Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bóng Đen

Cám ơn Page Duyên Sách đã gửi đến DTV eBook cuốn sách này. Nơi "Bán sách cũ và nhận tìm các tựa sách hơi hơi hiếm :-)" Các bạn muốn tìm mua sách cũ, có thể qua page Duyên Sách để nhờ Admin kiếm giúp. JONATHAN KELLERMAN SỰ HẤP DẪN CỦA TIỂU THUYẾT TRINH THÁM PHÂN TÍCH HÀNH VI   Một trong những tác giả có sách bán chạy nhất ở Mỹ liên tục trong hai chục năm qua, là Jonathan Kellerman. Vậy J. Kellerman là ai? Sinh năm 1949 tại New York, nhưng Los Angeles là nơi ông gắn bó, nơi ông thành đạt trong nghề nghiệp bác sĩ và với tư cách một tác giả tiểu thuyết. Khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi, song phần lớn những năm tuổi trẻ ông dành để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Năm 24 tuổi, ông nhận bằng tiến sĩ, chuyên ngành tâm lý trẻ em. Sau đó là những năm làm việc trong các bệnh viện, trung tâm bệnh trẻ em ở Los Angeles, điều trị tâm lý cho các trẻ em bị ngược đãi, lạm dụng... Năm 1980-1981, ông xuất bản những cuốn sách về y học liên quan đến trẻ em: Psychological aspects of childhood cancer và Helping the pearful child. Năm 1985, J. Kellerman xuất bản cuốn sách hư cấu đầu tiên When the bough breaks (Khi cành cây gãy - tên bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2007 là Ba bóng đen). Ngay lập tức cuốn sách trở thành hiện tượng bestseller được bầu chọn trên tờ New York times, và tác giả nhận được giải thưởng Edgar Poe và giải thưởng Anthony Boucher cho tiểu thuyết đầu tay hay nhất. Tiểu thuyết này năm 1986 được dựng thành phim truyền hình phát trên kênh NBC và đã thu hút 28 triệu người xem. Từ đó đến nay, mỗi năm một cuốn sách (có năm 2 cuốn), in ở nhiều nước trên thế giới và bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, tên tuổi Jonathan Kellerman liên tục có mặt trên bảng xếp hạng của New York times. The master of psychological suspense - bậc thầy của tiểu thuyết trinh thám tâm lý, báo chí nói về ông như thế khi lần đầu tiên ông xuất hiện trên văn đàn, và sự tôn vinh ấy đã không ngừng được nhắc lại hơn hai chục năm nay, trên các báo, trên các website, và quan trọng nhất, ông vẫn là một nhà văn không hề cũ đối với công chúng. Nhân vật chính trong các tiểu thuyết của ông, Alex Delaware phần nào đó là hình bóng của chính nhà văn. Nhận bằng tiến sĩ năm 24 tuổi, là bác sĩ tâm lý trẻ em, Alex khám phá ra đằng sau những sự cố của trẻ nhỏ luôn ẩn chứa những vấn đề của người lớn, của xã hội. Trong cuốn sách đầu tiên When the bough breaks, Alex Delaware 30 tuổi, sống độc thân và bắt đầu hẹn hò với Robin. Vì có người bạn thân là thanh tra Milo Sturgis ở trong sở cảnh sát, anh được mời chữa trị cho các em nhỏ nạn nhân của một vụ xâm hại, rồi làm tư vấn đặc biệt cho cảnh sát. Vụ đầu tiên anh tham gia là vụ một bác sĩ tâm lý bị giết cùng người bạn gái là cô giáo dạy ở trường dành cho các trẻ có khiếm khuyết. Nhân chứng duy nhất của vụ án là một bé gái 7 tuổi bị bác sĩ cho uống quá liều thuốc an thần đã trở nên gần như ngơ ngẩn. Những ám ảnh của bé gái có ý nghĩa gì? Liệu thực sự cô bé đã chứng kiến một tội ác? Lần theo mối dây của các nạn nhân, Alex tìm tới một trung tâm từ thiện nuôi dạy các trẻ mồ côi và khuyết tật lớn ở Los Angeles. Xới tung hàng chục mối quan hệ, lần lại những trang hồ sơ cũ, đào bới quá khứ của những gương mặt đang hiện diện ở tầng thượng lưu của xã hội, Alex Delaware đã tìm ra sự thật về những con quỷ đội lốt người, những kẻ có xu hướng tình dục bệnh hoạn, nhưng kẻ say mê quyền lực, những kẻ bị khống chế bởi quá khứ tội lỗi, đã biến trung tâm từ thiện kia thành hang ổ trụy lạc, lạm dụng tình dục của hàng trăm trẻ nhỏ. Trong Blood test (Thử máu - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2005), khi cố gắng giúp đỡ cậu bé Woody mắc bệnh ung thư, Delaware phải đối mặt với hàng bao rắc rối và dò trong mớ bòng bong các quan hệ, anh đã đi đến tận cùng sự thật khủng khiếp trong gia đình cậu bé: những tín ngưỡng rùng rợn và quan hệ loạn luân được che đậy trong rất nhiều năm, mà bất hạnh đổ lên số phận những đứa trẻ là chị em và cũng là mẹ con Nona và Woody. Trong Bad love (Tình yêu dối trá - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2004), vụ án Delaware khám phá liên quan tới một hội nghị khoa học mà các nghi can đều là những nhà khoa học liên quan đến tâm lý -giáo dục trẻ em.   Trong The Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa học đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thí nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh hoạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân oan uổng của họ. Cộng tác với cảnh sát với tư cách là chuyên gia tâm lý, nhưng trong tất cả các vụ án, bác sĩ Delaware đã tham dự như một thám tử chuyên nghiệp, mà bên cạnh anh chàng thám tử to béo Milo Sturgis chỉ còn giữ vai trò bổ khuyết cho vai chính. Không giắt súng trong lưng, không có phương tiện hỗ trợ như một cảnh sát thực thụ, nhưng Delaware có sự mẫn cảm đặc biệt để dò ra những ngóc ngách tâm lý, những mối quan hệ của con người, dù quan hệ đó có được che giấu tinh vi thế nào đi nữa. Không có nhiều những pha bắn giết hay rượt đuổi, cách của J. Kellerman là bóc tách dần các chân dung, các quan hệ. Ông đẩy độ căng thẳng lên dần dần, ông lừa người đọc vào những cao trào khiến người ta lầm tưởng đó đã là cú cuối, song thực sự cú cuối chỉ nằm ở trang cuối, khi bạn đọc sắp sửa gấp sách lại. Kellerman thường bẫy người đọc trong những câu chuyện có vẻ rời rạc ở ban đầu, tung ra nhiều nhân vật, đưa nhiều lộ trình, tạo ra một mớ rối tung quan hệ, nhưng rồi những hướng rời rạc sẽ gắn kết ở một điểm, ở đó những gương mặt nhân vật, những lộ trình hành vi đột ngột sáng tỏ. Tuy nhiên, không như một tác phẩm trinh thám thông thường với đích cuối của câu chuyện là vạch mặt thủ phạm, với J. Kellerman, thủ phạm không phải là sự thật ghê gớm nhất; sự thật shock nhất nằm ở cú vỡ bung cuối cùng soi sáng tận cùng nguyên do của tội ác. Blood test, Over the edge, Private eyes, Bad love, Devil’s Waltz - Vũ điệu quỷ, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2007, cho đến cuốn sách mới nhất Gone, mỗi một vụ án là một ca tâm lý, mỗi một nhân vật là một dạng tâm bệnh che đậy, bắt đầu từ thời thơ ấu. Có thể thấy quan điểm của Kellerman, không có tội ác nào trong hiện tại lại không có nguyên do từ một hoàn cảnh bất thường hay một xu hướng bệnh hoạn trong thời thơ ấu. Những câu chuyện của ông chứa đựng một lời cảnh báo: hãy quan tâm đến trẻ nhỏ; bạo hành, stress, lạm dụng... đối với trẻ nhỏ, tức là đang gieo mầm cho bạo hành, lạm dụng, giết người... cho tương lai. Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn. Bối cảnh tiểu thuyết của ông là Los Angeles thời hiện đại, với đầy rẫy những bạo hành, stress, lạm dụng; một Los Angeles có vô vàn những vấn đề tâm bệnh, nơi mà xã hội thượng lưu khoác mặt nạ che đậy bên dưới hằng bao dối trá, dục vọng. Kellerman không mô tả tội ác ở những tầng lớp dân nghèo, ông nhằm vào phân tích sự mục ruỗng, méo mó nhân cách ở những tầng lớp trên, nơi những người có tiền, có quyền, có tri thức. Bằng vào sự nhạy cảm, khả năng phân tích, suy luận của nhân vật Alex Delaware, ông dò tìm những bí mật của tâm lý - hành vi ẩn dưới đời sống đĩnh đạc của những bác sĩ, giáo sư đại học, của những thẩm phán, luật sư, cha cố... Kinh nghiệm của một bác sĩ tâm lý đã giúp ông trở thành một nhà văn phân tích hành vi xuất sắc. Hành vi con người, đó là mối quan tâm của ông, là điều ông theo đuổi trong suốt cuộc đời và vì nó mà ông đã viết - trong một bài trả lời phỏng vấn, ông đã nói đại ý như thế. Có thể nói, tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là tiểu thuyết trinh thám - hành vi, một sự kết hợp tài tình giữa tiểu thuyết trinh thám điển hình và tiểu thuyết tâm lý. Nếu con đường của văn chương là khám phá bí mật về con người, thì J. Kellerman đang đi trên con đường đó, từng ngày, bằng những cuốn sách của mình, ông cuốn hút hàng triệu độc giả ở khắp hành tinh trong hành trình mê mỏi khám phá không ngưng nghỉ bí ẩn của hành vi con người. Trần Thanh Hà   *** JONATHAN KELLERMAN Là nhà văn hàng đầu của Mỹ về hành vi phân tích, ông sinh năm 1949 tại New York, khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi. Đến nay đã có tới hơn 11 triệu bản tiểu thuyết của ông được in và bán trên khắp thế giới với những tác phẩm nổi tiếng như: Ba bóng đen (When the bough breaks), Thử máu, Vượt qua rào cản, Bom hẹn giờ, Thám tử tư, Tình yêu dối trá, Ba nhát đâm bí ẩn (The Clinic), Vũ điệu quỷ... Hiện ông sống cùng vợ - Faye Kellerman – nhà văn chuyên viết tiểu thuyết – và bốn người con tại Los Angeles.  *** Trời đang hửng sáng, hứa hẹn một ngày tươi đẹp. Cầu Chúa hôm nay không phải nghe đến hai từ “án mạng”. Hai ngày qua, dòng Thái Bình Dương đã liên tục chảy miết, đẩy những thứ rác rưởi tới Pasadena. Nhà tôi nằm nép mình dưới chân đồi phía Bắc Bel Air, đỉnh một đường mòn cương ngựa chạy ngoằn ngoèo quanh Beverly Glen, nơi sự giàu có và những điều đáng sợ nhất cùng chung sống. Đó là khu vực của những chiếc xe Porsches và những kẻ vô lại, hệ thống thoát nước tồi tàn và những dòng lạch đơn độc. Nhà tôi rộng 74 mét vuông, xung quanh có những cây gỗ tím vỏ màu bạc, những viên đá cuội đã bị nắng mưa bào nhẵn và kính màu. Ở ngoại ô, đây chỉ như một cái lều nhỏ; còn ở đây dưới những quả đồi, đó là một nơi ẩn náu dân đã. Xung quanh có nhiều thùng, vũng và mô đất nhấp nhô, nhiều chỗ tạo cho người ta sự bất ngờ khi mục kích. Ngôi nhà trước kia của một nghệ sỹ do ông tự thiết kế. Sau đó ông bị phá sản phải đem bán tất cả những tác phẩm nghệ thuật của mình cho các nhà trưng bày nghệ thuật ở La Cienega. Vào những ngày đẹp trời - giống như hôm nay - từ nơi này có thể nhìn thấy được đại dương, một mảnh đại dương màu xanh biếc e dè trộm nhìn Palisades. Tôi ngủ một mình, cửa sổ mở toang, không có trộm cắp và những kẻ phá hoại. Mãi 10 giờ mới tỉnh giấc, trần như nhộng. Chăn mền đã bị xô xuống nền nhà giữa những giấc mơ, tỉnh dậy tôi chẳng nhớ gì. Trong cảm giác lười lười ngấy ngấy, tôi chống khuỷu tay kéo chăn mền lên giường và nhìn những lớp ánh nắng màu nâu nhạt chui xuyên qua khe hở của căn nhà. Cuối cùng, tôi đã bị kéo khỏi giường bởi sự xâm nhập của một con ruồi bay quanh nhà tìm kiếm bữa sáng, nó cứ nhằm đầu tôi tấn công. Tôi cố lê bước vào nhà tắm, xả nước vào bồn, rồi đi xuống bếp kiếm cái gì đó để cho vào bụng. Con ruồi vẫn cứ bám chặt lấy tôi. Tôi pha một tách cà phê, xắt một lát hành tươi làm bữa điểm tâm. Con ruồi cũng xông vào xí phần. 10 giờ 20 sáng thứ Hai đẹp trời, chẳng biết đi đâu và làm gì. Có lẽ đã nửa năm từ cái ngày lấy quyết định nghỉ hưu non, tôi vẫn còn ngạc nhiên về sự thoải mái khi đang từ một anh chàng lúc nào cũng đầu tắt mặt tối trong công việc trở thành một anh chàng buông tuồng thế này. Tôi trở lại nhà tắm, đặt mông lên rìa bồn, mồm tóp tép nhai và vẽ ra một kế hoạch mơ hồ cho ngày hôm nay: thong thả tắm xong, đọc báo buổi sáng và có lẽ sẽ đi bách bộ về phía hẻm núi rồi quay lại, tráng qua người và tới thăm... Tiếng chuông cửa kéo tôi ra khỏi sự mơ màng. Tôi cuốn khăn tắm quanh eo và đi tới cửa kịp lúc nhìn thấy Milo bước vào. - Cửa không khoá - Anh giải thích rồi đóng rầm cánh cửa lại. Ném tờ Times lên ghế bành, anh gióng mắt nhìn tôi; tôi đang thắt chặt thêm chiếc khăn tắm. . - Chàng trai của trời đất, tôi chúc anh một buổi sáng tốt lành!  Tôi khoát tay mời anh vào trong. - Này anh bạn, anh nên khoá cửa. Anh không biết chứ, ở Sở cảnh sát, tôi còn cả đống hồ sơ về chuyện xảy ra với các người không đóng cửa khi ngủ nghỉ đấy. - Chào Milo, tôi cũng chúc anh một buổi sáng tốt lành. Tôi sải bước vào bếp và rót hai tách cà phê. Milo bước theo tôi giống như một cái bóng ì ạch rồi mở tủ lạnh lấy một dĩa pizza mà chính tôi cũng không nhớ mình đã để đó từ lúc nào. Anh lại theo tôi ra ngoài phòng khách, sà xuống chiếc ghế bành bọc da đã cũ - một món đồ cổ mang từ văn phòng của tôi ở Wilshire về. Tôi tắt nước trong nhà tắm và ngồi đối diện với anh trên chiếc ghế dài đệm bọc da lạc đà. Milo là một tay lực lưỡng - cao 1 mét 85 - khi ngồi hay nằm, chân tay anh xoãi lòng thòng, tư thế của những kẻ có dáng người kềnh càng. Sáng nay, anh trông chẳng khác gì một con búp bê rách, đổ bẹp xuống ghế - một con búp bê có cái mặt bành bạnh và khôi hài, gần giống mặt của một cậu bé con nếu không có những hút trứng cá nham nhở khắp nơi và đôi mắt mệt mỏi. Đôi mắt màu xanh có sức hút kinh ngạc bao quanh bởi những quầng đỏ, bộ lông mày mầu đen thẫm, tóc dày cộm kiểu Kennedy. Mũi to, sống mũi cao, cặp môi đầy đặn, cong như môi trẻ con. Tóc mai anh có lẽ đã 5 năm chưa cạo nên trễ dài xuống tận má. Như thường lệ, anh mặc bộ Brooks Brothers: áo vét ga- ba-đin màu ô liu, cúc không cài, ca-ra-vát sọc vàng xanh, đuôi đỏ sẫm. Toàn bộ trang phục của anh tạo ra một cảm giác kỳ dị. Anh không thèm để ý đến tôi mà chúi mũi vào đĩa pizza. - Tôi mừng vì anh đã dùng đĩa pizza đó cho bữa sáng của mình.  Tới khi chẳng còn gì trên đĩa, anh mới mở miệng hỏi. - Tình hình anh dạo này thế nào? - Tốt. Chả mấy khi rồng đến nhà tôm, chắc là có chuyện gì hả, Milo? - Cứ phải có chuyện gì mới đến chắc? - Anh phủi những mẩu pizza rơi trên vạt áo xuống thảm trải nền - Thế bạn hè không thể đến với nhau được hay sao? - Anh lén lén lút lút vào nhà tôi vôi vẻ mặt hình sự chắc chắn không phải là đến chơi suông rồi!   Mời các bạn đón đọc Ba Bóng Đen của tác giả Jonathan Kellerman & Đặng Thị Huệ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Sơ Số 113 - Emile Gaboriau
Hồ Sơ Số 113 là cuốn tiểu thuyết trinh thám không chỉ đơn thuần là câu chuyện về một vụ trộm bí hiểm, mà còn ẩn chứa đằng sau đó một mối tình dang dở, một quá khứ tưởng như đã bị chôn vùi... Một vụ trộm ngân hàng với khoản tiền bị mất lên tới 350.000 franc đã gây rúng động cả thành phố Paris vốn đang lao đao bởi những cơn khủng hoảng tài chính. Chiếc két vẫn còn nguyên vẹn, không hề có dấu hiệu bị kẻ gian đột nhập, không một manh mối điều tra...Liệu ai sẽ là thủ phạm đứng sau vụ trộm, ông chủ ngân hàng Fauvel hay anh chàng thủ quỹ? Hay chăng một bàn tay vô hình đã thao túng tất cả? *** Những suy luận phá án một cách tài tình tới bất ngờ cho đến khi chân tướng xuất hiện, làm nên một câu chuyện hấp dẫn. Hồ Sơ số 113 thực sự là một tác phẩm trinh thám kinh điển hàng đầu, sánh ngang với những siêu phẩm như Sherlock Holmes của Conan Doyle hay Mười người da đen nhỏ của Agatha Chiristie. Với những độc giả yêu truyện trinh thám thực thụ, thì đơn giản đây là một trong những tác phẩm không thể bị bỏ qua.   Tác giả đã hoàn toàn thành công khi gieo vào lòng người đọc những hoài nghi, sợ hãi về một xã hội mà ở đó huynh đệ tương tàn, bạo lực và lừa dối nhưng sau tất cả, cũng chính ông đã trao gửi một thông điệp đầy cảm thông và bao dung đến kỳ lạ trong tác phẩm của mình: Tình yêu và sự bao dung có thể vượt lên trên tội ác và rào cản của xã hội. Với những độc giả yêu truyện trinh thám thực thụ, thì Hồ sơ 113 là một trong những tác phẩm không thể bị bỏ qua. ***   Trên các báo ra buổi chiều ngày 28 tháng Hai năm 1865, có một ‘tin vặt’ như sau: “Sáng nay, tại nhà băng của ông André Fauvel đã xảy ra một vụ trộm lớn làm náo động cả khu phố Provence. Kẻ gian đã táo bạo và cực kỳ khôn khéo lọt được vào nhà băng. Chúng đã phá chiếc két sắt tưởng chừng bất khả xâm phạm và lấy đi khoản tiền khổng lồ 350.000 franc* tiền giấy. Cảnh sát sốt sắng điều tra ngay và đã tìm ra tung tích. Có tin cho hay, một nhân viên nhà băng, một gã P. B. nào đó đã bị bắt giữ. Người ta hy vọng đồng đảng của y cũng sẽ nhanh chóng bị đưa ra tòa.” Bốn ngày tiếp theo, cả thành phố Paris chỉ kháo nhau về vụ trộm này. Đúng là ông Fauvel đã bị mất 350.000 franc, nhưng không phải như các báo đã đưa tin. Quả thực có một nhân viên nhà băng đã bị tạm giam, nhưng chưa có chứng cứ buộc tội anh ta. Vụ trộm cắp ghê gớm ấy nếu không phải là không thể giải thích thì ít ra cũng chưa thể giải thích được. Hơn nữa, sau đây chúng ta có thể tham khảo những sự việc được ghi lại chính xác trong biên bản điều tra của cảnh sát. ... Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Số 113 của tác giả Emile Gaboriau.
Hang Dã Thú - Jeffery Deaver
Hang dã thú kể về nhân vật Paul Schumann, một người Mỹ gốc Đức đang sống tại New York năm 1936. Nhiệm vụ của gã là giữ vững lương tâm, đạo đức giữa lừa dối và phản bội đang hoành hạnh tại Berlin. Điệp vụ đầu tiên của gã là giết chết kẻ sát hại cha mình để báo thù – nhưng rồi gã thấy mình có tài trong việc này. Gã trở thành một sát thủ nổi tiếng với những chiến thuật, đảm nhiệm những phi vụ “đúng đắn”. Và rồi gã bị tóm. Tay sĩ quan bắt gã đề nghị một lựa chọn khó khăn: ăn cơm tù hoặc đảm nhận một nhiệm vụ ngầm của Chính phủ. Sẽ là nhiệm vụ cuối cùng rồi gã được nghỉ hưu, sẽ về xưởng in cùng em trai gã và bắt đầu một cuộc sống khác. Vấn đề là khách hàng của gã không phải lũ du thu du thực. Mà là Chính phủ Mỹ. Trải qua 48 giờ truy đuổi cân não, gã biết mình đã vướng vào một mớ bòng bong, một trò mèo vờn chuột, mà gã vừa là mèo vừa là chuột. Gã chạy khắp Berlin để “hóa kiếp” một tay trong Chính phủ nhưng chính gã cũng bị Cảnh sát săn lùng khắp nơi... Vẫn mang một phong cách rất Jeffery Deaver, Hang dã thú chắc chắn là một cuốn sách khiến bạn không thể rời mắt. *** Jeffery Deaver sinh ngày mùng 6 tháng 5 năm 1950, tại ngoại ô thành phố Chicago, bang Illinois. Ông có bằng cử nhân báo chí tại Đại học Missouri và bằng luật của trường Đại học Fordham. Ông từng là nhà báo, luật sư và ca sĩ hát nhạc dân ca. Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông đã sáng tác hơn 30 cuốn tiểu thuyết, ba tập truyện ngắn và một cuốn sách phi hư cấu pháp luật.  Với vốn hiểu biết phong phú và kinh nghiệm sống của mình, Jeffery Deaver cũng là diễn giả thường xuyên ở hàng trăm hội nghị văn chương trên toàn thế giới, bao gồm Liên hoan sách quốc tế Edinburgh, liên hoan văn học Emirates, Hội nghị các cây viết quốc tế xuất sắc. Các tác phẩm đã được xuất bản của ông bao gồm: Kẻ tầm xương, Cái ghế trống, Lá bài thứ 12, Cây thập tự ven đường, Búp bê đang ngủ, Vũ điệu của thần chết, Giọt lệ quỷ, Dữ liệu tử thần, Sát nhân mạng, Lưới điện tử thần, Trăng lạnh, Giai điệu tử thần, Buồng khử Hang dã thú *** Ngay khi bước vào trong căn hộ tối mờ, gã biết mình đã chết. Gã lấy mu bàn tay lau mồ hôi, nhìn xung quanh nơi này, câm lặng như một nhà xác. Ngoại trừ những thanh âm di chuyển yếu ớt tại quán bar Hell’s Kitchen lúc đêm muộn và tiếng rì rầm của bóng tối êm mượt khi chiếc quạt Monkey Ward đang xoay, phả làn hơi nóng bỏng ra cửa sổ. Toàn bộ khung cảnh này đã chết. Không đúng… Mọi người cho rằng Malone sống ở đây, say bét nhè và ngủ quên trời đất. Nhưng chẳng thấy hắn đâu. Chẳng thấy chai rượu ngô nào hết, ngay cả mùi rượu bourbon*, thứ đồ uống duy nhất của tên thanh niên hư hỏng này cũng không ngửi thấy. Có vẻ như hắn không về đây được một thời gian rồi. Trên mặt bàn là tờ New York Sun, số đã ra từ hai ngày trước nằm cạnh chiếc gạt tàn lạnh lẽo, một cái cốc vẫn dính quầng màu xanh của sữa khô gần thành cốc. Gã bật đèn lên. Có một cánh cửa bên, hôm qua gã đã để ý thấy khi từ tiền sảnh nhìn vào. Nhưng giờ nó bị ghim chặt bằng đinh. Còn cả ô cửa sổ dẫn lên lối thoát hiểm phòng khi có hỏa hoạn thì phải. Chết tiệt, nó đã bị bịt chặt bằng dây thép gai vừa kín vừa đẹp mà gã không thể nhìn thấy từ con ngõ. Ô cửa sổ còn lại thì mở nhưng cách mặt đường đá cuội những mười hai mét. Không còn đường thoát… ... Mời các bạn đón đọc Hang Dã Thú của tác giả Jeffery Deaver.
Nghiệt Súc - Lauren Beukes
Trong suốt cuộc đời làm cảnh sát của mình, Thanh tra Gabriella Versado đã từng chứng kiến nhiều hình thức giết người, nhưng chưa lần nào như lần này: xác chết của các nạn nhân một nửa là người, một nửa là thú, đôi khi các bộ phận được cắt ghép ngẫu nhiên không theo trình tự nào. Clayton Bloom là một nghệ sĩ bất đắc chí đã tự tìm cho mình một “đam mê” mới, đó là ghép xác người và xác thú sao cho trông thật nhất có thể. Detroit là cái xác đang phân hủy của Giấc mơ Mỹ. *** Xác chết. Xác chết-xác chết-xác chết, cô lẩm nhẩm trong đầu. Ngôn từ sẽ mất hết ý nghĩa một khi ta cứ lặp đi lặp lại. Xác chết cũng thế, dù là chết kiểu gì chăng nữa. Chết là chết. Chỉ có “tại sao” và “thế nào” là khác nhau thôi. Cứ đánh dấu đi: Dãi nắng dầm mưa chết. Đạn bắn chết. Dao đâm chết. Nện chết bằng hung khí sắc, hung khí cùn hoặc chả cần hung khí gì sất, khi tay không cũng đủ làm nên chuyện. Đùng, đoàng, hự, chát... Thật là một lô một lốc đủ kiểu giết người! Nhưng dù là bạo lực thì cũng có giới hạn chiêu trò của nó. Gabriella ước gì có người nói điều đó cho kẻ bệnh hoạn nào đã gây nên chuyện này. Bởi vì cái xác này thật Vô đối. Đây cũng vô tình là biệt danh của một ả bán hoa mà cô đã cảnh cáo rồi thả cuối tuần trước. Công việc của DPD[2] dạo này chỉ quanh đi quẩn lại có nhiêu đó. Phân phát mấy tờ cảnh cáo cho có trong Thành-phố-bạo-lực-nhất-nước-Mỹ này. Tén tén tén tèn, cô như nghe thấy giọng con gái mình, nhại theo tiếng nhạc phim kinh dị lúc cao trào mà Layla vẫn dùng khi muốn nhấn mạnh điều gì đó. Đủ mọi biệt danh Detroit mang theo bên mình. Nó kéo theo một mớ biểu tượng nặng trịch phía sau như chùm lon thiếc kêu leng keng treo đằng sau cái ô tô phết dòng chữ “Mới Cưới”. Không biết giờ còn ai làm vậy nữa không, cô nghĩ bụng, treo lon thiếc và phết kem cạo râu ấy? Mà có thật là người ta từng làm thế không? Hay đó toàn chuyện bịa đặt, như câu khẩu hiệu kim cương là vĩnh cửu, như ông già tuyết mặc đồ đỏ giống lon Coca, như cảnh bà mẹ và con gái vừa ăn sữa chua không béo vừa tám chuyện. Cô nhận ra những cuộc nói chuyện thú vị nhất với Layla chỉ toàn diễn ra trong đầu cô thôi. ... Mời các bạn đón đọc Nghiệt Súc của tác giả Lauren Beukes.
Cửa Mật - Christine Kerdellant & Éric Meyer
Bọn tin tặc đang âm mưu phát tán một loại virus gây bệnh cho mạng internet toàn cầu. Virus này sản sinh trong ổ cứng một backdoor – cửa mật, giúp chúng kiểm soát và khống chế từ rất xa tất cả các máy tính nối mạng. Các nhà máy hạt nhân, ngân hàng, hãng hàng không, công ty dược phẩm, hệ thống cung cấp nước sạch…, toàn bộ các trung tâm đầu não của thế giới phương Tây đều nằm trong tầm ngắm của chúng. Bọn khủng bố có thể tùy thích đánh bom các công xưởng, đầu độc người dân, chiếm đoạt tài sản cá nhân cũng như sản xuất dược phẩm giả hiệu. Nỗi kinh hoàng lớn của thế kỷ XXI – cuộc mưu hại về tin học – đang lan rộng trên toàn thế giới… Chỉ có một người có thể đóng lại các backdoor mà đích thân ông đã dự kiến trong các phần mềm được sáng tạo theo yêu cầu của CIA: đó là Dan Barrett, người sáng lập Controlware, doanh nhân Mỹ lừng lẫy nhất hành tinh này. Nhưng than ôi, Barett vừa bị bọn khủng bố ám sát. Emma Shannon, người tình cũ của Dan, với sự trợ giúp của một chuyên gia tin học và một nhà văn am hiểu về lịch sử nước Pháp, đã lao vào cuộc tìm kiếm phương thuốc giải độc, tức chiếc chìa khóa tin học duy nhất có thể giúp thế giới thoát khỏi thảm họa này. Nhưng chiếc chìa khóa ấy hiện cất giấu ở đâu? Trong mê cung đường hầm của lâu đài Versailles tráng lệ ở nước Pháp? Hay trong công thức toán học kỳ bí chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế? Làm sao ngăn chặn kẻ thù ảo giấu mặt đằng sau CỬA MẬT? *** Trước khi nhấn phím “Enter”[1] Owen Makresh nhíu mày tưởng nhớ đến người anh ruột Karim chết trong vụ World Trade Center[2] sụp đổ dữ dội ngày 11 tháng 9 năm 2001. Sáu năm sau, tính theo từng ngày, đây là giờ phút hắn sắp trở thành người hùng như Karim. Hắn quay người về phía Dmitri và nụ cười của hắn biến thành cái nhếch mép gượng gạo. Cả hai đứa hắn cùng đến thành phố Tallinn ở Estonie ngay sáng nay theo chuyến bay từ Jakarta có quá cảnh ở Moscou. Chúng đi xe bus từ phi trường về trung tâm thủ đô nước Estonie này rồi cuốc bộ đến quán bar nằm ở cuối con đường lát đá tảng trong khu phố trung cổ. Tổ chức đã cung cấp cho chúng những tấm hộ chiếu giả và một thẻ từ dùng để mở hai cánh cửa gỗ của bar Noku. Không phải bất cứ ai cũng có thể vào quán rượu này đâu, chỉ khách quen mới có tấm thẻ ra vào. Noku có nghĩa là “văn hóa trẻ”, lại cũng có nghĩa “con cu” trong tiếng lóng xứ này. — Mày có biết mấy giờ ngày mai tụi nó đến không? - Dimitri hỏi khẽ khi bước qua cửa. — Biết làm quái gì, - Owen đáp trả. - Ở giai đoạn 1 này, tao với mày là khá đông rồi đó. Vào giờ này cái câu lạc bộ tư gần như vắng tanh. Bình thường thôi, chiều thứ ba mà. Vài thanh niên Nga ngồi tựa quầy bar nhấm nháp từng ngụm Saku, một loại bia địa phương. Nhạc rock theo kiểu các nước Baltes[3] lấn át tiếng nói chuyện. Cuối phòng, các hốc tường là nơi đặt nhiều PC[4] mốt mới nhất, màn hình phẳng nhấp nháy trong bóng tối. Tất cả mấy máy tính này đều nối mạng Internet. Từ nơi này người ta có thể kết nối với bất cứ nơi nào trên thế giới, với lưu lượng cung cấp rất cao. Owen nhìn đồng hồ: 17 giờ 43. Hắn ra dấu, chỉ cho Dmitri bước đến hốc tường cuối phòng. Ở hốc bên cạnh, một gã thiếu niên, chắc là người Nga nếu đoán theo những con chữ hiện to trên màn hình, đang tải về những hình ảnh khiêu dâm rồi ghép vào đoạn băng quảng cáo cho cuốn phim sắp tới của George Lucas[5]. Bên cạnh chàng ta là một phụ nữ trẻ đầu cạo trọc, áo veste da, đang thiết kế trang chủ một mạng web. Owen kịp nhìn cái tên hiện ra: American Expresss với ba chữ “S”. Hẳn là một web giả mạo từ trang mạng thật của American Express. Đây là kỹ thuật – thường được gọi là phishing – quá quen thuộc với bọn tin tặc từ tám hay chín năm nay nhưng vẫn luôn tỏ ra hữu hiệu. Chỉ cần tạo ra một web giống hệt cái web chính thức của một công ty lớn, nhưng chỉ khác một chi tiết nhỏ, ví dụ như dư một chữ. Rồi những người khách hàng lơ đãng tưởng mình đang vào trang chủ của ngân hàng quen thuộc của mình thì tự ý đưa ra địa chỉ rồi mật khẩu của mình… ... Mời các bạn đón đọc Cửa Mật của hai tác giả Christine Kerdellant & Éric Meyer.