Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thân Phận Con Người

Năm 1933 quyển La Condition humaine (“Thân phận con người”) ra đời. Quyển tiểu thuyết thứ ba của Malraux lấy lại bối cảnh là cuộc đấu tranh cách mạng tại Trung quốc, vào thời kỳ xảy ra cuộc tranh chấp giữa quân đội Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch và những lực lượng cộng sản trong thời kỳ manh nha. Quyển tiểu thuyết chấm dứt vào thời điểm xảy ra cuộc tàn sát các đảng viên cộng sản do quân đội Tưởng Giới Thạch tiến hành, trước khi Mao Trạch Đông quyết định cuộc trường chinh về phía Bắc để bảo toàn lực lượng. Một lần nữa, tiểu thuyết của Malraux không phải là một tài liệu lịch sử, kể lại cuộc xung đột giữa các lực lượng Quốc Dân đảng và cộng sản năm 1927. “Thân phận con người”, sau quyển “Những kẻ chinh phục”, lại dùng bối cảnh lịch sử để trình bày quan điểm của tác giả về con người và ý nghĩa cuộc sống. Thay vì có một, hai nhân vật chính chi phối toàn bộ tác phẩm, quyển “Thân phận con người” dựng lên hàng chục nhân vật có tầm quan trọng ngang nhau: những chiến sĩ cách mạng, vài tên khủng bố quá khích, một nhà hiền triết Nhật, một nhân vật lập dị sống trong ảo tưởng và thêu dệt những câu chuyện hoang đường, một nhà tư bản Âu châu v.v. Một số nhân vật này vẫn bị dằn vặt bởi những lo âu siêu hình: niềm đơn độc lẻ loi, nhận thức về sự phi lý của cuộc đời… và mỗi người tìm một phương cách giải thoát riêng cho mình. Nhưng điều mới là sự xuất hiện của những nhân vật anh hùng cách mạng. Những nhân vật này không còn bị ám ảnh vì những thắc mắc siêu hình, mà họ tìm thấy lẽ sống trong việc đấu tranh để đem lại hạnh phúc, danh dự và phẩm giá cho đồng loại của mình. Hành động có một mục đích lịch sử, trở thành một phương tiện để thay đổi trật tự xã hội, hoàn trả lại danh dự làm người, không phải cho một anh hùng đơn độc, mà cho toàn thể những người sống trong một cộng đồng. Với quyển “Thân phận con người”, trong tác phẩm của Malraux xuất hiện một triết lý nhân bản cách mạng. Từ tình trạng suy đồi do thương tích, bệnh tật, gây ra khiến cho con người phải chịu khuất phục trước định mệnh, đến một tình trạng suy đồi do cực khổ khốn cùng, khiến con người mất hết nhân cách. Trật tự xã hội của người giàu khiến cho nhân phẩm bị chà đạp. Danh dự của người hùng cách mạng của Malraux là đứng lên chống lại một trật tự xã hội chối bỏ nhân phẩm và tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong cuộc chiến đấu này. Quyển “Thân phận con người” được giải thưởng Goncourt cuối năm 1933, và sau này được công nhận là một trong những tác phẩm lớn nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 20. Nhà văn 32 tuổi bỗng nhiên nổi danh, với một hào quang là kẻ trở về từ châu Á sôi sục, xa xôi và bí hiểm. Đối với xã hội Pháp vào những thập niên 1920-30, châu Á còn là một một lục địa xa vời, huyền bí, chìm trong màn sương mù của huyền thoại, tượng trưng cho phiêu lưu mạo hiểm… Những người có óc phiêu lưu đều bị thu hút, mê hoặc bởi vùng đất còn bí hiểm này. Nhiều huyền thoại được thêu dệt quanh tác giả quyển “Thân phận con người” (người đã tham gia vào hoạt động cách mạng tại Trung Quốc, là ủy viên chính trị cạnh Borodine trong cuộc cách mạng Trung quốc…). Tác giả im lặng không đính chính, và huyền thoại kéo dài trong mấy thập niên, cho đến khi một học giả Hoa Kỳ, Walter Langlois, nghiên cứu tường tận về thời gian Malraux ở Đông Dương và quyển tiểu sử André Malraux do Jean Lacouture viết, xuất bản năm 1973, cho biết sự thật về thời gian nhà văn ở châu Á trong các năm 1924-1925. Cho đến năm Malraux viết quyển “Thân phận con người”, ông chỉ biết có Việt Nam, và thời gian ông đặt chân lên đất Trung Quốc là chỉ vỏn vẹn mấy ngày vào mùa thu 1925 khi ông đến Hương Cảng mua bộ chữ in để có thể tiếp tục in tờ báo đối lập Indochine. Kinh nghiệm kể lại trong “Thân phận con người” về những người dân đen sống trong cảnh bần cùng, bị áp bức và chà đạp, là những kinh nghiệm sống tại Việt Nam, khi André Malraux chứng kiến những bất công và cách đối xử đàn áp mà chính quyền thực dân dành cho người dân bị trị. Quyển “Thân phận con người” chấm dứt một bộ ba tác phẩm được gọi là thuộc “thời kỳ châu Á” trong văn nghiệp của Malraux. Một năm hoạt động báo chí tại Sài Gòn chưa đủ để cho André Malraux một danh hiệu là chiến sĩ cách mạng, nhưng đã chuyển hướng ý nghĩ và hành động của ông khiến cho từ nay, André Malraux sẽ dành phần lớn cuộc đời và tác phẩm của mình cho cuộc chiến đấu cho công bằng xã hội, chống lại sự áp bức, chà đạp phẩm giá con người… V.Đ Review *** André Malraux ( 3 tháng 11, 1901 tại Paris - 23 tháng 11, 1976 tại Créteil, Val-de-Marne) là một nhà văn (từng đoạt Giải Goncourt), nhà phiêu lưu Pháp, và chính trị gia (từng làm Bộ trưởng Pháp 1959-1969). Gia đình ông không đầm ấm, ông nội và cha đều tự tử vì phá sản và chán đời. Thuở nhỏ ông thích đọc sách, thăm viếng các viện bảo tàng. Nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ, Malraux chạy sang giúp phe Cộng hòa, thuyết phục chính phủ Pháp giao cho ông một đội phi cơ để chống lại phe Francisco Franco, nhưng chỉ mấy tháng sau phi đội ấy tan rã. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Malraux gia nhập vào đội kỵ binh ở Provins. Nước Pháp thua trận, đầu hàng. Malraux bị giam ở Sens, rồi vượt ngục và trốn xuống vùng tự do tại Roquebrune. Tháng 4 năm 1944, Malraux tự xưng là đại tá Berger và cố gắng tập hợp kháng chiến quân trong vùng Tây Nam. Bị thương hồi tháng 7, bị giam ở Toulouse, ông được lực lượng kháng chiến FFI giải thoát. Do các hệ thống kháng chiến vùng Tây Nam đã có người đảm trách nên Malraux đề nghị cầm đầu quân du kích vùng Alsace-Lorraine, nằm dưới quyền của tướng De Lattre. Ông trở thành Tổng trưởng Thông tin, rồi Tổng trưởng Văn hoá trong các chính phủ của Tổng thống Charles de Gaulle. Tác phẩm văn học Lunes en papier, 1921 La Tentation de l'Occident, 1926 Les Conquérants, 1928 Royaume-Farfelu, 1928 La Voie royale, 1930; đoạt giải thưởng Interallié 1930 La Condition humaine / Thân phận con người, 1933, đoạt giải thưởng Goncourt. Le Temps du mépris, 1935 L'Espoir, 1937 Sierra de Teruel, phim, 1939, (1945 tái bản với tựa L'Espoir), đoạt Giải thưởng Điện ảnh Louis Delluc 1945 La Lutte avec l'ange, 1943 tại Thụy Sĩ, 1948 với tựa đề Les Noyers de l'Altenbourg tại Pháp Le Démon de l'Absolu, 1946 Esquisse d'une psychologie du cinéma, 1946 Psychologie de l'Art: Le Musée imaginaire - La Création artistique - La Monnaie de l'absolu, 1947-1948-1950 Les Voix du silence, 1951 Le Musée Imaginaire de la sculpture mondiale: La Statuaire - Des Bas-reliefs aux grottes sacrées - Le Monde Chrétien"", 1952-1954 La Métamorphose des dieux, 1957, sau đó với tựa đề Le Surnaturel Antimémoires, 1967 (phần đầu của Miroir des Limbes) Les Chênes qu'on abat..., 1971 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Oraisons funèbres, 1971 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) La Tête d'obsidienne, 1974 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Lazare, 1974 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Hôtes de passage, 1975 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) La Corde et les souris, 1976 (phần 2 của Miroir des Limbes) Le Miroir des Limbes, 1976 (I. Antimémoires + II. La Corde et les souris và Oraisons funèbres) Le Surnaturel, (1977, hiệu đính và bổ sung cuốn La Métamorphose des Dieux L'Irréel, La Métamorphose des Dieux. II, 1975 L'Intemporel, La Métamorphose des Dieux. III, 1976 L'Homme précaire et la littérature, 1977 Mời các bạn đón đọc Thân Phận Con Người của tác giả André Malraux.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Bài Học Chiến Tranh - John Merson
Phản đối chiến tranh Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1972 của Thượng nghị sĩ Mỹ George McGovern. Ông gọi Việt Nam là "cuộc nội chiến thứ hai của chúng ta" và cho rằng "Chúng ta sẽ còn phải tiếp tục chiến đấu trong suốt quãng đời còn lại". Và ông đã đúng. Một thế hệ sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, cuộc chiến này vẫn tiếp tục ám ảnh và gây ra chia rẽ trong nội bộ người dân Mỹ. Có thể nói, cuốn hồi ký này như con thuyền lướt trên dòng sông đầy ắp những hồi tưởng, dẫn giải và phân tích những trải nghiệm về Việt Nam. Nhìn từ góc độ nào đó, những bài học chiến tranh có nét tương đồng với nhiều hồi ký khác. Tác giả của những hồi ký ấy cũng là những người mong muốn trở thành anh hùng và rồi cũng bị vỡ mộng về thực tế phũ phàng của cuộc chiến. Qua những trải nghiệm đối với Việt Nam, cả trong thời gian chiến đấu và trong quá trình suy nghĩ về nó, Merson muốn nói rằng thật khó có thể giúp cải thiện được tình hình của những người mà hình thức can thiệp quân sự đó muốn bảo vệ. Một thế giới không có chiến tranh, chỉ có sự giám sát của lực lượng gìn giữ hòa bình, sẽ là món quà tuyệt vời cho tất cả chúng ta... Mời các bạn đón đọc Những Bài Học Chiến Tranh của tác giả John Merson.
Hãy Cứu Em - Guillaume Musso
Sau những ngày cuối tuần hạnh phúc bên Sam, anh bác sĩ nhi khoa người Mỹ tài năng và nhân hậu, Juliette phải quay về Pháp. Chiếc máy bay chở cô nổ tung khi cất cánh chưa được bao lâu... Đau khổ và tuyệt vọng, Sam quay về mà không ngờ rằng sự kiện đó chỉ là đoạn dạo đầu cho câu chuyện tình tưởng chừng sét đánh thoảng qua mà vô cùng bền bỉ, lãng mạn và không kém phần trắc trở của họ… Hãy Cứu Em giống như bản tình ca êm ái, không những tôn vinh tình yêu đôi lứa sâu sắc và chung thủy mà còn ngợi ca mối quan hệ nhân ái, giàu lòng vị tha và vô cùng trong sáng giữa con người với con người. Vẫn phong cách nhẹ nhàng, từng câu chữ như từng lời tâm tình thủ thỉ mà lại rất lôi cuốn, hồi hộp, Guillaume Musso đưa độc giả đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, từ xúc động này đến xúc động khác, hướng con người tìm về những giá trị nhân văn cao cả và không ngừng hy vọng, xây đắp một cuộc sống tốt đẹp hơn. Mời các bạn đón đọc Hãy Cứu Em của tác giả Guillaume Musso.
Sông Đông Êm Đềm - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov
Sông Đông Êm Đềm là bộ tiểu thuyết vĩ đại nhất của nhà văn Nga Mikhail  Aleksandrovich Sholokhov. Với tác phẩm này, Sholokhov đã được tặng Giải Nobel văn học năm 1965. Sông Đông Êm Đềm miêu tả một giai đoạn lịch sử mười năm từ 1912 đến 1922 trong phạm vi địa lý rộng lớn: mặt trận miền Tây nước Nga trong Thế chiến thứ nhất, Ukraina, Ba Lan, România cho đến Sankt-Peterburg, Moskva nhưng chủ yếu diễn ra ở hai bờ sông Đông và tập trung vào một làng Cossack ven sông. Trong phần đầu của tiểu thuyết, Sholokhov đã quay lại quá khứ của gia đình Melekhov từ thời người ông nội với cô vợ người Thổ Nhĩ Kì bị người dân Cossack xa lánh và dị nghị do lối sống kì lạ. Gregori Melekhov là con thứ hai trong một gia đình ông nội là người Cossack, bà nội là người Thổ Nhĩ Kỳ. Gregori đem lòng yêu Aksinia, vợ một người hàng xóm và nhằm ngăn cản mối quan hệ này, gia đình Melekhov cưới Natalia cho chàng. Để được tiếp tục sống bên nhau, Gregori và Aksinia cùng bỏ nhà đi làm thuê. Tủi nhục, phẫn uất, Natalia đã quyên sinh nhưng không chết. Gregori phải đi lính khi đến tuổi và cùng với những chàng trai Cossack khác, trong đó có người anh Pyotr nhập ngũ trước đó chiến đấu chống lại quân Áo, Đức trong những năm đầu của Thế chiến thứ nhất. Tham gia chiến tranh, do cứu sống một Trung tá bị thương, chàng được tặng Huân chương thánh Gorge đồng thời cảm nhận thấy tính chất tàn bạo, vô nghĩa của chiến tranh và luôn day dứt về điều đó. Ở quê nhà, Aksinia sống trong cơ cực, cô đơn, tuyệt vọng, đứa con đầu lòng cũng không sống nổi vì bệnh tật, nàng đã chấp nhận quan hệ với Evgeni, con trai của chủ nhà. Bị thương và về phép, biết được chuyện của Aksinia, Gregori quay trở về sống với Natalia và sau khi chàng trở lại quân ngũ ít lâu thì Natalia sinh đôi một trai, một gái. Cách mạng tháng Mười nổ ra, trong những ngày hỗn loạn ấy, Gregori bị xô đẩy hết từ "bên Đỏ" rồi lại sang "bên Trắng". Mặc dù chán ghét và không ý thức được mình chém giết để làm gì nhưng vó ngựa Cossack của Gregori vẫn phiêu bạt khắp các chiến trường, lao vào những trận đánh đẫm máu. .... Mời các bạn đón đọc Sông Đông Êm Đềm của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.
Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine - Ransom Riggs
AudioBook Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine là câu chuyện kể về Jacob – một thiếu niên sống cuộc đời sung túc nhờ sự giàu sang của cha mẹ. Cuộc sống của Jacob chẳng có gì thú vị ngoại trừ những câu chuyện của ông nội về cuộc sống ở trại trẻ của cô Peregrine cùng những người bạn phi thường của mình: một cô bé biết bay, một cậu bé có khả năng tàng hình, một cô bé tạo ra lửa từ hai bàn tay… Và còn có những sinh vật ghê rợn, những quái vật mồm đầy xúc tu. Mỗi câu chuyện của ông nội Jacob kể đều kèm theo một bức ảnh mà sự kì dị của nó sánh ngang với nhân vật mà nó làm nhân chứng cho sự tồn tại. Năm tháng qua đi, Cậu bé Jacob lớn lên, ông nội Abe của cậu thì ngày một già đi, không ai còn tin những câu chuyện hay bức ảnh của ông nữa. Jacob cũng dần dần thoát ly khỏi những điều phù phiếm. Cậu đặt những bước đi đầu tiên vào một cuộc sống nhung lụa êm đềm do bố mẹ bày sẵn trước mắt.Không ai nói ra nhưng mọi người đều nghĩ ông cần vào viện dưỡng lão, trừ Jacob. Rồi một ngày kia, ông nội qua đời trên tay Jacob. Cái chết đầy mờ ám giữa bãi đất sau nhà, cả cơ thể bị cào xé. Cái chết của ông đã khiến Jacob chìm vào những day dứt, ám ảnh về cuộc đời mình. Mỗi ngày qua đi, cậu lại nhớ về ông nội và những câu chuyện kỳ quái từng gắn bó với tuổi thơ của mình. Để thoát khỏi những cơn ác mộng triền miên, theo lời trăng trối của ông, Jacob cùng bố lên tàu tìm kiếm hòn đảo Cairnholm, địa điểm toạ lạc trại trẻ của cô Peregrine năm xưa, nơi sinh sống của những cô cậu thiếu niên dị thường. Và tại đó, cậu kinh hoàng nhận ra sự tồn tại của họ là hoàn toàn có thật! Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine dẫn dắt người đọc vào một chuyến phiêu lưu ly kỳ, tràn ngập những cung bậc cảm xúc biến hóa, có lúc hồi hộp, có lúc lại xúc động thổn thức. Điểm nhấn của câu chuyện là những bức ảnh hoài cổ do chính tác giả sưu tầm và thực hiện, chúng khiến độc giả bị cuốn vào những câu chuyện nửa thực nửa hư kỳ lạ, giống như chính cảm xúc mà Jacob đã trải qua.  Tác phẩm vừa có màu sắc trinh thám, vừa pha một chút kinh dị nhưng lại tràn ngập cảm hứng lãng mạn này có thể làm xiêu lòng bất kỳ người lớn hay trẻ em nào. Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine đã được hãng 20th Century Fox mua bản quyền và chuyển thể thành phiên bản điện ảnh. Phim do Tim Burton làm đạo diễn, có sự tham gia của Eva Green và Samuel L. Jackson, được ra mắt vào tháng 3/2016. Mời các bạn đón đọc Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine của tác giả Ransom Riggs.