Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Người Đàn Bà Tắm - Thiết Ngưng

Cuốn tiểu thuyết miêu tả số phận của những người phụ nữ Trung Quốc trong một thời kì dài của lịch sử Trung Quốc. Cốt truyện xoay quanh cuộc sống của một gia đình trí thức trong những năm tháng bi đát nhất của cuộc Cách mạng Văn Hóa. Khiêu - cô gái nhân ái và trong sáng, cùng em gái theo cha mẹ từ Bắc Kinh về tây nam Phúc An. Mẹ cô không chịu nổi cuộc sống vất vả, bị áp chế mọi nhu cầu tinh thần và thể xác, đã tìm cách ở lại thành phố, phản bội lại chồng và hai đứa con. Khiêu và Phàm, hai đứa trẻ sống xa cha mẹ, tìm mọi cách hòa nhập với người xung quanh nhưng chẳng thay đổi tình trạng sống được bao nhiêu. Bên cạnh chị em cô còn có Đường Phi, một cô gái đầy phức tạp, xinh đẹp, kiêu kì nhưng biết bao đau khổ. Thời gian trôi qua, cuộc sống của họ đã chia theo nhiều ngả, Đường Phi lao vào những mối quan hệ với đàn ông, chịu bao cay đắng, tủi nhục; Khiêu đau khổ với những mối tình dang dở; Phàm lấy một người chồng nước ngoài và chấp nhận cuộc sống của người lạ trên đất khách… Nhưng dù cuộc sống khắc nghiệt với họ, họ vẫn tìm mọi cách giữ gìn tới cùng lòng tự trọng, cho dù phải nỗi cô độc để tự bảo vệ mình.  *** Nhận định   "…tôi không hi vọng với Những người đàn bà tắm tôi đã trả xong món nợ thế kỉ, nhưng lại thiển nghĩ, hoặc giả xen giữa những dòng chữ cũng có những từ ngữ như "kiểm điểm", "truy hỏi", "chất vấn", "cứu chuộc". Tôi thử với tinh thần dũng cảm để kiên nhẫn nhìn lại và thận trọng xem xét những âu lo và khổ đau của một nhóm linh hồn giữa những năm tháng đặc biệt ấy ở Trung Quốc, đồng thời mong rằng trong sự nhìn nhận và xem xét, tâm linh tan vỡ lại được lắng trong và hoàn chỉnh hơn trái tim tan vỡ? Những suy nghĩ trên có thể là một trong những thái độ chân thật của một nhà văn ở cuối thế kỉ, cùng với văn học đối diện trước thể kỉ mới" (Lời tựa cho bản tiếng Việt tái bản)   Tác phẩm của Thiết Ngưng mở ra cho người đọc thế giới tâm lý của những người phụ nữ với tất cả những chiều kích. Đó là suy nghĩ của những đứa trẻ, những cô gái vừa mới lớn, những người phụ nữ đã trưởng thành, đó là tình yêu, sự ghen tuông, nỗi cô đơn, sợ hãi, lòng tự tin… với vô vàn cung bậc. Nhân vật của bà phức tạp, dường như luôn luôn phải cố gắng kìm giữ những khát khao, những nỗi niềm đang nổi sóng trong tâm hồn, ẩn giấu nỗi buồn bằng sự điềm nhiên, lạnh lùng. Những người đàn bà tắm là bức chân dung kết hợp giữa những nét bút sắc sảo với gam mầu trầm, thế giới tinh thần của những người phụ nữ hiện lên trong đó vừa thăm thẳm một đại dương, đa diện như một khối rubic khiến cho người đọc phải ngỡ ngàng. - Nhã Nam   "Đi vào thế giới tác phẩm của Thiết Ngưng như đi vào một vườn hoa tâm linh rộng mở, vô bờ, ở đó có hoa thơm và rộn tiếng chim, với những nhân vật có xương và có thịt và cả tầng tầng chúng sinh không được con người chú ý. Thiết Ngưng yêu thương con người bằng cả trái tim yêu thương của mình, phanh phui đến tận cùng thế giới tâm linh và trạng thái sinh tồn của nhân vật..." - Nhân dân Nhật báo   "…Trong hoàn cảnh của một người viết phê bình văn học loanh quanh ở HN và không đọc được bao nhiêu, sao tôi vẫn muốn tin rồi tác phẩm này của Thiết Ngưng sẽ không bị phôi pha rất nhanh như nhiều cuốn sách "nổi loạn" đương thời, mà, không biết chừng, sẽ gia nhập vào kho tàng cổ điển của nền văn học Trung Hoa vốn giầu truyền thống lịch sử" - Vương Trí Nhàn  *** Thiết Ngưng, (sinh năm 1957) là nhà văn nữ Trung Quốc. Ngày 12 tháng 11 năm 2006, bà được Đại hội lần thứ 7 Hội Nhà văn Trung Quốc bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc (trẻ nhất từ trước đến nay), kế nhiệm nhà văn Ba Kim, và đồng thời bà cũng là ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tác phẩm tiêu biểu Ôi, Hương Tuyết, (1982) Con đường làng dẫn tôi về nhà (1983) Vĩnh viễn là bao lâu (1999) Những người đàn bà tắm (2000), xuất bản tại Việt Nam năm 2007, Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành Cửa hoa hồng, xuất bản tại Việt Nam năm 2007, Nxb Hội nhà văn và Nhã Nam ấn hành Thành phố không mưa, xuất bản tại Việt Nam năm 2004 Chơi vơi trời chiều, xuất bản tại Việt Nam năm 2007, Nxb Phụ nữ ấn hành. *** Con người hiện đại ở nước Trung Hoa sau cách mạng văn hóa đã được miêu tả trong nhiều bộ phim, cuốn sách, trong đó, nhịp sống của họ được đẩy lên tới mức hối hả. Người ta mở công ty sôi sục làm ăn; rồi buôn lậu, hối lộ, tham nhũng; rồi mưu mô với nhau, ghen ghét nhau, hành hạ nhau, và cũng hối hả uống rượu, hát karaoke, đi du lịch, vui chơi, hưởng thụ. Câu chuyện của các nhân vật chính trong tiểu thuyết mà trên đây bạn đọc đã đọc được khai thác theo một hướng khác. Đời họ được dồn lại trong những xung đột tình cảm, từ đó tác giả đẩy nó lên bình diện văn hóa. Chất bản năng của các nhân vật được miêu tả trong tiểu thuyết không phải là không mãnh liệt (so với một Vệ Tuệ không hẳn chịu kém!). Chỉ có một điều khác: bản năng trong họ quyện chặt với lý trí, được sự hướng dẫn của lý trí cao đẹp. Đường Phi có thể ngủ với nhiều người đàn ông từ già đến trẻ nhưng không tự nguyện chấp nhận Phương Kăng. Khiêu cũng đã nhiều phen lăn lóc với những người đàn ông khác nhau và đó đều là những người mà Khiêu yêu tận đáy lòng, nhưng cuối cùng Khiêu chẳng lấy ai trong số họ, mà lý do thì bao giờ cũng xác đáng. Sở dĩ như vậy là vì ngày tháng của Khiêu kéo dài như một quá trình liên tục đi tìm mình. Khiêu phóng chiếu con người lý tưởng trong mối quan hệ với Phương Kăng. Khiêu tưởng sẽ thay đổi đời mình trong quan hệ với Mark. Khiêu tin chắc sẽ tìm thấy bản thân do đó tìm thấy cái tôi đích thực trong việc quay lại với người bạn từ lúc lớn lên là Trần Tại. Rồi Khiêu thấy mình lầm cả. Nhưng chính trong cái lầm ấy chúng ta thấy Khiêu mạnh mẽ và bản lĩnh đến thế nào. Quả thật ở Khiêu chất lý trí quá đậm, nó làm khổ Khiêu, nhưng cô biết mình không thể nào khác. Để hiểu Khiêu, không thể bỏ qua một chi tiết. Có đến mấy lần tác giả để Khiêu tự nhận là Khiêu hay thay đổi ý kiến, làm gì cũng phân vân nghĩ rằng lẽ ra phải làm khác. Cái sự hay nghĩ tới nghĩ lui làm nên ở Khiêu một cốt cách tri thức. Con người là gì, là có một đời sống tinh thần phiền phức, mà phiền phức nhất là luôn luôn muốn đi tìm cái cao đẹp lý tưởng. Khiêu nghĩ vậy, tác giả cũng muốn chúng ta nghĩ vậy. Trong lời giới thiệu cuốn Thành phố không mưa của cùng một tác giả, chúng tôi đã lưu ý rằng Thiết Ngưng chủ tâm miêu tả con người Trung Quốc hiện đại mạnh lên đến như thế nào trên phương diện lý trí. Những người đàn bà tắm cho thấy điều dự đoán của chúng tôi không phải là vô lý. Trong mối liên hệ với toàn nhân loại Không ít tác giả tiểu thuyết Trung Hoa gần đây đặt nhân vật vào mối quan hệ với người nước ngoài, từ đấy khai thác trình độ làm người mà các nhân vật bộc lộ. Điều đã xảy ra với các tác giả Quạ đen, Điên cuồng như Vệ Tuệ... đối với Thiết Ngưng càng trở nên thiết yếu và được sử dụng trên một bình diện lớn. Phương Kăng, Trần Tại đều có qua học và làm việc ở nước ngoài; Phàm em gái Khiêu còn sang ở hẳn bên Mỹ... Cho đến giai đoạn cuối, chúng ta thấy gì? Một quan chức cỡ lớn của địa phương, ông Thanh, nguyên phó trị trưởng, cầm trên tay cuốn sách viết về người Do Thái. Sau khi về hưu, có những vấn đề cơ bản của đời sống khiến ông đặc biệt bận tâm và ông đã phải tìm đến kinh nghiệm sống của người Do Thái để dựa vào mà suy ngẫm thêm. Sở dĩ ông muốn gặp Khiêu cũng là để trao đổi may ra tìm được câu trả lời cho cái câu hỏi còn bị bỏ lửng. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Bà Tắm của tác giả Thiết Ngưng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhắm Mắt Thấy Paris - Dương Thụy
Tiểu thuyết "Nhắm mắt thấy Paris" của nhà văn Dương Thụy là "một thiên tình ái" vừa lãng mạn mơ màng với những nhân vật đẹp như trong mộng, vừa mang hơi thở rạo rực của cuộc sống đô thị hiện đại. Độc giả sẽ được du ngoạn qua nhiều thành phố châu Á và châu Âu, mà tâm điểm sẽ là một " Paris của rạng đông" đầy đủ các cung bậc cảm xúc. Nhắm mắt thấy Paris kể về những thành công và thất bại của một cô gái trẻ Việt Nam tên là Quỳnh Mai, làm việc cho một công ty mỹ phẩm Pháp. Cuốn tiểu thuyết còn là câu chuyện về những tương quan trong tâm lý và mối quan hệ của mỗi người. Đó là việc cái thiện và cái ác, kinh nghiệm và sự ngây thơ, sự tham lam và lòng vị tha… dường như lúc nào cũng tồn tại song hành. Quỳnh Mai, một cô gái trọng danh dự, ngây thơ và tốt bụng phải đối mặt với sự ghen tỵ, lòng tham, sự hiềm khích của các đồng nghiệp trên từng nấc thang trong công việc. Trải qua nhiều thất bại, thành công, cuối cùng cô cũng trở thành một phụ nữ có kinh nghiệm, từng trải, để rồi nhận ra thành công ở công ty không phải là tất cả. Cuộc sống còn đó nhiều thứ tươi đẹp hơn chờ ta tận hưởng. *** Oxford thương yêu của Dương Thụy từng là một hiện tượng xuất bản trong năm 2007 khi làm rung động hàng nghìn con tim Việt. Bên cạnh đó, cô còn là tác giả của nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn khác như Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình, Bồ câu chung mái vòm, Trả lại nụ hôn, Cung đường vàng nắng, Venise và những cuộc tình Gondoga, Con gái Sài Gòn… *** Tôi bắt đầu viết tiểu thuyết này vào tháng 5-2008 với tựa đề “Rạng đông trời Paris”. Bối cành truyện diễn ra phần lớn ở Paris, và những nhân vật chính đều làm việc trong tập đoàn mỹ phẩm L’Aurore (trong tiếng Pháp nghĩa là Rạng đông). Quỳnh Mai, cô nhân viên trẻ nhiều nhiệt huyết và đầy năng động, những tưởng mình có thể thành công dù có phải đối mặt với bất cứ khó khăn nào. Trong quá trình sống, làm việc, hoà nhập và yêu, Mai đã nhiều lấn rơi vào khủng hoảng. Cô đối diện với chính bản thân mình và tự động viên khi một ngày mới lại đến. Lôgô của công ty là hình mặt trời nhô lên vào buổi rạng đông. Nhưng thực tế cảnh rạng đông ở Paris lúc nào cũng đẹp hơn, sinh động và làm người ta thêm phấn chấn. Cuộc sống ở công ty không phải là tất cả, còn đó một ngày mới tươi đẹp hơn và đang chờ ta tận hưởng. ... Mời các bạn đón đọc Nhắm Mắt Thấy Paris của tác giả Dương Thụy.
Kazan - James Oliver Curwood
Tazan - một chú chó sói, dòng máu chảy trong người chú với ba phần chó nhà và một phần sói. Tuy nhiên, sự tàn bạo, độc ác của thế giới văn minh con người đã đẩy chú trở lại với tiếng gọi của rừng xanh, của thiên nhiên hoang dã. Ở đó, chú được tự do, thoát khỏi kìm kẹp, thoát khỏi roi vọt ngục tù và chú đã tìm thấy hạnh phúc của mình. Thế nhưng, những ngọn lửa yêu thương dù nhỏ nhoi đã xóa đi những hận thù nơi chú đối với con người, khiến chú - dù đã trở thành một chú chó sói đích thực - vẫn không bị thú tính lấn át. Chú sẵn sàng xả thân để cứu vớt con người, sẵn sàng bỏ bao công sức, bỏ đồng loại của mình để đi theo tiếng gọi của tình thương yêu. "Curwood có được một món quà vô giá củ một người kể chuyện thiên bẩm - đó là khả năng kể một câu chuyện và khiến câu chuyện đó trở thành thú vị với sức hấp dẫn mãnh liệt nhất." - The New York Times Book Review. *** Kazan đang nằm im lặng, bất động, mắt lim dim, cái mõm xám gác lên hai chân trước. Trong dòng máu của nó có một phần tư là sói, ba phần tư là chó husky, trải qua bốn tuổi đời, nó toàn sống trên những vùng heo hút rộng lớn của miền Bắc Địa. Người ta gọi nó là Kazan, con chó hoang dã, trong số anh em cùng giống, nó thuộc loại to nhất và lòng dũng cảm của nó thể hiện cũng chẳng kém những người cầm cương dắt nó qua bao nguy hiểm của một vùng trời đất băng giá. Cho đến tận bây giờ, nó chưa hề biết sợ là gì. Nhưng hiện tại, nó không biết tại sao nó lại lo sợ. Nó chỉ hiểu rằng nó đang dấn thân vào một thế giới khác hẳn, nơi có nhiều điều khiến nó lo lắng. Đây là lần đầu tiên nó tiếp xúc với thế giới văn minh. Nó hy vọng rằng ông chủ sẽ sớm quay trở lại căn phòng kỳ lạ, nơi ông đã bỏ rơi nó. Gian buồng ngổn ngang những đồ vật thật gớm guốc. Trên tường, nhiều bộ mặt người to tướng, bất động và lặng lẽ, cứ chằm chằm nhìn nó với một ánh mắt mà nó chưa hề biết đến ở con người. Nó cũng đã từng nhìn thấy một người nằm sóng soài, bất động, lạnh cứng trong tuyết. Nó còn nhớ rõ, lúc đó nó đã ngồi bệt xuống và tru lên một tiếng thật dài...  Bỗng nhiên, nó khẽ vểnh tai. Có tiếng chân, rồi tiếng người nói nhỏ nhe... Một giọng nói là của chủ nó. Nhưng giọng kia! Nó ngẩng đầu lên khi hai người bước vào. Mắt nó rực sáng, đỏ quạch nhìn họ và ngay lập tức nó hiểu rằng chủ nó chắc phải yêu quý người đàn bà mới đến vì ông ta đang ôm xiết nàng. Khi nàng hiện rõ hơn trong ánh sáng, nó phát hiện thấy nàng có mái tóc vàng, bộ mặt tràn đầy sinh lực và đôi mắt sáng ngời tựa hai đóa hoa xanh biếc... Đến lượt mình, khi phát hiện ra nó, nàng khẽ reo lên và lao ngay về phía nó. - Đứng lại em! - Người đàn ông hét lên. -Kazan, con vật nguy hiểm lắm đấy! Nhưng nàng đã quỳ xuống cạnh nó, dịu dàng, lôi cuốn và tế nhị, và bàn tay nàng đã giơ ra để.vuốt ve nó. Nó tự hỏi nên chăng lẩn trốn hay cắn lại? Liệu nàng có giống như những thứ gắn chặt trên tường kia, là thù địch của nó? Liệu có phải tức khắc chồm lên ngoạm vào cái cổ trắng ngần kiả Nó thấy người chủ lao đến, mặt tái mét như xác chết và nó cảm thấy nàng đặt tay lên đầu nó. Nàng vừa chạm đến, toàn thân nó đã run lên. Bằng cả hai tay, thế là nàng buộc nó phải quay đầu lại. Giờ đây, gương mặt nàng cận kề mõm nó và nó nghe nàng nói gần như trong tiếng nức nở. ... Mời các bạn đón đọc Kazan của tác giả James Oliver Curwood.
Gỗ Mun - Ryszard Kapuściński
Trước hết là cái nhìn: Ryszard Kapuściński. Đó là một cái nhìn luôn luôn độc đáo và thấu suốt, cho dù đối tượng sự quan sát của ông có là gì, và cho dù không mấy khi ông thích phân tích dài dòng. Nhất là khi đối tượng ấy là châu Phi, một lục địa dường như rất hợp với tâm tính ông, thì Kapuściński nhìn thấy cả những gì sâu xa, nhỏ bé nhất của nơi đây. Và sau đó là cách chạm vào châu Phi: thông qua sự mô tả cuộc đối đầu nghẹt thở với một con rắn, Kapuściński làm sống lại sự rung động của tâm hồn cả một châu lục, trong đó có sự mãnh liệt và có hiểm nguy tàn khốc. Rồi tất nhiên ta phải nói đến một tài năng văn chương hiếm thấy, hiện ra tràn ngập những trang viết của thông tín viên Ba Lan kiệt xuất này. Tất cả cộng lại để tạo nên một Gỗ Mun như tác phẩm không thể không nhắc tới về châu Phi thế kỷ XX. *** Lời khen tặng dành cho Gỗ Mun: “Giống như Gabriel García Márquez là ông hoàng đen vĩ đại của tiểu thuyết hiện đại, Kapuściński là vị phù thủy kiệt xuất của phóng sự.” - John Le Carré “Ryszard Kapuściński là một ví dụ hiếm hoi trong nền văn hóa của chúng ta về một nhà văn người-Ba-Lan-toàn-cầu. Ông, một công dân thế giới, luôn luôn chống lại việc dựng lên các rào ngăn đối với Người Khác, đóng sập cửa trước mặt họ. Dường như ông muốn nói: bài ngoại là căn bệnh của những kẻ khiếp nhược, bị mặc cảm về sự thấp hèn hành hạ, sợ hãi ý nghĩ đến lượt họ sẽ phải soi mình trong văn hóa của Người Khác.” - Adam Michnik “Chúng ta đang sống trong một thế kỷ nhiều thách đố nhất trong lịch sử thế giới, bản chất thực của nó còn là một bí ẩn tối tăm. Chúng ta rất cần những nhà giải mã như Ryszard Kapuściński.” - Salman Rushdie “Tôi nghĩ đến những cuốn sách ông đã viết với lòng biết ơn sâu sắc, và nghĩ đến những cuốn sách ông còn chưa kịp viết với nỗi buồn sâu sắc. Một nhà văn lớn, một con người cao quý, một người lữ hành không mệt mỏi qua thế giới đầy quyến rũ nhưng mãi luôn luôn bất an của chúng ta. - Wisława Szymborska “Tôi không biết bất cứ ai có viết với sự thấu cảm đến thế về Thế giới Thứ ba. Mỗi lần được tin giải Nobel được trao cho một người khác, tôi lại cảm thấy thất vọng. Tôi luôn luôn chắc chắn rằng Kapuściński sẽ nhận được giải thưởng này.” - Tomas Venclova “Ryszard Kapuściński đã viết một tác phẩm để đời: cuốn sách về châu Phi với nhan đề Gỗ Mun. Cuốn sách của Kapuściński đặt chúng ta trước nhiều câu hỏi. Đó là những câu hỏi cốt yếu. Cuộc sống là gì, ý nghĩa của nó, đạo đức, tội ác, lòng kiêu hãnh và khiêm nhường, sự phản kháng hay chấp nhận số phận? Chúng ta vẫn luôn đặt ra những câu hỏi ấy trong văn hóa của mình, nhưng những lời giải đáp và phản ứng của chúng ta lại hoàn toàn khác.” - Helena Zaworska “Không trực tiếp, nhưng rất rõ ràng, Kapuściński luận chiến với hai lối nghĩ dĩ Âu vi trung rập khuôn về châu Phi: với khuôn mẫu khiến người ta nhìn châu Phi như một châu lục của những người man rợ thấp kém hơn về văn hóa, khó hiểu (vì chẳng đáng được hiểu); và với huyền thoại hậu thực dân đầy cảm tính (dù chỉ như trong Xa mãi Phi châu của Karen Blixen) nhìn thấy ở châu Phi thiên đường đã mất.” - Piotr Bratkowski *** Trước hết là ánh sáng đập vào mắt. Khắp nơi là ánh sáng. Khắp nơi chói lòa. Khắp nơi là nắng. Mới ngày hôm qua, London mùa thu lướt thướt nước mưa. Máy bay lướt thướt nước mưa. Gió lạnh và âm u. Còn ở đây, từ sáng sớm cả sân bay ngập trong nắng, tất cả chúng tôi ngập trong nắng. Thời trước, khi người ta đi bộ du hành qua thế giới, cưỡi ngựa hay đi thuyền, cuộc hành trình làm họ thích nghi dần với các thay đổi. Các hình ảnh của trái đất từ từ trôi qua trước mắt họ, sân khấu của thế giới quay chầm chậm từng chút một. Hành trình kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Con người có thời gian để thích nghi với môi trường khác, với quang cảnh mới. Khí hậu cũng thay đổi từng bước, qua các giai đoạn. Trước khi một người du hành từ châu Âu lạnh lẽo đến được xích đạo nóng bỏng, anh ta đã trải qua cái ấm áp dễ chịu của Las Palmas, cái nóng nực của Al-Mahara và địa ngục Quần đảo Cape Verde. Ngày nay, những giai đoạn ấy chẳng còn lại chút gì. Máy bay đột ngột bứt chúng ta ra khỏi tuyết và băng giá rồi ngay ngày hôm đó ném ta vào vạc dầu nhiệt đới nóng rực. Đột nhiên, chỉ vừa mới dụi mắt là ta đã ở trong địa ngục ẩm ướt. Ta bắt đầu đổ mồ hôi ngay. Nếu bay đến từ châu Âu mùa đông, ta quăng bỏ áo choàng, cởi áo len. Đó là hành động đầu tiên của chúng ta, người phương Bắc, khi đến châu Phi. Người phương Bắc. Có bao giờ ta từng nghĩ rằng người phương Bắc chỉ chiếm một phần rất nhỏ trên hành tinh này? Người Canada và Ba Lan, người Litva và bán đảo Scandinavia, một bộ phận người Mỹ và Đức, người Nga và Scotland, người Sami[1] và Eskimo, người Evenki và Yakut, danh sách cũng không dài lắm. Tôi không rõ tổng cộng nó có nhiều hơn năm trăm triệu người - chưa đến 10% cư dân trái đất - hay không. Ngược lại, một phần rất lớn sống trong ấm áp, cả đời được sưởi nắng. Vả lại, con người được sinh ra trong ánh nắng, những dấu vết cổ xưa nhất của con người được tìm thấy ở các xứ sở ấm áp. Thiên đường trong Kinh Thánh có khí hậu thế nào? Ở đó ấm áp vĩnh cửu, nóng nực là đằng khác, đến nỗi Eva và Adam có thể trần truồng và không cảm thấy lạnh ngay cả trong bóng cây. Ngay ở cầu thang máy bay ta đã gặp một điều mới mẻ khác: mùi nhiệt đới. Điều mới mẻ? Nhưng đó chính là mùi hương ngập tràn trong cửa tiệm nhỏ của ông Kanzman “Hàng hóa từ thuộc địa và các loại khác” trên phố Pereca ở Pinsk[2] đấy mà! Quả hạnh, đinh hương, chà là, ca cao. Va ni, lá nguyệt quế; cam và chuối bán quả, bạch đậu khấu và nghệ bán cân. Còn Drohobych thì sao? Những cửa hàng quế của Schulz[3] thì sao? Chính là “những đồ vật sẫm màu và trang trọng được chiếu sáng lờ mờ, thơm nồng mùi của màu, sơn, nhang, đẫm hương của các xứ sở xa xôi và những chất liệu quý hiếm”! Tuy vậy, mùi nhiệt đới có khác một chút. Ta nhanh chóng nhận ra sức nặng của nó, sự nhớp nháp của nó. Thứ mùi này cho ta biết ngay rằng ta đang ở một điểm trên trái đất nơi giới thực vật rậm rạp và không mệt mỏi luôn liên tục hoạt động, sinh sôi, lan tràn và nở hoa, song đồng thời cũng đang tật bệnh, bị đốn ngã, sâu ruỗng và héo rụi. Đó là mùi của những tấm thân được sưởi nóng và cá khô, của thịt ôi và sắn nướng, của hoa tươi và tảo rữa, tóm lại là mùi của tất cả những thứ đồng thời vừa dễ chịu vừa khó chịu, vừa lôi cuốn vừa đáng ghét, những thứ cám dỗ hoặc làm người ta ghê tởm. Thứ mùi này bay đến với chúng ta từ những rừng cọ không xa, thoát ra từ mặt đất nóng ran, bốc lên trên những rãnh nước mốc meo của thành phố. Nó không rời chúng ta, nó là một phần của miền nhiệt đới. Và cuối cùng là khám phá quan trọng nhất - con người. Những người ở đây, dân bản xứ. Họ mới hợp với phong cảnh, ánh sáng và thứ mùi này làm sao! Dường như họ tạo thành một tổng thể. Dường như con người và cảnh vật không tách rời nhau, bổ sung cho nhau, là một bản sắc, một cộng đồng hài hòa. Dường như mỗi sắc dân được đặt vào phong cảnh của riêng mình, khí hậu của mình! Chúng ta tạo ra phong cảnh của mình, còn phong cảnh nặn thành hình các đường nét trên gương mặt chúng ta. Người da trắng ở giữa những cây cọ và đám dây leo này, trong các bụi cây và rừng rậm này là một điều gì đó lạc lõng thừa thãi. Nhợt nhạt, yếu ớt, áo đẫm mồ hôi, tóc dính bết, anh ta luôn bị cái khát, cảm giác bất lực và chán nản hành hạ. Anh ta luôn luôn sợ hãi, sợ muỗi, a míp, bọ cạp, rắn - tất cả những gì cử động đều làm anh ta tràn ngập lo sợ, khiếp hãi, hoảng loạn. ... Mời các bạn đón đọc Gỗ Mun của tác giả Ryszard Kapuściński.
CIA và Các Tướng Lãnh Cộng Hòa - Thomas L. Ahern
Hôm 19/2/2009 cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency – CIA) đã cho giải mật tài liệu mang tên: “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam”. Tài liệu này do ông  Thomas L. Ahern, Jr., một nhân viên CIA từng làm việc tại Sài gòn từ năm 1963 đến đầu năm 1965 đúc kết từ những tài liệu mật của CIA. Tài liệu được giải mật sau khi cơ quan CIA đã đọc lại và gạch bỏ những tên tuổi và địa danh không lợi cho hoạt động tình báo. Tuy nhiên nếu so chiếu với các tài liệu khác viết về cuộc chiến Việt Nam, người  đọc có thể đoán hầu hết những tên tuổi gạch bỏ đó là ai. Tài liệu dài 243 trang gồm chính yếu là phần Nhập Đề của tác giả và 10 Chương. Tôi tóm tắt lại những sự việc chính của tài liệu trong 6 bài viết: phần Nhập Đề và sau đó hai Chương trong một bài, và sẽ lần lượt cho lên trang nhà www.tranbinhnam.com . Mục đích tóm tắt tài liệu là “ôn cố tri tân” về một giai đoạn lịch sử đã qua nhưng còn ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống của mỗi người Việt chúng ta trong cũng như ngoài nước. Và cũng là kinh nghiệm có thể hữu ích trong mối quan hệ hiện nay giữa Việt Nam và Trung quốc, cũng như giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Một điều cần nói là không có một tài liệu nào, nhất là tài liệu liên quan đến hoạt động tình báo, là hoàn toàn trung thực. Giải mật một tài liệu mật tự nó cũng có thể là một phần của một chương trình tình báo khác. Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam” cũng không ra ngoài quy luật đó. Cho nên sự xử dụng những thông tin do sự giải mật tài liệu này mang lại như thế nào là trách nhiệm của người xử dụng. Trong phần nhập đề ông Thomas Ahern nhắc lại quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954 cho đến ngày 30/4/1975. Ông viết rằng, sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp vì người Mỹ cho rằng nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Điệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đình Nhu, em ruột của ông Diệm.  Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào dân vệ (self-defense units) để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam . Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần cộng sản để lại miền Nam trước khi rút ra Bắc theo hiệp định Geneva. Đến năm 1959 hầu hết tổ chức cộng sản gài lại miền Nam đều bị tiêu diệt. Nhưng chương trình bài cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi đụng chạm đến các thành phần không cộng trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác mà không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu phục lòng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959 Hà Nội đưa người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn càng ngày càng lỏng dần. Để cứu chế độ Diệm, Hoa Kỳ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963 khi cao trào chống chế độ ông Diệm của Phật Giáo nổ ra tại miền Trung, Hoa Kỳ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền Nam. Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Hoa Kỳ làm cho Hoa Kỳ bất mãn, và đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm càng ngày càng sa sút, nên vào tháng 8 năm 1963 do đề nghị của đại sứ Henry Cabot Lodge, Hoa Kỳ quyết định hạ bệ ông Diệm. *** Trong phần nhập đề, ông Thomas Ahern nhắc lại quan hệ Mỹ và Việt Nam Cộng hòa từ năm 1954 cho đến ngày 30-4-1975. Ông viết rằng sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp vì người Mỹ cho rằng nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Diệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đình Nhu, em ruột của ông Diệm. Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào tự vệ để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam. Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần Cộng sản còn lại ở miền Nam trước khi rút ra Bắc theo Hiệp định Giơnevơ. Đến năm 1959, hầu hết tổ chức Cộng sản gài lại miền Nam đều bị tiêu diệt. Nhưng chương trình bài Cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi đụng chạm đến các thành phần không Cộng sản trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác và không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu phục lòng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959, Hà Nội đưa người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn ngày càng lỏng dần. Để cứu chế độ Diệm, Mỹ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963, khi cao trào chống chế độ ông Diệm của Phật giáo nổ ra tại miền Trung, Mỹ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền Nam. Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Mỹ làm cho Mỹ bất mãn, đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm ngày càng sa sút, nên vào tháng 8-1963, theo đề nghị của Đại sứ Henry Cabot Lodge, Mỹ quyết định hạ bệ ông Diệm. Sau khi quân đảo chính chiếm Bộ Tổng tham mưu và giết Đại tá Lê Quang Tung, người làm việc cận kề với CIA và là Chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt, các tướng đảo chính kêu gọi anh em ông Diệm đầu hàng. Ông Diệm và ông Nhu lợi dụng trời tối rời Dinh Độc Lập và sau đó bị bắt tại một nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn. Trước đó Đại sứ Cabot Lodge có hứa giúp hai anh em ông Diệm và ông Nhu an toàn rời khỏi Việt Nam, nhưng khi ông Diệm và ông Nhu bị bắt không thấy Mỹ nhắc lại. Các sĩ quan của tướng Dương Văn Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã bắn chết hai ông Diệm và Nhu trên một xe thiết giáp… “Hòa bình ló dạng” Tình hình chính trị tạm ổn định sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống vào tháng 9-1967 qua một bản Hiến pháp mới. Tháng 2-1968, Cộng sản tổng tấn công vào các đô thị miền Nam (cuộc tổng tấn công Mậu Thân). Cuộc tấn công không thành công nhưng làm cho chương trình bình định của ông Thiệu giậm chân tại chỗ, tạo một tâm lý bi quan đối với dân chúng Mỹ và báo giới Mỹ nên không khí chống chiến tranh tại Mỹ lên cao buộc Tổng thống Johnson vào cuối tháng 3-1968 tuyên bố không ra ứng cử Tổng thống lần thứ hai và đề nghị thương thuyết với Hà Nội. Tháng 5-1968, khi các cuộc tiếp xúc chính thức giữa Mỹ và Hà Nội bắt đầu tại Paris, Cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân 2 nhưng cũng không thành công, giúp quân đội Việt Nam Cộng hòa và Mỹ lấy lại thế tấn công và cuối năm 1968 xem như bình định và kiểm soát 73% dân chúng miền Nam. Tuy nhiên, tình hình này không giúp cho Hubert Humphrey (ứng cử viên đảng Dân chủ) đắc cử để có thể tiếp tục đường hướng của Johnson. Tổng thống Nixon đắc cử và bắt đầu chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Giữa năm 1969, Tổng thống Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên. Đặc điểm của tình hình chiến trường Việt Nam trong những năm 1969-1971 là trong khi Mỹ ra sức cải tiến và trang bị cho quân đội miền Nam thì Liên Xô và Trung Quốc cũng viện trợ dồi dào cho Bắc Việt. Hai bên Nam-Bắc cố giành đất và dân chuẩn bị cho một giải pháp chính trị từ cuộc hòa đàm Paris. Mời các bạn đón đọc CIA và Các Tướng Lãnh Cộng Hòa của tác giả Thomas L. Ahern.