Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giữa Lòng Tăm Tối

Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Joseph Conrad (1857 - 1924) là một trong những tác gia vĩ đại nhất của nền văn học Anh quốc. Ông là bậc thầy của nghệ thuật tạo tổng thể văn xuôi, phong cách tự sự, xây dựng nhân vật và mô tả tâm lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều cây bút khác sau này như TS Eliot, F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway hay George Orwell. Thế nhưng tác giả của những áng văn đầy chất thơ Shakespeare này lại là một người gốc Ba Lan tới định cư tại xứ sở sương mù, và đến tận năm hai mươi tuổi mới nói trôi chảy tiếng Anh. Là người ngoại quốc, từng trải qua những năm tháng lênh đênh trên những con tàu thương gia của Anh và Pháp, Conrad đã truyền tải được xúc cảm của những miền đất khác vào nền văn học Anh, phản ánh một thế giới hoàn toàn bị thống trị bởi người châu Âu. Giữa lòng tăm tối là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Joseph Conrad, là kiệt tác văn học mà giới mộ điệu văn chương đều đã quen thuộc. Cuốn tiểu thuyết bao trọn câu chuyện phiêu lưu hải hồ của Marlow dựa trên hành trình có thật của chính tác giả vào năm 1890. Là người của biển cả, Marlow nghe theo tiếng sóng vẫy gọi, khao khát đi tới những miền đất chưa định danh trên địa đồ - “những khoảng trống của niềm hân hoan”, “một vạt trắng cho giấc mơ huy hoàng”, dấn thân vào “vùng tăm tối vô phương thấu hiểu”, cùng với tính hiếu kỳ thản nhiên của một trí óc tế nhị và trạng thái điềm tĩnh của một con tim sắt đá. Trên một con tàu hơi nước vá víu xập xệ thiếu thốn đủ đường, cùng thủy thủ đoàn là mấy tay da đen của bộ tộc ăn thịt người lúc nào cũng bốc mùi thịt hà mã thiu, Marlow ngược dòng con sông Congo hùng vĩ, bí hiểm mà mê hoặc để hoàn thành một nhiệm vụ tưởng chừng như bất khả thi. Ông phải đi cứu Kurtz - người được ca tụng khắp nơi là “thiên tài toàn năng”, kiếm được nhiều ngà voi nhất Công ty, được cả dân da đen yêu kính hết mực và đang ốm thập tử nhất sinh ở vùng thượng nguồn - về với văn minh, trước khi gã lìa đời. Sau bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy của chốn rừng thiêng nước độc, Marlow tới được nơi, gặp được người, nhưng chỉ trở về với một tập tài liệu và lời tuyệt mệnh: “Nỗi kinh hoàng! Nỗi kinh hoàng!” Miền hoang dã Phi châu tạo ra bao nhiêu trở ngại cho con tàu của Marlow thì Giữa lòng tăm tối cũng gây ra bấy nhiêu sóng gió trong giới văn chương thậm chí cả giới phân tâm học, hoạt động nhân quyền hay nghiên cứu châu Phi cũng nhảy vào cuộc. Người ta bàn ra tán vào, khẩu chiến rồi cả bút chiến với nhau về cách hành văn của tác giả, cấu trúc, ý nghĩa của tác phẩm và vô vàn những thứ khác. Một trong những chủ đề được tranh cãi quyết liệt nhất chính là vấn đề phân biệt chủng tộc. Chinua Achebe - nhà văn, nhà thơ người Nigeria từng chỉ trích tác phẩm này là “phân biệt chủng tộc một cách khủng khiếp” với những hình ảnh miêu tả người da đen như những kẻ mọi rợ ngu đần, như những con vật chịu đòn roi. Những tình cảnh đáng thương, những vụ tra tấn kinh hoàng đều được kể lại bằng chất giọng lạnh lùng, vô cảm. Thế nhưng những lập luận khác lại cho rằng tại thời điểm Conrad viết cuốn tiểu thuyết này, khái niệm “phân biệt chủng tộc” vẫn chưa thành hình, quan niệm về khác biệt chủng tộc vẫn còn in đậm. Đó là thời người da đen bị trưng bày như thú lạ tại những nước đế quốc, và bị đối xử như súc vật, nô lệ tại những vùng thuộc địa. Vì thế, không thể trách cứ Conrad được. Tuy vậy, chính nhà văn cũng từng khẳng định rằng Giữa lòng tăm tối ngầm ý chỉ ra “tội ác của sự kém hiệu quả và ích kỷ thuần túy khi khai hóa văn minh ở châu Phi”. Thật vậy, hãy đọc những dòng này trong truyện: “Tôi ngờ rằng với họ cai trị chỉ đơn thuần là bóp nghẹt, không hơn. Họ là kẻ chinh phục, mà chinh phục thì chỉ cần vũ lực - vốn chả có gì đáng huênh hoang, vì sức mạnh của anh chỉ là ngẫu nhiên phát sinh từ cái yếu của kẻ khác. Họ vơ vét được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vơ vét để mà vơ vét. Đó chẳng qua là cưỡng đoạt bằng bạo lực, sát nhân có tình tiết tăng nặng trên diện rộng...” Như thế, Giữa lòng tăm tối, ở một chừng mực nào đó, có thể coi là một bản cáo trạng về lòng tham, thói ưa hủy diệt và quyền lực chuyên chế của chủ nghĩa thực dân, “một bài phân tích về sự suy nhụt nhuệ khí của người da trắng, khi anh ra thoát khỏi vòng kiềm tỏa của châu Âu, bám rễ ở miền nhiệt đới với vũ khí trang bị đến tận chân răng, để thu lợi từ tầng lớp bị trị”. Và con sông dẫn tới “trái tim của một vùng tăm tối khôn cùng” không phải là con sông Congo cuộn xoáy ở lục địa Đen mà là con sông Thames êm đềm, dưới bầu trời hôn ám của “đế chế nơi mặt trời không bao giờ lặn”. Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Bằng ngôn từ mơ hồ mà dứt khoát, huyền bí mà hữu hình, Joseph Conrad đã viết nên một áng văn đậm chất thơ, hấp dẫn, ám ảnh và đầy tính biểu tượng - một kiệt tác của của nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy, của phiêu lưu, của thiên nhiên hoang dại, hùng vĩ, và ảo tưởng của cả thời đại. *** Nellie, chiếc thuyền hai buồm, buông neo không một tiếng buồm lật phật, lặng lẽ nghỉ ngơi. Nước đã xuống, gió cơ hồ đã lặng; được buộc dưới sông, nó chỉ còn một việc là đậu đó đợi triều lên. Cửa sông Thames trải dài trước mắt chúng tôi, như khởi đầu của một thủy lộ dài bất tận. Ngoài khơi xa biển và trời liền thành một tấm áo không thấy đường may, và trong không gian lung linh này, những cánh buồm rám nắng vẫn dập dờn trên ngọn thủy triều như đứng yên thành từng cụm vải bạt đỏ chóp nhọn, lấp lánh ánh vécni từ những cột buồm. Sương lan trên những bãi bồi phẳng lì chạy dài tít tắp về phía biển. Bầu trời trên Gravesend[1] tăm tối, còn phía xa dường như vẫn ngưng tụ thành một quầng u ám thảm sầu, âm trầm bất động trùm lên đô thành lớn nhất và vĩ đại nhất trên trái đất. Tay Giám đốc Công ty là thuyền trưởng và chủ nhà của chúng tôi. Bốn người bọn tôi[2] trìu mến nhìn bóng lưng gã đứng trên mũi thuyền, nhìn về phía biển. Cả sông không có hình ảnh nào đại dương bằng nửa gã. Nhìn gã như một hoa tiêu, niềm tin của người đi biển được nhân cách hóa. Khó mà nhận ra, nghề của gã không phải ngoài kia, nơi giang khẩu lung linh, mà ở sau lưng, giữa vùng âm trầm u ám nọ. Giữa chúng tôi, như đã có lần tôi từng nói[3], có sự gắn bó của biển khơi. Ngoài việc neo đậu lòng nhau sau những quãng dài xa cách, nó còn giúp chúng tôi chịu đựng được những huyên thuyên, thậm chí là định kiến, của nhau. Tay Luật sư - loại bạn già chơi rất được - bởi tuổi cao đức trọng nhất hội, sở hữu cái đệm duy nhất trên boong, và nằm trên tấm thảm duy nhất. Tay Kế toán ôm theo hộp domino và đang lẩn mẩn xây nhà với những mảnh ngà. Marlow ngồi xếp bằng ở đuôi tàu, lưng dựa vào cột buồm lái. Má hóp, da vàng, lưng thẳng, dung mạo khắc khổ, đôi tay buông xuôi, lòng bàn tay ngửa ra trước, gã nhìn như một bức ngẫu tượng. Tay giám đốc, yên tâm là neo đã chắc, xuống đuôi tàu nhập bọn với chúng tôi. Cả bọn uể oải trò chuyện đôi lời. Rồi boong tàu chìm trong im lặng. Bởi lẽ gì đó, chúng tôi không bắt đầu ván domino ấy. Chúng tôi thấy trầm tư, chẳng có hứng làm gì ngoài tĩnh tâm quan sát. Ngày tàn dần trong cái bình lặng của ánh quang huy thanh tĩnh và tú lệ. Nước tỏa sáng một cách bình yên; vòm trời, không một gợn mây, như một khoảng mênh mông ôn nhuận ngập tràn thứ ánh sáng vô nhiễm; màn sương trên đầm lầy miền Essex[4] giống một tấm sa mỏng phát quang, rủ xuống từ những triền cao cây phủ trong nội địa, buông từng lớp trong mờ lên những bãi bồi. Chỉ riêng vùng ảm đạm phía tầy, vần vũ trên thượng lưu, là mỗi lúc một thêm u ám, như thể phẫn nộ trước sự lấn tới của mặt trời. Và cuối cùng, trong một đường lặn hình cung không thể cảm nhận được, mặt trời chìm dần, và từ màu trắng rực đổi sang sắc đỏ đục không phát quang và tỏa nhiệt, như thể sắp đột ngột tắt lịm, bị hạ sát khi chạm phải quầng u ám đang vần vũ trên một vùng người. Lập tức mặt nước bắt đầu thay đổi, và vẻ bình lặng kia bớt xán lạn nhưng lại nồng đậm hơn. Con sông lâu đời an tĩnh nghỉ ngơi giữa dòng nước mênh mang lúc ngày tàn, sau bao thuở phục vụ đắc lực chủng tộc định cư hai bên bờ, trải rộng trong vẻ tôn nghiêm bình đạm của một thủy lộ dẫn đến những chốn tận cùng trái đất. Bọn tôi quan sát dòng chảy khả kính này, không phải dưới hồng quang rực rỡ của một ngày ngắn ngủi một đến rồi đi không trở lại, mà trong ánh sáng uy nghi của ký ức trường tồn. Và quả thực, với kẻ từng, như người ta vẫn nói, “đi theo tiếng gọi biển khơi” với niềm đam mê và sùng kính, không gì dễ dàng hơn việc triệu hoán những anh linh quá khứ trên hạ lưu sông Thames. Con nước thủy triều vẫn miệt mài, tận tụy xuống lên, tràn ngập ký ức về người và thuyền từng được nó đưa về lại cố hương hoặc đem vào hải chiến. Nó từng quen biết và phục vụ tất cả những con người mà dân tộc này hằng tự hào, từ Sir Francis Drake tới Sir John Franklin, đều là Hiệp sĩ, có tước hiệu và không tước hiệu[5] - những hiệp khách giang hồ của biển cả. Nó từng vận chuyển những con tàu với cái tên lấp lánh như ngọc trong đêm tối thời gian, từ chiếc Golden Hind trở về với hai mạn tròn chất đầy châu báu và được ngự giá Nữ hoàng đến thăm, rồi từ ấy rời xa dòng chảy huyền thoại này[6], đến chiếc Erebus và Terror, theo đuổi những cuộc chinh phục khác - và không bao giờ quay lại[7]. Nó biết rõ cả hải thuyền và hải khách. Họ giong buồm từ Deptford, Greenwich và Erith[8] - kẻ phiêu lưu lẫn người lập nghiệp; tàu Hoàng gia cùng thuyền thương khách; thuyền trưởng, đô đốc, đám hắc thương[9] vùng Viễn Đông, các “tướng lĩnh tự phong của Hải đội Đông Ấn. Săn vàng hay cầu danh, ai nấy đều khởi hành theo dòng chảy ấy, mang gươm, và thường là cầm đuốc, sứ giả của quyền uy từ lục địa, hộ tống một điểm tinh hỏa từ ngọn lửa thiêng. Có sự vĩ đại nào không từng theo con nước của dòng sông ấy đến với bí ẩn của một miền đất lạ!... Giấc mơ của con người, hạt giống của thịnh vượng chung, mầm mống của đế quốc. Mặt trời lặn; hoàng hôn trùm lên dòng sông, và ánh đèn bắt đầu xuất hiện ven bờ. Hải đăng Chapman, một vật thể ba chân mọc lên từ bãi lầy, chiếu sáng rực rỡ. Ánh đèn từ những con tàu di chuyển trên thủy đạo - một dòng ngược xuôi tấp nập của những ngọn đèn. Và xa hơn về tây, trên thượng lưu, vùng trời phía trên thành phố khổng lồ kia vẫn mang dấu hiệu bất tường, một vầng âm trầm u ám trong ánh tịch dương, một tia nhìn giận dữ chói gắt dưới trời sao. “Nơi đây,” Marlow đột ngột lên tiếng, “cũng từng là một trong những chốn tối tăm trên trái đất.”[10] Gã là người duy nhất trong cả hội còn “đi theo tiếng gọi biển khơi.” Nếu có nói xấu được gã điểm gì thì đó là gã không đại diện cho tầng lớp của mình. Gã là hải khách nhưng cũng là lãng khách, trong khi phần lớn những người đi biển khác sống một cuộc đời, ta tạm gọi là, yên vị. Đầu óc họ mang tâm thức tại gia, và nhà của họ luôn đi cùng họ - con tàu; và tổ quốc của họ cũng vậy - biển cả. Tàu nào cũng giống tàu nào, và biển cả thì muôn đời vẫn thế. Trong sự bất biến của môi trường quanh họ, những duyên hải xa xôi, những mặt người xứ lạ, những bao la biến động của cuộc đời, tất cả lướt qua, được che phủ không phải bởi cảm giác huyền bí mà dưới một thái độ vô tri ít nhiều khinh thị; bởi đối với người đi biển, chẳng có gì huyền bí trừ bản thân biển cả, người tình của sự hiện tồn của y, và khó nhìn thấu như chính số mệnh. Với họ, sau giờ lao động, một cuộc dạo chơi hoặc truy hoan tùy tiện trên bờ là đủ khám phá bí mật của cả một lục địa, và nhìn chung họ thấy bí mật này chả có gì đáng biết. Chuyện của dân đi biển có một sự giản đơn trực diện, toàn bộ ý nghĩa của nó chỉ gói gọn trong một cái vỏ lạc vỡ[11]. Nhưng Marlow không phải dân đi biển điển hình (không kể xu hướng huyên thuyên ở gã), và với gã, ý nghĩa của sự kiện không nằm trong hạt lạc, mà ở ngoài, bao quanh sự tích phát sinh ra nó giống như nguồn sáng nhiệt phát sinh hồng quang, tương tự như những quầng sáng đôi khi ta vẫn quan sát thấy nhờ quang phổ của ánh trăng. Bình luận của gã không làm ai ngạc nhiên. Marlow là như thế. Phát ngôn ấy được đón nhận trong im lặng. Thậm chí chẳng ai buồn lầm bầm; và lúc này gã đang nói, rất chậm rãi... “Tôi đang nghĩ về thời xa xưa, khi quân La Mã lần đầu đặt chân đến đây, một ngàn chín trăm năm trước[12] - như mới hôm qua... Ánh sáng đã phát xuất từ dòng sông này từ... thời các Hiệp sĩ, nhỉ? Phải; nhưng nó như một lưỡi lửa chạy trên đồng cỏ, một vệt chớp giữa trùng mây. Chúng ta sống dưới ánh sáng bập bùng ấy - cầu cho nó bền lâu như vòng quay của trái đất này! Nhưng hôm qua bóng tối vẫn ở đây. Thử tưởng tượng, cảm giác của viên chỉ huy một chiếc... gọi là gì nhể? – Trireme[13] ưu tú trên Địa Trung Hải, đột nhiên bị điều lên phương bắc; vội vàng đi đường bộ băng qua Gauls; và được giao một con thuyền, loại vẫn được các quân đoàn La Mã - hẳn toàn những kẻ khéo tay ghê gớm - đóng cả trăm chiếc trong một, hai tháng, nếu những gì ta vẫn đọc là đáng tin. Thử hình dung ra gã ở đây - nơi tận cùng thế giới, biển màu chì, trời màu khói, kiểu thuyền vững chãi như cây đàn concertina[14] - bơi ngược sông đem theo quân nhu, hoặc mệnh lệnh, hoặc gì cũng được. Bờ cát, đầm lầy, rừng rú, man dân - cơ hồ không có gì vừa miệng người văn minh, không có gì để uống ngoài nước sông Thames. Ở đây chẳng có rượu Falernian[15], và cũng chẳng có chuyện lên bờ. Thi thoảng lại thấy một doanh trại thất tung trong hoang dã, như cây kim mất tích giữa đụn rơm - giá, sương, bão táp, bệnh dịch, lưu đày và chết chóc - cái chết lởn vởn trong không khí, dưới nước, trong bụi rậm. Binh sĩ chắc hẳn chết ở đây như ngả rạ. Phải rồi - gã sống sót. sống tốt là đằng khác, sống mà không nghĩ ngợi gì nhiều, có chăng chỉ đủ để sau này khoác lác về những gì đã trải qua. Họ đủ nam nhi để đối mặt với bóng tối. Mà có lẽ gã đã phấn chấn hơn khi tơ tưởng đến cơ hội được đề bạt lên hải đội ở Ravenna[16] trong ngày một ngày hai, nếu gã có bạn bè thân cận ở Rome và sống sót qua mùa lam chướng này. Hoặc hãy nghĩ tới một công dân trẻ tử tế, khoác toga - chắc hẳn cháy túi vì cờ bạc - theo gót thái thú, hoặc thuế quan, thậm chí thương gia, đến đây mong kiếm chác được chút gì. Đặt chân lên đầm lầy, cuốc bộ xuyên rừng, và khi đến dịch trạm trong nội địa, thì cảm thấy cái man di, man di cùng cực, vây bủa lấy mình, - tất cả sự sống hoang dã bí hiểm sục sôi trong rừng rậm, trong rừng già, trong tim đám man dân. Chẳng có thời gian để làm quen với những bí ẩn ấy. Gã phải sống giữa chốn vô minh, vốn dĩ là điều đáng hận. Song nó cũng tỏa ra sức dụ hoặc, tác động lên gã. Thứ dụ hoặc nảy sinh từ oán hận - hãy tưởng tượng nỗi hối hận, cơn khát khao đào tẩu, sự ghê tởm trong bất lực, tâm lý buông xuôi, cảm giác căm ghét ngày một dâng cao.” Mời các bạn đón đọc Giữa Lòng Tăm Tối của tác giả Joseph Conrad.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Mong Hạnh Phúc - Laurent Gounelle
T ôi không muốn rời Bali mà không trở lại. Tôi không biết vì sao. Tôi không đau ốm; lúc nào tôi cũng thấy khỏe mạnh. Tôi đã học được cách trả công ở đây, và khi kỳ nghỉ của tôi gần kết thúc thì cái ví tiền của tôi đã gần như rỗng. Tôi thậm chí không dám bàn đến việc chuyển tiền qua ngân hàng. Những người thông thạo thì bảo tôi: “Anh muốn đưa thì cứ đưa, nhét vào cái hộp đặt trên giá ấy.” Vâng, điều đó đã làm tôi yên tâm, ngay cả khi thấy sợ cái ý tưởng để lại tấm phiếu thanh toán cho một người nghe nói đã từng chăm sóc thủ tướng Nhật. Thật khó tìm được ngôi nhà lọt thỏm trong một làng nhỏ ở giữa đảo, cách Ubud mấy cây số. Tôi không hiểu vì sao ở đất nước này gần như không có tấm biển chỉ đường nào. Đọc một tấm thẻ chỉ có thể hiểu được khi người ta có những điểm tham chiếu, nếu không thì có dùng điện thoại di động cũng vô ích trong vùng không phủ sóng này. Chỉ còn lại một giải pháp khả dĩ: hỏi người qua đường. Rất may, tôi là người không bao giờ gây khó cho bản thân. Tôi cảm thấy đa số đàn ông có ấn tượng là họ bị mất tính đàn ông, nếu họ hạ mình đến mức đó. Họ thích im lặng và ra vẻ “Tôi biết rồi”, cho đến khi hoàn toàn mất hướng, và bà vợ phải nói: “Thì em đã bảo phải hỏi thăm mà lại.” Ở Bali có một cái dở là mọi người đều nhã nhặn đến mức luôn nói “vâng”. Đúng thế. Nếu bạn nói với một cô gái “Cô thật duyên dáng”, cô ấy sẽ mỉm cười nhìn bạn và nói “vâng”. Và khi bạn hỏi đường, họ sẽ muốn giúp bạn đến mức không thể thú nhận là họ không giúp được. Thế là họ chỉ hướng cho bạn, mà chắc chắn là hú họa. Tôi khá bực mình khi lại đứng trước cổng vườn. Không hiểu vì sao tôi lại hình dung ra một ngôi nhà khá sang trọng, như thỉnh thoảng vẫn thấy ở Bali, với những hồ sen, dưới tán của những cây đại khoe những bông hoa trắng với mùi hương đậm đặc đến mức hơi quá. Thực tế thì khu nhà giống như một dãy lán trại, kiểu như những ngôi nhà nhỏ không có vách và nối liền với nhau. Trong khung cảnh khu vườn, chúng có vẻ thật đơn giản, trần trụi và có phần thảm hại. ... Mời các bạn đón đọc Người Mong Hạnh Phúc của tác giả Laurent Gounelle.
Nếu Ngày Mai Không Bao Giờ Đến - Yasushi Kitagawa
Tác phẩm “Nếu ngày mai không bao giờ đến” là tác phẩm thứ 2 của Kitagawa, xuất bản năm 2006. Cuốn tiểu thuyết này trở thành best seller với doanh số bán hàng đạt 90.000 bản và được xếp hạng nhất trong bảng xếp hạng của “Hội nghiên cứu phổ biến việc đọc sách, book sommelier” năm 2007. Có rất nhiều thứ để miêu tả vẻ đẹp của tuổi trưởng thành. Khi từng dòng hồi ức lướt qua đủ để con người ở thì hiện tại cảm thấy bồi hồi và nuối tiếc. Người ta vẫn thường nói, mọi cuộc hạnh ngộ trên đời là do duyên số đưa đẩy, nhưng cũng tồn tại những cuộc gặp gỡ vốn được lên kế hoạch từ trước, chỉ chờ một cái cớ hoàn hảo để tiếp cận đối phương. Đó cũng chính là cách Haruka xích lại gần hơn với cậu bạn Yousuke, người cô thầm mến mộ đã lâu. *** Đây là cuốn sách đã từng đạt được kỉ lục 90,000 bản tại Nhật. Có rất nhiều thứ để miêu tả vẻ đẹp của tuổi trưởng thành. Khi từng dòng hồi ức lướt qua đủ để con người ở thì hiện tại cảm thấy bồi hồi và nuối tiếc. Người ta vẫn thường nói, mọi cuộc hạnh ngộ trên đời là do duyên số đưa đẩy, nhưng cũng tồn tại những cuộc gặp gỡ vốn được lên kế hoạch từ trước, chỉ chờ một cái cớ hoàn hảo để tiếp cận đối phương. Đó cũng chính là cách Haruka xích lại gần hơn với cậu bạn Yousuke, người cô thầm mến mộ đã lâu. “Tôi muốn trở thành một người khiến bất cứ ai có duyên gặp gỡ cảm thấy tuyệt vời vì được quen biết một người như thế.” Không nhiều màu sắc, không nhiều kịch tính, dữ dội mà chỉ với một gam màu dịu dàng và lãng đãng xuyên suốt, tựa tiếng nói thủ thỉ chảy nhẹ vào tai, rồi khắc sâu trong tâm trí bạn những bài học quý giá về cuộc đời. Lại một lần nữa, nhà văn Yasushi Kitagawa đem sự sâu lắng và trải đời của mình vào từng con chữ như một dòng chảy ngầm mãnh liệt khơi dậy sự thức tỉnh và thay đổi trong tư duy của mỗi người trẻ. Càng đọc càng bị cuốn hút vào, khi được một phần ba cuốn sách, bạn sẽ có cảm giác như nó không phải viết cho ai khác, mà được viết ra dành cho mình. Cảm giác đồng cảm, cảm động, hưng phấn khiến bạn phải đứng dậy đi đi lại lại loanh quanh trong phòng. “Hãy giữ niềm tin son sắt vào giấc mơ tương lai của chúng ta Đem bầu nhiệt huyết hướng đến nó, và làm những việc bản thân cần làm Làm được như thế thì bất kể ước mơ lớn đến thế nào, Một khi ta đã đặt lời thề hứa nhất định sẽ đạt được mong ước.” Sự bình yên và gắn kết giữa hai tâm hồn đồng điệu giúp Haruka và Yousuke bước vào thế giới của nhau như một điều tất yếu. Tay trong tay, Haruka dẫn lối đưa Yousuke đến những miền cảm xúc mới lạ nhờ sự chia sẻ được ba cô bé chỉ dạy và ghi chép tỉ mỉ trong cuốn sổ nhật ký. Những tâm sự chất chồng về mối quan hệ gia đình, nỗi niềm lo lắng bất an về tương lai hay những thắc mắc về thế giới đầy màu sắc của người lớn được Haruka diễn giải qua những con chữ nhẹ nhàng đầy trầm tư, điều hiếm thấy ở độ tuổi mười tám. Mỗi bài học chia sẻ cùng cậu bạn Yousuke , đều được cô bé gấp thành những chiếc máy bay nhỏ nhắn, mỗi chiếc bay lên trời tựa như  khao khát muốn biến ước mơ thành hiện thực, chạm được vào đích đến của thành công.  “Sống cuộc đời là chính mình” – là điều Haruka mong mỏi được nhìn thấy ở cậu trai cô yêu mến thôi thúc cô hành động. Từng ngày thấy Youssuke trưởng thành, trong lòng Haruka như nở hoa. Cuối cùng mảnh đất khô cằn trong tâm hồn cũng được hồi sinh nhờ một người đặc biệt. Bệnh tật cũng đầu hàng trước cái cách cô sống vui vẻ và lạc quan; nhưng trên đời, không ai nói trước được điều gì. Có những người vốn dĩ chẳng bao giờ dám nghĩ đến ngày mai sẽ ra sao. “Nhưng một đời người sẽ có gì xảy ra và xảy ra lúc nào thì không ai biết trước được. Mọi người đều nghĩ ngày mai sẽ tới như một điều hiển nhiên. “Trên đời này chẳng ai có thể đảm bảo ngày mai sẽ đến” – có những người hiểu được những câu chữ này nhưng họ cũng không bao giờ nghĩ rằng có thể chính mình bỗng nhiên sẽ không có ngày mai.” Tác phẩm “Nếu ngày mai không bao giờ đến” là tác phẩm thứ 2 của Kitagawa, xuất bản năm 2006. Cuốn tiểu thuyết này trở thành best seller với doanh số bán hàng đạt 90.000 bản và được xếp hạng nhất trong bảng xếp hạng của “Hội nghiên cứu phổ biến việc đọc sách, book sommelier” năm 2007 . Như một bản nhạc êm dịu được cất lên trong ngày hè rực rỡ, gặp gỡ rồi tạm biệt. Rồi số phận sẽ đưa đẩy cả hai đến những ngã rẽ nào, hãy lật giở từng trang viết để cảm nhận bạn nhé !  *** Đầu hè năm 2005. Một cậu học sinh phổ thông ghé thăm tôi. Đó là cậu học sinh mà tôi dạy cho đến khi tốt nghiệp trung học cơ sở, giờ đã học lớp 11 rồi. Cậu ta ngồi xuống ghế, tay ôm cuốn "Sách cho hiền tài" mà tôi viết. Tôi đã được anh trai cậu ấy (cũng từng là học sinh của tôi) cho biết cậu học sinh này khi vừa vào trung học phổ thông thì phát hiện ra có khối u trong não và đã được phẫu thuật một lần, cả tình trạng bệnh hiện nay nữa. Vì thế, tôi hỏi: "Em có khỏe không?", lòng như cảm thấy mình chạm được vào khối u đó vậy. Cậu ta vốn là một học sinh luôn rất vui tươi suốt từ thời cấp hai. Lúc đó, cậu ấy cũng trả lời tôi rất khỏe: "Có ạ, giờ thì em còn đi học được nữa." Trái với câu trả lời đó, chỉ cần nghe câu sau cũng biết tình trạng chắc hẳn không hề tốt. Nguyên văn lời cậu ấy thế này: "Căn bệnh là một quả bom nổ chậm mà em không biết bao giờ sẽ nổ." Nghe câu ấy, tôi chết lặng. Cậu ấy đã đến gặp tôi bất chấp tình trạng đó. "Mẹ em bảo hãy đi cảm ơn thầy vì bà nghĩ rằng cuốn sách này giờ đã thành thứ viết ra cho em..." với vẻ ngại ngùng, cậu ta đưa ra cuốn "Sách cho hiền tài" và nói rằng cậu ta muốn tôi viết vài lời và ký tặng. Tôi vừa nghĩ một lúc xem nên viết gì, vừa nghe chuyện cậu ta rồi ký chữ ký mình chưa quen tay vào. Thế rồi, tôi nhìn theo sau lưng cậu học sinh ấy khi ra về, vẫn chưa nói được nhiều điều. Cái dáng người bước đi chậm rãi liêu xiêu ấy dường như là một người khác so với cậu học sinh vừa mới đây. Vậy mà vừa ra đến cửa, cậu ta đã quay lại "Em cảm ơn thầy ạ" rất lễ phép. Trong lời chào ấy có sự khỏe mạnh khi xưa. Ngực tôi nhói lên vì sự tương phản ấy. Sau đó tôi mới nghĩ ra có lẽ khi ấy, tình trạng của cậu ấy đã thực sự rất tồi tệ rồi. Mùa thu năm 2005. ... Mời các bạn đón đọc Nếu Ngày Mai Không Bao Giờ Đến của tác giả Yasushi Kitagawa.
Lạc Đường - Đào Hiếu
Mùa Thu năm 2007 tôi gặp nhà văn Nguyễn Mộng Giác tại Hoa Kỳ. Tôi khoe với anh là mình đang viết hồi ký. Anh nói: viết hồi ký cũng giống như quay phim đám cưới. Phim quay xong, người trong cuộc ngồi xem rất thích thú nhưng người ngoài chỉ liếc mắt ngó qua rồi đi, vì đám cưới ấy chẳng dính dáng gì tới họ. Anh nói nghe rất có lý. Hơn nữa tôi không phải là một nhân vật quan trọng nào đó mà chỉ là một anh Việt cộng nằm vùng không mấy người biết đến. Nhưng tôi tin rằng hồi ký của gã vi-xi vô danh ấy sẽ thu hút người đọc và biết đâu sẽ gây tiếng vang lớn. Tôi bắt đầu viết hồi ký này giữa năm 2006, viết được hơn một nửa thì tôi sang Mỹ và hoàn tất nó vào mùa Thu năm 2007 tại thành phố Lake Forest và quyết định gọi tên nó là “tự truyện Lạc Đường”. Đầu năm 2008 tôi về Việt Nam, đưa bản thảo cho vài người bạn. Và nó đã được đón nhận rất ồn ào. Từ vài ba người bạn thân, nó lan truyền trong giới nhà văn nhà báo và họa sĩ. Đáng ngạc nhiên nhất là giới luật sư đọc rất nhiều. Biết rằng tự truyện này không thể xin giấy phép in công khai được, tôi bèn gởi nó cho trang web Talawas. Mười ngày sau tôi nhận được thư của chị tổng biên tập Phạm Thị Hoài. Chị nói: “Tôi sẽ đích thân biên tập tác phẩm này.” Rồi tự truyện Lạc Đường xuất hiện trên Talawas. Hai mươi bốn giờ sau, chị Hoài lại viết cho tôi: “đã có 15.333 lượt người đọc”. Mấy hôm sau, buổi tối, khi tôi đang nằm coi TV thì nhận được cú điện thoại từ đài BBC. Lê Hải gọi tôi. Anh nói: “Tôi đã đọc xong tự truyện Lạc Đường của anh và rất khâm phục. Xin chia vui cùng anh. Anh có thể cho đài BBC một cuộc phỏng vấn không?” Đó là cuộc phỏng vấn dài 20 phút phát sóng sau đó mấy ngày và được phát lại lần thứ hai cách nửa tháng. Tôi rất cám ơn Talawas và đài BBC vì nhờ các phương tiện truyền thông này mà tự truyện Lạc Đường đã được hàng vạn người biết đến. Dạo ấy mỗi ngày tôi nhận được rất nhiều thư độc giả từ khắp Việt Nam và khắp nơi trên thế giới gởi về qua địa chỉ E.mail của tôi. Tôi biết mình đã thành công ngoài dự kiến và điều mà anh Nguyễn Mộng Giác lo ngại đã không xảy ra. Ở lần tái bản này tôi đã sửa chữa và bổ sung một số thiếu sót. Những chuyện được kể trong tác phẩm này là sự thật mặc dù đôi khi, do không kiềm chế nổi sự ngông cuồng của mình, tôi đã thể hiện nó như một tiểu thuyết. ĐÀO HIẾU *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** Trước Tết Tân Hợi (1971) chừng một tháng, tôi xin được một cái phép ba ngày về thăm mẹ. Căn nhà của tôi bây giờ chỉ là một nơi hoang tàn, lạnh lẽo. Tôi đi từ nhà trước ra nhà sau, không một bóng người. Khi tôi đẩy cửa bước vô căn buồng nhỏ nơi mẹ tôi thường nằm thì nghe có mùi gì rất lạ. Căn buồng tối quá, tôi phải mở cánh cửa nhỏ mới nhìn thấy được mọi thứ trong đó. Chiếc giường nhỏ kê sát vách không có ai nằm. Một chiếc gối nhỏ và chiếc mền cũ màu xám tro. Tôi đến bên giường, vừa đặt tay lên gối thì một đám bụi bốc lên. Trên chiếu lờ mờ hiện lên những vật gì màu nâu. Tôi cúi xuống. Các bạn có biết đó là cái gì không? Đó là phân người. Chúng đã khô quắt lại. Từ ngày tôi bị bắt lính, mẹ tôi đã sống thui thủi một mình trong cái buồng nhỏ này với ngọn đèn dầu hiu hắt từng đêm. Những người hàng xóm kể lại rằng khi bà đi xuống bếp lục cơm nguội ra ăn, với tay lấy chai nước mắm chan vô chén cơm, hóa ra đó là chai dầu lửa. Bà nhai miếng cơm trộn trạo trong miệng một lúc mới nghe được mùi hôi và ói ra đầy giường. Xế chiều buồn quá bà ngồi dậy quơ lấy cây gậy tre, từng bước chống đi, dò dẫm đến những nhà quen ở đầu chợ. Tôi liền chạy ra đầu chợ, thấy mẹ ngồi đó, nhưng bà cũng không nhận ra tôi nữa. Lúc tôi chạy đến ôm bà, bà mới nhận ra hơi hướng của tôi. Bà sờ lên đầu lên mặt tôi và hỏi: -Con đấy hả? Thế là bà khóc. Tôi cũng khóc. Buổi chiều đó tôi cõng mẹ từ ngoài chợ về nhà. Những người trong làng đổ xô ra xem, xem anh lính binh nhì cắp cây gậy tre trong nách cõng mẹ đi qua thị trấn. Hàng xóm chạy đến giúp tôi dọn dẹp nhà cửa. ... Mời các bạn đón đọc Lạc Đường của tác giả Đào Hiếu.
Kỷ Niệm Đàn Bà - Đào Hiếu
Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** Đoàn xe từ biên giới về lúc trời vừa mới hửng sáng. Chiếc xe chở lão khỉ đột đi trước, chiếc xe chở Trần Dũng đi sau cách nhau chừng mười mét. Tài xế bấm còi ba bốn tiếng và cánh cổng đồn biên phòng mở ra, hai chiếc xe jíp từ từ tiến vào sân. Trần Dũng ngồi giữa hai người công an võ trang: AK cầm tay, súng ngắn bên hông và nơi thắt lưng lủng lẳng mấy quả lựu đạn. Cho đến lúc ấy trong đầu Trần Dũng không hề có ý định chạy thoát. Nhưng cái ý định ấy chợt lóe lên như một tia chớp khi chiếc xe dừng hẳn lại và người công an ngồi bên phải hắn nhổm dậy. Hắn nhìn thấy ngay hai quả lựu đạn toòng teng trước mắt mình. Trong cái tích tắc ấy nếu hắn không quyết định thì hắn sẽ không bao giờ có thể quyết định được. Nhưng sức mạnh nào đã thúc đẩy hắn đi đến quyết định ấy? Hắn vươn hai bàn tay chộp lấy hai quả lựu đạn lủng lẳng trên thắt lưng của người công an, giựt mạnh đến nỗi một trong hai quả bị sút chốt an toàn. Một tia khói từ quả lựu đạn xẹt ra. Những người trên xe hốt hoảng nhảy xuống và quả lựu đạn đang khai hoả trên tay hắn cũng bay theo. Bụi khói tung lên mù mịt. Hắn lẫn trong đám bụi khói ấy mà chạy. Tay còn cầm một quả lựu đạn. Nhưng hắn đụng đầu ngay với những hàng rào kẽm gai cao ngất ngưởng. Cũng may là trời còn mờ tối và khói bụi vẫn mù mịt. Hắn nhận ra cái bồn nước cao ở ngay sát hàng rào nên leo nhanh lên đó và nhảy ra khỏi khuôn viên của đồn công an, lọt vào sân của ngôi nhà sàn kế cận. Một con chó bécgiê xông tới vồ hắn, hắn né sang bên, cắm đầu chạy. Nhưng con vật đuổi theo bén gót. Hắn không còn cách nào khác là leo lên thang gác gỗ, lọt vào ban công của ngôi nhà sàn. ... Mời các bạn đón đọc Kỷ Niệm Đàn Bà của tác giả Đào Hiếu.