Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Đông Vườn Địa Đàng

Phía đông vườn địa đàng là câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỷ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình.  Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp.  Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện về con người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Cách đây mấy năm, tôi có dịp nói chuyện với một giáo sư người Mỹ. Ông được giới thiệu là một nhà Việt Nam học. Trong lúc trò chuyện, tôi đặt một câu hỏi: “Tôi không hiểu tại sao nhà văn John Steinbeck lại ngồi trên phi cơ bay trên trời Việt Nam và ca ngợi những phi công ném bom nhân dân nước tôi?” Ông trả lời: “Đừng nói đến John Steinbeck nữa. Bây giờ thanh niên Mỹ không ai đọc ông ta nữa. Ông ta lẩm cẩm rồi.” Nói thế, không biết vì muốn làm vui lòng tôi, hay vì là nhà Việt Nam học, tự nhiên ông đứng về phía Việt Nam. Tôi chắc lý do thứ hai đúng hơn, ông tỏ ra là một người thẳng thắn. Nhưng câu trả lời không khiến tôi vui, mà làm tôi suy nghĩ. Tôi hiểu rằng thanh niên Mỹ bây giờ không đọc John Steinbeck nữa không phải vì họ bất bình về việc nhà văn ủng hộ ném bom Việt Nam. Chính ông giáo sư Việt Nam học ấy đã nói thanh niên Mỹ thuộc thế hệ sau chiến tranh Việt Nam hầu như không ai biết Việt Nam là gì. Vậy thì, không đọc John Steinbeck nữa, ấy là vì họ cho rằng nhà văn đã cổ lỗ rồi, không hợp thời nữa. Thanh niên Mỹ ưa chạy theo “mốt”. Nếu đúng như thế, thật đáng buồn. Vì tác giả củaChùm nho uất hận,Chuột và ngườivàPhía đông vườn Địa đàngmà chúng ta đang đọc đây là một nhà văn nhân văn chủ nghĩa. Các tác phẩm vừa kể mang giá trị nhân đạo cao cả. Đó là những tác phẩm làm vinh dự cho dân tộc Mỹ. Nếu thanh niên Mỹ bây giờ thấy những tư tưởng ấy là “lẩm cẩm” thì thật đó là một điều không hay. Nhưng tôi không tin là có điều ấy. Tôi vẫn thấy tác giảChùm nho uất hậnlà đáng kính mến. Bây giờ nói vềPhía đông vườn Địa đàng. Nghĩ về người Mỹ, người ta nghĩ ngay đếnchủ nghĩa thực dụng. Phương Tây cho là như thế. Đích thân người Mỹ cũng tự cho mình như thế. Tất nhiên là có nhiều cách hiểuchủ nghĩa thực dụngkhác nhau. Ta thì nói:chủ nghĩa thực dụng Mỹ, với ý phê phán. Đại khái như thế này: người Mỹ cái gì cũng tính toán bằng tiền. Ngồi với nhau, ai có thuốc lá thì lấy ra hút, không mời người khác. Bàn việc, hỏi ngay phần tôi bao nhiêu, phần anh bao nhiêu. Bố con mượn tiền nhau cũng là vay trả sòng phẳng. Đến những việc lớn hơn, Mỹ sản xuất vũ khí, buôn bán vũ khí, chỉ nhằm thu lợi nhuận, bất cần nhân nghĩa, đạo lý “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi.” Đối với Mỹ chẳng có gì thiêng liêng hết, họ đem tất cả ra làm quảng cáo, để bán hàng v.v... Ta nhìn nhận Mỹ như vậy là có lý do. Ta thù ghét Mỹ. Ta và Mỹ đã gặp gỡ nhau trong những trường hợp không có gì vui vẻ. Những người Việt Nam ở miền bắc, ở các vùng kháng chiến miền nam đã bị bom đạn Mỹ gây cho biết bao nhiêu đau thương tang tóc. Những người trong các vùng đô thị thì căm giận các cuộc bố ráp, những cuộc tra khảo, những tai nạn lính Mỹ gây ra trên đường phố, những phụ nữ bị lính Mỹ xúc phạm đến nhân phẩm, những thanh niên hư hỏng vì “lối sống Mỹ”. Tất cả những cái đó ta quy tội chochủ nghĩa thực dụng Mỹ. Nó đồng nghĩa vớibần tiện, tham lợi, tàn nhẫn, phi nhân. Cũng có thể đó là những biểu hiện sai xấu củachủ nghĩa thực dụngnhưng không nên hiểuchủ nghĩa thực dụng chỉ là như vậy. Nói một cách cô đúc thì nội dung căn bản củachủ nghĩa thực dụnglà ở điểm, chỉ thừa nhận các chân lý của một lý thuyết sau khi đã thể nghiệm nó trong ứng dụng vào thực tế. Nguyên lý này được dùng cho cả khoa, triết lý, đạo đức, tôn giáo. Chỉ được coi là chân lý, một nền triết lý, một nền đạo đức, một tôn giáo có tác dụng cải thiện cuộc sống. Như vậy chủ nghĩa thực dụng là mộttriết học vị nhân sinh. Nước Mỹ là một nước mới, lịch sử chỉ có hơn hai trăm năm. Những người dân ở Âu châu, Á châu, Úc châu đến đây tổ chức một xã hội mới. Ở xứ sở của họ, họ sống trong những khuôn khổ đã định hình từ bao nhiêu đời trước. Họ suy nghĩ phán đoán theo những nếp cũ, theo truyền thống. Đến vùng đất mới này, mọi cái đều mới mẻ. Những người đến đầu tiên tập mình làm trọng tài cho mình. Họ không có cách nào khác là lấy hiệu quả để đánh giá những chủ trương, những việc làm của mình và điều này trở thành một lối tư duy của người Mỹ. Rõ ràng là trong tiểu thuyếtPhía đông vườn Địa đàng John Steinbeck đã chấp nhận lối tư duy ấy và khẳng định nó. Tác phẩm của ông đầy sức thuyết phục. Giả sử ông là triết gia và trình bày chủ nghĩa thực dụng bằng triết học chưa chắc ông thuyết phục được mạnh mẽ. Nhưng ông là nhà văn, và tiểu thuyết chính là bức tranh phản ánh cuộc sống cho nên chính cuộc sống chứng minh và như thế không ai chối cãi được. Tuy nhiên, để điều vừa nói không bị nghi ngờ, tôi cần phải nói về bút pháp của Steinbeck. Tiểu thuyết Mỹ, chí ít là tác phẩm của tiểu thuyết gia tiêu biểu, thể hiện một tính hiện thực rất trội. Có những cuốn có giá trị như một công trình nghiên cứu xã hội học, nhân chủng học (tất nhiên là bằng văn chương cho nên có thể còn rõ ràng hơn là khoa học nữa vì sinh động hơn, cụ thể hơn, tỉ mỉ hơn). Chúng không chỉ khảo sát một quãng đời mà cả cuộc đời, có khi từ đời nọ sang đời kia. Nhưng chẳng phải vì vậy mà chúng dày cộm, rậm rạp. Và đấy chính là chủ nghĩa thực dụng áp dụng vào lĩnh vực viết văn. Trong cuốn tiểu thuyết ta đang đọc đây Steinbeck theo dõi những nhân vật từ đời cha đến đời con. Ông chú ý đến từng chi tiết rất nhỏ, nhiều khi người đọc phải ngạc nhiên không biết ông làm thế nào mà quan sát được tinh tế như thế. Nhưng ông lại bỏ qua rất nhiều hành động, lời nói, tình huống mà thường thường nhiều tiểu thuyết gia đưa vào tác phẩm. Nghĩa là ông chọn chi tiết trên hiệu quả thực tiễn mà nó mang lại. Sự chọn lọc này thật khe khắt. Đọc sách, người ta thấy ông trình bày rất khách quan. Người ta không thấy có dụng ý gì muốn lái độc giả theo hướng này hướng khác. Đôi khi ông cũng phát biểu ngoài lề những ý kiến của ông. Nhưng những ý kiến ấy cũng thật khách quan, đúng là cuộc sống như vậy, ông chỉ phiên dịch lại trung gian. Nhưng Steinbeckkhách quanmà khôngkhách quan chủ nghĩa. Tôi muốn nói: người ta không thấy ở ông sự vô tình, thái độ trối kệ. Tôi phải so sánh cho rõ ý: ĐọcCuốn theo chiều giótôi thấy tác giả miêu tả rất trung thực, nhưng tôi vẫn cảm thấy ngòi bút hiện thực ấy hơi tàn nhẫn. Thuyền trưởng Butler có cái đầu óc thực tế rất hay, nhưng đối với Scarlett quả là ông đối xử quá tàn nhẫn. Tác giảNhững kẻ trần truồngvànhững người chếtcũng rất hiện thực, tôi không trách gì ông, nhưng ông cố ý phơi bày những mảng hiện thực kinh tởm quá. Vấn đề lànhìn hiện thực một cách hiện thực, nếu có thể nói như vậy. Cái hiện thực mà John Steinbeck trình bày, không bị tàn phế, uốn nắn chút nào, đầy những trầm luân khổ ải, nhưng nó không dọa nạt khủng bố người đọc mà làm cho người ta chấp nhận được. Chẳng phải là trong thực tế người ta vẫn sốngđượcvới đau khổ đó sao. Ta hãy nhớ lại bài thơ ngụ ngôn của La Phông-TenTử thần và tiều phu. Những người Mỹ đứng đắn thường bày tỏ thành thực cái ý muốn của họlàm cho cuộc sống có thể chịu đựng được. Nói thế nghĩa là: cuộc sống không chỉ có hoa thơm trái ngọt đâu, rất nhiều cay đắng nhưngcó thể chịu đựng được. Và người Mỹ thường có một phương châm, coi như một cách ngôn:Hãy giữ nụ cười. Cuộc sống là cuộc sống. Nó như thế. Vậy thì nhăn nhó cau có cũng chẳng thay đổi được gì. Tốt hơn là hãy giữ lấy nụ cười. Đó là chủ nghĩa thực dụng. Nó không phải dở, hay là khác. John Steinbeck chọn hai nhân vật để thuyết minh cho tư tưởng của ông. Hai con người bình thường. Một là ông Samuel Hamilton nguồn gốc Ái Nhĩ Lan nông dân, có nghề lò rèn và kiêm nghề đào giếng. Một là Lee nguồn gốc Trung Hoa, nấu bếp. Dường như John Steinbeck gửi gắm một ý nghĩ vào trong sự chọn lựa của mình: một người đơn giản hồn nhiên kiểu trẻ thơ, và một người đã được thừa kế, một gia tài khôn ngoan của một nền văn hóa lâu đời vào bậc nhất trên hành tinh này. Hai người gặp nhau thống nhất với nhau trong một quan niệm: chỉ có thực tiễn là chân lý. Thêm vào đó, tác giả lại viện dẫn Sáng thế ký của Kinh Thánh mà ông cho là người Trung Hoa đã tìm ra nghĩa đúng nhất. Đó là đem chúa Trời nói với Cain “Nếu người làm lành há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành thì tội lỗi rình đợi trước cửa thềm người lắm, nhưng ngươi phải quản trị nó.” Phải quản trị nó trong nguyên văn hê-brơ, là Timshel. Theo LeeTimsheldịch làquản trịhaykiềm chếđều không đúng mà, phải dịch làngươi có thể chế ngự nó. Steinbeck dùng chi tiết này không phải do yêu cầu của nghĩa chữ mà chính là để nêu lên một quan niệm xử thế như bàn dưới đây. Hơn một thế kỉ nay, từ lúc các nước phương Tây đi chiếm các thuộc địa ở các nước phương Đông, có những triết gia, chính trị gia, nhà văn đặt câu hỏi: Phương Tây và phương Đông có thể gặp được nhau không? Trên thực tế, họ cũng gặp nhau rồi, đúng hơn là phương Tây đã gặp phương Đông bằng thế mạnh 1 Câu hỏi đặt ra là muốn có sự gặp gỡ tự nguyện kia. Nhiều câu trả lời khác nhau. Về phía phương Tây có người bảo có thể được. Có người bảo Tây là Tây, Đông là Đông không thể gặp nhau. Có người đề xuất công thức: Phương Tây là thầy, phương Đông là trò. Với nhân vật Lee, Steinbeck có câu trả lời độc đáo: Lee làđầy tớ trung thànhvà là thầy dạy khôn cho chủ. Không rõ nhà văn có đọc các truyện xưa của Trung Hoa không mà ông đã xây dựng nhân vật Lee như một quân sư, một mưu sĩ, một môn khách? Steinbeck tỏ ra rất hiểu phương Đông, rất hiểu cái thâm thúy của triết học, văn hóa Trung Hoa mà ông khâm phục. Nhân vật Lee, nhà văn xây dựng thật hay. Tim shel – ngươi có thể chế ngự nó: ấy là tư tưởng chỉ đạo của cuốn tiểu thuyết. Mỹ châu vốn là nơi tao ngộ của tứ hải anh hùng. Nói nôm na hơn và đúng với sự thực: tìm đến lập nghiệp ở nước Mỹ là những người thuộc nhiều quốc gia, nhiều màu da, có chung một cảnh ngộ bị thất cơ lỡ vận, không còn sống ở quê hương xứ sở mình. Cái cảnh ngộ chung ấy dạy họ nên biết chấp nhận những dị biệt của nhau, có khi những sự đối chọi nhau nữa, để chịu đựng, để sống chung với nhau trên miếng đất có thừa điều kiện để nuôi tất cả. Các nhà văn Mỹ thường có cái nhìn thực tế, nói là thực dụng cũng được đối với con người. Con người rất đa dạng, bao nhiêu người là bấy nhiêu mô hình, không ai có quyền áp đặt cái mô hình của mình cho người khác. Con người không phải làthầncũng không phải làquỷ, có cả xấu lẫn tốt, xấu hay tốt đều là tương Steinbeck cố ý đưa vào trong tiểu thuyết câu truyện trong Kinh Thánh về hai anh em sinh đôi Abel và Cain một tốt, một xấu và đặt cho hai nhân vật của ông là Aron và Cal cùng là anh em sinh đôi, hai cái tên gần giống như trong Kinh Thánh. Phải chăng tác giả muốn nói Abel cũng là con người, và Cain cũng là con người. Con người là cả Abel lẫn Cain, cái nghiệp dĩ là như vậy, phải chấp nhận thôi. Hơn thế, nhà văn lại có ý dành tấm lòng ưu ái của mình cho những người bị coi là xấu. Trong tiểu thuyết có hai tuyến nhân vật: Tốt, xấu. Adam, Aron được mô tả như những con người tốt. Họ muốn làm những việc tốt, họ nuôi trong tâm trí một lý tưởng. Nhưng họ chỉ thu hoạch được những thất bại mà chính khuynh hướng lý tưởng hóa là nguyên nhân. Còn những nhân vật bị coi là xấu thì lại thành công trong mọi việc làm. Bên cạnh Adam rất tốt là Cathy, vợ chàng, cực xấu. Cô lừa dối tất cả mọi người và ai cũng bị lừa. Bên cạnh Aron luôn luôn hướng về mục đích thánh thiện là người em Cal luôn luôn bị những ý tưởng xấu điều khiển và Cal bao giờ cũng đạt kết quả. Nhưng ta chớ vội tưởng Steinbeck chủ trươngác thắng thiện. Cuốn tiểu thuyết cho ta thấy những thành công của Cathy, Cal đem lại cho họ không phải sự sung sướng mà là sự đau khổ. Nhà văn muốn nói với chúng ta rằng: Cuộc sống là cuộc sống, nó không uốn theo những ý tốt của chúng ta đâu, đừng lý tưởng hóa. Bởi vì ta lý tưởng hóa cho nên ta liệt người này người khác vào loại xấu. Thực ra họ chỉ là sản phẩm khách quan của cuộc sống. Nếu ta biết nhìn họ một cách thực tế, không định kiến thì ta sẽ thấy họ đều có khả năng chế ngự cái phần xấu ở họ. Nhà văn đã nhờ người bếp Trung Hoa làm phát ngôn nhân cho ông. Lee nói với Cal: “Chú đã nhận ra rằng những điều thiêng liêng đễ bị tiêu diệt, trong khi điều ác lại cứ tồn tại và phát triển. Chú nghĩ rằng cơn thịnh nộ của Thượng đế đã trút lửa từ nồi kim loại nấu lỏng xuống hủy diệt hết để làm cho thanh khiết công trình nhỏ bé bằng bụi đất do ngài đã nặn ra... Mỗi người trong mỗi thế hệ đều được tầy uể bằng lửa... Không một người nào trên đời này tránh khỏi nguyên tắc đó nếu muốn trở nên một người hoàn toàn.” Mỗi người trong mỗi thế hệ đều cần được tẩy uế... cho nên cuộc sống yêu cầu mỗi người phải khoan dung, độ lượng với đồng loại của mình. Sự khoan dung độ lượng ấy là cần thiết, là yếu tố quyết định để mỗi người có thề vượt qua thử thách và hoàn thiện mình. Lee cầu xin ông Adam: “Ông Adam, xin ông hãy tha thứ cho Cal. Đừng để nó cô độc vì mặc cảm tội lỗi... Xin ông hãy giúp nó. Hãy cho nó một cơ hội. Hãy giải tỏa mặc cảm cho nó. Nhờ đó nó sẽ vượt được mọi thử thách, hãy giải thoát cho nó. Hãy tha thứ cho nó.” Đó là mấu chốt của vấn đề. Nhà văn bày tỏ một quan niệm sống rất nhân đạo, một chủ nghĩa nhân đạo không phải trên lý thuyết xa vời, đẹp thì có đẹp nhưng vô ích vì không thể vươn tới được, mà một chủnghĩa nhân đạothực tiễn, nói là thực đụng cũng được, phù hợp với kích thước, hoàn cảnh của con người. Phía đông vườn địa đànglà câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỉ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình. Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kì chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp. Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện vềcon người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. Trong phong trào đổi mới của ta hiện nayPhía đông vườn Địa đànglà cuốn sách nên đọc. 9-1988 Tuy xuất bản rất nhiều tác phẩm từ xã hội đến hoạt kê qua tình cảm, John Steinbeck tuyên bố rằng “Phía đông vườn Địa đàng”, là tác phẩm quan trọng nhất của ông. Quan điểm đó cũng được nhiều nhà phê bình đồng ý. Sau ngày xuất bản “East of Eden” cho đến khi ông được trao tặng giải Nobel về Văn Chương năm 1962, không có tác phẩm nào quan trọng hơn tác phẩm này. “East of Eden” sau khi xuất bản, đã được đạo diễn kiêm văn sĩ Elia Kazan quay thành phim và do James Dean, nam tài tử lừng danh quốc tế đóng vai chính cùng nữ tài tử Pier Angeli, mối thất vọng lớn của James Dean, khiến anh phóng xe đua hết tốc lực đến ngộ nạn tử thương; gây thương tiếc cho giới trẻ mộ điệu một dạo. Ở Mỹ, “East of Eden”, đã được tái bản gần bốn mươi lần và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.   Mời các bạn đón đọc Phía Đông Vườn Địa Đàng của tác giả John Steinbeck.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng gọi tình yêu giữa lòng thế giới - Kyoichi Katayama
Tác phẩm: Socrates in love (Tiếng gọi tình yêu giữa lòng thế giới) Tác giả: Kyoichi Katayama Thể loại: Tình Cảm, Lãng mạn, Sách hay, Tiểu thuyết, Văn học nhật bản, Văn học phương đông NXB: Văn Học Ebook: Romance Book Đăng: dtv-ebook.com Giới Thiệu   Xuất bản lần đầu năm 2001, Socrates in love (Tiếng gọi tình yêu giữa lòng thế giới) của tác giả Kyoichi Katayama ngay lập tức trở thành một trong những tác phẩm văn học được yêu thích hàng đầu tại Nhật Bản. Ba triệu bản sách đã được bán ra, vượt qua cả con số kỷ lục trước đó của Rừng Na Uy.   Nữ diễn viên nổi tiếng Nhật Bản Kou Shibasaki viết về cuốn sách: “Tôi đã đọc trọn vẹn cả cuốn sách cho dù nó làm tôi bật khóc. Tôi ước gì mình có được một tình yêu như thế trong cuộc đời này.” Cuốn sách kể lại những ký ức sống động, ngọt ngào nhưng đau đớn của Sakutaro với người bạn gái thời trung học. Mối tình đầu giữa Sakutaro và Aki đến tự nhiên như trời định, họ sinh ra để bên nhau, thành đôi thành lứa. Họ khởi đầu như đôi bạn cán sự của lớp học, là hai học sinh được chọn đóng Romeo và Juliet, cùng chia sẻ cuốn nhật ký… cho tới khi nhận ra rằng tình yêu trong sáng đã bắt đầu từ khi nào chẳng rõ. Tình cảm quyến luyến của họ hiển nhiên như bảng đen và bình hoa trong lớp, êm đềm trôi theo năm tháng học trò… Nhưng, thần nụ cười không cho họ đi tới trọn con đường, Aki đã mãi mãi dừng lại ở tuổi mười bảy, và Sakutaro bước tiếp – chỉ còn lại một mình… “Có đôi lúc, vào một buổi sáng, ta bỗng vô tình tìm thấy thứ mà mình đã đánh mất từ rất lâu ở đúng chỗ trước kia. Trông nó thậm chí còn mới hơn cả trước khi bị đánh mất. Tựa như có một người không quen biết cẩn thận cất giữ nó giùm ta. Liệu có khi nào linh hồn của Aki sẽ quay trở về đây tựa như cách ấy không?” Socrates in love đưa người đọc tới thế giới kỷ niệm đầy ắp những cung bậc cảm xúc – lãng mạn và chua xót, tha thiết và day dứt của Sakutaro – và ở đó, người ta có thể thấy tình yêu đã vượt qua danh giới của sự sống và cái chết, hiện tại và tương lai… Không chỉ là cuốn sách lãng mạn dành cho độc giả mới lớn, Socrates in love là câu chuyện giản dị, sâu sắc, xúc động về tình yêu và hành trình vượt qua những nỗi đau đầu đời.
Chúa Ruồi
Tên ebook: Chúa Ruồi (full prc, pdf, epub) Tác giả: William Golding   Thể loại: 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới, Sách teen, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây   Dịch giả: Lê Chu Cầu   Nguyên tác: Lord of the Flies   Nhà xuất bản: Văn học   Năm xuất bản: 2010   Số trang: 324   Khổ sách: 13 x 20,5 cm   Trọng lượng: 330 gr   Tạo prc: hiepsiga   Nguồn: Đào Tiểu Vũ's eBook   Ebook: http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Chúa Ruồi Giới thiệu: "Chúa Ruồi" là tác phẩm đầu tay và cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của William Golding. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người. Từ trong lịch sử phát triển của nhân loại, ánh lửa đã là một biểu tượng mang những ý nghĩa đối lập nhau. Ánh lửa vừa gợi lên không khí ấm áp, quây quần của những buổi hội họp lại vừa là một mối họa hủy diệt bởi lửa có thể thiêu đốt mọi thứ ngáng đường nó. Trong "Chúa Ruồi", ánh lửa là nguồn gốc nảy sinh mối xung đột không thể giải quyết giữa Ralph và Jack. Với tư cách là người đứng đầu, Ralph luôn tâm niệm việc thắp lên ngọn lửa để tàu thuyền có thể trông thấy và đến cứu là công việc hệ trọng nhất đối với lũ trẻ. Cậu bé tìm mọi cách để khiến lũ trẻ hiểu ra điều đó song đó là một nỗ lực vô vọng bởi hầu hết bọn trẻ không thể tập trung làm việc gì quá 5 phút và chúng dễ bị thu hút bởi những hoạt động huyên náo hơn là ngồi một chỗ và trông chừng đống lửa. Đi ngược lại với nỗ lực của Ralph, Jack chỉ quan tâm đến việc đi săn. Niềm say mê săn đuổi đã xâm chiếm tâm hồn cậu bé và lây lan nhanh chóng trong đám trẻ. Jack cũng sớm nhận ra việc kiếm được thịt tạo cho nó quyền chỉ huy đám trẻ. Đối với Jack, ngọn lửa không có ý nghĩa là một tín hiệu cầu cứu bởi nó đã thích nghi được với hoàn cảnh khắc nghiệt trên đảo hoang. Nó sẵn sàng hạ những nhát dao chí tử vào các con mồi để duy trì sự sống và nhất là sự quyền lãnh đạo tối cao của mình. Với Jack, ngọn lửa bập bùng là thứ để nấu chin thức ăn cho buổi tiệc tùng man dại. Điệu nhảy xung quanh ánh lửa của những bộ mặt nạ vằn vện biến chúng thành một lũ mọi. Sự giao tranh khốc liệt giữa hai phe luôn được hỗ trợ bởi những tia sét rạch ngang bầu trời và đó là những điềm báo đầy tai ương với cuộc sống của lũ trẻ. Mặc dù cuối cùng, hành động thắp lên ngọn lửa biến hòn đảo trở thành một đảo lửa của Ralph đã giúp tàu hải quân phát hiện và cứu lũ trẻ xong ám ảnh về ánh lửa và những cuộc tranh giành tàn bạo để có được ngọn lửa vẫn sẽ ám ảnh lũ trẻ. Chúng có thể bước ra khỏi làn khói mịt mờ của khu rừng trên hoang đảo nhưng chúng sẽ phải đạt chân vào một thế giới ghê rợn hơn. Đó là cuộc chiến tranh nguyên tử của người lớn. Ánh lửa lại làm một ranh giới đưa chúng từ một bi kịch nhỏ đến một bi kịch lớn hơn và lần này, liệu chúng có may mắn được cứu thoát? Hòa mình với cuộc sống hoang dã, những đứa trẻ dần quên đi nền văn minh đang tồn tại bên ngoài hòn đảo. Dưới sự lôi kéo của Jack, lũ trẻ từ bỏ những chiếc lều bên bãi biển để sống trong hang đá. Hình dáng những cậu bé đáng yêu không còn mà thay vào đó là những tên mọi tí hon vẽ mặt vằn vện. Chính cái mặt nạ đó đã khiến chúng "không còn biết xấu hổ dưới ánh mặt trời". Với giọng văn lạnh lùng và đanh thép, William Golding đã miêu tả hành trình ngược về cõi u mê của những đứa trẻ bị bỏ rơi trên đảo hoang. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người. Tác giả:  William Gerald Golding sinh năm 1911 tại Cornwall nước Anh. Xong trung học, ông theo ngành vật lý để vừa lòng cha mẹ. Được hai năm, thấy không thích khoa học tự nhiên nên ông chuyển sang văn học và triết. Năm 1935, sau khi tốt nghiệp, Golding lấy thêm bằng sư phạm và dạy tại nhiều trường khác nhau và từ năm 1935 đến 1940, trong đó có một trường dành riêng cho nam sinh. Năm 1940, khi thế chiến II bùng nổ, Golding phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Anh. Là thuyền trưởng, ông đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Golding từng có mặt trong chiến dịch đổ bộ lên Normandie (Pháp) năm 1944 của quân Đồng minh. Năm 1945, chiến tranh kết thúc, ông trở lại với nghề sư phạm. Golding cho rằng những thảm họa ông từng chứng kiến trong chiến tranh: sự dã man của con người, đặc biệt là tội ác diệt chủng của Đức Quốc xã… tất cả chỉ có thể giải thích được qua cái Ác Bẩm sinh. Chúa Ruồi (Lord of the Flies), cuốn tiểu thuyết đầu tay và nổi tiếng nhất của Golding xuất bản năm 1954 mang đậm ưu tư này của tác giả. Truyện kể về diễn tiến bi thảm trong cuộc sống của mấy chục đứa trẻ khoảng từ sáu đến mười hai tuổi may mắn sống sót trên một hoang đảo ở Nam Thái Bình Dương sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn trong một cuộc chiến tranh nguyên tử. Cũng bối cảnh là hoang đảo, nhưng khác với loại chuyện phiêu lưu có hậu kiểu Robinson Crusoe hay Đảo giấu vàng… Chúa Ruồi là một câu chuyện ngụ ngôn, tư tưởng của tác giả ẩn sau rất nhiều ẩn dụ và biểu tượng. Mới đầu, khoảng hai mươi nhà xuất bản ở Anh đã từ chối bản thảo của Golding. Cuối cùng, cuốn sách được nhà xuất bản Faber and Faber tại London phát hành, song chẳng gây được tiếng vang gì. Tuy nhiên, hai, ba năm sau, cuốn tiểu thuyết được nồng nhiệt đón nhận ở Mỹ. Điều này không thể giải thích rằng “Bụt chùa nhà không thiêng”, mà vì người dân Anh mới trải qua hai cuộc thế chiến thảm khốc chỉ trong vòng hơn hai mươi năm, họ đâm ra kỵ loại truyện có nội dung u ám, bi quan. Từ đó, Chúa Ruồi trở nên nổi tiếng, được đưa vào giáo trình văn học ở Anh, Mỹ và nhiều nước Châu Âu, tác phẩm còn được dựng thành phim hai lần – năm 1963 và 1990. Sau Chúa Ruồi, Golding còn cho ra đời nhiều tác phẩm khác, phần lớn đều mang nỗi trăn trở của ông về hai chữ Thiện và Ác của con người. Năm 1980, Những nghi lễ của chuyến đi (Rites of Passage), tập đầu trong bộ truyện ba quyển với chủ đề tương tự Chúa Ruồi, đoạt giải Booker. Năm 1983 Golding được trao giải Nobel văn học vì sự nghiệp của ông. Năm 1988 ông được Nữ hoàng Elizabeth II ban tước Sir. William Golding mất ngày 19 tháng Sáu 1993.   Đánh giá:   “Nếu Chúa Ruồi chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học thiếu nhi, ắt hẳn nó sẽ vô cùng rạo rực và tươi sáng, nhưng tác giả của nó là Golding, người đã trải qua đủ ác mộng để hiểu rằng: nơi nào con người không kiềm chế được cái ác bản năng thì dẫu chỉ là trò chơi của trẻ nít, vườn địa đàng sớm muộn cũng thành địa ngục.”   - The Times   Trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, mấy chục đứa trẻ chưa đến tuổi thiếu niên “may mắn” sống sót trên một hoang đảo sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn. Chúng tập họp dưới bầu trời Nam Thái Bình Dương nắng gắt, chia sẻ gánh nặng và đặt niềm tin vào thủ lĩnh. Nhưng rồi, cái đói và thiên nhiên khắc nghiệt từng bước vắt kiệt bọn trẻ. Bản năng sinh tồn đã dần bóp nghẹt sự ngây thơ – từ đây thực tại của chúng tan hòa vào ác mộng.   Một câu chuyện ngụ ngôn đau đớn và hãi hùng, ngập tràn những tư tưởng ẩn sâu dưới hàng hàng lớp lớp ẩn dụ và biểu tượng. Với Chúa Ruồi, một kiệt tác văn học kinh điển đầy ám ảnh, William Golding đã khiến các nhà phê bình văn học hao tốn giấy mực chỉ để tranh luận về một vấn đề: Có thực “nhân chi sơ tính bản thiện” hay chăng là… ngược lại?   “Chỉ vài tuần giữa nơi hoang vắng đã đủ khiến con người quay lại với bóng tối u mê, nơi hắn đã phải mất hàng ngàn năm để rũ bỏ. Chúa Ruồi là câu chuyện phiêu lưu giả tưởng gần nhất với thực tại.”   - The New York Times Mời các bạn đón đọc Chúa Ruồi của tác giả William Golding.  
Cạm Bẫy Độc Thân - Elizabeth Thornton
Tên ebook: Cạm Bẫy Độc Thân (full prc, pdf, epub) Tác giả: Elizabeth Thornton Tên gốc: The Bachelor Trap Bộ sách: Trap (tập 1)   Thể loại: Hiện đại, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây   Dịch giả: Tường Vy   Biên tập: khungcodangcap & Docgia   Nguồn: 4vn.eu   Ebook: Đào Tiểu Vũ's eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Cạm Bẫy Độc Thân Giới Thiệu: Cạm Bẫy Độc Thân là quyển thứ hai trong bộ ba series “Trap” của Elizabeth Thornton. Từ một tác giả của những quyển tiểu thuyết bán chạy nhất trên toàn quốc với những tác phẩm "giải trí thú vị" (theo tờ Philadelphia Inquirer) đến một câu chuyện khiêu khích của một quý ông với một bí mật … và nàng thiếu nữ độc lập mà chàng đã quyết ý phải giành chiến thắng trong trò chơi tình yêu tuyệt đỉnh. Đối với Brand Hamilton, đó là một thách thức, hầu hết mọi nam nhân sẽ lẩn tránh với bất cứ giá nào: để dụ dỗ người đẹp mê hồn và không nguyện ý, tiểu thư Marion Dane, trong khi phải cố tránh đoạn đường lê thê tại giáo đường [hôn nhân]. Nhưng Brand, là một đứa con rơi của một công tước với một tương lai tươi sáng trong lĩnh vực chính trị, có những lý do cá nhân buộc chàng phải tán tỉnh Marion.... Với huyết thống không tì vết của mình, Marion không khỏi đắn đo bởi động cơ của Brand. Và Marion cũng có vấn đề riêng mà nàng cần phải giải quyết: nàng luôn bị theo dõi bởi một kẻ thù ẩn hình, và Brand là người duy nhất có thể giúp đỡ nàng. Khát vọng là một thứ không thể nói trước được – tình yêu không cách kiểm soát đã bất ngờ tóm chặt lấy cả hai. Giờ đây xã hội thượng lưu đang rì rầm bàn tán về cuộc theo đuổi khác thường của họ, họ phải dấn mình vào một cuộc hành trình mà sẽ đưa họ từ một Luân Đôn lấp lánh ánh đèn màu và đầy kích thích đến một ngôi làng xa xôi đã ẩn giấu một bí mật cả mấy thập niên qua – và một tình yêu có thể chứng minh là một cạm bẫy khó kháng cự nhất....   Mời các bạn đón đọc Cạm Bẫy Độc Thân của tác giả Elizabeth Thornton.
Đảo Giấu Vàng - Robert Louis Stevenson
Tên ebook: Đảo Giấu Vàng ( full prc, pdf, epub) Tác giả: Robert Louis Stevenson Thể loại:  100 Cuốn sách giá trị nhất, Sách thiếu nhi, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây   Người dịch: Vương Đăng    Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa Thông tin   Nhà phát hành: Phương Đông   Khối lượng: 220.00 gam   Định dạng: Bìa mềm    Kích thước: 13 x 20.5 cm   Ngày phát hành: 12/2010   Số trang: 352   Nguồn: e-thuvien.com   Ebook: Đào Tiểu Vũ's eBook -  http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Đảo Giấu Vàng Giới thiệu: Nhân vật chính của Đảo Giấu Vàng là cậu bé thiếu niên Jim Hawkin, lớn lên ở một quán trọ nơi bố mẹ cậu làm chủ. Vào một ngày nọ, có một thủy thủ già (Bill Bones) đến ở trọ, và vô tình lộ ra việc hắn ta vốn là thành viên cũ của băng cướp biển do thuyền trưởng Flint huyền thoại, đang trốn chạy đồng bọn. Trước khi chết, Bill đã tiết lộ cho Jim về kho báu của băng Flint, cùng với bản đồ kho báu do ông ta giữ. Khi Bill chết, Jim đã kịp lấy bộ bản đồ trước khi đồng bọn của Bill đến phá quán để cố tìm kiếm bản đồ. Jim đã đem bản đồ đến trình chính quyền với điền chủ John Trelawney, bác sĩ Lee Livesey, và họ đã quyết định cùng lên đường tìm kiếm số vàng này mang về cho chính quyền, và Jim trở thành thủy thủ học việc trên chiếc tàu này, với thuyền trưởng Alexander Smollett và những người thân cận của John. Khi tàu ra khơi, vô tình Jim đã phát hiện ra cuộc nội loạn sắp xảy ra do kẻ cầm đầu là John Silver cao kều, gã đầu bếp cụt chân với con vẹt mang tên thuyền trưởng Flint trước đây chính là thành viên trong toán cướp Flint. Nhờ phát hiện này, mọi người thoát chết và đã rời khỏi tàu, cùng chiến đấu với bọn phản loạn trên đảo. Sau đó, khi cố gắng cướp lại tàu một mình, Jim đã lạc khỏi nhóm và vô tình gặp được Ben Gunn, người sống trên hoang đảo. Ben chính là đồng đội cũ của bọn John Silver cao kều bị cả bọn bỏ rơi trước kia khi cố gắng tìm kho báu. Ben đã tìm ra kho báu và chôn giấu riêng ở một nơi. Nhờ có Ben, nhóm của Jim đã tìm ra kho báu và giả làm bóng ma Flint dọa bọn phản loạn và chiến thắng, sau đó mang kho báu về đất liền. Câu chuyện được viết theo tường thuật của Jim sau khi đã trở thành thủy thủ trưởng thành từ chuyến đi này, cùng với hồi ký của bác sĩ Lee Liversey thuật lại thời gian chiến đấu với bọn phản loạn Mời các bạn đón đọc Đảo Giấu Vàng của tác giả Robert Louis Stevenson.