Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

24 Giờ Lên Đỉnh - Nguyễn Thị Anh Thư

Nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư, tác giả của cuốn tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, Cháy đến giọt cuối cùng, các tập truyện ngắn: Vạn liên thanh cho Hải Quỳ, Không nhan sắc, Thiếu học phí làm người, Năm thằng cao kều, Hải tặc một mắt… Khi mới gặp chị, tôi hỏi: Có gì mới không, đang viết gì? Này em làm thơ nhé (rúc rích), em làm thơ, sợ không? Thư cười trả lời tôi, rồi bấm điện thoại đọc thơ. Tôi bảo, chao ôi Tết nhất tưng bừng ngoài kia, mà hai “mụ” ngồi đọc, ngồi nghe thơ. Thơ của một nhà văn từng đoạt giải truyện ngắn hay của Tạp chí Văn nghệ Quân đội lúc 27 tuổi năm 1986, làm thơ ý tứ tỉnh như “sáo sậu”, tôi nén nghe câu thơ: Đường trần mỗi ngày mỗi tối/ loáng thôi sắp hết kiếp người. Một năm ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn, công việc Nguyễn Thị Anh Thư biên tập hàng trăm đầu sách, thơ, văn xuôi của các nhà văn và các tác giả chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp. Chị là bà đỡ cho rất nhiều tên sách như người mẹ đỡ đầu đứa con tinh thần vậy. Ví dụ như tên một bài thơ của cố nhà thơ Đồng Đức Bốn mới đầu lấy tên là Tân Cương, chị góp ý nên đổi là Tìm em ở bến sông Mê, tập thơ của tác giả Trần Văn Lan có tên Nghiêng 23 độ đổi thành tên Sông Ba mùa nhan sắc, hay tác giả Nguyễn Hoàng Kim Oanh có tập thơ mới đầu định đặt tên là Hồn quê chị góp ý đổi tên Khi hồng nhan hát thánh ca. Hoặc cũng tác giả này khi lần đầu tiên đến nhà xuất bản, chưa biết nên đặt tên tập thơ của mình là gì, chị đã sửa câu thơ Ngũ hành năm ngón tay hoa thành Ngũ hành năm ngón tài hoa rồi đặt tên cho tập thơ thành Nhũ ngọc tài hoa. Tác giả Thế Dũng trong tác phẩm Bên dòng sông tình sử có kể lại việc chị đã tận tình biên tập tiểu thuyết Một nửa lá số của anh như thế nào. Anh đã viết rằng: “…Nhưng rốt cuộc chương 43 đã được biên tập viên của NXB đặt tên là Vĩ thanh. Tôi đã hơn 2 lần cảm ơn nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư vì điều này…”. Anh Thư đã từng thẳng thắn góp ý cho tác giả này bớt đi vài ba chương hoặc cắt đi vài trăm trang sách, để tác phẩm hay hơn, chặt chẽ hơn. Nhưng cũng có khi chị lại đề nghị tác giả khác viết thêm để tạo đất cho nhân vật sinh động, có hồn hơn (như Quyên của Nguyễn Văn Thọ). Không chỉ có những tác giả đã kể trên mà còn rất nhiều nhà thơ, nhà văn khác, đã một lòng tin tưởng gửi tác phẩm đến cho nhà văn Anh Thư đều được chị chăm sóc nâng giấc đứa con tinh thần của họ rất kỹ càng. Và thành quả là nhiều tác phẩm đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhà văn, như Nguyễn Quang Thân với Con ngựa Mãn Châu, Nguyễn Văn Thọ với Quyên, Nguyễn Hữu với Cõi thực… Tôi biết có những đêm dài mùa đông giá rét, chị ngồi lọ mọ cạo từng con chữ, cắt cắt, dán dán những tờ giấy can, để dùng đúng chữ như linh hồn của tác giả và tác phẩm. Ngày ngày chăm sóc đứa con tinh thần cho mọi người cầm bút, đó là công việc của cơ quan, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, thời gian còn lại cho riêng mình để sáng tác, Anh Thư chỉ còn mỗi cách cắt bớt giấc ngủ của chính mình. Tôi cũng biết thời gian để hoàn thành tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, chuông đồng hồ của chị luôn để hai giờ sáng. Chị ngồi viết đến 6 giờ, ngủ đến 7 giờ, rồi dậy đi chợ, làm cơm trưa cho chồng con, chuẩn bị bữa tối sẵn, rồi mới đi làm… Vòng tròn cuộc đời tối mắt tối mũi, ngày tiếp cộng tác viên, giải quyết hàng loạt bản thảo đến 5, 6 giờ chiều. Về nhà làm tròn nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ, rồi vừa xem phim, vừa ngủ lơ mơ đến 9, 10 giờ đêm lại lôi các tập bản thảo dày, đòi hỏi phải yên tĩnh ra biên tập. Đêm lại đêm, bật dậy ngồi viết là niềm vui của chị. Tôi nhớ năm 1993, hồi đó Nhà xuất bản Hội Nhà văn đang gặp khó khăn về kinh tế, nhà văn Nguyễn Kiên lúc ấy làm Giám đốc, chị Nguyễn Thị Anh Thư mới đi học thêm một bằng đại học thứ 2 (đại học xuất bản) về, chị tình nguyện ra ngồi bán sách ở cửa hàng giới thiệu sách. Ngày đó, tôi làm ở Báo Lao động Thủ đô gần đó hay chạy sang ngồi bán sách với chị. Có hôm hai chị em ngồi bán sách chỉ để xem một khách hàng mua sách mở hàng có may mắn không, có bán chạy sách văn học không. Có người tôi dự đoán sai, có người Thư dự đoán đúng qua cách nhìn chân tướng. Không ngờ cách quan sát trực tiếp tinh tế đã giúp chị Anh Thư viết văn ngày càng đằm thắm và tinh tế hơn. Để viết cuốn tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, để viết được về số phận của đàn bà, để viết về một vấn đề kinh tế đang nóng bỏng trong cuộc sống này, Anh Thư phải học, phải nghiên cứu rất kỹ mới dám đi vào nhân vật có nghề nghiệp không hề dán mác hay sắp đặt sẵn cho họ. Cái nhìn thấu tâm can đàn bà từ những câu chuyện như Không nhan sắc, đến Món giả cầy, cái khát vọng nhất mà Anh Thư đau đáu là nhân vật người đàn ông vừa tài hoa, lịch lãm, vừa biết trân trọng phụ nữ. Nhân vật như ước mơ ấy thì chỉ có văn chương xây dựng nên. Thật khó tìm trong đời thực. Hãy để bạn đọc khát khao, hãy để bạn đọc cùng hy vọng dưới trang văn của mình, chỉ ra những cái tàn ác không nhìn thấy, không dễ thấy cũng là nhiệm vụ của nhà văn. Để bạn đọc đọc sách, ngấm, và rút ra kinh nghiệm ở đời. Gần đây những bài thơ của Anh Thư làm gửi tôi đọc, tôi thấy chị còn run rẩy trước tình người, còn phẫn nộ trước cái ác như cây đàn một dây níu giữ trầm buồn. Thơ chị viết “tỉnh” như văn xuôi, nhưng tứ thơ lại biết dồn nén, nhà văn như Nguyễn Thị Anh Thư đã cày, đã vỡ vạc đất đai, để trồng cây như bao nhà văn Việt Nam gieo mùa vàng cho tác phẩm của mình *** 03 giờ 30 phút - 20 - 06 - 2008 Sáng sập cửa, nén giận - bật khoá - giập ga. Chiếc Mercedes Benz gầm cao đen bóng rú lên, quét một luồng ánh sáng đèn pha sáng loá, cắt toang mù sương trong cái sân lát gạch bát rộng thênh thang loáng đẫm sương đêm. Anh đánh mạnh vô lăng. Chiếc ô tô liệng một nửa vòng cuồng nộ lao ra cổng. Sáng biết chắc: ông Thưởng - cha của anh - một lão nông đã bảy mươi bảy tuổi gầy gò, nhưng cao lớn và rất săn chắc, ánh mắt vẫn sáng quắc như mắt chim ưng; cứ ngồi tỉnh khô trong cái ghế đại sẽ không thèm đưa mắt nhìn theo thằng con mình. Cái ghế đại chạm trổ lộng lẫy mà cha anh trong bộ đồ lụa Thái Tuấn màu nâu tây đang ngồi oai vệ trên đó là nằm trong bộ bàn ghế và trường kỷ làm bằng gỗ nu hay còn gọi là gỗ lut. Cây nu thuộc họ gõ đỏ, và đã được Unescô liệt vào sách đỏ vì sắp tiệt chủng. Gỗ nu trở nên vô giá, vì quá hiếm. Người ta khi đã trộm được, thường hay xẻ chúng ra nâng niu đánh bóng chỉ dùng chúng làm vật liệu quý cho những bức tranh gỗ, dùng để trang trí nhà thờ hoặc làm giả những viên đá hoa cương lát nhà cho các triệu phú, tỉ phú Đô la trên thế giới ở. Loại gỗ đó không có đường vân thành thớ hoặc lượn sóng như các loại gỗ cũng rất đắt đỏ khác. Gỗ nu có vân đặc biệt quý, chúng vặn xoắn những vòng ốc nhỏ xen kẽ thành từng mảng màu rất tách biệt, chỉ nhỉnh hơn đầu ngón tay màu đỏ thắm, màu nâu sậm, mầu vàng, màu ghi... Đôi lúc, màu sắc của chúng trông như những tảng hổ phách. Mùa hè, chạm tay vào, gỗ nu lạnh mát như đá. Nhưng mùa đông, khi ngồi lên chúng, ta vẫn cảm như được ôm ấp, và đâu đó như có hơi gỗ ấm áp đang thở. Vì vậy mà gỗ nu được định giá bằng tiền triệu trên từng kg, hoặc những trăm nghìn Đô trên mét khối tuỳ lúc và tuỳ thích. Tuy nhiên, vì gỗ nu quá rắn. Gỗ nu quá quánh chắc, cân lên nặng như đá thật. Nhất là khi nó được cấu tạo chỉ bằng những chỗ u gồ lên trên thân cây, cho nên thao tác mỹ nghệ trên nó cực khó. Nhưng bù lại, khi chế tác xong, đánh bóng lên, các hoa vân đặc biệt vặn xoắn dày đặc sẽ cho vật thể hoàn toàn là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ. Trông món đồ gỗ lúc ấy sẽ trong suốt như thể được cấu thành từ tổng thể các loại ngọc long lanh màu đỏ sậm, màu nâu, màu vàng hổ phách. Đặc biệt quý là khi các mảng màu ấy được tách bạch bằng những đường viền như được dát kim loại vàng lấp lánh. Và chúng phát sáng bằng chính những đường ốc vân vẩy kỳ lạ đó. Vì thế lúc đó người ta gọi loại gỗ này là hổ bì tức là da hổ. Nhưng giá cả của chúng lúc đó thì... Thôi!... Quên đi!... Cái giá trị của đẳng cấp nghệ thuật mới là vô giá! Sáng vẫn thường có khát vọng được sở hữu những gì là đỉnh nhất, nên ngay lập tức anh mê hổ bì. Anh mê nó đến điên cuồng, mê ngay khi lần đầu tiên nhìn thấy nó. Sáng cầu kỳ lặn lội đến gặp ông Vũ Văn Quý giám đốc công ty Hưng Long nổi tiếng tận làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh yêu cầu được chính kỹ sư hoạ sĩ Nguyễn Xuân Đức dựa theo mẫu Lu- y thế kỷ 16 của Pháp thiết kế sao cho bộ trường kỷ hổ bì của anh có thêm vẻ Việt Nam. Nó phải vừa dân tộc mà vẫn hiện đại để các đời sau, con cái cháu chắt anh vẫn có thể nhảy đầm bên nó mà không lố. Sáng đã mò mẫm tìm hiểu trên Internet, trong giới đồ gỗ mỹ nghệ và được biết chỉ riêng công ty đồ gỗ Hưng Long ở làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh mới có khả năng thu gom được đủ một số lượng lớn gỗ hổ bì để chế tác nổi một bộ đại trường kỷ. Và cũng chỉ có Công ty này mới có bí quyết nhà nghề để thớ gỗ hổ bì trở nên mềm đi trong thời gian chế tác, còn sau khi hoàn thành rồi thì nó lại trở nên quánh chắc như đá thật. Tựa như bí quyết ngâm trứng vào dấm cho mềm vỏ cứng để trứng lọt dễ dàng qua miệng chai mà vẫn không vỡ lòng đỏ. Cũng phải mất đằng đẵng gần năm trời chờ đợi Sáng mới có được một bộ độc bản đại trường kỷ cực kỳ lộng lẫy, mà chắc hẳn khó có được một bộ thứ hai giống vậy. Anh đã mang nó về cho cha anh - ông Phương Văn Thưởng ở làng Hoàng Ngôn, xã Kỳ Nguyên huyện Tĩnh Hà trưng bày trong nhà. Và lúc này, cha Sáng đã lại ngồi thu chân, chễm chệ trên chiếc ghế vô giá đó. Cha anh cũng mê thích nó. Với anh, đó là niềm vui, lẽ đương nhiên của một người con hiếu thảo. Nhưng quá sớm! Đêm còn chưa qua, ngày còn chưa rạng. Và muôn lần như một, trước mặt ông chẳng khi nào thiếu cái chén sứ đồ Giang Tây chưa bao giờ vơi một thứ nước sóng sánh màu nâu cánh gián của rượu thuốc không ngâm tay gấu thì cũng cao hổ cốt do thằng con trai út - chính là anh - Phương Quang Sáng đích tay ngâm biếu. Giờ đây, ông súc miệng bằng thứ rượu quý ấy, kê mông lên chiếc ghế hiếm ấy, tay cầm chiếc điếu cày - vật bất ly thân tự tay ông gò bằng mảnh duyra thân chiếc máy bay - chiếc máy bay Mỹ đã bị chính ông cùng đội dân quân xã đã từng được phong là Đơn vị anh hùng các lực lượng vũ trang thời xa xưa bắn rơi trên cánh đồng làng Hoàng Ngôn; rúc lên hai hơi liền giòn tan nõ điếu cho ngây ngất tâm thần - để rồi thoả sức chê bai anh - cái thằng đã rước bằng được những cái thứ quý hiếm, độc nhất vô nhị đó về dâng ông ngự thưởng. Sáng biết cha mình sẽ lại xoè mồi lửa vào nõ điếu, rít thêm một hơi thuốc lào Tiên Lãng cháy cổ, phà khói ra một cách khoái trá lần nữa, rồi ông mới liếc xéo cái ánh mắt vẫn quen lia nhanh như chớp theo hướng anh đi, vẻ vừa kinh thường vừa giận dỗi, bất cần: - Đi đi! Mang hết cả đi! Sáng thừa biết cha mình đang nghĩ gì: “...Thôi, thôi, tôi xin ông! Ông muốn hành cái phép tắc, cái luật lệ, cái nghi lễ văn hoá văn hiếc, gì gì… của ông thì ông cứ mang đi đâu đó mà hành… nhé! Còn cái làng này nó chẳng thiết, mà tôi, tôi cũng chẳng cần.… Rõ là nhiễu sự! Rõ là… là… Cứ lớn chuyện ba cái thứ lặt vặt…Đang yên đang lành thì vẽ chuyện…” Và thể nào một viên thuốc lào nữa cũng lóe lửa đóm, nảy tâng tâng trên nõ. Chiếc điếu duya ra lại rú rít lên, gay gắt, bực bội, rồi phun khói lên… thoả mãn. Trời đất! Chuyện gì cha anh cũng cho là chuyện vặt, khỏi cần phải bày vẽ cho mệt người! Cha có biết rằng chính vì ý nghĩ lúc nào cũng ngại mệt, lúc nào cũng ngả theo cái chủ nghĩa tuỳ tiện được đến đâu hay đến đấy, việc gì cũng chỉ được nửa vời, không chịu cố gắng dồn tâm, dồn huyết để đi đến tận cùng ước mơ ấy như cha anh, của bao đời người ở cái làng bãi ngang này mà đã khiến cho cái làng Hoàng Ngôn của cha con anh chìm nghỉm, chẳng làm sao mọc mũi sủi tăm lên được trong thiên hạ không? Chao ôi! Cha hãy nhìn ra những tỉnh ngoài mà xem, có biết bao nhiêu địa danh lừng lẫy tên tuổi vì bề dày lịch sử văn hoá: những đền Hùng, đền Mẫu cội nguồn dân tộc bao đời; những thành cổ Tây Sơn, thành nhà Hồ, Lam kinh; những chùa Bổ, chùa Và, chùa Mía, chùa Tây Phương... thâm nghiêm, cổ kính; những cổng làng cổ Đường Lâm, chùa Cầu Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Tháp Chàm…Kỳ lạ... đến tận cái xứ Đồng Văn xa mù hẻo lánh cũng có riêng cho mình cả một phố cổ… chưa nói tới kinh thành Huế, đến cố đô Thăng Long... Cha có biết Bái Đính, Ninh Bình họ còn muốn vật sản văn hoá của địa phương mình có thứ vươn được lên đến tầm cỡ nhất Đông Nam Á không? Truyền thống văn hoá, di tích lịch sử vốn đã rất được những người dân các xứ ấy đời đời ngưỡng mộ, nâng niu, gìn giữ, vậy mà giờ đây họ vẫn chưa thoả, vẫn còn đang ra sức bồi đắp, khuếch trương rộng lớn thêm từng ngày. Nhưng, buồn thay, cha đã bao giờ chịu bước ra khỏi cái làng Hoàng Ngôn vốn chỉ là một dải đất bãi ngang hẹp như cái dải áo, kẹt giữa đôi bên bờ cát chát mặn và đầm lầy nước lợ này, để mở to mắt ra mà nhìn các làng quê rộng lớn, giàu có, khang trang, sang trọng của thiên hạ để mà kính phục họ, thèm được như họ, và buồn cho mình đâu! Sáng trút một hơi thở dài, cố xua ra khỏi người nỗi bực bội. Và anh, anh nữa - một Phương Quang Sáng - nhà doanh nghiệp về bất động sản và cổ phiếu mới phất với tài sản vài ba triệu Đô la Mỹ - một Phương Quang Sáng có bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh - Du lịch, hiện đang tu thêm một bằng Thạc sĩ nữa về Đông phương học - anh sống ở đâu mà chẳng được ở trong cái thế giới trọng Mỹ kim, thèm chất xám này chứ? Vậy mà tại sao, tại sao anh vẫn không sao bỏ được cái làng Hoàng Ngôn nghèo nàn, khốn khổ này. Tại sao, tại sao chứ? Vinh danh cho quê hương! Làm sao để có thể kêu gọi được tất thảy những con người cùng sống ở cái thôn Hoàng Ngôn vốn thâm căn cố đế đã có cái tính ương ương, gàn gàn này cùng có tâm huyết biến ý chí thành hành động tôn tạo vinh danh cho nơi chôn nhau cắt rốn của mình? Vậy mà, tiếc thay - cha anh - cái người thân thiết, ruột thịt gần gũi nhất của anh thì lại dường như cũng giống tất cả những người khác trong làng, cũng như chẳng hiểu gì, chẳng quan tâm gì đến điều tâm huyết của anh. Thậm chí ông lại còn có vẻ là một trong những người cảm thấy mệt mỏi và khó chịu nhất vì những việc anh đã làm. Mời các bạn đón đọc 24 Giờ Lên Đỉnh của tác giả Nguyễn Thị Anh Thư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiếc Hộp Giáng Sinh
Giáng sinh đã về trên thành phố. Những cơn gió tháng Mười hai buốt giá, tuyết rơi dày và ngọn lửa trong lò sưởi đã rực lên ấm nóng. Trong căn áp mái một ngôi biệt thự trên khu Đại Lộ thành phố Salk Lake, những bức thư ngả vàng nằm đó mấy chục năm, chờ được đọc lên lần nữa.  Những lá thư bí ẩn khiến người ta rơi lệ, bởi nỗi đau song hành cùng tình yêu tha thiết của một người mẹ mất con. Và nhờ đó, ý nghĩa của Chiếc hộp Giáng sinh đựng những bức thư, của ngày Giáng sinh thiêng liêng đã hé lộ. Một cuốn sách như lời ngợi ca tình yêu bất tử mà Thượng đế dành cho loài người, khi Người gửi con trai mình ra đi, dẫu biết con đường nào chờ đợi phía trước… Kể từ lần xuất bản đầu tiên, hơn bảy triệu người đã bị lay động bởi Chiếc hộp Giáng sinh, cuốn sách kinh điển về ngày Giáng sinh của thời đại chúng ta, thường được xếp cạnh Bài ca mừng Giáng sinh của Charles Dicken. Richard Paul Evans đã viết Chiếc hộp Giáng sinh như  một sự bày tỏ tình yêu ông dành cho hai con gái nhỏ của mình, Jenna và Allyson, nhưng câu chuyện rồi đã trở thành một thông điệp đầy sức mạnh, vượt qua nhiều biên giới, không chỉ dành riêng ngày Giáng sinh, gieo những nốt nhạc cảm động trong tâm hồn người nhận. Nhận định “Cuốn sách là về những sức mạnh bao bọc chúng ta, như gió, vô hình nhưng mãnh liệt khiến ta bàng hoàng chấn động. Và câu chuyện Giáng sinh nhỏ mà tôi viết ra là kết quả của những sức mạnh đó. Một vài người có thể coi đó là sự linh thiêng, một số khác gọi là sự trùng hợp. Còn có những người mà với họ, đó chính là phép màu.” *** “Chiếc hộp Giáng sinh" của Richard Paul Evans từng giành vị trí thứ nhất trong top best-seller cho cả ấn bản bìa cứng và bìa mềm của tạp chí New York Times “Món quà Giáng sinh đầu tiên là gì?” - bạn đã bao giờ đặt ra và trả lời câu hỏi này. Có lẽ phần lớn chúng ta khi được hỏi câu này đều nghĩ đến một món quà vật chất, một thứ đồ quý giá nào đó. Và nếu bạn chưa có câu trả lời, hãy đọc “Chiếc hộp Giáng sinh” (The Christmas Box) của nhà văn người Mỹ Richard Paul Evans.  Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh gia đình Richard - Keri và cô con gái nhỏ Jenna, một gia đình nhỏ gặp những khó khăn về chỗ ở khi trở về quê hương lập nghiệp. Căn hộ một phòng ngủ chật chội đến mức cô con gái của họ đã 4 tuổi vẫn được đặt trong chiếc nôi kê vừa khít vào phòng ngủ. Qua một trang báo, hai vợ chồng tìm được ngôi biệt thự cổ của một người phụ nữ độc thân sống trong vùng cần một gia đình có trẻ nhỏ đến ở cùng. Từ đây, ý nghĩa câu chuyện dần được mở ra. Mary Anne - chủ nhân ngôi biệt thự lộng lẫy ấy đã mất cô con gái duy nhất khi cô bé được 3 tuổi và chưa đêm nào bà nguôi ngoai nỗi nhớ con. Nỗi nhớ ấy được bà gửi gắm vào những bức thư nhuốm màu thời gian đựng trong chiếc hộp Giáng sinh bí mật trên căn gác áp mái của ngôi biệt thự. Sự ra đi của cô con gái khiến bao nhiêu năm Mary đắm chìm trong buồn bã, đau khổ và cô độc, khi không biết thổ lộ lòng mình cùng ai. Có thể nói, cuộc gặp gỡ giữa gia đình Rachard và bà Mary giống như một định mệnh mà Chúa trời đã sắp xếp. Một bên người phụ nữ dư giả nhưng gần như cả đời sống trong cô đơn, đến tuổi “gần đất xa trời” chợt nhận thấy cần có ai đó để được sẻ chia, được trò chuyện, để yêu thương: “Thật là tuyệt khi có ai đó trong nhà khi những ngày lễ đến”. Còn bên kia là một gia đình trẻ hạnh phúc, ăm ắp tiếng cười trẻ thơ nhưng đang gánh trên vai nỗi lo toan cơm áo gạo tiền. Sự gặp gỡ giữa họ giống như những mảnh ghép trong cuộc sống, bổ khuyết cho nhau những phần thiếu để làm nên một bức tranh tươi đẹp về cuộc sống hạnh phúc.  Sống chung với Mary, càng ngày vợ chồng Richard càng cảm thấy gần gũi với người phụ nữ cô đơn ấy, cảm thấy bà như một người thân trong gia đình: “Em có cảm giác như em đã biết bà ấy cả đời rồi” - Keri nói. “Như là bà mình vậy”, tôi nhận xét. Vợ chồng Richard nhận ra rằng người phụ nữ ấy muốn có người ở cùng là vì bà mong muốn có được cái không khí gia đình chứ không phải vì nhu cầu vật chất. Và điều làm Richard tò mò, muốn khám phá chính là những bức thư ngả vàng trong chiếc hộp Giáng sinh có thể chơi nhạc trên căn gác áp mái của căn biệt thự. Những lá thư chứa đầy tình yêu thương tha thiết, nỗi nhớ nhung của người mẹ đối với con gái mỗi dịp Giáng sinh về. Chủ nhân của những bức thư bí ẩn ấy là ai? Tại sao nó lại được đựng trong chiếc hộp Giáng sinh ấy. Nhưng bí mật dần hé mở cũng là lúc Mary phát hiện có một khối u trong não. Chính trong những ngày tháng ấy, khi Richard tìm hiểu được nguồn gốc những bức thư kia là của bà Mary viết cho cô con gái đã qua đời Andea. Đọc những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng chứa chan xúc cảm của người mẹ ấy, Richard đã có câu trả lời cho câu hỏi của bà Mary dành cho anh “có bao giờ anh tự hỏi món quà Giáng sinh đầu tiên là gì không?”. Đấy chính là lời nhắn gửi đầy yêu thương mà bà góa phụ đã gửi đến cho anh, để anh nhận thấy đâu mới là thứ quý giá nhất của cuộc đời. Trải qua mất mát, đớn đau của cuộc đời nên Mary hiểu rõ, dù có kiếm được bao nhiêu tiền, dù cuộc sống vật chất có đầy đủ đến đâu nhưng thiếu sự quan tâm, dành thời gian cho gia đình là ta đã đánh mất món quà quý giá nhất của cuộc đời. Những lo toan thường nhật, những giấc mơ kiếm tiền dần thành công đã phần nào chiếm mất thời gian Richard dành cho gia đình, dành cho cô con gái nhỏ Jenna. Trẻ con luôn ngây thơ, trong sáng những cực kỳ nhạy cảm. Nghe cách cô bé Jenna trò chuyện với bà Mary không ít người trong chúng ta cũng tự soi lại chính mình bởi rất nhiều lúc, giống như Richard, ta mải mê với những lo toan mà xao nhãng sự quan tâm dành cho con cái. Có đôi lúc ta nghĩ cố gắng dành cho con những gì tốt nhất, cố gắng kiếm tiền để lo cho cuộc sống của con mà quên đi rằng, tuổi thơ của con cần nhất là sự gần gũi, chuyện trò của cha mẹ. Và cũng giống như Richard, chắc hẳn cũng không ít người, một ngày nào đó bỗng nhận ra rằng thời gian sẽ đưa tuổi thơ của con đi xa. Và càng lớn thì dường như con càng rời xa vòng tay của mình, cho nên hãy ở bên con, gần gũi với con khi vòng tay mình còn đủ rộng để ôm được nó. “Con gái nhỏ quý giá của tôi. Tôi đã ngu ngốc làm sao, khi để tuổi thơ của nóm tuổi thơ quý giá thoáng qua của nó vô tình trôi đi. Mãi mãi. Trong cái đầu óc khờ khạo của tôi sẽ mà là con gái nhỏ của tôi. Nhưng thời gian đã cho thấy tôi mới lầm lạc biết nhường nào. Một ngày nào đó con bé sẽ lớn. Một ngày nào đó con bé sẽ ra đi, còn tôi bị bỏ lại với ký ức về tiếng cười khúc khích và những điều bí mật mà lẽ ra tôi đã được biết”. Hiếm có tác phẩm đầu tay của tác giả nào lại giành được vị trí thứ nhất trong top best-seller cho cả ấn bản bìa cứng và bìa mềm của tạp chí New York Times như “Chiếc hộp Giáng sinh” cho dù ban đầu tác giả chỉ định viết câu chuyện như một món quà dành cho hai cô con gái của mình. Ngay từ lần xuất bản đầu tiên (năm 1994) “Chiếc hộp Giáng sinh" đã được bán ra tới hơn 7 triệu bản. Tác phẩm này được dịch ra hơn 20 thứ tiếng với bốn mươi triệu bản được bán ra và còn giành được giải Emmy cho bộ phim truyền hình được dựng cùng tên. Tại Việt Nam, sách được Nhà xuất bản Văn học cùng Công ty Nhã Nam liên kết xuất bản năm 2014 và lập tức trở thành cơn sốt với bạn đọc trong nước. Chính những thông điệp đầy nhân văn mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm đã làm lay động trái tim bạn đọc trên toàn thế giới. Không còn đơn thuần là một tác phẩm viết cho ngày Giáng sinh mà tác phẩm này giống như những nốt nhạc đầy yêu thương và cảm động gieo vào tâm hồn mỗi người, để chúng ta nhận ra rằng món quà quý giá nhất của cuộc sống tình yêu thương. Ai đã đọc “Chiếc hộp Giáng sinh” có lẽ sẽ có cùng chung nhận xét, tác phẩm này thật sự xúc động dù cả nội dung và văn phong đều vô cùng giản dị. Kết thúc truyện đượm buồn khi bà Mary ra đi vì căn bệnh u não nhưng đằng sau đó vẫn lấp lánh tình yêu thương. Sự ra đi của Mary không gây cho bạn đọc cảm giác nặng nề, u uất mà vô cùng nhẹ nhàng bởi đó là giây phút bà được gặp lại con gái bé bỏng mà suốt đời bà yêu thương, nhung nhớ. Và chiếc hộp Giáng sinh được trao lại cho Richard như một món quà bà để lại, như một lời nhắc nhở hãy luôn trân trọng món quà quý giá nhất cuộc sống - đó là tình yêu thương trong mỗi gia đình. PHẠM NGỌC Mời các bạn đón đọc Chiếc Hộp Giáng Sinh của tác giả Richard Paul Evans.
Cõi Chết
James Joyce được xem là nhà cách mạng tiên phong trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của thế kỷ XX. Theo kết quả thăm dò của báo Time (Mỹ) và Le Figaro (Pháp), hai tờ báo uy tín trên thế giới, thì dẫn đầu các nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ XX là James Joyce, tiếp theo là Franz Kafka (Tiệp Khắc), Virginia Woolf (Anh), Ernest Hemingway (Mỹ), Gabriel Garcia Maquez (Colombia)... Có thể coi Joyce là một trong những nhà văn hàng đầu của lối viết "dòng ý thức" với bút pháp độc thoại nội tâm chân thật nhất trong văn học hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại hay chính là James Joyce - không chấp nhận lối sáng tác giống các thể loại văn học truyền thống. Nhà văn phá bỏ hoặc tưởng tượng lại các cấu trúc đã được nhận thức và nỗ lực tạo ra chính xác những dòng suy nghĩ theo quy luật hàng ngày với những gì xảy ra. Trong bài viết của nhà nghiên cứu Paul Gray về James Joyce đăng trong tuyển tập 100 con người tạo nên thế kỷ XỬ do báo Time (the Time 100, ngày 6 tháng 8 năm 1998) bình chọn, ông cho rằng chính Ulysses đã mở đường và in dấu sâu đậm trong tác phẩm của nhiều nhà văn lớn của thế giới sau đó như William Faulkner, Albert Camus, Samuel Beckett, Saul Bellow, Gabriel Garcia Marquez và Toni Morrison. Các tác giả này, Paul Gray viết một cách châm biếm, không như Joyce, đều đoạt giải Nobel văn học. James Joyce từng nói "Một trong những điều khi còn trẻ tôi không tài nào quen được là sự khác biệt tôi nhận thấy giữa cuộc sống và văn chương" (trích từ bài của Paul Gray). Joyce dường như đã dành cả sự nghiệp của mình để xóa bỏ sự khác biệt này, đồng thời cách mạng hóa cả nền văn chương thế kỷ XX. Cuộc sống trong tác phẩm của Joyce phần lớn là cuộc đời của chính ông. Tác phẩm được xuất bản đầu tiên của ông, người Dublin, gồm 15 truyện ngắn, bề ngoài có vẻ đơn giản và truyền thống nhưng lại theo một phong cách và ngôn ngữ đa chiều lạ lẫm. Tiếp sau đó là tiểu thuyết mang đậm tính tự thuật A Portrait of the Artist as a Young Man, câu chuyện của chàng Stephen Dedalus, hay chính là Joyce, từ những ngày thơ ấu ở Dublin đến khi quyết định rời quê hương ra đi theo đuổi nghệ thuật. Với độ phức tạp, sáng tạo về ngôn ngữ mô tả những bí ẩn nội tâm thường hiếm khi được tiết lộ, cuốn sách, dù không bán chạy nhưng đã thu hút được sự chú ý của một số nghệ sĩ thuộc trường phái cách tân nổi tiếng thời đó, cho rằng thế kỷ mới đòi hỏi mọi thứ - nghệ thuật, thi ca, văn chương, âm nhạc...cũng phải có gương mặt mới. Vậy là thử nghiệm ngôn từ của James Joyce đã được ủng hộ, và ông cũng không làm họ phải thất vọng. Joyce bắt tay viết Ulysses năm 1914, một số phần của tác phẩm xuất hiện trước trên tạp chí Egoist ở Anh và Little Reivew ở Mỹ, cho đến khi ba số tạp chí bị đình chỉ và chủ báo bị phạt 100 đô la vì bị buộc tội đã đăng bài tục tĩu, không phù hợp với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục. Tuy nhiên việc này chỉ càng làm tăng thêm sự tò mò của độc giả đối với tác phẩm sắp chào đời. Thậm chí trước khi Ulysses được xuất bản năm 1922, các nhà phê bình đã so sánh những sáng tạo của Joyce với khám phá của Einstein và Freud. Được ca ngợi là tiểu thuyết vĩ đại nhất trong lịch sử, Ulysses, như tên gọi của nó, được sáng tác với cảm hứng từ Odyssey của Homer (khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên). Khi còn bé, Joyce đã bị mê hoặc bởi sử thi Odyssey. Năm 20 tuổi, khi được viết về người anh hùng yêu thích nhất của mình, Joyce đã chọn Ulysses, người chiến thắng bằng chính sự khéo léo và thông minh hơn là dùng bạo lực. Khi viết Ulysses, (tên của Odysseus theo cách gọi của người La Mã), Joyce đã nói rằng Odysseus là một tính cách toàn diện và mang tính nhân văn nhất trong văn học. Trường ca Odyssey kể chuyện Ulysses, người anh hùng muôn vàn trí xảo, au khi dùng mưu hạ được thành Troy thần thánh, đã phiêu lưu khắp nơi, chiến đấu bảo vệ tính mạng của mình và để cho các bạn đồng hành được trở về xứ sở. Ulysses đã chịu nhiều đắng cay, cám dỗ, những gian nan, nguy hiểm...và chàng đã chiên thắng tất cả bằng mưu trí. Ulysses là hiện thân của trí tuệ, sự thông minh. Chàng không biết khuất phục, không biết nản lòng, là hình tượng người đi tiên phong mở đường cho một sự nghiệp lớn. Ulysses đã tự tạo nên số phận mình bằng tinh thần đấu tranh không mệt mỏi với các lực lượng tự nhiên cũng như với những kẻ thù trong xã hội. Ulysses tiêu biểu cho sự giải phóng tinh thần quan trọng, chứng tỏ sự trưởng thành mạnh mẽ của con người. Sau 20 năm lưu lạc, Ulysses đặt chân lên mảnh đất quê nhà, sống trọng nghĩa vợ chồng, tình cha con, tình cảm bè bạn, giống nòi, quê hương, đất nước... Tiểu thuyếy Ulysses của James Joyce sử dụng thiên trường ca cổ điển Odyssey như một phương pháp sắp đặt những trải nghiệm của con người hiện đại, để miêu tả cuộc sống đương đại. Ông sáng tạo Ulysses là một người đàn ông bình thường tên là Leopold Bloom, đấu tranh trước những thử thách thường ngày, trong một ngày bình thường. Cuốn tiểu thuyết dõi theo những khoảnh khắc hành động và suy nghĩ, ẩn ức, tưởng tượng của Leopold Bloom, của vợ anh ta, Molly, và Stephen Dedalus (nhân vật trong A Portrait of the Artist as a Young man) trong một ngày trọn vẹn ở Dublin, ngày 16 tháng 6 năm 1904 (là món quà của Joyce dành cho Nora Barnacle, ngày đầu tiên hai người hẹn hò). Cùng với ba nhân vật chính, tác phẩm đã tải hiện cuộc sống của người dân Dublin trên đuờng phố, những cảnh tượng, không gian, âm thanh, thậm chí cả mùi vị của Dublin. Mọi hoạt động diễn ra tưởng chừng ngẫu nhiên, nhưng ẩn sau chúng là rất nhiều bí ẩn và câu đố đến mức nó sẽ khiến cho các giáo sư phải bận rộn trong hàng thế kỷ để tranh cãi điều tác giả muốn nói, như Joyce từng tuyên bố. Sáng tạo ngôn từ không mệt mỏi của Joyce (nhiều đoạn trong Ulysses ông viết liên tục không hề có dâu câu) cùng thủ pháp "dòng ý thức" miên man giữa hiện tại, quá khứ và tương lai, và tâng tầng lớp lớp ám chỉ về tôn giáo lịch sử, thần thoại trong mỗi từ, mỗi câu nói, đã khiến Ulysses trở thành một cuốn từ điển về bản chất con người, tiến gần nhất đến sự khám phá hoàn hảo về con người, nhưng cũng trở thành cuốn sách khó đọc, và có lẽ chỉ dành riêng cho "một số độc giả nhạy cảm, tinh tế" như nhà phê bình Joseph Collins nhận xét. Một tác phẩm quan trọng khác của Joyce sau đó, và cũng là tác phẩm cuối cùng của ông, Finnegans Wake, thậm chí còn khó đọc hơn cả Ulysses, được viết với ngôn ngữ riêng do Joyce sáng tạo ra. Nếu Ulysses nói về Dublin ban ngày thì Finnegans Wake mô tả cuộc sống ban đêm của Dublin theo logic của những giấc mơ, hơn 600 trang sách tưởng như ngớ ngẩn với những suy nghĩ được mô tả bằng ngôn ngữ đứt đoạn và ngoại lai, thách thức mọi quy ước về cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp dòng ý thức, ám chỉ và những giấc mơ, ẩn ức lộn xộn của Joyce trong Ulysses đã được đẩy đến đỉnh cao với Finnegans Wake. Joyce đã vượt lên chính mình, vượt qua bộ bách khoa Ulysses của chính mình mà không ai vượt nổi. Viết về Joyce, Allen Ruch ca ngợi "James Joyce là nhà văn duy nhất chúng ta có thể hoàn toàn đặt niềm tin, con người duy nhất mà chúng ta có thể chắc chắn 1000 năm sau vẫn sẽ được nhớ đến, nếu như có con người ấy. Như câu nói nổi tiếng của một nhà phê bình: James Joyce đã và sẽ là nhà văn độc nhất trong lịch sử bởi chỉ xuất bản không gì ngoài kiệt tác. *** Tháng 7 năm 1998 Hội đồng cố vấn của Modern Library, một bộ phận của nhà xuất bản Random House, gồm 10 thành viên trong đó có một phụ nữ đã bỏ phiếu chọn một danh sách gồm 100 tiểu thuyết hay nhất viết bằng Anh Ngữ của thế kỷ 20 (Newsweek, 3 Aug. 1998, "Battle of the Books"). Trong số 100 tiểu thuyết được chọn có 6 tác phẩm được viết trong 25 năm qua. Cuốn Ulysses của James Joyce, một nhà văn người Ái nhĩ lan xuất bản năm 1922 đứng đầu danh sách. Cuối cùng là cuốn The Magnificent Ambersons của Booth Tarkington xuất bản năm 1918.  Không phải nhà văn nào cũng đồng ý với lựa chọn này, nhưng ít nhất sự lựa chọn cho chúng ta một tiêu chuẩn tương đối giúp giới thưởng ngoạn văn học quan sát một phần sinh hoạt văn học của thế kỷ này. Riêng nhà văn James Joyce có 3 tác phẩm được chọn trong số 100. Ngoài cuốn Ulysses là cuốn A Portrait of the Artist As a Young Man xuất bản năm 1916, sắp hạng 3 và cuốn Finnegans Wake xuất bản năm 1939 sắp hạng 77. James Joyce sinh tại thành phố Dublin, Ái nhĩ lan năm 1882 và là người độc nhất trong gia đình được ăn học đến nơi đến chốn, Năm 16 tuổi ông vào đại học Dublin và tốt nghiệp năm 20 tuổi. Lúc đó James Joyce đã được biết đến qua bài bình luận về Ibben ông viết đăng trên tờ Fortnightly Review có uy tín trong giới văn học Anh. Năm 1904 James Joyce rời nước qua lục địa Âu châu sống ở Paris, Zurich, Trieste sinh nhai bằng nghề dạy Anh Ngữ, và sống trong nghèo túng cho đến năm 1919 ông được ông Harriet Weaver vì mến tài giúp đỡ một số tiền lớn. Lúc này James Joyce đã nổi tiếng trong giới văn học Âu châu. Việc xếp cuốn Ulysses của ông lên hàng đầu của các tác phẩm viết bằng Anh ngữ hay nhất của thế kỷ dù chỉ là một lựa chọn tương đối đã xác nhận văn tài của ông. Chuyện ngắn "The Dead" tôi dịch sau đây ông viết năm 25 tuổi (khi Anh quốc còn đô hộ Ái nhĩ lan, một quốc gia có hai tôn giáo, hai ngôn ngữ do ảnh hưởng của người Anh) và được xem là một trong những chuyện ngắn xuất sắc nhất của ông. James Joyce qua đời năm 1941, hưởng thọ 59 tuổi. Trần Bình Nam Mời các bạn đón đọc Cõi Chết của tác giả James Joyce.
Bông Hồng Mất Tích
Câu chuyện kể về Diana, một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp mười bảy tuổi khát khao nhận được sự tán dương từ người khác. Chính điều này đã khiến cô từ bỏ giấc mơ trở thành nhà văn và từ bỏ cả những giá trị của chính mình. Trong giây phút lâm chung, mẹ của Diana đã thú nhận rằng Diana còn một người em song sinh nữa - một người khát khao được gặp mẹ, dám chống đối lại những người khác để thực hiện nguyện ước của cô là đi tìm mẹ. Lời mẹ khẩn cầu Diana hãy đi tìm gặp em gái đã thôi thúc Diana thực hiện một cuộc hành trình bí ẩn. Cuộc hành trình dẫn cô đến khu vườn hoa hồng kỳ lạ ở Istanbul, và chính nơi đó, cô đã trò chuyện được với những bông hồng... Serdar Ozkan sẽ đưa chúng ta đến với cuộc hành trình tìm kiếm điều gì đó tưởng như vô cùng đơn giản - HẠNH PHÚC. Nhưng, để có được hạnh phúc chẳng đơn giản chút nào. Để rồi khi chạm tới điểm cuối của hành trình, chúng ta chợt nhận ra rằng, hạnh phúc, nó tựa như một món đồ ta để quên trong ngăn kéo kí ức hóc khóa và chờ đợi bàn tay tỉ mẩn, kiên trì của một ai đó tìm lại mà thôi. *** Ephesus! Thành phố của sự đối ngẫu Là nơi có cả đền thờ nữ thần Artemis lẫn tòa thánh thờ Đức mẹ Maria. Nơi đây là hiện thân của cái tôi bản ngã lẫn chiều sâu tâm hồn. Đây cũng là hình ảnh thu nhỏ của những thứ cao khiết hư ảo lẫn những điều trần tục thấp hèn, là nơi kết hợp cả chế độ nô dịch lẫn sự tự do, phóng khoáng. Ephesus – Là sự hòa quyện của những điều đối lập. Bản thân thành phố ấy cũng có tâm hồn như mỗi con người chúng ta. Một buổi chiều muộn tháng Mười, có hai người ngồi bên cạnh con suối Meles gần thành phố cổ Ephesus. Mặt trời đang khuất dạng dần sau ngọn núi Buldul, nhuộm hồng cả một góc trời. Với những ai am hiểu ngôn ngữ của bầu trời thì chắc hẳn sẽ sớm hân hoan đón chào cơn mưa. “Thánh Paul đang giảng đạo cho mọi người về Mẹ Maria đấy”, cô gái trẻ nói. “Anh có nghe thấy đám đông phẫn nộ đang gào thét, phản đối và nguyền rủa ông ấy không? Hàng nghìn người nổi loạn chống lại tôn giáo mới - thứ tôn giáo ngăn cấm họ thờ nữ thần của mình. Hãy nghe tiếng những bước chân đang giậm trên nền đất và tiếng họ la hét kìa, ‘Chúng tôi không muốn Maria! Chúng tôi tôn thờ nữ thần Artamis!’ “Artemis ư?” Chàng trai trẻ hỏi lại. “Mội nữ thần sao? Nữ thần Diana của La Mã?” “Đừng quan tâm đến bà ấy làm gì”, cô gái trẻ đáp lời, “Bà ấy chẳng là gì ngoài một ảo tưởng đã được hình hài hóa và được người ta tôn thờ.” “Em có vẻ biết nhiều về bà ấy nhỉ?” “Em hiểu rõ bà ấy như chính bản thân mình ấy chứ.” “Được rồi, vậy sao em không kể cho anh nghe về bà ấy nhỉ?” “Bà ấy là nữ thần săn bắn,” cô gái bắt đầu kể. “Đó là một nữ thợ săn thực thụ - người dùng cung tên của mình để đem đến cho kẻ thù một cái chết đột ngột và ngọt ngào. Đó là một tâm hồn tự do bị cầ tmù, một người phụ thuộc nhưng rất đỗi kiêu hãnh. Nhờ có cây oliu mà mẹ bà – bà Leto đã sinh ra bà cùng với…” Sau khi đã hít một hơi sâu, cô gái nói thêm “người em song sinh của bà…” Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Mất Tích của tác giả Serdar Ozkan.
A
“A.” - Một câu chuyện tình... Hẳn là như vậy, bởi theo tác giả Kira Tenisheva, cuốn sách này chính là “câu chuyện về tình yêu, trong hình dung của tôi…” nhưng tại sao lại là “trong hình dung của tôi” – một lời nói mang tính nước đôi như vậy? Đây có lẽ là một “bí mật” khác mà cuốn sách dành riêng cho từng người đọc (!). Còn bây giờ xin mời bạn trở lại câu chuyện của “A.”. Cuốn sách nhỏ nhắn với số trang rất khiêm tốn, chỉ lấy duy nhất một chữ “A.” làm tựa, có lẽ cũng khơi dậy trong bạn đọc một chút ham muốn được khám phá. “A.” hoàn toàn không phải là một cuốn sách dễ đọc, nó “đánh đố” chúng ta ngay từ cái tựa. “A.” là ai? Là “chiếc khăn tay từ lâu đã phai mùi nước hoa của em có chữ “A.” thêu nổi ở góc? Hay “A.” chính là tên gọi của nữ thần sắc đẹp và tình yêu trong thần thoại Hy Lạp: Aphorodite? Cũng có thể “A.” chính là cô gái hoang dã Amazon?… Hình như đấy không phải là một con người cụ thể mà là biểu tượng của tình yêu đẹp mà chàng trai đi tìm. Một chuyến đi mãi mãi, bỏ lại sau lưng thành phố quen thuộc, địa vị và sự nổi danh nhất định. Chàng trai đi tìm ánh rực rỡ của tình yêu ở quảng trường, trên bãi biển, trên những con đường lộng gió. Chàng mãi đi tìm người ấy, cho dù người ấy đã già hoặc chết đi trong một làng ở vùng miền núi Alpes hẻo lánh, thậm chí đấy là một con người chưa bao giờ tồn tại (!)… Nếu so với những cuốn tiểu thuyết Trung Quốc đang “làm mưa, làm gió” trên thị trường sách Việt Nam hiện nay, có lẽ “A.” không phải là cuốn sách được ưa chuộng, bởi nó không có những “chuyện ầm ĩ” để bàn, để tán. “A.” là câu chuyện phi thời gian, vượt thoát không gian cụ thể; đấy cũng chẳng phải là câu chuyện của quá khứ hay tương lai. Song, nếu nói rằng “A.” là câu chuyện thời hiện tại thì cũng không phải. Tóm lại, điều mà “A.” muốn đề cập chính là sự vĩnh hằng với những mẫu sống, tình yêu huyền thoại luôn lưu chuyển âm thầm trong vũ trụ. Những nhân vật gần như không có thật, những cảnh trí không có trong đời thường, những thành phố vĩ đại nhưng không có tên, được đánh dấu bằng các chữ cái… Và, có một chút gì đó của văn học hậu hiện đại, khi tên của các nhân vật nổi tiếng, những niên đại, các biểu tượng… được “cài đặt” đây đó trong tác phẩm, bắt buộc người đọc phải vận dụng “trí học” của mình. Tuy nhiên, nếu bạn không phải là người “chịu khó” thì cũng không sao bởi “A.” là một câu chuyện tình yêu giản dị! Hãy dành vài giờ nhẹ nhõm, tạm quên những vấn đề của bản thân để dành cho cuốn sách này – đấy là lời gợi ý mà Kira Tenisheva gửi đến bạn đọc Việt Nam. Tôi đã làm theo cách ấy và tôi đã có được sự nhẹ nhõm kéo dài, để hiểu thêm những vấn đề của bản thân mình cùng cuộc sống mà mình đang tham dự… “A.” – tác giả: KIRA TENISHEVA; bản dịch: KIỀU VÂN, NXB HỘI NHÀ VĂN – TRUNG TÂM VĂN HÓA – NGÔN NGỮ ĐÔNG TÂY ấn hành năm 2005. TRẦN NHÃ THỤY *** Lời tác giả Gửi bạn đọc Việt Nam ! Một lần cầm bút lên, tôi hiểu mình không muốn viết về những chuyện đang xảy ra hàng ngày. Khi xung quanh có quá nhiều vấn đề, khi trên các trang sách vẫn là những máu me, nhơ nhớp, bạo lực, là sự vô liêm sỉ và tăm tối như những gì vẫn phô bày ra trên màn ảnh truyền hình, có cảm giác chỉ muốn bứt mình khỏi cái vòng đó và dù không lâu, được thoát ra ngoài thời gian và không gian này. Không phải quá khứ, cũng chẳng phải tương lai khiến tôi quan tâm, điều cuốn hút tôi là cái phi thời gian. Cái Vĩnh hằng. Ví dụ như tình yêu - điều đã luôn khiến cảm động và sẽ mãi làm cảm động nhân loại. Mà thực ra, đâu có gì đáng ngạc nhiên trong chuyện một phụ nữ quyết định viết về tình yêu? Nhưng việc viết cuốn sách này, một cách nghịch lý, đối với tôi hóa ra lại không là sự rời bỏ hiện thực, mà là tiếp cận nó từ một hướng khác. Không là sự lìa bỏ đời sống, mà hoàn toàn ngược lại, chính là sự quay về nơi đó xuyên qua một vùng huyền thoại vẫn còn lưu dấu trong mình nguyên mẫu của thế giới. Điều mô tả trong cuốn truyện không mấy gợi nhắc đến đời thường. Những cảnh trí quá rực rỡ, những nhân vật quá rực rỡ, có phần được cách điệu hóa, giống các nhân vật đeo mặt nạ trên sân khấu; họ không có tên và du hành qua những thành phố vĩ đại, nhưng không được gọi tên, chỉ được đánh dấu bằng các chữ cái như những ẩn số trong phương trình. Sự bí ẩn đó để làm gì ư? Đơn giản chỉ vì không gian diễn ra câu chuyện và không gian mà các nhân vật thuộc về không chỉ là châu Âu của thế kỷ 20, mà là một không gian ước lệ nào đó của cõi huyền thoại tình yêu. Mà trước tình yêu thì tất cả mọi người đều ngang nhau, và vô số những nhân vật vô danh của nó - những người khổng lồ hay nhỏ bé, những con người xinh đẹp hay quặt quẹo, quý tộc hoặc là thường dân - đời này sang đời khác, nhân danh tình yêu đang lặp lại cùng một những chiến công hay điều tội lỗi như nhau. Nhưng nếu như vậy, nếu chúng ta, những con người đã quần tụ lại bởi dù ta có là ai và ở đâu đi nữa, tất cả chúng ta đều yêu, đau khổ và hướng đến hạnh phúc, thì những tên người và địa danh ở đây đã chẳng còn có ý nghĩa quan trọng gì. Nói tóm lại, A là câu chuyện về tình yêu. Trong hình dung của tôi là vậy, nhưng bạn đọc hoàn toàn có thể nhìn thấy trong nó một điều gì đó không giống vậy. Còn về khuynh hướng văn chương, tôi cảm thấy thật khó xác định. Tôi không quy bản thân thuộc về một trào lưu văn học hiện đại nào cả, mà nếu cần bằng một cách nào đó làm sáng tỏ sự lựa chọn của tôi, thì tôi xin nói: điều quan trọng nhất đối với tôi là ngôn ngữ, phong cách, và với tư cách một người đọc tôi rất yêu sáng tác của các bậc thầy ngôn ngữ như Boris Pasternak và Vladimir Nabokov. Còn phải nói thêm điều gì nữa nhỉ? Tôi ước giá như có ai đó trong số các bạn sẽ dành ra vài giờ đồng hồ nhẹ nhõm để đọc cuốn sách này, tạm quên đi những vấn đề của bản thân. Và cùng với tôi thán phục vẻ đẹp của thế giới chúng ta đang sống. Tôi hạnh phúc với cuộc gặp gỡ này cùng bạn đọc Việt Nam và vui vì có dịp chúc cho dân tộc yêu lao động, dũng cảm và thiện tâm của các bạn được hạnh phúc và bình yên. Xin gửi tới các bạn lời chào thân ái! Kira Tenisheva Mời các bạn đón đọc A của tác giả Kira Tenisheva.