Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Hậu Margot - Alexandre Dumas

"Hoàng hậu Margot" là thiên tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu nhất Alexandre Dumas mà ngay khi ra đời đã gây tiếng vang lớn trong dư luận văn học ở Pháp và châu Âu lúc bấy giờ. Sau đó thiên tiểu thuyết này nhanh chóng được chuyển thành vở kịch lớn cùng tên, thu hút đông đảo người xem. Khi điện ảnh ra đời, tác phẩm đã được dựng thành phim và chiếu rộng rãi nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm "Hoàng hậu Margot", thông qua các chuyện tình éo le giữa hoàng hậu Margot với bá tước de Mole, cũng như giữa quận chúa de Nervers và bá tước de Coconnas, đã dựng lại một thời kỳ đẫm máu trong lịch sử nước Pháp vào giữa thế kỷ XVI. Đó là thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh tôn giáo cực kỳ tàn khốc giữa hai giáo phái Giatô và Tin lành. Đó cũng là thời kỳ tranh đoạt vương quyền quyết liệt trong nội bộ triều đình Pháp với đủ các mưu mô, thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm... Bạn đọc sẽ được gặp lại các nhân vật lịch sử có thật của thời đại đó: Thái hậu Catherine de Médicis, vua Charles IX, Henri de Navarre, quận công de Guise... mà nổi bật nhất trong số đó là Hoàng hậu Marguerite de Valois (Hoàng hậu Margot). Với tài năng sắc đẹp và trí tuệ phi thường của mình, hoàng hậu Margot đã đóng góp phần xứng đáng loại bỏ vai trò của dòng họ Valois lỗi thời và phản động để xác lập vương quyền cho Henri de Navarre, chồng mình, thuộc dòng họ Bourbon có phần tiến bộ hơn. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Tiếng Latinh của ông de Guise Từ ngày thứ hai, 18 tháng 8 năm 1572, lễ hội tưng bừng diễn ra tại cung điện Louvre. Trong những ngày ấy, tất cả các cửa sổ của toà Hoàng cung cổ kính đều được chiếu sáng rực rỡ thay cho cái vẻ âm u mà người ta vẫn thấy thường ngày. Nếu trước đây các quảng trường và phố xá đều vắng vẻ khi chuông đồng hồ ở Saint-Germain l Auxerrois mới điểm chín giờ tối, thì nay dù đã nửa đêm ở đó vẫn còn tấp nập, nhộn nhịp những đám thị dân. Trong bóng đêm, đó là những đám đông chen chúc, hỗn độn mang một vẻ dữ tợn như mặt biển tối sầm sôi động với những ngọn triều gầm réo. Những đợt triều đó, gồm hàng nghìn con người, tràn lên mặt kè sông, đổ vào các phố Fossés Saint-Germain, rồi dội vào chân tường điện Louvre, vào chân tường dinh thự de Bourbon. Nhưng có lẽ bắt nguồn ngay từ chính lễ hội này, một điều gì đó vừa bí ẩn vừa ghê gớm đang xuất hiện trong đám dân chúng này. Họ cảm thấy sự tưng bừng mà họ đang chứng kiến đây chỉ là màn giáo đầu cho một sự kiện nào đó vào tuần tới mà chính họ sẽ là những kẻ tham gia cuồng nhiệt nhất. Lẻ hội này chính là lễ thành hôn giữa công chúa Marguerite de Valois, con gái vua Henri II và là em vua Charle IX với Henri de Bourbon vua xứ Navarre. Sáng nay, trên một chiếc bục lớn trước cửa nhà thờ Đức Bà, Hồng y giáo chủ de Bourbon đã làm phép cưới cho đôi uyên ương theo đúng lễ nghi được dành riêng cho hôn lễ các công chúa nước Pháp. Đây là cuộc hôn nhân khiến hết thảy mọi người đều ngạc nhiên. Những người sáng suốt nhất cũng phải vắt óc suy đoán. Người ta không tài nào hiểu nổi vì sao phe Tân giáo và Cơ đốc giáo xưa nay vốn thù nghịch nhau giờ lại xích lại gần nhau đến như vậy. Làm sao ông hoàng Condé trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho quận công hoàng đệ d Anjou về việc cha ông bị tên Montesquiou ám sát tại Jarnac? Làm sao quận công de Guise trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho đô đốc de Coligny về việc cha mình bị Poltrot de Méré giết hại tại Orléans. Chưa hết! Cách đây chưa đầy hai tháng, hoàng hậu Jeanne de Navarre, người vợ can đảm của Antoine de Bourbon yếu đuối, người mẹ đã dẫn dắt con trai mình tới cuộc hôn nhân vương giả này, đã qua đời. Nhiều tin đồn kỳ lạ được lan đi quanh cái chết đột ngột đó. Khắp nơi dậy lên tiếng xì xầm, thậm chí còn có kẻ dám lớn tiếng cho rằng do bà đã phát giác được điều bí mật gì đó rất khủng khiếp nên Thái hậu Catherine de Médicis sợ bị tiết lộ, đã cho đầu độc bà bằng một đôi găng tay tẩm hương do một gã nào đó tên là René, người xứ Florence, vốn nổi tiếng khéo léo về các công việc loại này, chế tạo. Tiếng đồn ngày càng lan rộng và càng được khẳng định, vì sau khi bà hoàng vĩ đại này tạ thế, theo yêu cầu của con trai bà, hai thầy thuốc, trong đó có ông Ambroise de Paré nổi tiếng đã được phép mổ và nghiên cứu tử thi, trừ bộ não. Song thật oái oăm, vì Jeanne de Navarre đã bị đầu độc bằng đường khứu giác, nên chỉ có bộ não có thể để lại dấu vết của tội ác đó thì lại không được phép khám nghiệm. Người ta còn được biết vua Charle đã có một sự kiên trì đáng kinh ngạc đối với cuộc hôn nhân này đến mức được coi như một kẻ ương ngạch. Bởi vì xét cho cùng, ngoài việc đem lại hoà bình trong vương quốc, nó còn mở cửa để thu hút về Paris những thủ lĩnh Tân giáo chủ chốt, điều mà những người theo đạo Cơ đốc vẫn e ngại. Vì cặp tân hôn này, vợ thì theo đạo Cơ đốc, chồng thì theo Tân giáo, nên người ta buộc phải đề đạt tới Grégoire, là đấng tối cao tại Rome, xin được miễn trừ. Khi thấy lệnh miễn trừ đến chậm, Jeanne de Navarre tỏ ra rất lo ngại. Một hôm bà đã bày tỏ với Charle IX nỗi e ngại rằng lệnh miễn trừ có thể không đến thì được nhà vua trả lời: - Xin đừng quá e ngại, cô thân mến ạ! Cháu còn tôn trọng cô hơn cả đức giáo hoàng và yêu quý em gái cháu hơn là cháu lướng. Tuy cháu không phải là người Tân giáo nhưng cháu cũng không phải là thằng ngốc và nếu cái ông giáo hoàng ấy quá đần thì đích thân cháu sẽ cầm tay Margot đến cưới con trai cô giữa những lời giảng kinh Tân giáo. Lời đó lập tức được truyền từ cung Louvre tới khắp thành phố, làm hả lòng hả dạ những người Tân giáo đồng thời khiến những người Giatô phải hậm hực, suy nghĩ. Những người này đang tự hỏi xem liệu có phải nhà vua đã thực sự phản lại họ không hay ông ta chỉ đóng một tấn tuồng mà một sớm một chiều nó sẽ được kết thúc một cách hết sức bất ngờ. Đối với Charle IX, nhiều điều thật không giải thích nổi, nhất là thái độ của ông đối với đô đốc de Coligny, người đã điên cuồng chống lại nhà vua trong suốt năm, sáu năm nay. Và cũng trong thời gian đó, Charle IX đã từng treo giá cái đầu ông này một trăm năm mươi ê quy vàng. Ấy thế mà nay nhà vua chỉ tin dùng có mỗi mình ông ta, lại còn gọi ông ta là cha và cao giọng tuyên bố rằng từ nay trở đi chỉ có ông ta là người xứng đáng được quyền điều khiển chiến cuộc. Đến nỗi Thái hậu Catherine de Médicis, người điều khiển chính các hành động, ý đồ, thậm chí cả nguyện vọng của nhà vua trẻ tuổi này, cũng phải tỏ ra lo ngại thực sự. Điều lo ngại này không phải là vô căn cứ, vì trong một lúc thổ lộ tâm tình, Charle IX đã bày tỏ với đô đốc về cuộc chiến ở Flandres như sau: - Thưa cha, có một điều phải lưu ý: đó là Thái hậu. Như cha đã biết, bà ta cứ muốn dúng mũi vào mọi việc. Hiện nay bà ta còn chưa biết tí gì về việc này. Chúng ta phải giữ kín để bà ta mù tịt, vì con biết lúc nào bà ta cũng cứ sôi sục lên, bà ta sẽ làm hỏng việc mất. Dù lõi đời và khôn ngoan đến mấy, Coligny cũng khó mà nghi ngờ một sự tin cậy hoàn toàn đến như vậy. Trước đó, ông đến Paris lòng đầy nghi kỵ và trước khi ông rời Châtillon, một bà già nông dân đã quỳ sụp xuống chân ông kêu khóc: "Ôi, thưa ngài, ông chủ tốt bụng của chúng con, xin người đừng đi Paris. Nếu người tới đó, người sẽ chết cùng với tất cả những ai đi theo người". Nhưng rồi nỗi nghi ngại trong ông cũng dần dần tan biến. Nó cũng tan biến đối với Téligny, con rể ông, người được nhà vua ban cho những ân sủng đặc biệt, được nhà vua gọi là người anh em và xưng hô cậu cậu tớ tớ như ông thường cư xử với những người bạn thân nhất của mình. Vì vậy trừ một vài kẻ còn định kiến và đa nghi, hết thảy những người Tân giáo đều cảm thấy yên lòng. Cái chết của cố hoàng hậu Jeanne de Navarre được coi là hậu quả của bệnh sưng màng phổi. Trong những gian phòng rộng lớn ở Louvre tràn ngập những người Tin lành với lòng tin tưởng rằng, nhờ cuộc hôn nhân của thủ lĩnh Henri trẻ tuổi, họ sẽ được quay lại cái thời giàu sang phú quý. Đô đốc de Coligny, La Rochefoucault, ông hoàng Condé, Téligny, tóm lại là tất cả những nhân vật đầy thế lực của giáo phái này, những người mà ba tháng trước đây vua Charle và Thái hậu Catherine đã nhăm nhăm muốn treo cổ, đều hoan hỉ thấy mình được nghênh tiếp trọng thể và bỗng chốc trở nên đầy thế lực ở Paris. Chỉ còn Thống chế Monmorency là người duy nhất không tài nào tin được sự hoà hợp lạ lùng này. Không một lời hứa hẹn nào có thể làm xiêu lòng ông, không một sự giả dối nào có thể che được mắt ông, cho nên ông vẫn một mực ẩn dật trong lâu đài của mình ở Isle - Adam, viện cớ rằng vẫn còn đau buồn về cái chết của thân phụ mình là nguyên soái Andre Monmorency bị Robert Stuart giết bằng một phát súng lục tại trận Saint-Denis. Nhưng cứ xét sự kiện này xảy ra đã trên ba năm nay và tính đa cảm là một thứ đạo đức không mấy hợp thời thượng, nên chẳng mấy ai tin tưởng vào cái chuyện chịu tang quá đỗi lâu ngày như vậy. Vả chăng, cứ trông vào mọi sự đang diễn ra cũng khiến cho cử chỉ đó của thống chế Monmorency thành sai trái: Nhà vua, thái hậu, quận công d Anjou và quận công d Alençon hết lòng thù tạc tiếp khách khứa trong ngày hội của Hoàng gia. Quận công d Anjou nhận được từ chính những người Tân giáo những lời khen ngợi xững đáng về hai trận đánh ở Jarnac và Moncontour mà ở đó ông đã giành được thắng lợi trước khi tròn tuổi mười tám, về mặt này ông còn trẻ hơn cả Cédar và Alecxandre. Quận công d Alençon nhìn tất cả những điều trên với con mắt vờ vĩnh đầy ve vuốt của mình. Thái hậu Catherine vui mừng rạng rỡ và tràn trề vẻ ân cần. Bà hết lời khen ngợi ông hoàng Henri de Condé về cuộc hôn nhân mới đây của ông ta với Marie de Clevơ. Cuối cùng là chính ông de Guise lại mỉm cười với những kẻ kình địch dữ dội của tộc họ và quận công de Maten thao thao bàn với ông de Tavan và đô đốc về cuộc chiến tranh, hơn lúc nào hết, đang cần phải được tuyên bố chống Philip II. Ở giữa những nhóm người nói trên nổi bật lên một người. Người đó đang đi đi lại lại, đầu hơi nghiêng nghiêng và với đôi tai tinh tường đã thâu tóm được tất cả mọi chuyện. Đó là một chàng trai khoảng mười chín tuổi, cặp mắt sắc sảo, tóc đen cắt ngắn, lông mày rậm, mũi khoằm như mỏ chim ưng, có nụ cười tinh quái, mặc dù râu cằm và ria mép mới chớm mọc. Chàng mới nổi bật nhờ trận đánh d Arnay le Duc, nơi chàng đã tỏ ra gan dạ đến mức liều lĩnh. Chàng nhận được hết lới khen ngợi này đến lời ca tụng khác. Chàng chính là học trò yêu của Coligny và là người hùng trung tâm của lễ hội. Ba tháng trước đây, tức là lúc thân mẫu chàng chưa băng hà, người ta gọi chàng là hoàng tử xứ Bearn, hiện nay người ta gọi chàng là vua xứ Navarre trong khi chờ đợi để rồi sẽ gọi chàng là vua Henri đệ tứ. Tuy vậy, thỉnh thoảng một áng mây u tối lướt nhanh qua vầng trán chàng. Chắc là chàng chưa quên cách đây mới hai tháng thôi, mẹ chàng đã lìa đời, và hơn ai hết, chàng vẫn ngờ rằng mẹ mình bị đầu độc Nhưng áng mây u tối đó chỉ thoáng lướt qua vì những kẻ chuyện trò với chàng, những kẻ tâng bốc chàng, những kẻ đang kề vai sát cánh với chàng chẳng phải ai xa lạ mà chính là những kẻ đã ám hại mẹ chàng: bà Jeanne d Albert(1) dũng cảm. Cách vua xứ Navarre vài bước, quận công de Guise trẻ tuổi, với vẻ tư lự và lo âu đang chuyện gẫu với Téligny trong lúc ông này tỏ ra vui vẻ và cởi mở. So với anh chàng người Bearn, quận công vẫn còn may mắn hơn. Mới hai mươi hai tuổi mà tiếng tăm của ông đã nổi như cồn, gần được như cha ông là Françoise de Guise vĩ đại. Quận công là một lãnh chúa tao nhã, cao lớn, ánh mắt đầy tự hào pha lẫn kiêu ngạo, với cái vẻ đường bệ bẩm sinh khiến người ta có cảm giác rằng bên cạnh ông, những ông hoàng khác nom chỉ như những gã tiện dân. Mặc dù còn trẻ, ông vẫn được những người Gia tô giáo tôn làm thủ lĩnh của họ, cũng giống như những người Tin lành(2) coi Henri de Navarre là thủ lĩnh của mình. Thoạt tiên, quận công mang tước hiệu hoàng từ xứ Goanhvin và tham chiến lần đầu trong cuộc vây hãm Orléans dưới quyền chỉ huy của cha mình. Chính cha ông đã ngã gục trên cánh tay ông, trước khi chết còn kịp chỉ cho ông thấy đô đốc Coligny là kẻ ám hại mình. Cũng như Anibal, quận công đã nghiêm trang thề trước vong linh cha: nhất quyết báo thù đô đốc Coligny cùng cả nhà ông ta, quyết tróc nã, tiêu diệt những kẻ cùng giáo phái với đô đốc đến kẻ cuối cùng mới thôi, vì quận công đã tự phong cho mình làm thiên thần báo oán của Chúa. Vị hoàng thân này đã làm dấy lên một sự ngạc nhiên quá mức khi người ta tận mắt thấy ông, người vốn rất trung thành với lời thề của mình, nay lại chìa tay ra với kẻ thù muôn kiếp, hơn thế lại còn chuyện trò thân mật với con rể của con người mà ông ta sẽ quyết giết như đã hứa với người cha hấp hối. Buổi tối này quả thực đầy những sự việc đáng ngạc nhiên. Thực tế, nếu có biệt tài tiên đoán được mọi sự kiện của tương lai (mà may thay con người lại không có), nếu có khả năng đọc được những điều sâu kín trong lòng người mà chỉ Chúa mới nắm được, thì người quan sát nào được may mắn dự buổi lễ hội này chắc chắn sẽ cực kỳ khoái trá trước cảnh tượng kỳ dị nhất về tấn trò đởi mà sử sách đã từng nói tới. Nhưng cái người quan sát ấy lại không có mặt trong những sảnh phòng bên trong cung Louvre, mà chỉ tiếp tục đứng ngoài phố, nhìn lễ hội với cặp mắt nảy lửa và với giọng gầm gừ đe doạ. Người quan sát ấy chính là quần chúng. Với cái linh cảm được mài sắc ấy một cách kỳ diệu bởi nỗi căm thù, quần chúng theo dõi từ xa bóng của những kẻ thù không đội trời chung của họ và thể hiện các cảm tưởng của mình một cách rõ ràng như một người điếc tò mò đứng xem người ta nhảy múa. Âm nhạc tạo ra nhịp điệu và làm say lòng người nhảy nhưng người điếc thì chỉ thấy đó là những động tác hết sức lố lăng. Cái tiếng nhạc làm say sưa những người Tân giáo cũng chính là âm thanh tự mãn của dòng họ. Những ánh chớp lóe lên trong mắt thị dân Paris giữa đêm tối, đó là những ánh chớp của lòng căm thù, nó sẽ chiếu sáng cả tương lai. Mặc dù vậy trong cung cấm mọi việc vẫn tiếp diễn một cách vui vẻ. Lại thêm một màn khá ngoạn mục khiến hết thảy mọi người đều cảm thấy khá êm ái và huy hoàng: ấy là lúc vị hôn thê kiều diễm trẻ trung, sau khi gỡ chiếc áo choàng lễ phục dài sát đất và chiếc khăn voan, bước vào phòng lễ hội. Cùng sóng đôi với nàng là quận chúa de Nervers xinh đẹp, bạn chí cốt của nàng. Sau đó, anh nàng, vua Charle IX, đưa nàng đi giới thiệu với các đình thần quan trọng nhất trong số khách của ông ta. Vị hôn thê đó là con gái vua Henri II, viên ngọc của ngai vàng nước Pháp, Marguerite de Valois, người mà trong tình thân mật, nhà vua Charle IX chỉ gọi là cô em Margot của tôi. Chắc chắn từ xưa tới nay chưa có một sự tiếp đón nào lại xững đáng hơn sự tiếp đón mà người ta đang giành cho hoàng hậu mới xứ Navarre lúc này. Marguerite chưa đầy hai mươi tuổi mà đã trở thành đối tượng đề ca ngợi của hết thảy những thi sĩ. Người thì so sánh nàng với nữ thần Bình minh, kẻ thì ví nàng với Cythérée(3). Vẻ đẹp của nàng quả là nghiêng nước nghiêng thành trong cái triều đình mà Catherine de Médicis đã thu hút về tất cả những mỹ nhân như những tiên dung làm đắm đuối lòng người. Nàng có mái tóc đen, nước da sáng rỡ, mắt nhìn mê đắm ẩn sau hàng mi dài, đôi môi nhỏ đỏ thắm, cổ cao thanh tú, thân hình thon thả và mềm mại, bàn chân nhỏ nhắn như chân con trẻ của nàng ẩn trong đôi hài sa tanh. Những người Pháp coi nàng như quốc bảo, tự hào được thấy trên đất nước họ nở ra một bông hoa lộng lẫy đến thế. Những người nước ngoài đến nước Pháp không những loá mắt về sắc đẹp của nàng khi được nhìn nàng mà họ còn choáng ngợp về kiến thức của nàng nếu được nói chuyện với nàng. Bởi Marguerite không chỉ là người phụ nữ đẹp nhất thời đại mà nàng còn là người phụ nữ có học thức nhất. Người ta dẫn lại lời một nhà bác học Ý, sau khi được nàng tiếp chuyện trong một giờ bằng tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, đã bước ra và thốt lên trong niềm xúc động: "Được hội kiến với triều đình mà chưa được gặp Marguerite de Valois nghĩa là chưa nhìn thấy cả nước Pháp và chưa gặp triều đình". Cũng vì thế nên không thiếu những lời đàm tiếu nhằm vào vua Charle IX và hoàng hậu xứ Navarre. Về tài đàm tiếu của những người Tin lành thì khỏi phải bàn, vì vậy đã có nhiều lời ám chỉ quá khứ, nhiều ước đoán cho tương lai được khéo léo xen vào giữa những lời hô hào qui thuận nhà vua. Nhưng đối với tất cả những lời ám chỉ này, Charle chỉ trả lời với một nụ cười xảo quyệt trên đôi môi tái nhợt: - Khi trao cô em Margot của tôi cho Henri de Navarre, tôi đã trao trái tim mình cho tất cả những người Tin lành trong vương quốc. Đó là lời làm yên lòng kẻ này và khiến kẻ khác tủm tỉm cười, vì nó thực sự có hai nghĩa: một là theo nghĩa nhân ái, vì hắn Charle cũng không có ẩn ý gì trong câu nói thực lòng đó; hai - nó mang theo một nghĩa khác: nó nhằm lăng mạ cô dâu, chú rể và nhằm cả vào kẻ thốt ra câu nói đó. Thực ra câu nói này có thể gợi lại những điều tai tiếng âm ỉ do những kẻ sính tin đồn muốn tìm cách làm vấy lên tấm áo tân hôn của Marguerite de Valois. Trong lúc đó, de Guise vẫn đang chuyện trò với Téligny, nhưng ông không chú tâm lắm vào chuyện trò mà thỉnh thoảng lại ngoái đầu nhìn về nhóm các bà, các cô trong đó hoàng hậu xứ Navarre nổi bật lên rực rỡ. Mỗi khi ánh mắt của nàng bắt gặp cái nhìn của chàng quận công trẻ tuổi thì một áng mây mở lại lướt qua vầng trán duyên dáng được kết những ngôi sao bằng kim cương tạo nên một vầng hào quang lung linh của nàng và khi ấy một ý định mơ hồ nào đó được để lộ ra qua thái độ sốt ruột và xao xuyến của nàng. ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Hậu Margot của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Yêu và Lý Tưởng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tình Yêu và Lý Tưởng của tác giả Thomas Mann. THOMAS MANN QUA TÁC PHẨM TÌNH YÊU VÀ LÝ TƯỞNG Mặc dù được viết vào thời trẻ tuổi của tác giả và mặc dù tính cách mỏng mảnh của nó, Tonio Kroger - mà chúng tôi chuyển sang bản Việt văn với nhan đề TÌNH YÊU VÀ LÝ TƯỞNG - vẫn được hầu hết các nhà phê bình xem là một tác phẩm tiêu biểu cho trọn sự nghiệp của Thomas Mann. Hơn thế nữa, là một kiệt tác của nhà văn Đức, giải thưởng Nobel 1929 này, với những kích thước lớn lao chứa đựng những chủ đề trung kiên nhất của tác giả, cũng như với nghệ thuật hoàn hảo và đầy hàm súc của nó. Viết ở ngôi thứ ba, thiên truyện lại được xem là mang nặng tính cách tự thuật. Tiểu sử của Tonio Kroger, do đó, một phần nào, cũng chính là tiểu sử của Thomas Mann: một vận hành tri thức có tính cách quyết định của tác giả trong cuộc đi tìm ý nghĩa của đời sống và nghệ thuật, của thực tại và lý tưởng. Trong một bài viết vào cuối đời mình, năm 1953, Thomas Mann đã thú thật: “Nói thẳng ra là không có nhiều đức tin, nhưng tôi cũng không tin lắm vào đức tin; đúng ra, và còn hơn thế nữa, tôi tin nơi lòng tốt con người là điều có thể hiện hữu mà không cần tới đức tin và đúng ra là phát sinh từ sự hoài nghi… Nghệ sĩ là người sau cùng còn nuôi ảo tưởng về ảnh hưởng của mình trên định mệnh con người. Vốn khinh miệt cái xấu, hắn đã không bao giờ kéo ngừng lại được sự chiến thắng của cái xấu. Vốn quan tâm đến việc cống hiến một ý nghĩa, hắn đã không bao giờ kéo ngừng lại được những cái vô nghĩa đẫm máu nhất. Nghệ thuật không thiết lập nên một quyền lực, nó chỉ là một sự an ủi”.  Lời tự thú của một nhà văn ở cuối đời mình, về quyền năng và khả hữu tính của nghệ thuật, gói trọn ý nghĩa khốc liệt của một sự thức tỉnh nền tảng, lời tự thú đã từng được bộc lộ ngay trong Tonio Kroger, ra đời trước đó đúng nửa thế kỷ, năm 1903. Có thể xem đó chính là lời tự thú của chàng tuổi trẻ Tonio Kroger với tâm hồn nóng bỏng những ngọn lửa của trí tuệ và đam mê, luôn trên đường tìm kiếm cho đời mình và cho nghệ thuật, một sự cứu rỗi, một cách nào đó, tìm cách giải quyết mối phân ly tàn khốc nội tại nơi ý thức của con người sáng tạo. Chính Thomas Mann cũng đã nói: “Nghệ thuật có sứ mạng nhất thống”. Không mang nặng ảo tưởng, không ngụy tín, không ngộ nhận, nhà văn của chúng ta, sau một đoạn đường dài tìm kiếm, tư duy và sáng tạo, không ngừng nghỉ - đã trầm tĩnh nhìn nhận nghệ thuật sau cùng chỉ là một khả năng thống nhất, giải quyết những mối xung khắc làm nên yếu tính của chính mình. Có thể Thomas Mann bi quan - nếu không nói là tuyệt vọng, nhưng điều ta không thể phủ nhận được là bằng số lượng tác phẩm vô cùng phong phú của mình, ông đã “sống” trọn kinh nghiệm của một ý thức khốn khổ, bị kết án trong cô đơn, phải quờ quạng trong đêm tối mịt mùng của lịch sử (con người đã sống qua hai trận thế chiến), tìm đến một ý nghĩa, một giá trị giữa hư vô và tuyệt vọng bốn bề. Cũng như Thomas Mann đã thừa hưởng hai bản tính xung khắc, một của cha, đại diện cho tinh thần trưởng giả, một của mẹ, với dòng máu lai Nam Mỹ, đại diện cho tinh thần nghệ sĩ đa cảm và phóng khoáng, Tonio Kroger là hiện thân của một mối xung khắc thuộc huyết thống. Cậu là con trai của vị lãnh sự Kroger, thuộc dòng họ Kroger quyền quý, nhưng tâm hồn cậu cũng nghiêng về mẹ, một người mẹ “nồng nàn và thâm u”, chơi dương cầm và măng cầm tuyệt vời. Từ sự xung khắc nội tại đó, chàng tuổi trẻ kia cảm thấy mình xung khắc với tất cả mọi người: bạn, thầy, những người chung quanh. Và vượt lên trên tất cả những xung khắc, đó là sự xung khắc giữa đời sống và nghệ thuật không ngừng đốt cháy tâm hồn chàng. Chính Tonio Kroger đã thú thật với Lisaveta Iwanowna, cô bạn nghệ sĩ Nga của chàng: “Tôi được đặt để vào giữa hai thế giới, không một nơi nào cho tôi cái cảm tưởng là mình đang sống dưới mái ấm của mình, vì thế mà đối với tôi, cuộc sống có phần vất vả”. Tonio Kroger hay là thảm kịch của sự phân ly. Ngay từ những ngày tuổi nhỏ, chàng đã sống trong tận cùng da thịt mình, sự phân ly với đời sống. Phân ly với đời sống. Tại sao? Tại vì chính chàng đã ngoảnh mặt trước đời sống hay ngược lại chính đời sống đã làm chàng thất vọng, đã ngăn chặn, đã cấm đoán chàng tìm đến với nó? Chỉ cần đọc những trang đầu tiên, người đọc nhận ra ngay một khuynh hướng tình cảm có phần trái ngược của chàng: chàng đam mê chống lại chính đam mê của mình. Những đối tượng tình cảm của Tonio Kroger chính là những cực đối nghịch với chàng. Chàng kết thân với Hans Hansen, một đứa trẻ hồn nhiên, thích thể thao và tầm thường. Chàng đem lòng yêu Ingeborg Holm, cô gái có mái tóc vàng nâu, vui tính, thích trò chuyện; trong khi đó thì Tonio lại là một tâm hồn đầy u uẩn, chỉ thích sống với nội giới của mình, luôn say mê những lý tưởng mà mọi nguời đều lấy làm dửng dưng, không ngó ngàng tới. Phải chăng đó chính là những cố gắng đầu tiên của một tâm hồn thuần khiết, muốn tham dự vào đời sống, muốn hòa hợp với tha nhân, bằng một cách thế đau đớn nhất: một cách nào đó, phủ nhận chính mình. Nhưng Tonio Kroger đã thất bại trong nỗ lực thỏa hiệp đầu tiên của chàng với đời sống, trong nỗ lực san bằng sự ly cách giữa chàng với đời sống. Bởi đời sống đã khước từ. Bởi sự xung khắc không chỉ hiện hữu nơi chàng, nó còn hiện hữu nơi đời sống. Những tâm hồn chàng yêu dấu, ngưỡng vọng đã chỉ đáp lại chàng bằng sự lạnh nhạt và sự đần độn. Cậu đón nhận kinh nghiệm đớn đau đầu tiên của sự thỏa hiệp: “Kẻ thường yêu nhiều nhất là kẻ yếu đuối nhất và phải chịu nhiều khổ sở. Tâm hồn non dại của một cậu thiếu niên mười bốn tuổi đã học được bài học đơn giản và nghiệt ngã kia của cuộc đời”. Chàng đã khước từ chính mình một cách sung sướng, để được yêu, được thỏa hiệp, nhưng chính đời sống đã xua đuổi chúng, đã đào sâu thêm cuộc phân ly. Đã đẩy chàng vào chính thế giới nội tâm đìu hiu quen thuộc của mình, với những khát vọng man rợ, ngông cuồng: “(Chàng) làm thơ và không dám nói đến ngay cả việc cậu mong mình trở thành cái gì mai sau”. Đó là điểm khởi đầu của một cuộc đoạn tuyệt đớn đau. Tonio Kroger rời bỏ những tâm hồn yêu dấu, những người bạn nhỏ, những khung cảnh thần tiên của tuổi niên thiếu, tất cả làm nên quá khứ chàng. Chàng rời bỏ không luyến tiếc để dấn thân vào cuộc đày ải, không, vào cuộc phiêu lưu đầy gian nguy và kỳ thú. Bởi đó là cuộc đày ải tự nguyện của một con người sau khi đã “thức tỉnh trước chính mình” và “lấy làm mai mỉa trước cuộc hiện sinh trì độn và ti tiện” đã giam giữ đời mình trong tù ngục tối tăm, mê muội. Thế rồi Tonio Kroger rời bỏ thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, lăn xả trọn vẹn vào một thứ quyền lực vô song, hứa hẹn những chân trời kỳ tuyệt, “đó là quyền lực trí tuệ và của lời nói vừa chế ngự vừa tươi cười trên cuộc sống vô thức và lặng câm”, đó là quyền lực của sáng tạo đã từng nung nấu tâm hồn thiếu niên của cậu. Chàng hiến trọn đời mình cho nghệ thuật, trong tư cách một con người sáng tạo thật sự, tự giam hãm đời mình trong niềm đơn độc tuyệt đối, hầu “sản xuất nên những tác phẩm tuyệt vời bằng cái giá của những nỗi xao xuyến khốc liệt”. Nhưng rồi cũng chính những tháng năm miệt mài trong sự sáng tạo đó đã cho chàng biết rằng “người ta phải chết đi mới thật sự là một con người sáng tạo”. Điều mà Tonio Kroger bắt gặp, trên đường tìm kiếm lý tưởng, đó vẫn là sự phân ly, sự phân ly giữa đời sống và nghệ thuật: “Nếu trọn thế giới đã được diễn tả, thì trọn thế giới đã được giải quyết, phóng thích, hủy hoại… Tốt lắm! Tuy nhiên tôi không phải là một người theo chủ nghĩa hư vô…” cho nên kinh nghiệm của Tonio Kroger mãi mãi còn là kinh nghiệm tan nát, hãi hùng của sự xung khắc, của sự mâu thuẫn hệ tại ngay trong tâm thức chàng. Chàng đoạn tuyệt với quá khứ, nhưng chỉ để sau đó trở về với thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, bị thúc đẩy bởi một tình hoài hương tiềm tàng, ray rứt. Chàng nhận ra điều này, mặc dù đã cương quyết đoạn lìa, tâm hồn chàng vẫn còn rung động với từng hình ảnh, từng âm thanh của quá khứ. Chặng đường sau cùng của cuộc hành trình đã đưa chàng trở về, trở về với nguồn cội thân yêu mà chàng đã từng quay lưng, chối bỏ. Phải chăng đó là một thất bại của chàng, kẻ vô vọng thỏa hiệp và đồng thời vô vọng đoạn tuyệt với cội nguồn, gốc gác? Phải chăng chính vì thế mà Lisaveta Iwanowna, một tâm hồn bạn của chàng, đã phát biểu về chàng: “Anh là một chàng trưởng giả dấn thân vào một con đường lầm lỡ, Tonio Kroger à, một chàng trưởng giả lạc đường”. Nhưng điều may mắn là chàng trưởng giả lạc đường đó còn biết, một lần nữa, thức tỉnh một chân lý thật tầm thường và cũng thật cao cả: “Chính cái bình thường, cái hợp lý, cái đáng yêu, đời sống trong vẻ tầm thường, quyến rũ của nó, chính tất cả những thứ đó tạo nên thứ vương quốc mà những ước vọng của ta dẫn về”. Nhưng có thật là Tonio Kroger đã thất bại, trong sứ mạng nghệ thuật cũng như trong công trình hiện hữu của chàng? Và cuộc hành trình của chàng đã kết thúc ra sao? Nhưng làm gì có sự kết thúc với con người sáng tạo. Cuốn sách đã xếp lại, nhưng nhân vật tiểu thuyết của chúng ta vẫn còn đang trên đường. Hơn ai hết, Tonio Kroger biết rằng mình còn phải sáng tạo nên “những tác phẩm khá hơn”, như chàng đã hứa với Lisaveta. Nhưng đồng thời, chàng cũng biết rằng “tình yêu sâu xa nhất và bí ẩn nhất của (chàng) thuộc về những người có mái tóc vàng nâu và đôi mắt xanh lơ, những tâm hồn trong sáng và sống thật, những tâm hồn diễm phúc, những tâm hồn đáng yêu, những tâm hồn rất mực thường tình”. Lòng tốt mà Thomas Mann đã nói (được trích dẫn trên đầu bài viết này) đã gặp gỡ, hòa hợp với tình yêu thốt từ miệng Tonio Kroger. Phải chăng hơn ai hết, con người sáng tạo hiểu rõ rằng hắn không có quyền hy sinh đòi sống cho nghệ thuật, tình yêu cho lý tưởng, đạo đức cho thẩm mỹ? Và phải chăng vấn đề sau cùng phải là giải quyết mối xung đột hay sự thất bại nền tảng của mình bằng một sự chọn lựa mà trái lại, bằng sự chấp nhận: “Đừng chê thách thứ tình yêu đó, Lisaveta à, nó tốt đẹp và bổ ích, nó được tạo nên từ những hoài bão khốn khổ, từ ước muốn sầu muộn, từ một chút khinh miệt, và từ một niềm diễm phúc, thật trắng trong, thuần khiết…”.   Nhà văn, Dịch giả Huỳnh Phan Anh Nguyên bản TONIO KROGER *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Tình Yêu và Lý Tưởng kể về cuộc đời của Tonio Kroger, một nghệ sĩ trẻ với tâm hồn đa sầu đa cảm. Chàng mang trong mình dòng máu lai, một nửa là dòng máu trưởng giả, một nửa là dòng máu nghệ sĩ, điều này đã khiến chàng luôn cảm thấy mình lạc lõng, không thuộc về bất cứ nơi nào. Thuở nhỏ, Tonio Kroger là một đứa trẻ nhạy cảm, khác biệt với những đứa trẻ khác. Chàng thường cảm thấy mình là kẻ ngoại đạo, không hòa nhập được với đám bạn cùng trang lứa. Chàng yêu thích những điều cao quý, thanh nhã, nhưng những người xung quanh chàng lại chỉ quan tâm đến những điều tầm thường, phù phiếm. Khi trưởng thành, Tonio Kroger quyết định rời bỏ quê hương để tìm đến một nơi khác, nơi mà chàng có thể được là chính mình. Chàng đến với nghệ thuật, nơi mà chàng có thể tự do thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình. Tuy nhiên, Tonio Kroger cũng nhận ra rằng nghệ thuật không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn chàng. Chàng vẫn cảm thấy mình lạc lõng, cô đơn, thậm chí là bị cô lập. Cuối cùng, Tonio Kroger quyết định quay trở về quê hương. Chàng nhận ra rằng mình vẫn yêu những người thân yêu, những người bạn cũ, và chàng vẫn yêu những điều bình dị, giản đơn trong cuộc sống. Tonio Kroger đã tìm được sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Review Tình Yêu và Lý Tưởng là một tiểu thuyết xuất sắc của Thomas Mann, thể hiện những trăn trở, suy tư sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và đời sống. Cuốn tiểu thuyết đã khắc họa chân thực tâm hồn đa sầu đa cảm của Tonio Kroger, một nghệ sĩ trẻ luôn khao khát được tìm kiếm sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh. Tiểu thuyết được viết theo lối tự sự, với nhân vật chính là Tonio Kroger. Cốt truyện của tác phẩm xoay quanh cuộc đời và những trải nghiệm của Tonio Kroger. Tác phẩm được chia thành ba phần, mỗi phần thể hiện một giai đoạn trong cuộc đời của Tonio Kroger. Trong phần đầu tiên, Tonio Kroger là một đứa trẻ nhạy cảm, khác biệt với những đứa trẻ khác. Chàng cảm thấy mình là kẻ ngoại đạo, không hòa nhập được với đám bạn cùng trang lứa. Chàng yêu thích những điều cao quý, thanh nhã, nhưng những người xung quanh chàng lại chỉ quan tâm đến những điều tầm thường, phù phiếm. Trong phần thứ hai, Tonio Kroger quyết định rời bỏ quê hương để tìm đến một nơi khác, nơi mà chàng có thể được là chính mình. Chàng đến với nghệ thuật, nơi mà chàng có thể tự do thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình. Tuy nhiên, Tonio Kroger cũng nhận ra rằng nghệ thuật không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn chàng. Chàng vẫn cảm thấy mình lạc lõng, cô đơn, thậm chí là bị cô lập. Trong phần thứ ba, Tonio Kroger quyết định quay trở về quê hương. Chàng nhận ra rằng mình vẫn yêu những người thân yêu, những người bạn cũ, và chàng vẫn yêu những điều bình dị, giản đơn trong cuộc sống. Tonio Kroger đã tìm được sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Tình Yêu và Lý Tưởng là một tác phẩm giàu ý nghĩa nhân văn. Tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề quan trọng trong cuộc sống, như sự xung đột giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Cuốn tiểu thuyết cũng thể hiện niềm tin của Thomas Mann vào khả năng hòa hợp giữa bản thân và thế giới, giữa nghệ thuật và đời sống. Tác phẩm được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Thomas Mann đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc để khắc họa tâm hồn đa sầu đa cảm của Tonio Kroger. Cốt truyện của tác phẩm được xây dựng chặt chẽ, logic, mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm sâu sắc. *** Thomas Mann sinh năm 1875  tại Lübeckvà mất năm 1955 tại Zürich (Thụy Sĩ). Sự nghiệp văn học lẫy lừng của ông mang dấu ấn dân chủ, chống phát xít, mang những nét tư tưởng đặc trưng của dân tộc Đức. Trong cuốn “Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải thưởng Nobel Văn học” do nhà xuất bản Văn học ấn hành, có truyện ngắn “Ngài Friedemann bé nhỏ” của Thomas Mann khá ám ảnh. Câu chuyện kể về nhân vật Johanes Friedemann khi nhỏ bị rơi từ bàn quấn tã xuống, khi mới sinh được khoảng một tháng, lỗi do chị vú em bất cẩn.  Sau cú rơi nghiêm trọng đó, cậu bé Friedemann đã mang thương tật suốt đời, mà Thomas Mann miêu tả cậu có “bộ ngực nhô cao và nhọn hoắt, tấm lưng khuỳnh khuỳnh, hai tay khẳng khiu dài quá cỡ và nhanh nhẹn hăng hái tách hạt dẻ, nom thật hết sức kỳ dị”.  Cậu bé thích những quyển sách có những hình vẽ đẹp, và có chút dấu hiệu của tự kỷ. Lớn lên một chút, cậu Friedemann cũng  biết rung động như các bạn cùng trang lứa. Cậu cũng biết ghen tuông, khi cậu thấy cô gái mà cậu thích ngồi cạnh một chàng thanh niên tóc đỏ cao lên nghêu.  Thomas Mann mô tả về thái độ ấy: “Được, ta sẽ chẳng bao giờ thèm để tâm đến tất cả những cái đó nữa. Chuyện ấy mang lại cho người khác hạnh phúc và niềm vui, còn ta, ta chỉ chuốc lấy dằn vặt và khổ đau. Ta không muốn liên quan đến cái trò ấy nữa. Đối với ta, thế là xong. Chẳng bao giờ nữa”.  Cậu rất yêu âm nhạc và dành nhiều thời gian cho nó, cậu chơi khá về Violon. Khi trưởng thành hẳn, Mann gọi cậu là ngài. Với thân hình dị dạng của mình, nhưng trong sâu thẳm của Friedemann vẫn mang những rung cảm mạnh mẽ  trước sức hút của phái đẹp. Ngài đã mê mẩn trước nhan sắc của một phu nhân. Ngài bị ám ảnh khủng khiếp bởi nhan sắc tuyệt diệu ấy. Bao nhiêu cung bậc cảm xúc diễn biến trong trái tim của ngài. Sau bao dằn vặt, đấu tranh tư tưởng, suy nghĩ vụn vặt khi cảm giác như bị phu nhân hắt hủi, ngài đã nhảy xuống nước tự tử. Cái kết câu chuyện đóng lại ở đó, Thomas Mann đã khiến người đọc ám ảnh bởi những suy nghĩ, tâm tư, thổn thức yêu đương nơi cõi lòng của một người tàn tật. Một cái kết đầy nỗi buồn.  “Ngài Friedemann bé nhỏ” là truyện ngắn được coi là đầu tay của Thomas Mann, khi ông mới 23 tuổi. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrook) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Mann tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Những áng văn của ông thể hiện hiểu biết uyên bác của ông trên nhiều lĩnh vực: triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học… Năm 1905, Thomas Mann cưới vợ, sinh 6 người con (trong đó có ba người sau này cũng trở thành nhà văn). Cuộc hôn nhân không phải là cách giải quyết cho ông về vấn đề đồng tính luyến ái. Đó cũng là một đề tài mà Mann say mê thể hiện trong sáng tác của mình, tiêu biểu là Der Tod in Venedig (Chết ở Venice, 1913) - một trong những truyện dài xuất sắc nhất của văn chương thế giới. Sau Thế chiến thứ nhất, ông hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của mình là Der Zauberberg (Núi thần).  Một số tác phẩm của Thomas Mann: Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ, 1898), tập truyện Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrook, 1901), tiểu thuyết Tristan (1903), tập truyện Tonio Kröger (1903), truyện Fiorenza (1905), kịch 1 hồi Der Tod in Venedig (Chết ở Venice, 1913), truyện ngắn Betrachtungen eines Unpolitischen (Những suy ngẫm ngoài chính trị, 1918), tập kí Von deutscher Republik (Nền dân chủ Đức, 1922), tiểu luận Goethe und Tolstoi (Goethe và Tolstoi, 1923), tiểu luận Der Zauberberg (Núi Thần, 1924), tiểu thuyết Mario und der Zauberer (Mario và người phù thủy, 1929), truyện Joseph und seine Brüder (Joseph và những người anh em), bộ tiểu thuyết, 4 tập Die Geschichten Jaakobs (Những câu chuyện của Jaakobs, 1933) Der junge Joseph (Joseph trẻ tuổi, 1934) Joseph in Ägypten (Joseph ở Ai Cập, 1936) Joseph, der Ernährer (Joseph, người nuôi sống, 1943), Lotte in Weimar (Lotte ở Weimar, 1939), tiểu thuyết Doktor Faustus (Bác sĩ Faustus, 1947), tiểu thuyết …   Mời các bạn mượn đọc sách Tình Yêu và Lý Tưởng của tác giả Thomas Mann.
Người Đàn Bà Vô Gia Cư
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tâm lý xã hội Người Đàn Bà Vô Gia Cư của tác giả Katarzyna Michalak & Lê Bá Thự (dịch). Kinga Krol bị mắc chứng trầm cảm sau sinh. Cô luôn nhìn thấy - trong đầu - bọn mafia Nga sẽ bắt cóc con gái cô để lấy nội tạng bán. Đã nhiều lần Kinga nói với cha mẹ mình về sự bất thường của chính cô, nhưng họ để ngoài tai. Kinga-điên đã quyết định bảo vệ đứa con bằng cách “giấu” nó trong một cái hố và phủ lá bên trên nhưng ... *** Tác phẩm phơi bày một xã hội trần trụi với đầy những xấu xa tàn ác và bất trắc của loài người. Sau đó cũng chính là đi sâu vào khai thác những nỗi đời giấu kín của những kẻ bị xem là tận cùng của xã hội, không còn được xã hội thừa nhận. Bí ẩn giấu kín của con người Cuộc gặp gỡ giữa Kinga, một người đàn bà vô gia cư, với ý định tự tử trong buồng chứa rác với nữ nhà báo Aska trong đêm Giáng sinh có thể xem là một tiếng gõ cửa, mở lối cho những bí ẩn đằng sau của mỗi số phận mà không phải bao giờ ta cũng có cơ hội được nhìn thấy. Kinga chỉ vào khoảng ba mươi tuổi, đã từng là một người phụ nữ xinh đẹp, có nhà cửa, có công việc tử tế, có gia đình, nhưng trong suốt một năm, vì ảnh hưởng của những biến cố liên tục, cô bị đưa đến bệnh viện tâm thần điều trị trầm cảm trong vòng sáu tháng, và sau đó là chuỗi ngày lang thang không nhà với những cơn ám ảnh không nguôi về cái chết của người con gái hai tuần tuổi, cùng với sự dày vò tội lỗi của bản thân. Trong khi đó, Aska thoạt nhìn có vẻ là một nữ nhà báo tự tin, thành đạt, giàu có, nhưng thực chất cô luôn mang bên mình nỗi ám ảnh về sự phản kháng và khinh thường. Mục đích sống của cô chỉ là viết những bài báo câu khách đăng trên trang nhất các tờ báo lá cải và kiếm được thật nhiều tiền. Hai người phụ nữ đã đi từ những ngờ vực, động cơ ban đầu để dần cảm hóa lẫn nhau, và rơi vào câu chuyện của nhau. Nhà văn Katarzyna Michalak rất khéo léo trong việc mô tả những diễn biến tâm lý sắc sảo của cả hai nhân vật nữ chính, đặc biệt là nhân vật người đàn bà vô gia cư Kinga. Chính Kinga, nỗi đau và sự ám ảnh, sự hối hận tột độ của Kinga đã cảm hóa Aska, thúc đẩy Aska viết nên một câu chuyện cảm động đẹp đẽ. Cuốn sách ngồn ngộn một hơi thở đương đại đậm đặc, khi con người bị xoáy vào guồng quay của vật chất, sự cô đơn và lạc lõng cũng bị phơi bày. Câu chuyện mà Katarzyna Michalak kể là một trong hàng vạn câu chuyện của những người phụ nữ vô danh trên thế gian này. Câu chuyện về một người phụ nữ luôn muốn bảo vệ con mình, nhưng cả xã hội không ai chịu lắng nghe cô ấy, đến mức khiến cô phát điên và dẫn đến một kết cục bi thảm. Cuốn sách đã phô bày một hiện thực đầy bi thảm của số phận con người. Một người đàn bà bẩn thỉu mà có lẽ bất kỳ ai cũng có thể dễ dàng bắt gặp, nhưng có lẽ không phải ai cũng có thể lưu lại một chút, để lắng nghe câu chuyện của họ. Ở điểm này, Katarzyna Michalak đã thực sực thể hiện được con mắt quan sát tinh tường, sâu sắc và đầy trìu mến của mình. Cũng bắt nguồn từ sự đồng cảm, nhưng cũng đầy nghiệt ngã giữa hai người phụ nữ này mà độc giả được từng bước vén lên tấm màn bao phủ và rọi vào tận cùng nơi tăm tối nhất của tâm trí mỗi con người.   Một bầy kền kền vây quanh xác chết Trong cuốn sách của mình, Katarzyna Michalak đã hơn một lần để cho nhân vật Kinga của mình tưởng tượng ra bản thân cô là một xác chết bị bầy kền kền vây quanh. Và cho đến cuối cùng, trong sự lật lọng xảo trá đáng sợ của gã tổng biên tập tòa báo nơi Aska làm việc, thực sự Kinga đã biến thành một xác chết, khi cô bị tất thảy mọi người bu vào,  nỗi lực đặt ra những câu hỏi truy vấn đầy ác ý xoay quanh cái chết của đứa con gái cô. Ngòi bút sắc nhọn của tác giả Katarzyna Michalak đã tỏ ra rất thành công trong việc khắc họa tính cách đương đại của đám đông, trong quay cuồng và dày vò.  Hình ảnh bầy kền kền là một hình ảnh sống động, có sức gợi lớn, được Katarzyna Michalak “dàn dựng” đầy ám ảnh và ngột ngạt, khiến cho câu chuyện có những bước ngoặt bất ngờ, càng nhấn mạnh thêm tính bất an, vô định và bi kịch của nhân vật Kinga, cũng như bất kì một cá nhân nào trong xã hội. Một cuốn sách được dẫn dắt bởi một cốt truyện xuất sắc, mang tính thời sự, thời đại rất cao. Nhưng nếu như ở đoạn đầu, khi Katarzyna Michalak khiến khán giả hồi hộp, tò mò và thổn thức về những ẩn ức của nhân vật Kinga, với những tình tiết tinh tế, những trần thuật nội tâm phức tạp, đẹp đẽ, thì ở đoạn sau, Katarzyna Michalak lại khiến câu chuyện trở nên đứt gãy, bởi sự ngột ngạt của thời sự, của sự kiện, có phần khiên cưỡng và áp đặt, làm mất đi tính tự nhiên của câu chuyện, khiến nó độc giả như bị trượt ra khỏi bầu không khí văn chương tâm lý thấm đẫm ban đầu. Cách kể chuyện của Katarzyna Michalak, có lẽ khiến nhiều độc giả khó tính khó bị thuyết phục và hấp dẫn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, Katarzyna Michalak đã hoàn toàn thành công khi xây dựng một câu chuyện mang đậm chất phản kháng xã hội, với sự nghiệt ngã và đau thương của loài người, mà ở đây là phụ  nữ. Đồng thời cuốn sách còn cho ta thấy những mặt trái của xã hội hiện đại, với những đám đông điên loạn, thiếu đi lòng lắng nghe, thấu cảm. Tiểu thuyết Người đàn bà vô gia cư là cuốn tiểu thuyết thứ hai của tác giả Katarzyna Michalak được dịch ở Việt Nam, sau Hy vọng, do dịch giả Lê Bá Thự chuyển ngữ. Cuốn tiểu thuyết đã đoạt giải cuộc thi “Cuốn sách hay nhất mùa hè 2013” ở Ba Lan, thể loại tiểu thuyết tâm lý xã hội. *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết “Người đàn bà vô gia cư” của Katarzyna Michalak kể về câu chuyện của Kinga Krol, một phụ nữ mắc chứng trầm cảm sau sinh. Cô luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ bọn mafia Nga sẽ bắt cóc con gái mình để lấy nội tạng bán. Trong một đêm, Kinga đã quyết định “giấu” con gái mình trong một cái hố và phủ lá bên trên. Tuy nhiên, khi tỉnh dậy, cô không còn nhớ gì về chuyện đã xảy ra. Hai ngày sau, cô được tìm thấy và được đưa đến bệnh viện tâm thần. Sau khi được xuất viện, Kinga trở thành người vô gia cư. Cô sống lang thang trên đường phố, kiếm sống bằng nghề ăn xin. Trong những lúc tuyệt vọng nhất, cô đã nghĩ đến việc tự tử. Một đêm Giáng sinh, Kinga định tự tử lần thứ 9 thì được Aska, một nữ phóng viên, cứu giúp. Aska đã đưa Kinga về nhà mình và tìm cho cô một công việc. Dần dà, Kinga tin tưởng và kể lại toàn bộ câu chuyện của mình cho Aska. Cô hy vọng câu chuyện của mình sẽ giúp đỡ những bà mẹ mắc bệnh trầm cảm sau sinh khác. Review “Người đàn bà vô gia cư” là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội với những góc nhìn sâu sắc về bệnh trầm cảm sau sinh. Cuốn sách đã khắc họa chân thực nỗi đau và sự tuyệt vọng của những người phụ nữ mắc chứng bệnh này. Cuốn sách cũng đã lên án sự thờ ơ của gia đình và xã hội đối với những người phụ nữ mắc bệnh trầm cảm sau sinh. Họ thường bị coi là những người điên rồ, bất thường và không được giúp đỡ kịp thời. “Người đàn bà vô gia cư” là một cuốn sách đáng đọc cho tất cả mọi người. Cuốn sách sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về bệnh trầm cảm sau sinh và đồng cảm với những người phụ nữ mắc chứng bệnh này. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Khắc họa chân thực nỗi đau và sự tuyệt vọng của những người phụ nữ mắc bệnh trầm cảm sau sinh Lên án sự thờ ơ của gia đình và xã hội đối với những người phụ nữ mắc bệnh trầm cảm sau sinh Khiến người đọc phải suy ngẫm về những giá trị của cuộc sống Lời kết “Người đàn bà vô gia cư” là một cuốn tiểu thuyết đầy cảm động và ý nghĩa. Cuốn sách đã mang đến cho người đọc những góc nhìn sâu sắc về bệnh trầm cảm sau sinh và những giá trị của cuộc sống. Mời các bạn mượn đọc sách Người Đàn Bà Vô Gia Cư của tác giả Katarzyna Michalak & Lê Bá Thự (dịch).
Những Cô Gái Mất Tích
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết giật gân Những Cô Gái Mất Tích của tác giả Megan Miranda & Hoàng Thị Minh Phúc (dịch). “Những cô gái mất tích” là tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của nữ nhà văn Megan Miranda. Khác với lối kể chuyện xuôi dòng thời gian như thông thường, toàn bộ sự kiện trong cuốn sách này đều ngược về quá khứ. Câu chuyện xoay quanh những vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ, điều kỳ lạ là thời điểm họ biến mất cách nhau đúng một thập kỷ. Đã mười năm trôi qua kể từ khi Nicolette Farrell rời khỏi vùng nông thôn quê hương sau khi người bạn thân nhất của cô – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào. Trở lại quê nhà để giải quyết nốt chuyện cũ và chăm sóc người cha ốm yếu, Nic nhanh chóng bị cuốn vào một tình huống bất ngờ khiến mọi ký ức về vụ án của Corinne ùa về, đồng thời khơi gợi lại những tổn thương cũ vốn đã ngủ quên trong lòng cô bấy lâu nay. Cuộc điều tra mười năm trước tập trung vào Nic, anh trai cô Daniel, Tyler – bạn trai Nic và Jackson – bạn trai Corinne. Kể từ khi vụ việc xảy ra, chỉ có Nic rời khỏi Cooley Ridge. Vào đêm Corinne mất tích, Daniel và vợ anh – Laura đang chờ mong em bé chào đời; Jackson làm việc ở quán bar trong thị trấn còn Tyler đang hẹn hò với Annaleise Carter- hàng xóm của Nic cùng nhóm người có bằng chứng ngoại phạm. Chỉ vài ngày sau khi Nic trở lại quê nhà, Annaleise đột ngột mất tích. Ngược từ ngày 15 trở về ngày 1 – thời điểm Annaleise biến mất, Nic quyết tâm làm sáng tỏ vụ mất tích của cô hàng xóm trẻ tuổi. Từ đây, những sự thật ngoài sức tưởng tượng về bạn bè, gia đình cô và chuyện xảy ra với Corinne vào buổi tối mười năm trước dần được tiết lộ. Không giống với bất kỳ cuốn sách nào bạn đã từng đọc trước đây, “Những cô gái mất tích” sắp xếp tình tiết cực kỳ thông minh và độc đáo. Đọc cuốn sách này giống như bạn đang dấn thân thám hiểm một vùng đất lạ. Khi những khúc quanh uốn lượn dẫn xuống ngõ cụt và những con hẻm tối tăm khép lại, có thể bạn nghĩ rằng mình đang đi trên con đường quen thuộc, nhưng chỉ một giây sau đó, Megan Miranda sẽ xoay chuyển toàn bộ bản đồ và khiến bạn băn khoăn tự hỏi: “Chúng ta sẵn sàng đi bao xa để bảo vệ những người mình yêu thương?” Một số nhận định về cuốn sách “Những cô gái mất tích”:  “Cuốn tiểu thuyết kinh dị này tập hợp đủ mọi yếu tố mà các mọt sách tìm kiếm!” – TheSkimm  “Bạn có đang chú ý không đấy? Bạn sẽ tập trung ngay thôi bởi cuốn sách này sẽ làm bạn xoắn não với cấu trúc thời gian đảo ngược, và bạn sẽ không thể ngừng đọc cho tới trang cuối cùng.” – Elle  “Với nhịp độ nhanh và đầy nguy hiểm, Những cô gái mất tích sẽ khiến bạn hiểu vì sao đi vào rừng một mình vào buổi tối là chuyện quá liều lĩnh.” – Refinery29. *** [Review Sách] “Những Cô Gái Mất Tích”: Đóa Hồng Gai… Sắc Lạnh “Sự thật giống như hoa hồng, đều có gai, nhưng bạn sẽ không thoát khỏi ám ảnh khi chưa tìm ra nó.” - đây đích xác sẽ là cái cảm giác mà bạn chắc chắn sẽ phải trải qua xuyên suốt 500 trang sách của cuốn Những cô gái mất tích (nguyên gốc tiếng Anh: All the missing girls) của tác giả Megan Miranda. Và nếu bạn đang tìm kiếm một màu sắc mới mẻ ở thể loại trinh thám vốn dĩ đã tồn tại nhiều điều bất ngờ này thì chắc chắn Những cô gái mất tích sẽ là một sự lựa chọn không tồi dành cho bạn. Được viết bởi nữ nhà văn Megan Miranda, Những cô gái mất tích không đơn thuần chỉ là một cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng. Cuốn sách là sự pha trộn của các yếu tố tâm lý đan xen với những phút dồn dập vốn có của thể loại hành động, những khoảng lặng sắc lạnh của thể loại kinh dị hay cũng không thiếu những phút giây sâu lắng của tình cảm trên nền u ám và bí hiểm của thể loại trinh thám. Toàn bộ cuốn sách có thể được xem như một thước phim tua ngược đưa độc giả quay trở về quá khứ, nơi giao thoa của những bí mật, dối trá và sự thật đầy ám ảnh dẫn tới kết cục chết chóc. Đôi nét về tác giả Megan Miranda được xếp vào hàng “tác giả bán chạy nhất của The New York Times”. Cô lớn lên ở New Jersey, học ở Học viện Công nghệ Massachusetts, tốt nghiệp MIT và hiện sống ở Bắc Carolina cùng với chồng và hai con. Megan là nhà khoa học và giáo viên trung học cơ sở trước khi viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Fracture (tạm dịch Rạn nứt). Cuốn tiểu thuyết được viết dựa trên sự say mê những bí ẩn khoa học của cô, đặc biệt là những thứ liên quan đến não bộ. Cô dành nhiều thời gian cho việc trả lời cho câu hỏi “tại sao?” và “làm như thế nào?” với mọi thứ và điều đó giúp Megan được bay bổng trong những giả thuyết “nếu - thì” của mình. Những tác phẩm làm nên tên tuổi của nữ tiểu thuyết gia gồm một số cuốn sách dành cho lứa tuổi mới trưởng thành: Fracture (tạm dịch Rạn nứt), Vengeance (tạm dịch Báo thù) và Hysteria (tạm dịch Ảo Ảnh), Soulprint (tạm dịch Dấu ấn tâm hồn) và The Safest Lies (tạm dịch Lời nói dối an toàn). Những cô gái mất tích (All the missing girls) là cuốn tiểu thuyết dành cho người lớn đầu tiên của Megan. Ngay sau khi phát hành, tác phẩm nhanh chóng nhận được cơn mưa lời khen và đánh giá cao từ giới chuyên môn.  Đóa hồng gai huyền bí - một câu chuyện với những bí ẩn đầy sức hút Khác với lối kể chuyện xuôi dòng thời gian như thông thường, toàn bộ sự kiện trong cuốn sách này đều ngược về quá khứ. Và cho tới khi bạn tìm ra sự thật, Những cô gái mất tích vẫn sẽ khiến bạn chìm đắm trong nỗi ám ảnh khi chưa tìm ra chúng, như một đóa hồng gai sắc lạnh nhưng vẫn khiến ta tò mò mà chạm vào gai nhọn, và thậm chí, không ngần ngại mà bẻ gãy nó. Câu chuyện xoay quanh những vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ mà điều kỳ lạ là thời điểm họ biến mất cách nhau đúng một thập kỷ.  Đã mười năm trôi qua kể từ khi Nicolette Farrell – tên thường gọi là Nic, rời khỏi vùng nông thôn quê hương sau khi người bạn thân nhất của cô – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào. Cuộc điều tra mười năm trước tập trung vào Nic, anh trai cô – Daniel, Tyler – bạn trai Nic và Jackson – bạn trai Corinne. Kể từ khi vụ việc xảy ra, chỉ có Nic rời khỏi Cooley Ridge. Trở lại quê nhà để giải quyết nốt chuyện cũ và chăm sóc người cha ốm yếu, Nic nhanh chóng bị cuốn vào một tình huống bất ngờ khiến mọi ký ức về vụ án của Corinne ùa về, đồng thời khơi gợi lại những tổn thương cũ vốn đã ngủ quên trong lòng cô bấy lâu nay. Tất cả chỉ được đẩy lên đỉnh điểm khi Annaleise Carter – hàng xóm của Nic cũng đột nhiên mất tích chỉ vài ngày sau khi Nic trở lại quê nhà. Vào đêm Annaleise mất tích, Daniel và vợ anh – Laura đang chờ mong em bé chào đời; Jackson làm việc ở quán bar trong thị trấn còn Tyler đang hẹn hò với Annaleise cùng nhóm người có bằng chứng ngoại phạm.  Ngược từ ngày 15 trở về ngày 1 – thời điểm Annaleise biến mất, Nic quyết tâm làm sáng tỏ vụ mất tích của cô hàng xóm trẻ tuổi. Từ đây, những sự thật ngoài sức tưởng tượng về bạn bè, gia đình cô và chuyện xảy ra với Corinne vào buổi tối mười năm trước dần được tiết lộ. Không giống với bất kỳ cuốn sách nào bạn đã từng đọc trước đây, Những cô gái mất tích sắp xếp tình tiết cực kỳ thông minh và độc đáo. Đọc cuốn sách này giống như bạn đang dấn thân thám hiểm một vùng đất lạ. Khi những khúc quanh uốn lượn dẫn xuống ngõ cụt và những con hẻm tối tăm khép lại, có thể bạn nghĩ rằng mình đang đi trên con đường quen thuộc, nhưng chỉ một giây sau đó, Megan Miranda sẽ xoay chuyển toàn bộ bản đồ và khiến bạn băn khoăn tự hỏi: “Chúng ta sẵn sàng đi bao xa để bảo vệ những người mình yêu thương?”   … khiến con người ta lạc lối trong mê cung của thời gian “Con người… không thể học cách quên đi mà luôn muốn níu kéo quá khứ: dù anh ta có chạy xa và nhanh như thế nào, xiềng xích đó vẫn đuổi theo anh ta.” _ Friedrich Nietzsche. Đây là câu nói được tác giả Megan Miranda lựa chọn làm lời đề từ mở đầu cuốn tiểu thuyết của mình. Nhân vật nữ chính của chúng ta cũng bị quá khứ quấn chân. Sau khi người bạn thân nhất của Nicolette Farrell – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào, cô rời khỏi vùng nông thôn quê hương đến một nơi thật xa. Điều thực sự thu hút cô quay về là lời nhắn từ bố với nội dung: “Bố cần nói chuyện với con. Cô gái đó. Bố đã nhìn thấy cô gái đó.” Cô gái đó ám chỉ người bạn thân nhất đã mất tích mà không để lại chút manh mối nào của Nic - điều khiến cô rời khỏi quê hương đến một nơi thật xa. Tôi mở bức thư ra - một trang báo bị xé nham nhở, nét chữ của ông kéo dài qua cả đường kẻ, hơi nghiêng về phía bên trái, cứ như thể ông đang cố rượt đuổi để ghi lại các suy nghĩ của mình trước khi chúng vuột khỏi tầm nắm. … Tờ giấy bị xé, nét chữ nghiêng ngả, tên tôi trên phong bì. Và giờ một thứ gì đó sắc nhọn và hoang dã đã bị thả ra trong đầu tôi. Tên của cô gái đó, xuất hiện xung quanh như một tiếng vọng. Sắc lạnh nhưng không thiếu đi vị ngọt của tình yêu, Megan Miranda đã kể Những cô gái mất tích theo chiều ngược về quá khứ, cuốn độc giả lần theo từng manh mối của vụ án. Vẫn là những con đường quanh co, tăm tối dẫn tới kết cục chết chóc, song nó đã được biến hóa thành một mê cung phức tạp, khó lường và điểm tận cùng của sự thật sẽ làm bạn thực sự sửng sốt.  Lật giở từng trang sách, bạn đọc sẽ như đang lạc vào mê cung nơi những manh mối và đích đến vẫn còn là bí ẩn, nơi mà cả không gian và thời gian chỉ dường như là một thứ gì đó đầy mơ hồ và mờ ảo. Như vẻ ngoài vốn dĩ chỉ như một lớp vỏ bọc, càng đi sâu, cách dẫn dắt của Megan càng khiến cho bầu không khí trở nên căng thẳng và hồi hộp.  Thời gian không cạn kiệt. Nó thậm chí còn không có thật nữa kia. … Nó chỉ là một biện pháp đo lường khoảng cách mà chúng ta tạo nên để hiểu rõ về mọi vật. Giống như một inch. Hoặc một dặm. … Chiếc đồng hồ kia. Nó không đo thời gian. Nó tạo ra thời gian. Khi những cô gái… mất tích Corinne, mãi mãi tuổi 18 trong ký ức của thị trấn Cooley Ridge, một cô gái tính cách có phần “điên dại” mà có lẽ bị ảnh hưởng một phần bởi sự bạo lực trong gia đình mà cô sinh trưởng. Việc mất tích của cô sớm bị chìm vào quên lãng và “đóng băng” suốt 10 năm mà không một ai mảy may quan tâm và suy nghĩ, tất cả những gì còn sót lại là những lời đồn, một câu chuyện mà người ta cho rằng sự việc là thế, tất cả manh mối chỉ gói gọn trong chiếc hộp, mà có lẽ, đã phủ bụi nhiều năm ở một góc nào đó trong sở cảnh sát.  Và vào tối muộn sau đó, khoảng thời gian không rõ giữa lúc hội chợ đóng cửa và 6 giờ sáng, Corinne đã BIẾN MẤT. Những tuần tiếp sau đó, khả năng cái chết đã xảy ra trở nên rõ ràng. Nó hiển hiện mọi nơi xung quanh chúng ta, không mang hình hài nhưng lại khiến chúng tôi nghẹt thở, hiện hữu ở mọi biến thể tình huống khác nhau của sự kiện đã xảy ra. Kết quả của cô ấy luôn là cái chết, bằng một ngàn cách khác nhau. Có lẽ cô ấy đã rời đi bởi người cha bạo hành cô. Cũng có thể đó là lý do vì sao mẹ cô đã ly dị ông ta và rời khỏi thị trấn một năm sau đó. Hoặc có lẽ người bạn trai của cô, Jackson, bởi vì thường là do người bạn trai, và họ đã cãi nhau. Hay người đàn ông mà cô đã tán tỉnh ở hội chợ, người mà không ai trong chúng tôi không quen biết - người đứng ở quầy bán bánh mì kẹp xúc xích. Người mà Bailey đã thề cứ theo dõi chúng tôi. Hoặc cũng có thể cô ấy đã chìa ngón tay cái ra để xin đi nhờ về nhà, trong chiếc váy quá ngắn và chiếc áo dài tay, mỏng manh của cô, và có lẽ một người lạ mặt đi ngang qua thị trấn đã thấy cô, lạm dụng và bỏ lại cô. Có thể cô ấy chỉ đơn giản là rời đi. Đó là điều mà cảnh sát đã quyết định cuối cùng. Cô mười tám tuổi - là một người lớn, theo luật - và cô đã chịu đựng quá đủ với nơi này... Corinne không hoàn toàn hiện hữu trong cuốn sách, bởi lẽ cô là người bị mất tích cơ mà, nhưng hình ảnh của cô gái này dần dần hiện rõ qua từng lời kể, từng hồi ức và từng bí mật dần được lộ diện. Đọc Những cô gái mất tích, có lẽ bạn sẽ phải bối rối khi không biết nên nhìn Corinne là một con người như thế nào, bởi cô gái này đáng thương có, nhưng đáng trách cũng có. Tính cách của cô có thể xem như một bảng màu loang lổ với đầy sự hỗn loạn của các nét tính cách khác nhau.  Thế nhưng khi tiếp tục có một cô gái khác mất tích thì chuyện này không còn đơn giản như vậy nữa. Và tương tự, có một điều trùng hợp đến ngẫu nhiên rằng ngay khi Nic quay trở lại quê hương sau cả một thập kỷ, lại có thêm một cô gái nữa mất tích, bỗng dưng “hóa thinh không” như một màn deja vu lặp lại sau 10 năm dài đằng đẵng. Annaleise, người con gái thứ 2 bị mất tích, nhà của cô là hàng xóm gần nhất xét về mặt khoảng cách địa lý đối với ngôi nhà của Nic, một cô gái mà mà mới ngày hôm trước vẫn còn loáng thoáng xuất hiện trong tiềm thức của Nic bên khung cửa sổ thì ngày hôm sau đã biến mất một cách kỳ bí. Như khu rừng vốn dĩ âm u và huyền ảo, ở cô gái này hội tụ những điều luôn luôn bí ẩn. Trong mắt người khác, cô là một kẻ lập dị bị bạn bè khinh ghét, hành động kỳ cục và lủi thủi chìm đắm trong thế giới riêng của bản thân, thế giới của nghệ thuật với nhiếp ảnh và hội họa. Phòng của cô có vô vàn những bức tranh về các cô gái, trong đó có Corinne, mà ở họ đều mang vẻ gì đó buồn bã. Cho đến cuối cùng thì điều thực sự ẩn giấu sau những bức tranh ấy, có thể, vẫn còn là ẩn số.  Những đôi mắt mở to, những đôi mắt nhắm chặt, bằng một cách nào đó, tất cả đều cô độc.   … và những sự thật dường như chỉ mang nửa sự thật Ở phần đầu câu chuyện, độc giả có thể trở nên mơ hồ khi các mảnh ghép lần lượt chồng chéo lên nhau và những manh mối thậm chí còn chẳng đủ để kết luận điều gì. Nhưng có lẽ điều khiến các bạn bất ngờ hơn cả đó là quá khứ thậm chí còn không bí ẩn bằng những gì hiện hữu và vốn có, và những người bí ẩn hơn cả lại chính là người đóng vai “thám tử” trong câu chuyện này, những con người không biến mất mà vẫn luôn tồn tại, chỉ có điều, mỗi người đều có những bí mật bị che giấu. Bởi lẽ, như sợi dây nối mạch truyện lại với nhau, giữa những con người này cũng có những điều bí mật mà một khi đã được phơi bày, tất cả sẽ lần lượt kéo nhau phơi bày ra ánh sáng.  Càng lật giở những trang sách về sau, bầu không khí càng trở nên dồn dập và bí bách. Cái hay ở đây là khi Megan Miranda có thể khiến cho độc giả vừa trải qua cảm giác hồi hộp và sợ hãi, nhưng cũng có thể khiến người ta phát sinh cái cảm giác khó chịu do mất kiên nhẫn khi sự thật mãi vẫn chưa được tiết lộ, để rồi cuối cùng, nếu muốn giải quyết được hết tất cả mớ tơ vò ấy, chúng ta bắt buộc phải đọc cho đến những trang sách cuối cùng.  Những sự thật dường như chỉ mang nửa sự thật, bí mật dường như nằm gói gọn tất thảy trong chiếc hộp nơi sở cảnh sát. Nhưng không, tất cả mới chỉ là vẻ bề ngoài. Thứ thực sự bí ẩn là thị trấn Cooley Ridge, nơi những con người và khu rừng bản địa cũng mang trong mình những bí mật tiềm tàng. Một câu chuyện với nhiều góc nhìn khác nhau và ai cũng có mặt tối của riêng mình. Nhưng thực sự thì cô ấy không biến mất ở đó. Còn nhiều điều khác nữa. Một mẩu thông tin mà chúng tôi đã giấu đi. Đối với Daniel, cô ấy đã biến mất bên ngoài hội chợ, đằng sau quầy bán vé. Đối với Jackson, là từ bãi đỗ xe. Còn đối với tôi, cô ấy dần tan biến sau khúc quanh của con đường trở về Cooley Ridge. Chúng tôi là một thị trấn đầy sợ hãi, tìm kiếm câu trả lời. Nhưng chúng tôi cũng là một thị trấn đầy sự giả dối.    Liệu bạn có dám “theo chiều ngược” để tìm ra ánh sáng? Hẳn là không phải ngẫu nhiên khi Những cô gái mất tích lại nhận được những đánh giá tích cực và khen ngợi từ công chúng, và lối kể chuyện “ngược” của Megan Miranda chính là minh chứng cho điều đó. Với các cuốn tiểu thuyết thuộc thể loại trinh thám, thông thường sẽ có một “ai đó” đóng vai trò thám tử đi đào sâu và bóc tách vấn đề để từ đó bằng chứng ngày một nhiều lên, nhân chứng ngày càng lộ diện thì Những cô gái mất tích lại không như thế. Với cuốn sách này, sự thật vẫn ở đó, vẫn luôn tồn tại trước mắt, và khi thời gian qua đi thì có nghĩa là để đào sâu chân tướng, chúng ta phải lật ngược quá khứ.  Cách kể chuyện của tác giả có thể coi là khá “lạ” và cũng là một phương thức tạo điểm nhấn cho tác phẩm. Ban đầu, độc giả có thể cảm thấy bố cục lỏng lẻo và sự thiếu liên kết giữa các chương, ứng với các ngày trong chuỗi từ ngày 15 trở về ngày 1. Điều này hoàn toàn có thể lý giải được. Tuy nhiên, khi chúng ta đã quen với dòng thời gian này thì rất dễ dàng để nhận ra sức hút từ câu chuyện. Bởi lẽ chương sau sẽ là “ngày hôm qua”, cho nên cuối chương sau sẽ liên kết với chương trước để hình thành nên sợi dây với các mắt nối để giữ mạch truyện được trở nên thống nhất. Một cuốn sách tưởng đứt đoạn mà lại liền mạch không tưởng, một câu chuyện tưởng rời rạc với các chi tiết và hành động tưởng như chẳng liên quan, hóa ra lại can hệ đến nhau một cách “cố ý”.  Câu hỏi đặt ra là: sẽ ra sao nếu chúng ta đọc ngược lại câu chuyện để mọi thứ trở nên minh bạch và rõ ràng hơn? Dĩ nhiên, chẳng sao cả, vì bạn mới chính là người đọc cuốn sách này. Nhưng hẳn là Megan Miranda có dụng ý khi viết ra một câu chuyện như thế, nên lời khuyên cho bạn là vẫn nên “xuôi chiều ngược” để cảm nhận được cái lạ của Những cô gái bị mất tích.  “Triết học đã nói một điều khá đúng, rằng cuộc sống cần phải được thấu hiểu theo chiều ngược lại.” _ Soren Kiergaard.    Thay lời kết Dịu ngọt mà cũng không kém phần sắc lạnh, Những cô gái mất tích được bao trùm lên bởi một màu sắc u ám và tang thương, như những gì độc giả có thể thấy ngay từ phần bìa sách vậy. Hỗn độn nhưng lại liền mạch một cách ngẫu nhiên, cuốn sách như một bảng màu loang lổ mà sau cùng dần dần được pha trộn và sắp xếp lại các khối màu. Vẫn là cái nền huyền bí với các khối màu lạnh phác họa nên các đường nét huyền bí nhưng cái bầu không khí trong Những cô gái mất tích, bằng một cách nào đó, có thể khiến độc giả bị ám ảnh. Bạn sẽ được đắm chìm trong thế giới mờ ảo xen lẫn những điều bí ẩn do Megan Miranda tạo ra, và khi ấy, chính bạn sẽ là người giải mã mê cung.  Nếu bạn đang kiếm tìm một sắc màu mới trong những gam màu u buồn vốn có của dòng trinh thám hay kinh dị, ắt hẳn Những cô gái mất tích sẽ là một cuốn sách đáng thử. Một cuốn sách đi theo chiều ngược, ngược về phía bóng tối và sợ hãi, thách thức đặt ra cho bạn là, liệu bạn có dám quay đầu lại và xuôi theo chiều ngược ấy?   Tác giả: Annie - Bookademy *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết “Những cô gái mất tích” của Megan Miranda xoay quanh hai vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ trong một thị trấn nhỏ. Vụ việc đầu tiên xảy ra cách đây 10 năm, nạn nhân là Corinne, người bạn thân nhất của Nicolette Farrell. Vụ việc thứ hai xảy ra ngay sau khi Nic trở về quê hương để chăm sóc người cha ốm yếu, nạn nhân là Annaleise Carter, hàng xóm của Nic. Nic quyết tâm làm sáng tỏ cả hai vụ án, và từ đây, những sự thật kinh hoàng về những người cô yêu thương dần được tiết lộ. Review “Những cô gái mất tích” là một cuốn tiểu thuyết trinh thám giật gân với lối kể chuyện độc đáo. Tác giả Megan Miranda đã sử dụng cấu trúc thời gian đảo ngược, bắt đầu từ ngày 15 của tuần cuối cùng trong cuộc đời của Annaleise và ngược trở về ngày 1, thời điểm cô gái này biến mất. Cách kể chuyện này khiến người đọc bị cuốn hút và tò mò muốn tìm hiểu những gì đã xảy ra. Cuốn sách cũng được đánh giá cao về cách xây dựng nhân vật. Nic là một nhân vật nữ chính mạnh mẽ và kiên cường. Cô sẵn sàng làm mọi thứ để tìm ra sự thật, ngay cả khi điều đó có nghĩa là cô phải đối mặt với những bí mật đen tối về những người thân yêu của mình. “Những cô gái mất tích” là một cuốn sách hấp dẫn và đáng đọc. Cuốn sách sẽ khiến bạn phải suy nghĩ lại về những người bạn bè và gia đình của mình. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Lối kể chuyện độc đáo, đảo ngược thời gian Nhân vật nữ chính mạnh mẽ và kiên cường Cốt truyện hấp dẫn, đầy bất ngờ Khiến người đọc phải suy ngẫm về những mối quan hệ thân thiết Mời các bạn mượn đọc sách Những Cô Gái Mất Tích của tác giả Megan Miranda & Hoàng Thị Minh Phúc (dịch).
Từ Hôn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Từ Hôn của tác giả Hồ Biểu Chánh. Trong „Từ hôn“ tác giả đã dùng kỹ thuật đối thoại, lối viết được xem là tân tiến của thời đó, để diễn tả 3 mẫu người lập dị - mà họ gọi là “chủ nghĩa” –: Châu Tất Ðắc với thuyết “bất cần lao”, Lê Võ Lộ theo gương Lão Tử đặt ra thuyết “vô khả vô bất khả”, Nguyễn Tự Cao lấy tên mình lập ra phái “tự cao” Cốt chuyện quanh quẩn việc cô giám đốc trường nữ công là Cẩm Hương bắt cá với Tất Ðắc sẽ làm mối để anh ta cưới được con gái của một bà Phủ là Bạch Yến với một số tiền đánh cuộc là 2000 đồng. Cô Yến và bà Phủ thuận ý. Lý do đưa đến từ hôn thật bất ngờ. Kết quả ra sao mời bạn đọc tiếp. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Tiểu thuyết của ông, gồm hơn 60 quyển, chủ yếu xoay quanh các vấn đề đạo đức, nhân nghĩa, tình đời bị cuốn trôi, bị xen lẫn, phải vùng vẫy trong làn hương mê muội của tiền bạc. Đọc về Nam Bộ xưa là tiếp xúc với những ngôn từ có phần chân quê, lạ lẫm thêm cách nói chuyện hưỡn đãi, nhưng cũng không kém phần tinh tế vì những khía cạnh của một câu chuyện tưởng như chân chất bình thường lại được xoáy vào ở mọi góc cạnh, và bất giác khiến ta giật mình khi những gai góc của nó lộ ra. Tôi chưa đọc nhiều tiểu thuyết của ông, chỉ mới 5 quyển thôi gồm các tựa: Từ hôn, Ăn Theo Thủa Ở Theo Thời, Nhơn tình ấm lạnh, Con nhà nghèo và Con nhà giàu, nên cũng chỉ bàn đến nội dung trong những truyện trên. “Từ hôn” là một câu chuyện nội dung đơn giản, kể về một chàng trai có gốc quan lại, tên là Châu Tất Đắc, nhưng hiện tại học hành chưa đến nơi đến chốn, công việc cũng không có để nuôi thân, nhờ một bà mai nhanh trí khôn ngoan giới thiệu để kết hôn với một cô gái con nhà giàu có, được cưng như trứng mỏng, với một điều kiện duy nhất là anh chàng phải ở rể. Để được nhà gái chấp thuận, anh chàng và bà mai đã câu kết với nhau đơm đặt nhiều chuyện như anh đã học đậu bằng “bác vật”, lại còn sắp có một công việc ăn lương lớn. Làm tất cả những điều đó, anh nọ chỉ nhằm vào một mục tiêu duy nhất là được làm “nghề chồng”, cái nghề chỉ nằm nhà vợ ăn không ngồi rồi, sung sướng tấm thân, như “chuột sa hũ nếp”. Khi cá lớn cá nhỏ đều đã cắn câu, anh được vợ sắp cưới yêu đương mê mẩn, mẹ vợ quý trọng thương mến, cứ ngỡ mọi chuyện sẽ êm xuôi mà cứ thế làm đám cưới, thì đột ngột anh từ hôn… … bởi con người ta, thời nào cũng vậy, vẫn cần một lòng tự trọng để sống trên đời, để không hổ thẹn với tòa án chuẩn mực công bình và thấu hiểu nhất đó là lương tâm.   Đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, cũng là một bước nhìn lại quá khứ, không phải của tôi, mà là của con người, của thiên hạ, đế thấy con tạo xoay vần, nhân gian biến đổi, nói thiệt, không khỏi có chút chạnh lòng. *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Từ hôn" của Hồ Biểu Chánh kể về cuộc hôn nhân giữa Châu Tất Ðắc và Bạch Yến. Châu Tất Ðắc là một người lập dị, theo thuyết "bất cần lao". Ông cho rằng con người không cần phải lao động mà chỉ cần hưởng thụ cuộc sống. Bạch Yến là một cô gái xinh đẹp, nhưng lại có tính cách mạnh mẽ, độc lập. Cuộc hôn nhân của hai người bắt nguồn từ một cuộc cá cược giữa Châu Tất Ðắc và Cẩm Hương, giám đốc trường nữ công. Cẩm Hương muốn chứng minh rằng cô có thể tìm được một người chồng cho Bạch Yến, dù cho anh ta có lập dị đến đâu. Ban đầu, Châu Tất Ðắc và Bạch Yến sống rất hạnh phúc. Họ có chung những quan điểm sống và yêu thương nhau rất nhiều. Tuy nhiên, theo thời gian, những mâu thuẫn giữa hai người bắt đầu nảy sinh. Châu Tất Ðắc không muốn làm việc, chỉ muốn hưởng thụ cuộc sống. Bạch Yến thì muốn có một người chồng có thể mang lại cho cô một cuộc sống ổn định. Cuối cùng, hai người quyết định từ hôn. Châu Tất Ðắc trở về với cuộc sống của mình, còn Bạch Yến thì tìm được một người chồng khác. Đánh giá Tiểu thuyết "Từ hôn" là một tác phẩm văn học xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã đề cập đến một vấn đề xã hội bức thiết trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, đó là vấn đề hôn nhân. Tác phẩm đã thể hiện được sự mâu thuẫn giữa hai quan điểm sống: quan điểm sống hưởng thụ và quan điểm sống cần lao. Quan điểm sống hưởng thụ sẽ dẫn đến những hậu quả xấu, như: lười biếng, ích kỷ, không có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng đã thể hiện được sự mạnh mẽ, độc lập của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bạch Yến là một cô gái có cá tính, không chịu khuất phục trước những định kiến của xã hội. Cô đã tự mình quyết định cuộc đời của mình, không phụ thuộc vào bất cứ ai. Cảm nhận Tôi rất thích tiểu thuyết "Từ hôn" của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã mang đến cho tôi nhiều suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và con người. Tôi đồng ý với quan điểm của tác giả rằng quan điểm sống hưởng thụ sẽ dẫn đến những hậu quả xấu. Con người cần phải có một quan điểm sống đúng đắn, cần lao để có thể xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho bản thân và xã hội. Tôi cũng rất ngưỡng mộ nhân vật Bạch Yến. Cô là một người phụ nữ mạnh mẽ, độc lập, có ý chí và nghị lực. Cô là một tấm gương sáng cho những người phụ nữ trong xã hội. Tôi nghĩ rằng tiểu thuyết "Từ hôn" là một tác phẩm văn học đáng đọc. Tác phẩm đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc. Mời các bạn mượn đọc sách Từ Hôn của tác giả Hồ Biểu Chánh.