Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tử Tước và Em - Julia Quinn

Chàng - một tử tước cao ngạo ăn chơi trác táng hạng nhất London đang có ý muốn kết hôn trong năm nay. Và người chàng để mắt tới không ai khác ngoài Edwina xinh đẹp, em gái nàng.   Nàng - một cô gái thông minh, bướng bỉnh, đang muốn chọn chồng cho em gái. Và lẽ dĩ nhiên người nàng muốn chọn cho Edwina không thể nào và không bao giờ là chàng. Thế rồi định mệnh đưa đẩy, người nàng muốn em gái mình tránh xa nhất lại là người đưa nàng vào vòng say mê… *** Nhận định   “Tử tước và em có mọi thứ bạn muốn trong một tiểu thuyết lãng mạn lịch sử. Quinn là nhà văn bậc thầy của thể loại này.” - D. Salvagin, Romance Reader    “Julia Quinn thực sự là Jane Austen đương đại.” - Jill Barnett *** Việc ấy xảy đến khi Anthony mười tám tuổi, về nhà trong kỳ nghỉ hè và chuẩn bị cho năm đầu tại đại học Oxford. Anh sẽ gia nhập vào AllSoulsCollege, như cha anh cũng đã tham gia trước anh, và cuộc đời của anh tươi sáng và chói lọi như bất kỳ một người mười tám tuổi nào có quyền được hưởng. Anh đã khám phá ra phụ nữ, và có thể là huy hoàng hơn, họ khám phá ra anh. Cha mẹ anh vẫn còn tái tạo một cách hạnh phúc, đã thêm Eloise, Francesca, và Gregory vào gia đình, và Anthony đã cố gắng hết sức để không đảo tròn mắt khi anh đi ngang qua mẹ trên đại sảnh - mang thai với đứa thứ tám! Nó hơi không thích hợp, trong suy nghĩ của Anthony, có con vào độ tuổi của họ, nhưng anh giữ ý kiến đó cho riêng mình. Anh là ai mà dám nghi ngờ sự thông thái của Edmund chứ? Có thể anh cũng sẽ muốn nhiều con cái hơn ở độ tuổi ba mươi tám. Khi Anthony phát hiện ra, thì đã là chiều muộn. Anh vừa trở về từ một cuộc cưỡi ngựa dài và bầm tím với Benedict và mới chỉ vượt qua cánh cửa trước của Aubrey Hall, căn nhà tổ tiên của dòng họ Bridgerton, khi anh thấy cô em gái mười tuổi đang ngồi trên sàn nhà. Benedict vẫn còn đang ở trong chuồng ngựa, đã thua vài cuộc cá độ ngu ngốc với Anthony, lụât quy định cậu phải ở lại và tắm rửa cho mấy con ngựa. Anthony ngừng lại khi anh thấy Daphne. Nó đã đủ kỳ lạ khi em gái anh lại ngồi giữa sàn của gian đại sảnh. Nó còn kỳ lạ hơn khi cô bé đang khóc. Daphne không bao giờ khóc. “Daff,” anh nói ngập ngừng, quá trẻ để hiểu phải làm thế nào với một người phụ nữ đang khóc lóc, và tự hỏi liệu anh có bao giờ học được không, “chuyện gì -” Nhưng trước khi anh có thể kết thúc câu hỏi của mình, Daphne đã ngước đầu lên, và ánh nhìn tan vỡ trong đôi mắt nâu to tròn cắt vào anh như một lưỡi dao. Anh sượt chân lùi một bước, biết rằng có điều gì đó không ổn, không ổn kinh khủng. “Ông chết rồi.” Daphne thì thầm. “Papa đã chết.” Trong một lúc Anthony chắc chắn rằng anh đã nghe nhầm. Cha anh không thể chết được. Những người khác chết trẻ, như Chú Hugo, nhưng Chú Hugo còn rất trẻ và mỏng manh. Chà, ít nhất thì trẻ hơn và mong manh hơn Edmund. “Em nhầm rồi.” Anh nói với Daphne. “Em nhất định là đã nhầm.” Cô bé lắc đầu. “Eloise nói với em. Ông đã... Nó là...” Anthony biết anh không nên lắc em gái anh khi cô bé đang khóc, nhưng anh không thể ngăn mình được. “Nó là cái gì, Daphne?” “Một con ong.” Cô thì thầm. “Cha bị chích bởi một con ong.” Trong một lúc Anthony chẳng thể làm gì khác ngoài nhìn chằm chằm vào cô. Cuối cùng, trong một giọng khàn khàn và khó có thể nhận ra, anh nói. “Một người đàn ông không chết vì ong đốt, Daphne.” Cô bé không nói gì, chỉ ngồi trên sàn nhà, cổ họng co giật khi cố kiềm chế nước mắt. “Cha đã từng bị đốt trước đây rồi.” Anthony nói thêm, âm lượng trong iọng anh tăng lên. “Anh đã ở cùng với cha. Cả hai cùng bị đốt. Bọn anh đã đi ngang qua một cái tổ ong. Anh bị chích trên vai.” Tự ý, tay anh đưa lên chạm vào vết mà anh đã bị chích từ nhiều năm trước. Trong một lời thì thầm anh nói thêm. “Cha bị đốt trên cánh tay.” Daphne chỉ nhìn chằm chằm vào anh với một vẻ mặt trống rỗng. “Cha ổn thôi.” Anthony ra lệnh. Anh có thể nghe được sự sợ hãi trong giọng của mình và biết anh đang làm cho em gái anh hoảng sợ, nhưng anh lại không có sức mạnh nào để kiềm chế điều đó. “Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt!” Daphne lắc đầu, đôi mắt cô bé bỗng trông như đã hàng trăm năm tuổi. “Đó là một con ong.” Cô nói trong một giọng trống rỗng. “Eloise đã thấy mà. Một phút trước cha chỉ là đang đứng đó, và sau đó cha đã... cha đã...” Anthony cảm thấy điều gì đó rất kỳ lạ đang dâng lên trong anh, như thể là các cơ bắp của anh đang chuẩn bị nhảy ra khỏi da anh vậy. “Sau đó cha đã thế nào, Daphne?” “Ra đi.” Cô bé trông ngạc nhiên bởi từ đó, ngạc nhiên nhiều như anh cảm thấy. Anthony để Daphne ngồi lại trên đại sảnh và đi lên cầu thang ba bậc một tới phòng ngủ của cha mẹ anh. Chắc chắn cha anh không chết. Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt. Điều đó là không thể. Hoàn toàn điên rồ. Edmund Bridgerton còn trẻ, ông khoẻ mạnh. Ông cao lớn, đôi vai ông rộng, cơ bắp đầy sức mạnh, và vì Chúa, không có một con ong mật ngớ ngẩn nào có thể đánh bại ông. Nhưng khi Anthony đến sảnh trên lầu, anh có thể nói bởi sự im lặng hoàn toàn và trọn vẹn của hàng tá hoặc hơn nữa số người hầu lảng vảng quanh đó rằng, tình thế nghiêm trọng. Và những khuôn mặt thương hại của họ... cho đến tận cuối đời anh sẽ còn bị ám ảnh bởi những gương mặt thương hại đó. Anh đã nghĩ anh phải chen lấn để vào phòng cha mẹ anh, nhưng những người hầu đã tránh ra như thể họ bị ném vào Biển Đỏ, và khi Anthony đẩy cánh cửa mở, anh đã biết. Mẹ anh đang ngồi trên mép giường, không khóc than, không cả gây ra một tiếng động, chỉ nắm lấy tay cha anh khi bà chầm chậm đung đưa người trước ra sau. Cha đang nằm yên. Yên như... Anthony còn không muốn nghĩ đến cái từ đó nữa. “Mama?” Anh ho. Anh đã không còn gọi mẹ như thế từ nhiều năm rồi, bà đã là “Mẹ” từ khi anh rời Eton. Bà quay lại, chậm chạp, như thể nghe tiếng anh từ xuyên qua một con hầm dài, rất dài. “Chuyện gì đã xảy ra?” anh thì thầm. Bà lắc đầu, đôi mắt bà tuyệt vọng, xa xăm. “Mẹ không biết.” Bà nói. Đôi môi bà vẫn hé mở một khoảng, như thể bà muốn nói gì đó nữa nhưng đã quên mất. Anthony bước tới trước một bước, cử động của anh ngượng nghịu và giật giật. “Ông ấy đã đi rồi.” Violet cuối cùng cũng thì thầm. “Ông ấy đã ra đi và mẹ... ôi, Chúa ơi, mẹ...” Bà đặt một bàn tay lên bụng căng tròn với em bé. “Mẹ đã nói với cha - ôi, Anthony, mẹ đã nói với cha - ” Bà trông như thể có thể nứt vỡ từ bên trong. Anthony kiềm lại nước mắt đang làm cay mắt anh, chích vào họng anh và đi đến bên cạnh bà. “Sẽ ổn thôi, mama.” Anh nói. Nhưng anh biết nó không hề ổn. “Mẹ đã nói với cha đây phải là đứa cuối của chúng ta.” Bà thở gấp, khóc trên vai anh. “Mẹ đã nói với cha mẹ không thể mang thai đứa nào nữa, và cha mẹ phải cẩn thận, và... ôi, Chúa ơi, Anthony, mẹ sẽ làm bất cứ việc gì để có cha ở đây và trao cho cha một đứa con nữa. Mẹ không hiểu. Mẹ không thể hiểu được...” Anthony ôm mẹ khi bà khóc. Anh chẳng nói gì; nó có vẻ như là vô dụng khi cố gắng thốt ra từ nào thích hợp với sự hủy hoại trong tim anh. Anh cũng không thể hiểu được. o O o Những người bác sĩ tới sau đó vào buổi tối và tuyên bố họ bị bối rối. Họ đã từng nghe về điều này trước đây, nhưng chưa bao giờ ở một người trẻ và khoẻ mạnh như thế. Ông thật đầy sức sống, thật mạnh mẽ; chẳng ai có thể biết được. Sự thật rằng em trai Hugo của vị tử tước đã chết hoàn toàn đột ngột vào năm ngoái, nhưng những việc như thế không hẳn là di truyền trong gia đình, và bên cạnh đó, ngay cả khi Hugo đã chết bên ngoài ngôi nhà, không ai đã từng nhận thấy một nốt ong đốt trên da anh ta. Nhưng một lần nữa, chẳng có ai đã tìm cả. Chẳng ai có thể biết được, những người bác sĩ nói vậy, lặp đi và lặp lại cho đến khi Anthony muốn bóp cổ hết tất cả bọn họ. Cuối cùng, anh đuổi họ ra khỏi ngôi nhà, và anh đưa mẹ vào giường. Họ đã phải chuyển bà đến một phòng ngủ còn trống; bà trở nên khích động với ý nghĩ ngủ trên cái giường mà bà đã chia sẻ với Edmund từ rất nhiều năm. Anthony cũng đã sắp xếp đưa các em vào giường, nói với chúng rằng họ sẽ nói chuyện vào buổi sáng mai, rằng tất cả mọi chuyện sẽ tốt thôi, và anh sẽ chăm sóc cho chúng như cha đã mong muốn. Rồi anh đi vào căn phòng nơi cha anh vẫn còn nằm đó và nhìn ông. Anh nhìn ông và nhìn ông, nhìn chằm chằm trong nhiều tiếng đồng hồ, chỉ hơi chớp mắt. Và khi anh đã rời phòng, anh rời khỏi đó với một phiên bản khác của cuộc đời anh, và một sự hiểu biết mới về ngày tận số của mình. Edmund Bridgerton đã chết ở lứa tuổi ba mươi tám. Và Anthony đơn giản là không thể hình dung được có bao giờ vượt qua cha anh trong bất cứ điều gì, ngay cả về tuổi tác. Chủ đề về những kẻ ăn chơi trác táng, tất nhiên, đã được thảo luận trước đây trên mục báo này, và Tác giả đã đi đến một kết luận là có tồn tại những kẻ ăn chơi trác táng, và có tồn tại những Kẻ Ăn Chơi Trác Táng. Anthony Bridgerton là một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng. Một kẻ ăn chơi trác táng (viết thường) còn trẻ và chưa chín chắn. Anh ta khoe khoang những chiến công của mình, cư xử với cực điểm của chứng ngu ngốc, và nghĩ rằng anh ta nguy hiểm đối với phụ nữ. Một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng (viết hoa) biết rằng chàng nguy hiểm đối với phụ nữ. Chàng không phô trương những chiến công của chàng, bởi vì chàng không cần phải làm thế. Chàng biết chàng sẽ được thì thầm khắp nơi bởi những đàn ông cũng như phụ nữ, và trên thực tế, chàng thà rằng họ đứng có thì thầm gì về chàng hết. Chàng biết chàng là ai và chàng đã làm gì; những trò tường thuật chi tiết, đối với chàng, thật là rườm rà. Chàng không cư xử như một kẻ ngu ngốc chỉ bởi vì lý do đơn giản rằng chàng không phải là thằng ngốc (không nhiều hơn những gì được trông chờ ở tất cả thành viên thuộc giới tính nam). Chàng có rất ít kiên nhẫn cho những nhược điểm của xã hội, và thành thật mà nói, hầu hết các lần Tác giả chẳng thể nói rằng nàng đổ lỗi cho chàng được. Và nếu đó không miêu tả Tử Tước Bridgerton - rõ ràng là người độc thân thích hợp nhất của mùa vũ hội này - đến hoàn hảo, Tác giả nên ngừng nghề viết ngay lập tức. Câu hỏi duy nhất là: liệu năm 1814 sẽ là năm chàng cuối cùng cũng đầu hàng niềm hạnh phúc tuyệt vời của hôn nhân? Tác giả nghĩ... không. Tạp chí của Lady Whistledown, ngày 20 tháng 4 năm 1814 “Làm ơn đừng nói với chị,” Kate Sheffield nói với căn phòng rộng lớn, “rằng cô ta lại viết về Tử Tước Bridgerton lần nữa chứ.” Cô em kế của cô, Edwina, nhỏ hơn đến gần bốn tuổi, nhìn lên từ sau tờ báo một trang. “Làm sao mà chị biết?” “Em đang cười khúc khích như một người điên.” Edwina cười khúc khích, làm rung chiếc ghế sofa thêu hoa mà họ đang ngồi. “Thấy chưa?” Kate nói, tặng cho em gái một cú thúc vào cánh tay. “Em lúc nào cũng cười khúc khích khi cô ta viết về mấy gã ma cà bông đáng quở trách.” Nhưng Kate lại cười toét miệng. Có rất ít thứ mà cô thích hơn là chọc em gái. Với ý tốt, tất nhiên. Mary Sheffield, mẹ của Edwina, và mẹ kế của Kate đã gần tám năm nay, liếc lên từ đồ thêu của bà và đẩy cặp kính lên cao hơn trên sống mũi. “Hai đứa cười cái gì đấy?” “Chị Kate đang nổi điên lên vì Lady Whistledown lại viết về ngài tử tước phóng đãng đó nữa.” Edwina giải thích. “Chị không nổi điên. nói, ngay cả khi không có ai lắng nghe. “Bridgerton?” Mary hỏi lơ đãng. Edwina gật đầu. “Vâng.” “Cô ấy lúc nào cũng viết về anh ta.” “Con nghĩ cô ấy chỉ thích viết về những kẻ ăn chơi trác táng.” Edwina bình luận. “Tất nhiên là cô ấy thích viết về mấy kẻ trác táng.” Kate vặn lại. “Nếu cô ấy mà viết về những người chán ngắt, thì chả ai sẽ mua tạp chí của cô ấy.” “Điều đó không đúng.” Edwina trả lời. “Chỉ mới tuần trước cô ấy đã viết về chúng ta đó thôi, và ông trời mới biết chúng ta không phải là những người đáng quan tâm nhất ở Luân Đôn.” Kate mỉm cười với sự ngây thơ của em gái. Kate và Mary có thể không phải là người đáng quan tâm nhất Luân Đôn, nhưng Edwina, với mái tóc màu vàng ngọt ngào như bơ và đôi mắt xanh trong đến sững sờ, đã được vinh danh là Người Không Thể So Sánh của năm 1814. Kate, mặt khác, với mái tóc và đôi mắt một màu nâu giản dị, thường được nhắc đến như là “Chị gái lớn của Người Không Thể So Sánh”. Kate vờ như còn có cách nói tệ hơn. Ít nhất thì chưa có ai bắt đầu gọi cô là “Chị gái già của Người Không Thể So Sánh.” Điều đó rất nhiều phần gần với sự thật hơn là bất cứ người nhà Sheffield nào chịu thừa nhận. Ở tuổi hai mươi (gần như là hai mươi mốt, nếu người ta thành thật về điều đó), Kate hơi dài răng để có thể tận hưởng mùa vũ hội đầu tiên ở Luân Đôn. Nhưng đã chẳng có lựa chọn nào khác. Nhà Sheffield đã không từng giàu có ngay cả khi cha Kate vẫn còn sống, và từ khi ông qua đời vào năm năm trước, họ đã buộc phải tiết kiệm nhiều hơn nữa. Họ chắc chắn là chưa đến mức vào nhà tế bần, nhưng phải lo lắng cho từng đồng và xem xét từng bảng. Với tài chính bị thu hẹp, nhà Sheffield chỉ có thể sắp xếp một khoản tiền cho một chuyến đi đến Luân Đôn. Thuê mướn một ngôi nhà - và một cỗ xe - và thuê một ít người hầu vừa đủ cho mùa vũ hội tốn một khoản tiền. Nhiều tiền hơn là họ có thể xoay sở để có thể trang trải qua cả hai lần. Như thế, họ phải chuẩn bị trong năm năm khó khăn để có thể chu cấp cho chuyến đi này đến Luân Đôn. Và nếu các cô gái không thành công ở Hội Chợ Hôn Nhân... À thì, chả có ai sẽ đẩy họ vào nhà tù nợ nần, nhưng họ sẽ phải trông đến một cuộc sống yên bình của nghèo khó thanh đạm ở một mái nhà tranh đáng yêu nhỏ nhắn nơi vùng Somerset. Và vì vậy hai cô gái đành phải khởi đầu mùa vũ hội đầu tiên trong cùng một năm. Đó là một quyết định rằng thời gian logic nhất là khi Edwina mười bảy và Kate sắp hai mươi mốt. Mary sẽ muốn chờ cho đến khi Edwins đã mười tám, và chín chắn hơn một chút, nhưng điều đó sẽ làm cho Kate gần hai mươi hai, và trời ơi, nhưng ai sẽ cưới cô lúc đó chứ? Kate cười nhăn nhó. Cô còn không muốn một mùa vũ hội. Cô đã biết rằng cô không thuộc dạng sẽ thu hút sự chú ý của mọi người. Cô không đủ xinh xắn để che lấp sự thiếu hụt của hồi môn, và cô chưa bao giờ học cách cười điệu và nói chuyện dịu dàng và đi đứng duyên dáng, và làm tất cả những việc mà các cô gái khác dường như biết cách làm từ trong nôi. Ngay cả Edwina, người chẳng có một cái xương ranh mãnh nào trong người, bằng cách nào đó cũng biết cách đi và đứng và thở dài sao cho đàn ông chạy vù tới, chỉ để có cái vinh dự được đưa nàng sang đường. Kate, mặt khác, luôn luôn đứng với đôi vai thẳng và cao, không thể ngồi yên nếu cuộc sống của cô phụ thuộc vào điều đó, và đi như cô đang ở trong một cuộc đua - và tại sao lại không? Cô luôn tự hỏi. Nếu một người đang đi đến đâu đó, có lý gì khi không đến đó nhanh chóng? Còn đối với mùa dạ hội của cô ở Luân Đôn, cô còn không thích thành phố nhiều nữa. Ôi, cô có một khoảng thời gian vui vẻ, và cô đã gặp nhiều người tử tế, nhưng một mùa vũ hội Luân Đôn dường như là một sự phung phí tiền bạc khủng khiếp đối với một cô gái sẽ hoàn toàn hài lòng được ở lại nông thôn và tìm một anh chàng hiểu biết lý lẽ để mà cưới. Nhưng Mary không chấp nhận điều gì như thế. “Khi ta cưới cha con,” bà nói, “ta đã thề sẽ yêu thương con và đem đến cho con mọi sự chăm sóc và tình thương ta sẽ dành cho con ruột của ta.” Kate đã thu xếp để vừa thốt ra được một từ “nhưng - ” trước khi Mary tiếp tục với, “ta có trách nhiệm đối với người mẹ tội nghiệp của con, cầu Chúa cho bà yên nghỉ, và một phần của trách nhiệm đó là thấy con được cưới xin hạnh phúc và định.” “Con có thể hạnh phúc và được bảo đảm ở thôn quê mà.” Kate đã trả lời. Mary đã đối lại, “Có nhiều người đàn ông để lựa chọn hơn ở Luân Đôn.” Sau đó Edwina cũng đã tham gia, khăng khăng nói rằng cô sẽ hoàn toàn khốn khổ nếu không có Kate, và bởi vì Kate không bao giờ có thể chịu được khi nhìn thấy em gái không hạnh phúc, số phận cô được quyết. Và thế là cô ở đây - ngồi trong một căn phòng khách hơi sờn cũ, trong một căn nhà thuê ở phần rìa Luân Đôn mà gần như hợp thời, và... Cô nhìn quanh một cách tinh nghịch... và cô sắp sửa giật tờ tạp chí từ tay em gái. “Chị Kate!” Edwina kêu ré lên, mắt cô trợn vào mảnh báo nhỏ hình tam giác còn lại giữa ngón tay cái và ngón trỏ. “Em chưa xong mà!” “Em cữ đọc nó mãi.” Kate trả lời với nụ cười ngoác miệng táo tợn. “Bên cạnh đó, chị muốn coi cô ta viết gì về tử tước Bridgerton hôm nay.” Đôi mắt của Edwina, thường xuyên được ví như mặt hồ Scot tĩnh lặng, ánh lên quỷ quái. “Chị quan tâm khủng khiếp đến ngài tử tước đấy, Kate. Có điều gì chị không nói với mẹ và em đúng không?” “Đừng có ngu ngốc thế. Chị còn không biết anh ta. Mà nếu chị có biết, có thể là chị sẽ chạy về hướng ngược lại. Anh ta cụ thể là loại đàn ông mà hai chúng ta nên tránh xa bằng mọi giá. Anh ta rất có thể quyến rũ một tảng bẳng ấy chứ.” “Kate!” Mary bật ra. Kate nhăn nhó. Cô đã quên mất rằng mẹ cô đang lắng nghe. “Chà, đó là sự thật.” Cô thêm. “Con đã nghe rằng anh ta có nhiều người tình hơn là sinh nhật của con nữa.” Mary nhìn cô trong vài giây, như thể cố quyết định bà có muốn trả lời hay không, và cuối cùng bà nói, “Không phải đó là một chủ đề thích hợp cho tai con đâu, nhưng nhiều người đàn ông “Ôi.” Kate đỏ mặt. Có rất ít thứ kém hấp dẫn hơn là bị phản đối khi một người đang cố gắng đưa ra một lập luận quan trọng. “Chà, thế thì, anh ta có gấp đôi con số nhiều. Cho dù trường hợp nào đi nữa, anh ta quá bữa bãi hơn hầu hết những người đàn ông khác, và không phải loại Edwina nên cho phép tán tỉnh nó.” “Con cũng đang tận hưởng một mùa vũ hội đấy.” Mary nhắc nhở cô. Kate chiếu vào Mary một cái nhìn khó chịu nhất. Họ đều biết là nếu ngài tử tước chọn tán tỉnh một người nhà Sheffield, đó sẽ không là Kate. ... Mời các bạn đón đọc Tử Tước và Em của tác giả Julia Quinn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Định Mệnh - Bà Tùng Long
Một cô gái trẻ mồ côi trơ trọi vào đời đi làm nuôi một cậu em còn tuổi đi học. Có nhan sắc nên cô lọt vào tầm ngắm của ông chủ và bị ông dùng thủ đoạn chuốc thuốc mê để chiếm đoạt thân xác. Cô cương quyết bỏ đi, không chịu phận làm vợ bé, làm nghề may vá trong một xóm lao động để nuôi em. Không ngờ cái lần oan nghiệt đó đã khiến cô bị mang thai. Rồi đứa em bị tai nạn giao thông. Một doanh nhân trẻ đã giúp đưa em vào bệnh viện và từ đó cưu mang cả hai chị em, nhận làm cha đứa nhỏ khi nó chào đời. Không hiểu sao thằng bé lại rất giống anh... Định mệnh thật khắc nghiệt khi ông chủ từ nước ngoài về, đi tìm lại cô gái. Không ngờ ông chính là chú ruột của chàng doanh nhân.. *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Định Mệnh của tác giả Bà Tùng Long.
Con Đường Một Chiều - Bà Tùng Long
Con đường một chiều là một câu chuyện tình buồn, đầy tuyệt vọng của một họa sĩ trẻ và một người đàn ông hết lòng yêu nàng nhưng không được đền đáp. *** Phi Nga ngồi dựa lưng vào một gốc dừa tàu lá sum sê, nhìn về phía sông, đôi mắt mơ màng. Chưa bao giờ Phi Nga thấy trời đẹp như hôm nay. Nhưng nàng không phải ra đây để ngắm cảnh vì còn lạ gì phong cảnh làng này nữa, ngày nào mà nàng không ra ngồi nhìn những chiếc thuyền chở hàng hay những chiếc đò dọc chậm chạp trôi trên dòng nước xanh rì. Đôi mắt của Phi Nga khác nào những ống kính chụp mãi những bức tranh linh động của quê nàng, một ngôi làng yên tĩnh trên bờ Cửu Long miền Hậu giang. Phi Nga cảm thấy cuộc đời nàng không khác nào dòng sông trước mặt. Ngày nào cũng như ngày nấy, cũng những cảnh quen mắt, không thay đổi. Và Phi Nga bỗng ao ước một cuộc đời mới khác hẳn so với cuộc đời buồn tẻ của nàng. Sống trong gia đình, Phi Nga thấy không ai hiểu nàng hết. Hai em gái nàng, Phi Anh và Phi Yến, như quá xa cách mặc dù hàng ngày ba chị em vẫn sống bên nhau, dưới mái gia đình, bên cha mẹ. Ông bà Hoàng Minh chỉ có ba cô con gái nhưng không hề lấy chuyện không có con trai làm trọng. Ông Minh thường nói với bạn bè: - Đời bây giờ gái cũng như trai. ... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Con Đường Một Chiều của tác giả Bà Tùng Long.
Bóng Người Xưa - Bà Tùng Long
Người xưa đã về tái hiện một giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc từ 1930 đến 1938. Có một tổ chức cách mạng với tên gọi “Yêu nước” vì mắc phải nhiều sai lầm trong đường lối cũng như xây dựng cơ sở trong quần chúng nhân dân nên phải nhận lấy thất bại. Nếu người đàn bà sinh ra chỉ để làm bạn với bếp núc, thì cái câu “Giặc đến nhà đàn bà phải đánh” chẳng là vô nghĩa lắm? Lệ Hằng, nhân vật chính của Bóng người xưa, là điển hình của người phụ nữ cao thượng ấy trong thời Pháp thuộc. Lệ Hằng tham gia một tổ chức chống Pháp và lãnh nhiệm vụ cung cấp tài chính. Cô lấy chồng là Anh Kiệt, một nhà tư sản giàu có theo sự phân công của tổ chức, và lấy tiền của Anh Kiệt trao cho tổ chức. Nhưng Anh Kiệt không phải là người chỉ biết tiền. Với cô, anh còn là người chồng chung thủy. Bên tình, bên nghĩa, cô phải làm sao? Và trong tình thế ấy, cô phải xử trí như thế nào để người bạn trăm năm của cô khỏi phải vì cô mà mang họa? *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Bóng Người Xưa của tác giả Bà Tùng Long.
24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà - Stefan Zweig
Trong tác phẩm của mình, Stefan Zweig đã viết: “Chỉ hai mươi bốn giờ thôi cũng có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời một người đàn bà”. Tôi cũng là một người đàn bà. Tôi cũng đã thử hỏi, trong hai mươi bốn giờ quá ít ỏi ấy, một người đàn bà có thể làm gì để được gọi là thay đổi số phận, hay cuộc đời? Vậy mà khi tôi bắt đầu đọc câu chuyện của Stefan Zweig kể, tôi đã phải chạy đua với cảm xúc của nhân vật. Tôi không có được những cảm xúc mãnh liệt, bạo dạn như bà. Chỉ trong một ngày thôi, bà đã trải qua tất cả mọi cảm giác của cuộc đời này, đi đến tận cùng đê mê, hạnh phúc bên người tình chỉ trong một đêm, để rồi cũng phải chịu sự phản bội đến khốn nạn và nghiệt ngã khi bị sỉ nhục cay đắng bởi người mà mình đã yêu và trao đi tất cả. Người đàn bà ngoại tình ấy đáng thương hơn đáng giận rất nhiều, bởi đó là bản năng tuyệt vời của một người phụ nữ đã được đánh thức mãnh liệt sau những năm tháng sống bằng lặng và yên bình với những cảm xúc không thật. Tôi là một người đàn bà. Tôi trân trọng và cũng sợ hãi, xót thương cho những gì đã và đang diễn ra trong đời một người đàn bà giống như mình. Tôi đã cố gắng loay hoay với những cảm xúc của mình mà quên hẳn việc phải thành thật với cảm xúc của chính mình, và người phụ nữ đã mang trong mình một ám ảnh về tội lỗi ngoại tình với chồng con ấy đã chỉ cho tôi biết rằng , tôi không có nhiều thời gian để mài mòn cuộc sống trong những giả dối. Cách tốt nhất tôi có thể làm được chỉ là để mình tự do yêu, và sống cho thật với những gì mình cần phải sống. Ngẫm cho kĩ thì thời gian đâu có quan trọng ngắn dài, điều quan trọng hơn là cách mà chúng ta sống trong khoảng thời gian ấy thôi. Người đàn bà của tôi chỉ cần hai mươi bốn giờ sống thật sự để rồi "gặm nhấm" nó suốt một cuộc đời còn lại, như một nỗi ám ảnh, day dứt, thay đổi tất cả mọi cảm xúc của bà. Tôi xót xa cho số phận của một người đàn bà như mình, nhưng tôi biết tôi chẳng thể nào trốn tránh được những điều đó, bởi nó thuộc về bản năng, bản năng yêu và quyết định mọi thứ bằng trái tìm của tình yêu, mù quáng nhưng chân thành. Người kể câu chuyện về số phận của người đàn bà trong hai mươi bốn giờ ấy đã biểu hiện đủ đầy những diễn biến tâm lý, như một bản nhạc đầy thăng trầm, chỉ trong một khoảnh khắc rất ngắn của đời người, nhưng với những điều tôi đã cảm nhận được, nó còn ngân dài hơn bất kì một bản tình ca nào khác về người phụ nữ. Đó là biệt tài của Stefan Zweig. Và chúng ta, những người phụ nữ suốt đời mang thân phận yếu ớt, mỏng manh, tại sao không thể chia sẻ với những đam mê thật thà của người đàn bà này, và để biết rằng chúng ta có thể tìm thấy điều gì thuộc về nhau. Một trích đoạn rất nhỏ trong câu chuyện, mà tôi muốn dùng nó để kết thúc bài viết của mình, và để bắt đầu cho các bạn khi đã cầm trên tay cuốn sách này. … Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể về số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hawngrriet say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: Tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh ona và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tôi, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đã đè nặng tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khức, đè chặt lấy quá khức không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ… *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ. Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. Mời các bạn đón đọc 24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà của tác giả Stefan Zweig.