêng tư về thời đại", tính chất "phi lịch sử" - nếu như có thể nói được như vậy - của cuốn Hai chị em lộ ra trong cách hình dung cách mạng, xem cách mạng như sự bùng nổ những sức mạnh tự phát tàn nhẫn. Các nhân vật của Hai chị em thấy cách mạng, chiến tranh, lịch sử như là một cái gì trớ trêu, thù địch, thay đổi bất thường, và họ cố đem đối lập tính chất "bấp bênh" của lịch sử với sự "vững vàng" của hạnh phúc cá nhân. Tính chất phi lịch sử đó cũng biểu lộ rõ qua việc mô tả phiến diện những người đại diện của cách mạng, những người cộng sản. Vaxilli Rubliôp trong Hai chị em, trong cách nhìn của Têlêghin, tuy là một con người tiêu biểu cho nước Nga đang thức tỉnh, cũng chỉ là một người được mô tả gọn lỏn trong mấy tiếng "rất thông minh, ác như quỉ". Viết cuốn Năm 1918, A.Tôlxtôi đã chuyển hẳn cách nhìn và cách miêu tả đời sống nhân vật. Quá khứ đang còn nóng bỏng được tái hiện và tác phẩm bản lề này chuyển hẳn tác phẩm ba tập thành tác phẩm sử thi, anh hùng ca. A.Tôlxtôi đã thể nghiệm lại cuộc sống của đất nước Xô viết trong một giai đoạn đột biến, ông phải suy nghĩ lại, cảm xúc lại tất cả dưới một cái nhìn mới và bản thân tầm rộng lớn của cuộc sống chiến đấu định tái hiện vào tác phẩm đã đòi hỏi một dung lượng tiểu thuyết rộng lớn, buộc A.Tôlxtôi phải chuyển sang sử dụng thể loại anh hùng ca. Nhưng bản thân tầm rộng lớn của dung lượng tiểu thuyết không phải bao giờ cũng dẫn đến tính chất sử thi, hoành tráng. Vấn đề là "với tư cách một sử gia" A.Tôlxtôi đã cảm thụ thời đại mình như là lịch sử. Ông đã nhìn thấy trong vô số biến cố của quá khứ những bước tiến của lịch sử, nhìn thấy ngọn nguồn của lịch sử hoành tráng trong hiện thực của đất nước Xô viết đang diễn ra sôi động từng ngày. Nếu như đi tìm hạnh phúc cá nhân là mô-típ chủ yếu của phần đầu cuốn tiểu thuyết thì trong Năm 1918 những sự kiện lịch sử dường như đối lập với số phận cá nhân các nhân vật. Trong tác phẩm này, các nhân vật của A.Tôlxtôi đã đi vào cuộc sống và sự tiếp xúc với nhân dân đã dần dần thủ tiêu những mâu thuẫn cá nhân và xã hội, cuối cùng hòa hợp lại trong tình yêu đối với Tổ quốc và nhân dân. Cùng với việc miêu tả chính quá trình lịch sử của đất nước Nga, trong Năm 1918 và sau đó trong Buổi sáng ảm đạm đã xuất hiện hàng loạt những nhân vật cộng sản đầy sức sống và có ý nghĩa lớn lao. Những con người này, những người đã cứu đất nước và nhân dân ra khỏi bàn tay của bọn phản động và bọn can thiệp nước ngoài, đã là "tinh hoa, lực lượng và tương lai của đất nước" (Lê Nin). Đấy là những người yêu nước chân chính, chiến đấu kiên định, những người thông minh mà giản dị, đôn hậu, được tôi luyện vững vàng trong chính cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù. Ivan Gôra, người công nhân cộng sản có ý thức, người chính ủy đã dương cao ngọn cờ đỏ trong trận ác liệt trên bờ sông Manyts và khi hi sinh rồi, anh vẫn còn "dang rộng hai tay ra như muốn ôm lấy đất, chết rồi mà vẫn không chịu để cho quân thù chiếm mảnh đất này" Tsugai, người cán bộ tổ chức quần chúng thông minh, giàu kinh nghiệm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Số phận của Anyxya tượng trưng khát vọng vươn tới cái đẹp và chứng tỏ cách mạng đã mở rộng, thức tỉnh những khát vọng chưa từng có đối với văn học của nhân dân lao động, Cô thanh niên cộng sản Maruxya được miêu tả chỉ trong vài trang, nhưng hình bóng của cô thấm nhuần chất thơ của sự trong trắng và niềm tin ở lý tưởng... Qua tất cả những nhân vật này, cũng như qua việc thể hiện một cách chân xác hình tượng đám đông thủy thủ, hình tượng của những người lao động, A.Tôlxtôi muốn vạch rõ ảnh hưởng và tác động của họ đối với những người trí thức, vạch rõ sự xuất hiện con người mới. Năm 1939, Tôlxtôi viết cuốn Buổi sáng ảm đạm, tập cuối của bộ ba Con đường đau khổ và đã chấm dấu hết vào đúng ngày nổ ra chiến tranh vệ quốc vĩ đại - ngày 22-6-1941. Nối tiếp nhiệm vụ mô tả những biến cố lịch sử của Năm 1918, trong phần cuối này của bộ tiểu thuyết, A.Tôlxtôi đã sáng tạo một cách thể hiện độc đáo. Trong khi thu hẹp nhiệm vụ mô tả các sự kiện lịch sử vào vùng Ukrain và vùng xung quanh Xarítxưn, A.Tôlxtôi đi vào chiều sâu nội tâm của nhân vật, chiều sâu do cuộc cách mạng và nội chiến, do cuộc sống tác động vào ý thức và tâm lý của hàng triệu người. Trong Buổi sáng ảm đạm cũng như trong Năm 1918, A.Tôlxtôi đã sử dụng rộng rãi những tài liệu lưu trữ lịch sử. Và do đó có thể gọi Buổi sáng ảm đạm và Năm 1918 là biên niên sử của cuộc nội chiến. Dễ có ấn tượng là kết cấu của cuốn tiểu thuyết bị xé lẻ do sự mô tả luân phiên, chồng chéo nhau giữa hai tuyến sự kiện và con người, nhưng dụng ý của A.Tôlxtôi là muốn làm nổi bật tính chất bão táp của thời đại. Một bên là số phận cá nhân của các nhân vật, tình yêu, cuộc sống, những ưu tư dằn vặt, những tìm tòi đau đớn... và một bên là chính lịch sử đang chuyển động và soi bóng mình vào vận mệnh của mỗi cá nhân. Lịch sử không chỉ chuyển động trong các lớp tầng riêng tư của tiểu thuyết, chính lịch sử là một nhân vật lớn. Đã có nhiều nhà văn viết về nội chiến cách mạng của nước Nga. Nhưng sức mạnh của tài năng A.Tôlxtôi là ở chỗ ông đã miêu tả thành công những bức tranh sử thi rộng lớn, đồng thời đã mô tả một cách tinh tế, đầy cảm hứng thơ ca những tình cảm sâu kín nhất của con người. *** Nếu ví văn học Nga thế kỷ 19 như một cánh rừng đại ngàn thì Puskin, Lermantov, Gôgôl, Turghênhiev, Lev Tôlxtôi, Đôxtôiépxki, Tsêkhốv... là những đại thụ của rừng Nga mênh mông ấy. Các nhà văn Xô viết trong thế kỷ này cũng đã tạo ra một rừng Nga mới, trong đó cũng có những cây lớn mà bóng mát hẳn sẽ che rợp cho cả thế hệ mai sau. Lần lượt ta có thể điểm qua: Corki, con người khổng lồ của nền văn học Xô viết, cái gạch nối vĩ đại giữa văn học cổ điển Nga với nền văn học mới, người mở ra kỷ nguyên của nền văn học vô sản toàn thế giới. Maiacôvxki, nhà thơ Xô viết vĩ đại, Đăng tơ của thời đại mới, người bằng trái tim lớn đập mãnh liệt trong lòng ngực khỏe của mình, lần đầu tiên kết hợp thành công thơ ca và chủ nghĩa cộng sản. Sôlôkhôv, cánh chim đại bàng đã bất thần vẫy lên đôi cánh mênh mông trong văn học, người đã khắc họa vận mệnh của nhân dân Nga trong tiểu thuyết bằng những nét dao trổ tàn nhẫn, với một vẻ đẹp chói gắt, xốn xang... Và Phađêev, và Phuốcmanôv, và Axtơrốvxki... những nhà văn bước thẳng từ chiến trường nội chiến vào văn học, đã để lại những tiểu thuyết Chiến bại, Tsapaev, Thép đã tôi thế đấy như là những tượng đồng đen vững chắc trong văn học. Giữa những nhà văn ấy, con người có khuôn mặt hiền lành phúc hậu không lẫn với ai - A.Tôlxtôi - đã bước vào văn học Xô viết bằng con đường riêng của mình. Sinh năm 1889, A.Tôlxtôi đã qua thời thơ ấu tại một châu thành nhỏ trên bờ sông Vôlga nước Nga, con sông mà những người nông nô đã còng lưng kéo thuyền trong bức họa nổi tiếng của Rêpin   Ngoài tiểu thuyết Con đường đau khổ, trong thời gian từ 1923 đến khi mất (1945) A.Tôlxtôi đã lao động sáng tạo không ngừng, đạt đến những đỉnh cao của tài năng nghệ thuật với những cuốn "Piốt đệ nhất" (1925-1945), "Truyện của Ivan Xuđarep" (1942-1944), "Ivan Lôi đế" (kịch- 1943), "Bánh mì" (1937)... Là một người yêu mến nồng nhiệt Tổ quốc của mình không phải chỉ với tư cách là một công dân, một nghệ sĩ mà còn với tư cách một sử gia, A.Tôlxtôi đã viết về những bước ngoặt quan trọng nhất của lịch sử Nga: thời đại Ivan Lôi đế; thời đại Piốt đệ nhất; thời đại cách mạng Tháng Mười và nội chiến cách mạng, thời kỳ chiến tranh chống phát-xít xâm lược. Năm 1937, A.Tôlxtôi được bầu vào Xô viết tối cao của Liên Xô; năm 1938 ông được thưởng huân chương Lê Nin và được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, năm 1942 ông được trao giải thưởng Xtalin (sau này đổi thành giải thưởng Lê Nin, giải thưởng cao nhất về văn học của Liên Xô). Tổ quốc và nhân dân đánh giá rất cao những công trình sáng tạo nghệ thuật của A.Tôlxtôi. Tiếc thay cái chết quá sớm của ông đã làm nền văn học Xô viết mất đi những tác phẩm hùng vĩ mà ông chưa kịp viết hoặc còn đang viết dở dang. Mời các bạn đón đọc Con Đường Đau Khổ của tác giả Aleksey Nikolayevich Tolstoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghiệt Duyên - Thommayanti
Angsumalin từ biệt người bạn trai thân thiết từ thuở thiếu thời để anh lên đường sang Anh quốc du học, với lời hứa chờ đợi anh về và trả lời câu hỏi:" Em sẽ cưới anh chứ?" Nhưng rồi, Đại chiến Thế giới thứ hai nổ ra, quân Nhật tiến vào chiếm đóng đất nước Thái Lan, và nhất là sự xuất hiện của sĩ quan Nhật trẻ tuổi, đẹp trai, hào hiệp Kobpori đã làm đảo lộn mọi thứ trong cuộc đời cô gái... "Một mặt, Nghiệt duyên là câu chuyện tình cao đẹp và tinh tế; mặt khác nó làm tấm gương phản chiếu hậu quả ác nghiệt của chiến tranh, đồng thời của phản ánh một cách chân thực và sâu sắc cốt lõi của nền văn hóa Thái Lan để ta nghiên cứu tìm hiểu." - Trích lời tựa cho lần xuất bản thứ 11 của Nhà xuất bản Baanwannagum -  *** Thời tiết buổi sớm mai mùa đông năm ấy lạnh tới mức sương mù bao phủ khắp nơi. Nước sông Chao-Phraya đầy ứ bởi đang trong mùa lũ. Thuyền bè xuôi ngược trên sông chỉ như những ảnh hình mờ ảo trôi qua lại trong màn sương rồi khuất bóng đi ngay. Nhà cửa hai bên bờ sông cũng bị lớp sương mỏng che phủ, chỉ còn như những hình khối nhòa nhòa. Làn nước vỡ tan khi một bóng người đang lặn bỗng nhiên nổi lên, bím tóc tết dài lưới thướt, khuôn mặt trắng xanh, đôi môi tái nhợt vì lạnh. Trời lạnh đến nỗi hơi phả ra từ miệng cô trở thành một làn khói trắng dài. Có tiếng gọi vọng đến khiến cô bám vào bậc cầu thang, ngóng về phía cây cầu nối vào bên trong nhà. Ngôi nhà nằm khuất giữa vườn cây, chỉ trông thấy mái nhà cao cao nhô lên thấp thoáng khỏi hàng cây tối thẫm. “Ang ơi... Ang ơi...” Tiếng gọi càng lúc nghe càng gần hơn. Cô gái bèn lặn xuống, rồi từ từ ngoi lên, lần này chỉ thấy mỗi gương mặt từ cổ trở lên nổi trên mặt nước phía dưới cây cầu, không để phát ra tiếng động. ... Mời các bạn đón đọc Nghiệt Duyên của tác giả Thommayanti.
Hoa Cúc Không Phải Màu Vàng - Lê Minh Quốc
Nguyên – cậu học sinh lớp 12 thích Kim – cô bạn lớp trưởng xinh xắn, dễ thương. Với sự giúp sức của Quân – cậu bạn thân nhất cùng với bao phen dở khóc dở cười, cuối cùng Nguyên đã tỏ lòng mình với Kim. Câu chuyện không chỉ có Nguyên mà còn có những người bạn mình, có băng nhóm “nhảy cửa sổ” gồm Dũng lé và Kỳ râu, có cô Hạnh Tần – cô giáo dạy văn với chất giọng Hà Nội ngọt ngào khiến bao đứa học trò say sưa, có chị Bí thư Hồng – người luôn nghiêm khắc với tụi học trò, có Bạch sư phụ - người văn võ song toàn được mệnh danh trong truyền thuyết. Tất cả những nhân vật và câu chuyện xoay quanh họ đã tạo nên khoảng không của tuổi học trò đầy hồn nhiên, ngây thơ và đáng yêu. *** Nguyên cứ đi qua rồi đi lại bằng tâm trạng của kẻ ngớ ngẩn nhất trần gian này. Hồi còn nhỏ, anh vốn là thằng mê đọc tiểu thuyết trinh thám. Những hành động của nhân vật chính bao giờ cũng làm anh say mê. Chỉ cần quan sát mẩu thuốc lá đang cháy dở, một dấu vết mơ hồ như vệt son trên áo là họ cũng truy tìm ra thủ phạm. Có nghĩa là họ rất tài ba. Và điều quan trọng là họ cũng rất... đẹp trai. Nguyên có đẹp trai hay không anh không tự biết được điều đó. Nhưng tại sao đêm nay anh không thể đóng vai một thám tử tài ba? Điều đó có gì là khó? Kim sẽ kinh ngạc. Sẽ sững sờ vì hành động táo bạo của anh. Và nàng sẽ... yêu anh. Chỉ cần suy nghĩ như vậy, Nguyên cũng sung sướng như vừa trúng số độc đắc. Điều đó có xảy ra hay không hỡi ông Tơ bà Nguyệt. Đứng nép vào cánh cổng nhà nàng. Nguyên rụt rè đọc lần nữa lá thư mà anh đã viết. Thư cho người tình thơm như hạnh phúc. Đọc là đọc vậy thôi, chứ thực sự là từng câu, tững chữ trong lá thư này anh đã thuộc lòng. Trong chiều chủ nhật, ngồi lục lọi lại những sách cũ từ ngày xửa ngày xưa của gia đình, anh đã tìm được lá thư này. Nói đúng hơn là anh tình cờ bắt gặp được lá thư của ba anh gửi cho má anh - ngày mà hai người mới quen nhau. Nguyên tò mò đọc luôn một lèo và bị văn chương trong lá thư ấy cuốn hút. Anh cất giữ lá thư ấy như một báu vật của riêng mình. Khi biết anh có ý định "tấn công" Kim thì thằng Quân - bạn học cùng lớp - đã hỏi anh một cách móc họng: - Tao hỏi thật là mày có biết viết thư không? ... Mời các bạn đón đọc Hoa Cúc Không Phải Màu Vàng của tác giả Lê Minh Quốc.
Người Đàn Ông Mang Tên Ove - Fredrik Backman
Người đàn ông mang tên Ove năm nay năm mươi chín tuổi. Ông là kiểu người hay chỉ thẳng mặt những kẻ mà ông không ưa như thể họ là bọn ăn trộm và ngón trỏ của ông là cây đèn pin của cảnh sát. Ove tin tất cả những người ở nơi ông sống đều kém cỏi, ngu dốt và không đáng làm hàng xóm của ông. Ove nguyên tắc, cứng nhắc, cấm cảu và cay nghiệt. Người đàn ông mang tên Ove lên kế hoạch tự tử. Nhưng những nỗ lực của ông liên tiếp bị phá đám. Bắt đầu từ việc một buổi sáng, một cặp đôi trẻ trung hay chuyện với hai đứa con cũng hay chuyện không kém chuyển đến gần nhà Ove và vô tình lùi xe đâm sầm vào tường nhà ông. Rồi đến con mèo hoang nhếch nhác, tình bạn không ngờ… cuộc sống của ông già mang tên Ove thay đổi hoàn toàn. Mang chất trào lộng duyên dáng kiểu Bắc Âu nhưng cũng tràn đầy tính nhân văn, cuốn sách trở thành một hiện tượng toàn cầu với gần 3 triệu bản in được bán ra, và được dịch sang 40 ngôn ngữ. Bộ phim cùng tên chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết đã được đề cử ở hạng mục phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Oscar 2017. *** Đông qua, xuân tới và Parvaneh thi đỗ bằng lái xe. Ông Ove dạy Adrian cách thay lốp xe. Cậu ta đúng là đã mua một chiếc Toyota, nhưng điều đó không đồng nghĩa cậu ta không thể cải tạo được, Ove đã giải thích như vậy với Sonja khi ông đi thăm bà vào một ngày Chủ nhật tháng Tư. Tiếp đó ông cho bà xem vài tấm ảnh chụp con trai của Parvaneh. Thằng bé bốn tháng tuổi nhanh như sóc. Patrick đã cố bắt ông dùng một chiếc điện thoại có chức năng chụp ảnh, nhưng Ove không tin chúng. Thay vào đó, ông đem theo trong ví một tập ảnh dày buộc bằng thun, và khoe với tất cả mọi người ông gặp. Kể cả những người làm việc ở cửa hiệu bán hoa. Xuân qua hè tới, khi mùa thu gõ cửa, nữ nhà báo phiền hà Lena dọn tới ở cùng anh chàng Anders đỏm dáng chạy xe Audi. Ove là người lái chiếc xe tải chở đồ cho chị ta. Ông không mấy tin tưởng vào những anh chàng kém cỏi trong việc lùi xe giữa hai dãy nhà sao cho không đụng vào thùng thư của ông. Tất nhiên, Lena không tin vào thiết chế hôn nhân, Ove kể với Sonja như vậy, kèm thêm một cái hừ mũi hàm ý rằng mấy người hàng xóm đã xì xầm không ít. Thế rồi mùa xuân tiếp theo, ông đến bên mộ bà và cho bà xem một tấm thiệp mời đám cưới. Mirsad mặc bộ com-lê đen và run lẩy bẩy vì căng thẳng. Parvaneh phải cho cậu ta uống một chầu tequila trước khi cậu ta bước vào tòa thị chính. Jimmy đã đợi sẵn trong đó. Ove đóng vai phụ rể, ông đã mua một bộ cánh mới để mặc trong dịp trọng đại. Họ mở tiệc tại quán cà phê của Amel. Ông già béo lùn cố gắng phát biểu những ba lần, nhưng lần nào cũng chỉ lắp bắp được vài chữ vì quá xúc động. Mặt khác, ông ta đã lấy tên Jimmy để đặt cho một loại sandwich. Cậu thanh niên mập mạp coi đó là món quà tuyệt vời nhất mà mình từng được nhận. Jimmy tiếp tục sống trong ngôi nhà của mẹ cùng với Mirsad. Năm sau đó, hai người nhận nuôi một bé gái. Chiều nào Jimmy cũng đưa con bé sang nhà bà Anita chơi vào lúc ba giờ đúng, đều như vắt chanh, khi hai vợ chồng bà uống cà phê. Tình trạng của ông Rune không có gì cải thiện. Có những lúc ông gần như không thể tiếp xúc được trong vài ngày liền. Nhưng mỗi khi cô bé con chạy vào nhà và vươn tay về phía bà Anita, một nụ cười mãn nguyện làm khuôn mặt ông bừng sáng. Lần nào cũng vậy. Thêm nhiều ngôi nhà khác được xây dựng trong khu vực. Chỉ sau vài năm, nó đã trở thành một quận nội thành. Dĩ nhiên chuyện đó không làm cho Patrick khéo léo hơn trong việc mở cửa sổ hoặc lắp ráp mấy cái tủ áo của IKEA. Một buổi sáng nọ, anh chàng xuất hiện trước cửa nhà ông Ove cùng với hai người đàn ông trạc tuổi mình. Cả hai người đều mua nhà ở cách đó vài con đường, theo lời họ giải thích. Họ đang sửa nhà và gặp một chút khó khăn với những thanh rầm trên các bức tường ngăn. Họ không biết phải làm thế nào. Tất nhiên ông Ove có giải pháp cho vấn đề. Ông lẩm bẩm gì đó trong miệng giống như hai chữ “dốt quá”, rồi sang tận nơi chỉ cho bọn họ. Ngày hôm sau, một người hàng xóm khác xuất hiện. Rồi một người nữa. Một người nữa. Chỉ trong vài tháng, ông đã đi đến gần như mọi ngôi nhà trong bán kính bốn con đường để vá chỗ nọ sửa chỗ kia. Tất nhiên ông luôn càu nhàu vì sự bất lực của mọi người, nhưng lúc đứng một mình trước mộ Sonja, ông lại thủ thỉ với bà: “Đôi khi có chuyện để làm trong ngày cũng hay bà ạ.” Các cô con gái của Parvaneh lần lượt ăn mừng sinh nhật, và trước khi mọi người kịp thắc mắc, cô bé ba tuổi dễ ghét đã trở thành một cô bé sáu tuổi. Ove đưa cô bé đến trường ngày đầu tiên. Cô bé dạy ông cách chèn biểu tượng mặt cười vào tin nhắn điện thoại, còn ông thì bắt cô bé hứa không được mách với bố là ông đã mua điện thoại di động. Cô bé tám tuổi dễ ghét không kém nay đã lên mười và tổ chức tiệc ngủ đầu tiên trong đời. Cậu em trai của chúng bày đồ chơi khắp căn bếp nhà ông Ove. Ông đã xây một cái bể nhỏ cho cậu bé nghịch nước trong sân nhà mình, nhưng khi có người gọi nó như vậy Ove đáp trả ngay rằng: “Nó là một hồ bơi, không nói nhiều!” Anders được bầu làm tổ trưởng tổ dân phố một lần nữa, còn Parvaneh thì mua một cái máy cắt cỏ mới cho bãi cỏ phía sau dãy nhà. Hè chuyển sang thu, rồi thu qua đông tới. Vào một buổi sáng Chủ nhật tháng Mười một lạnh giá, gần tròn bốn năm sau cái ngày mà Parvaneh cùng Patrick lùi xe vào thùng thư của ông Ove, cô thức giấc với cảm giác như bị ai đó đặt một bàn tay lạnh ngắt trên trán mình. Cô nhỏm dậy, nhòm xuống qua cửa sổ phòng ngủ và xem giờ. Đã tám giờ mười lăm. Chỗ tuyết trước cửa nhà ông Ove vẫn nguyên xi không được dọn sạch. Lao qua con đường nhỏ với chiếc áo choàng ngủ trên người và đôi dép bông dưới chân, cô gọi to tên ông. Cô mở cửa nhà ông bằng chìa khóa dự phòng được ông đưa cho, rồi lao vào phòng khách, loạng choạng trèo lên cầu thang với đôi dép ướt và quả tim đập thình thịch trong ngực. Cô dò dẫm đi vào phòng ngủ của ông. Nom Ove như đang ngủ rất say. Cô chưa bao giờ thấy khuôn mặt ông thư thái đến thế. Con mèo nằm bên cạnh Ove, ngả đầu trên lòng bàn tay của ông. Khi trông thấy Parvaneh, nó chậm rãi đứng dậy, như thể chỉ đến lúc đó mới hiểu ra sự tình, và trèo lên lòng cô. Cả hai ngồi bên cạnh giường, Parvaneh vuốt ve mái tóc của ông cho đến khi đội cứu thương xuất hiện và nhẹ nhàng giải thích rằng họ cần phải đưa thi thể đi. Lúc đó cô mới chồm người tới trước và thì thào vào tai ông: “Hãy gửi tình yêu của cháu cho bác Sonja và cảm ơn bác ấy đã cho cháu mượn bác”. Rồi cô cầm cái phong bì to đề tên mình nằm trên chiếc bàn đầu giường và đi xuống cầu thang. Trong phong bì đựng các thứ tài liệu, giấy chứng nhận, bản vẽ gốc của ngôi nhà, sổ tay hướng dẫn sử dụng đầu máy, sổ bảo dưỡng của chiếc Saab. Số tài khoản ngân hàng và hợp đồng bảo hiểm. Số điện thoại của một luật sư mà ông Ove đã “giao phó mọi thứ”. Cả một cuộc đời được sắp xếp như một tập hồ sơ. Như một bản bút toán kết sổ. Trên cùng là một lá thư dành cho cô. Parvaneh ngồi vào bàn bếp và đọc thư. Nó không dài. Như thể ông Ove đã biết mắt cô sẽ nhòa lệ trước khi đọc tới dòng cuối cùng. Chiếc Saab được để lại cho Adrian. Mọi thứ khác được giao phó cho cô. Cô đã có chìa khóa ngôi nhà rồi. Con mèo ăn cá ngừ hai lần mỗi ngày và cần được cho ra ngoài để đi vệ sinh. Làm ơn tôn trọng chuyện đó. Một luật sư trong thành phố đang giữ các giấy tờ ngân hàng và những thứ khác. Có một tài khoản với số dư 11.563.013 krona 67 ore. Của bố bà Sonja để lại. Ông già có nhiều cổ phần. Ông ta keo kiệt kinh khủng. Tôi và Sonja không biết phải làm gì với khoản tiền đó. Các con cô sẽ nhận mỗi đứa một triệu khi chúng tròn mười tám tuổi, con gái của Jimmy cũng vậy. Phần còn lại là của cô. Nhưng đừng để cho Patrick đụng vào số tiền đó. Sonja sẽ thích cô. Đừng để cho những người hàng xóm mới của cô lái xe vào khu dân cư. Ove Phía dưới là một dòng chữ in hoa “CÔ CÓ PHẢI LOẠI NGU LÂU DỐT BỀN KHÓ ĐÀO TẠO ĐÂU!” cùng một cái biểu tượng mặt cười, giống như Nasanin đã bày cho Ove. Trong thư còn liệt kê các chỉ dẫn rành mạch về tang lễ, thứ “không được làm rùm beng trong mọi tình huống”. Ông Ove không muốn tổ chức lớn, ông chỉ muốn được nằm xuống bên cạnh bà Sonja, thế thôi. “Không khách khứa. Không ồn ào!” Ông đã căn dặn rõ ràng như thế. Hơn ba trăm người đã đến dự đám tang. Khi Patrick, Parvaneh và các cô bé bước vào nơi làm lễ, nhiều người thậm chí còn phải đứng dọc theo các bức tường và trên lối đi. Tất cả đều cầm những ngọn nến có khắc dòng chữ “Quỹ Sonja”. Bởi lẽ đó là điều mà Parvaneh đã quyết định làm với số tiền được ông Ove để lại: một quỹ từ thiện dành cho trẻ mồ côi. Đôi mắt cô sưng mọng vì khóc, cổ họng cô khô đến nỗi đã mấy ngày nay cô thở khò khè. Khi trông thấy những ánh nến, hơi thở cô nhẹ đi đôi chút. Và khi Patrick chứng kiến toàn bộ số người đến tiễn đưa ông Ove, anh huých nhẹ vào sườn cô, miệng mỉm cười hài lòng. — Ôi trời, bác Ove chắc sẽ ghét chuyện này lắm, em nhỉ? Cô bật cười. Chuyện đó là đương nhiên rồi. Tối hôm ấy, cô dẫn một đôi vợ chồng trẻ mới cưới đi xem ngôi nhà của ông Ove và bà Sonja. Cô vợ đang có mang. Đôi mắt cô vợ sáng lấp lánh khi đi qua các căn phòng, như thể đang mường tượng những ký ức tương lai của đứa trẻ sẽ diễn ra ngay trên sàn nhà này. Người chồng rõ ràng ít hào hứng hơn. Anh mặc một cái quần thợ mộc và chủ yếu đi loanh quanh, đá vào mấy cái len tường với bộ mặt khó đăm đăm. Parvaneh có thể thấy anh ta không thể làm gì được, vì ánh mắt cô vợ cho thấy cô đã quyết rồi. Nhưng khi anh chàng cất giọng cộc cằn nhắc đến cái “nhà để xe” được đề cập trong quảng cáo, Parvaneh nhìn anh ta từ đầu đến chân, gật đầu xác nhận rồi hỏi về hiệu xe anh lái. Anh chàng thẳng người lại, nở một nụ cười gần như không thể nhận thấy, và nhìn thẳng vào mắt cô với một niềm tự hào khôn tả mà chỉ có một cái tên duy nhất có thể khơi lên được. — Saab. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Mang Tên Ove của tác giả Fredrik Backman.
Trang Trại Tình Yêu - Carole Mortimer
Tập đoàn Marshall do Jude Marshall đứng đầu muốn mua một vùng đất để xây dựng khu giải trí nhưng khi mà tất cả những gia đình trong vùng đất đã đồng ý bán lại đất của mình thì chỉ duy nhất trang trại nho nhỏ nhà Calendar nằm chính giữa vùng đất lại chưa chịu bán. Đó chính là trang trại của ba chị em nhà Calendar. May, Match và January Calender không hề có ý định bán đi trang trại yêu thương mang đầy ký ức của người cha mới mất gần một năm rưỡi trước của họ, chính vì thế mà ba cô gái kiên quyết từ chối tất cả những thương lượng từ tập đoàn Marshall. Nhưng Jude Marshall cũng không phải là một người dễ dàng từ bỏ. Đầu tiên, anh cử luật sư đại diện của tập đoàn Marshall - Max, một người đàn ông điển trai nhưng lại đặc biệt lạnh lùng và xa cách. Có lẽ Max sẽ có thể hoàn thành sứ mệnh của mình nếu như anh không vô tình rơi vào vòng xoáy tình yêu với cô "Lọ lem bướng bình" January - cô em út của nhà Calender. Thế là hiệp đầu tiên trong cuộc chiến với chị em nhà Calender đã thất bại. Người thứ hai xuất hiện tại vùng đất đang tranh chấp chính là Will Davenport - kiến trúc sư hàng đầu cho những công trình của Jude, ngang tàng và bướng bỉnh nhưng cũng được coi là hiền lành nhất trong bộ ba độc thân. Và lần này, kết quả Jude Marshall nhận được cũng không có khả quan hơn: Will Davenport cũng tình nguyện bước sang hàng ngũ của địch dưới sức hấp dẫn của một Match Calender xinh đẹp cá tính. Và cuối cùng Jude Marshall không thể kiên nhẫn hơn được nữa, chính anh sẽ đối mặt với ba chị em nhà Calender. Nhưng không biết là may mắn hay bất hạnh cho Jude khi mà người anh phải đối mặt chỉ có mình cô chị cả May Calendar mà thôi. May Calendar - một người điềm tĩnh và có lý trí nhất trong cả ba chị em, đấy là chưa kể đến khả năng che dấu hoàn hảo - khả năng diễn xuất của cô. Chính điều đó đã khiến May trở thành một bí ẩn đầy cuốn hút, góp phần tạo nên một cái mạng nhện dính chắc khiến cho con ruồi Jude Marshall dù đã thề sẽ không bị bắt mất hồn vía như hai anh chàng tội nghiệp trên kia vẫn bị dính bẫy. Jude Marshall, anh chàng tội nghiệp, có hai ông bạn thân chí cốt, hai vị đồng nghiệp đầy quyết đoán và bản thân lại là một trong những người đàn ông kiên định nhất trước cánh cửa hôn nhân, ấy vậy mà... Cử luật sư đi thì luật sư đào ngũ vô trại địch. Cử kiến trúc đi thì kiến trúc sư cũng... đầu hàng vô điều kiện nốt. Đến bản thân tự mình xuất trận thì... cũng đầu hàng vô điều kiện. Bộ sách Calendar Mistress gồm có: Lọ Lem Bướng Bỉnh Lắng Nghe Tiếng Yêu Trang Trại Tình Yêu Carole Mortimer sinh năm 1960, là nhà văn người Anh được biết đến rộng rãi với hơn 150 tiểu thuyết lãng mãn. Bà là một trong những tác giả trẻ tuổi nhất của NXB Mills & Boon đồng thời cũng là một trong những người viết nhiều nhất của hãng này. *** May ngước lên nhìn Jude, cảm thấy hơi bẽn lẽn khi hai người gần gũi đến vậy trong phòng ngủ khách sạn của anh. “Anh đang rời đi mà”, cô nhắc. “Đúng”, anh nặng nề thừa nhận. “Nhưng anh đang trở lại.” Anh muốn nói rằng mình rõ ràng vẫn đang giữ phòng khách sạn, một vài đồ đạc vẫn đang ở trong phòng, một hai cuốn sách vẫn đặt trên chiếc bàn cạnh giường, vài chiếc áo vẫn treo trong tủ áo. “Ồ.” Cô gật đầu, liếm cặp môi khô. “Anh vẫn sẽ đi chứ?” Anh thở khó nhọc. “Không, nếu như có thể thuyết phục em biến lễ đính hôn của chúng ta thành sự thực, không...” May nhìn anh chăm chú, ánh nhìn dò hỏi, tìm kiếm dấu hiệu của sự chế giễu trên mặt anh. Không hề có, cô chỉ thấy ánh mắt xám bạc nói điều gì đó, nhưng không phải là sự giễu cợt... “Jude...?”, cô ngập ngừng thì thầm. Hai bàn tay anh siết chặt lại như nắm đấm. “May, trước đây anh thật là ngu ngốc, kiêu căng, cứng đầu cứng cổ”, anh ngừng bặt vì cô phá lên cười. “Chẳng có gì buồn cười cả”, anh cau có nói. “Xem này, anh đang cố gắng xin lỗi và em thì cười anh!” “Em không cười anh, Jude.” Cô lắc đầu, tiếng cười ngừng bặt nhanh như khi nó xuất hiện. “Em cười toàn bộ câu chuyện ngớ ngẩn và đau đớn này.” Cô hít một hơi quyết định. “Jude, em yêu anh. Anh có yêu em không?” Hơi thở ngừng lại trong cổ khi cô chờ anh trả lời; nếu cô đã hiểu nhầm những điều anh nói vào phút trước về “việc đính hôn” giữa họ, cô sẽ cảm thấy mình ngu xuẩn biết nhường nào. “Làm sao anh có thể không yêu em được?” Jude xúc động kêu lên. “Em thật tuyệt vời, tốt bụng và thẳng thắn.” Mời các bạn đón đọc Trang Trại Tình Yêu của tác giả Carole Mortimer.