Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Luật Hấp Dẫn: 5 Bước Thực Hành - Joe Vitale
"Tôi chưa từng gặp một ai không muốn thành công. Hơn thế nữa, mọi người đều mong muốn khám phá ra những bí mật của thành công để thành công nhanh nhất. Rất nhiều người cứ loay hoay tìm cách. Tôi ngày xưa cũng vậy. May thay, sau khi đọc xong cuốn Người nam châm - bí mật của luật hấp dẫn, tôi đã đọc ngay cuốn Luật hấp dẫn - 5 bước thực hành và nói thật hai cuốn sách này đã làm thay đổi tôi  hoàn toàn. Vậy nên trong lần tái bản này tôi không thể không viết vài dòng về cuốn sách. Nếu như tôi đã từng bị cuốn sách Người nam châm thu hút bởi khi vận dụng luật hấp dẫn ta có thể thu hút thành công, hạnh phúc tới với mình thì Luật hấp dẫn - 5 bước thực hành đưa ra và phân tích sâu vào 5 bước phát triển bản thân và thực hiện việc hấp dẫn những gì chúng ta mong muốn trong cuộc sống. nói một cách khác, Luật hấp dẫn - 5 bước thực hành cụ thể hóa luật hấp dẫn vốn có sẵn trong vũ trụ. Tôi xin nhắc lại 5 bước cụ thể đó để bạn hình dung ra: Bước 1 Tìm hiểu những vấn đề tiêu cực ngăn cản thành công trong cuộc sống của bạn Bước 2: Dám ước mơ và tìm kiếm vận mệnh của chính mình Bước 3: Khám phá bí mật bị lãng quên trong quá trình tìm kiếm sự giàu có, thành công trong cuộc sống Bước 4: Hiện thực hóa mục tiêu Bước 5: Bí mật cuối cùng trở thành người có thể khiến vũ trụ mang đến cho bạn những thứ bạn mơ ước Tôi cũng được một số bạn bè và các cán bộ quản lý các danh nghiệp chia sẻ rằng, Luật hấp dẫn - 5 bước thực hành là bí quyết làm thay đổi đời họ. Nhờ có cuốn sách này, doanh nghiệp của họ lớn mạnh hẳn lên. Có người nhờ Luật hấp dẫn - 5 bước thực hành mà tìm thấy tình yêu như ý, người khác lại có được một sức khỏe tốt. Cá nhân tôi rất thích các bước cụ thể, rõ ràng trong cuốn sách. Từ ngày đọc xong tôi thấy mình hạnh phúc, bình an hơn rất nhiều, dễ dàng vượt mọi chông gai và khó khăn trong cuộc sống. Đối với tôi, Luật hấp dẫn - 5 bước thực hành là một cuốn cảm nang vô cùng hữu ích, là chiếc chìa khóa mở ra những cánh của mới của cuộc đời. Hiện nay tôi thỉnh thoảng vẫn đọc lại cuốn sách để nhắc mình ứng dụng vào cuộc sống và công việc thường ngày. Hình như, nếu áp dụng triệt để những hướng dẫn có sẵn trong cuốn sách này, toàn thế giới sẽ được thay đổi." *** Joe Vitale sinh ngày 29 tháng 12 năm 1953 tại Niles, Ohio, Hoa Kỳ. Ông là Chủ tịch của công ty tư vấn tiếp thị Hypnotic Marketing, Inc. Ông được xem là "Phật Thích Ca của Internet" vì sự nhạy bén với Tiếp thị của mình. Ông là tác giả của rất nhiều cuốn sách nổi tiếng thế giới về Tiếp thị trong đó có cuốn The Attractor Factor. *** ôi thừa nhận điều đó. Tôi không bao giờ muốn xuất bản cuốn sách này, hoặc phổ biến nó đến với đối tượng bạn đọc rộng rãi. Tôi đã sợ hãi. Tôi đã viết cuốn sách này chỉ cho một người: em gái tôi. Bonnie đã có ba đứa con, đang thất nghiệp và phải hưởng trợ cấp xã hội. Tôi đau lòng khi thấy cô ấy đau khổ. Tôi biết cuộc sống của cô ấy sẽ khác đi nếu cô ấy biết về quá trình năm bước mà tôi đã phát triển để tạo ra bất cứ điều gì cô ấy muốn. Tôi đã viết tài liệu này cho cô ấy, chỉ cho cô ấy thôi, vào năm 1997. Bây giờ, cô ấy đã là người ăn nên làm ra và sống vui, sống khỏe. Cô ấy có một ngôi nhà, một chiếc xe hơi, một công việc và một gia đình hạnh phúc. Cô ấy chưa giàu có, nhưng tôi nghĩ là tôi đã chỉ ra cho cô ấy một cách sống mới. Tôi chưa bao giờ muốn cuốn sách này được phổ biến rộng rãi đến công chúng, vì tôi rất lo lắng về cách nhận thức thế giới của tôi. Cho đến nay, tôi đã viết 17 cuốn sách cho các tổ chức nổi tiếng như Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ và Hiệp hội quản lý Hoa Kỳ. Tôi cũng đã thực hiện một chương trình thu âm với hãng Nightingale - Conant. Tôi nghĩ rằng, nếu tôi nói cho thế giới biết về mối quan tâm mang tính tâm linh của mình, mọi người sẽ nhạo báng tôi, khách hàng sẽ từ bỏ tôi, và các tổ chức này sẽ xa lánh tôi. Vì vậy, để an toàn, tôi đã giữ cuốn sách này như một bí mật. Nhưng tháng Sáu năm 1999, tôi cảm thấy có sự thôi thúc trong thâm tâm là gửi cho Bob Proctor một bản sao của bản thảo, lúc ông ấy đang chuẩn bị một hội thảo khoa học về cách làm giàu. Bob đã đọc và thấy thích nó. Và sau đó, ông ấy đã làm một việc khiến tôi sửng sốt. Có 250 người tham gia cuộc hội thảo tại Denver. Họ đều muốn biết làm thế nào để trở nên giàu có. Bob đứng trước họ và đọc tên tất cả các cuốn sách mà tôi đã viết, sau đó giới thiệu tôi với mọi người. Tôi đứng lên, đám đông vỗ tay hoan nghênh. Họ đối xử với tôi như một người nổi tiếng, và tôi thích sự quan tâm của họ. Nhưng sau đó, Bob nói với tất cả mọi người về cuốn sách mới của tôi, cuốn sách chưa được xuất bản. Tôi hơi ngạc nhiên. Tôi đã không chuẩn bị cho việc này. Nhưng tôi vẫn nín thở. Và sau đó, Bob nói với họ tiêu đề cuốn sách, mà tại thời điểm đó nó được đặt tên là Marketing bằng tâm linh (Spiritual Marketing). Cả đám đông bỗng im bặt, và tôi thấy ớn lạnh nơi xương sống. Mọi người không chỉ có phản ứng tích cực với cuốn sách, mà tất cả đều muốn có nó - ngay sau đó. Ít nhất 50 người đã đứng dậy và nói họ muốn mua cuốn sách ngay. Sau đó, Bob cho biết ông muốn giữ lại nó. Và một người làm nghề xuất bản tham gia hội thảo nói rằng ông ta muốn xuất bản cuốn sách, không hề cần xem trước! Mối bận tâm của tôi về việc xuất bản cuốn sách này bỗng dưng biến mất. Tôi có thể thấy rằng đã đến lúc phát hành những ý tưởng này, và tôi cảm thấy rằng tôi sẽ an toàn khi làm như vậy. Vì vậy, tôi đã có mặt ở đây. Chúng ta thường hay lo sợ về rất nhiều điều trong cuộc sống nhưng thực sự thì sự giàu có và vinh quang đang chờ đợi chúng ta ở đâu đó. Tất cả những gì bạn phải làm là bước lên phía trước và làm những điều bạn đang được thúc đẩy từ trong tâm khảm. Bob Proctor đã thúc đẩy tôi trước đám đông 250 người. Kết quả là, tôi đã phát hành cuốn sách ở dạng sách điện tử, với tên gọi Marketing bằng tâm linh vào năm 2001. Cuốn sách đạt được thành công ngay lập tức. Nó đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất tại Amazon vào ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Sáu năm 2001, đúng ngày sinh của cha mẹ tôi. Và nó đã được dịch ra bảy ngôn ngữ. Người ta đã viết thư cho tôi từ khắp nơi trên thế giới, chứng thực rằng năm bước được giải thích trong cuốn sách đã giúp họ có được việc làm, hoặc chữa lành một cái gì đó như “căn bệnh nan y,” hoặc kiếm được tiền bạc, hoặc tìm thấy tình yêu thật sự, và nhiều thứ khác nữa. Đó là sự phản hồi đáng kinh ngạc. Tôi bắt đầu suy nghĩ, “Nếu tài liệu này thực sự đã thay đổi nhiều cuộc đời thì tôi phải làm cho nó xuất hiện trên thế giới theo cách chính thống. Tôi cần phải viết thêm, giải thích năm bước một cách rõ ràng hơn, và tôi cũng cần có một nhà xuất bản mạnh hơn.” Tôi tuyên bố ý định đó của tôi. Và bây giờ, các bạn đang đọc cuốn sách này. Rõ ràng là, tôi đã viết thêm, cập nhật các thông tin và cũng đã tìm được một nhà xuất bản phù hợp. Cuốn Tác nhân thu hút đã ra đời như thế đấy. Nhưng trước khi giải thích quá trình năm bước, tôi xin phép được nói đôi điều. . . Trong mỗi cuộc đời, bất kể cái gì cũng đều hàm chứa những nguyên nhân hình thành nên nó. —F. W. SEARS, How to Attract Success, 1914 Mời các bạn đón đọc Luật Hấp Dẫn: 5 Bước Thực Hành của tác giả Joe Vitale.
Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức - Lester C. Thurow
Lester C. Thurow là Giáo sư Khoa quản trị và kinh tế của Học viện kỹ thuật Massachusetts ( MIT) từ nǎm 1968. Từ nǎm 1987 đến nǎm 1993 ông là Trưởng khoa Quản trị của MIT. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như : The Zero - Sum Society, Head to head và The Future of Capitalisme đều thuộc loại " bestsellers" Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ của nền kinh tế tri thức... Những cá nhân, những tập đoàn và tất cả các quốc gia phải làm gì để có thể thành công trong nền kinh tế mới mẻ này của thế kỷ 21? Thay vì chú ý đến những vấn đề tiêu thụ, Lester C. Thurow thuyết phục chúng ta phải đẩy mạnh đầu tư cho lĩnh vực kiến thức cơ bản, giáo dục và cơ sơ hạ tầng. Chỉ bằng cách công khai xây dựng sự giàu có cho cộng đồng, chúng ta mới có thể tối đa hoá các vận hội để làm giàu cho cá nhân. *** Ở mặt trái của tờ giấy bạc một đô la có hình một kim tự tháp chưa hoàn tất, trên đỉnh có một con mắt sáng long lanh, lấy từ mặt trái đã bị quên lãng của đại huy hiệu Hiệp Chủng Quốc và do Tổng thống Roosevelt cho đặt lên tờ đô la vào năm 1935, giữa cuộc đại khủng hoảng khi mà sự giàu có của Hoa Kỳ đang giảm mạnh. Kim tự tháp được sử dụng làm biểu tượng cho sức mạnh và sự trường tồn kinh tế và chính đặc điểm chưa hoàn tất cũng nhằm biểu hiện cho sự giàu có ở Hoa Kỳ ngày càng tăng. Người Mỹ cần đặt hy vọng vào một nền kinh tế đang sụp đổ sẽ được thay thế bằng một nền kinh tế sẽ tồn tại mãi mãi, những ngày tốt đẹp nhất đối với Hoa Kỳ đang ở phía trước, không phải ở sau lưng. Một câu ghi bằng tiếng La tinh (Annuit Coeptis) cho dân Hoa Kỳ biết rằng Thượng đế ủng hộ công việc của họ. Một câu thứ hai (Novos Ordo Seclorum) tiên đoán một trật tự giàu có mới của Hoa Kỳ. Như vậy, trong những ngày đen tối nhất về mặt kinh tế, người Mỹ vừa mượn biểu tượng thành công bền vững của nhân loại, vừa cầu nguyện Thượng đế hỗ trợ. Đằng sau con mắt long lanh, một biểu tượng của sự hướng dẫn thiêng liêng, là chóp chưa hoàn tất của kim tự tháp cần phải xây dựng. Người Mỹ có thể nhìn thấy cần phải làm gì để gặt hái thành công. Họ cần phải khẳng định mình là những người kiến tạo. Ngày nay, người châu Á nhìn thấy thế giới cũng giống như người Mỹ thấy vào những năm 1930. Sự phát triển kinh tế nhanh đã bị phá vỡ. Sự giàu có của cá nhân, của doanh nghiệp và của xã hội nhanh chóng biến mất. Thị trường chứng khoán của Indonesia giảm trên 80%. Điều mà mới đó tưởng chừng như một sức mạnh kinh tế không gì ngăn chặn nổi và sẽ khống chế thế kỷ 21 lại giống như một sự đổ vỡ vĩnh viễn. Sự phát triển kinh tế có vẻ vững như đá bây giờ lại như băng tuyết đang tan chảy. Mô hình tăng trưởng kinh tế châu Á bằng con đường xuất khẩu đã đem hy vọng lại cho hầu hết thế giới thứ ba là sẽ thu ngắn cách biệt kinh tế với các nước đã phát triển, nay đang tả tơi. Những nước thành công đã sụp đổ. Sự tan rã tài chính châu Á đe dọa nền tảng thành công tại các nước trong thế giới thứ ba như Brasil. Vốn và công nghệ từ các nước thuộc thế giới thứ nhất đổ vào nay lại ra đi và các nhà dự báo đánh giá thấp viễn cảnh kinh tế trong tương lai. Con đường cũ đã bế tắc, đâu là con đường đúng để tích tụ giàu có? Lục địa châu Âu nhìn thế giới trong đó mô hình ưa chuộng - nền kinh tế thị trường xã hội - nơi mà phúc lợi được trả cao và nhà nước can thiệp mạnh để phân phối rộng rãi sự giàu có không còn thích hợp. Trong khi có những biến động lên xuống mang tính chu kỳ nhưng xu hướng lâu dài về thất nghiệp ở châu Âu không ngừng tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp 2 chỉ số chưa bao giờ thấy từ những năm 1930 nay được xem như tình trạng thường xuyên. Một châu lục nghĩ rằng có thể đảm bảo việc làm cho công dân của mình nay mới thấy là không thể làm điều đó. Các nhà chính trị đều hứa là sẽ làm điều gì đó nhưng mọi người biết là sẽ chẳng làm gì. Trong nền kinh tế tri thức nhân tạo mới của thế kỷ 21, toàn châu Âu gần như không có lãnh đạo công nghiệp thành công. Công ty sản xuất máy tính địa phương cuối cùng đã bán cho Đài Loan năm 1998. Châu Âu nói đến việc đuổi theo nhưng biết rằng khoảng cách công nghệ giữa họ và Hoa Kỳ ngày càng tăng. Châu lục đã từng sản sinh ra văn hóa nay phải nhập từ Hoa Kỳ. Biểu tượng tương tự như “Intel Inside” có thể được in trên hầu hết những gì mới tại châu Âu. Việc tái cấu trúc, thu gọn và đưa sản xuất ra ngoại biên được xem là mô hình kinh tế tư bản kiểu Hoa Kỳ cần phải tránh xa lại đến. Tại châu Âu, châu Á và phần còn lại của thế giới thứ ba, nỗi băn khoăn kinh tế lên cao. Tất cả đều mong muốn sức mạnh và sự bền vững của kim tự tháp thể hiện trên tờ một đôla của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ không nằm trong những nước có mối lo lắng cao độ này. Hoa Kỳ đã phục hồi! Trong những năm 1990, Hoa Kỳ thành công nhất trong thế giới các nước công nghiệp. Khoảng cách kinh tế giữa Hoa Kỳ và các nước còn lại của thế giới lại gia tăng. Mức gia tăng 2.000 tỷ đô la tổng sản phẩm nội địa trong thập kỷ 1990 của Hoa Kỳ cao hơn tổng sản phẩm nội địa của tất cả các nước trừ Nhật Bản. Thay vì chựng lại hay sụt giảm trước tình hình khủng hoảng ở châu Á, thành tích kinh tế của Hoa Kỳ trong năm 1998 lại đạt tỷ lệ tăng trưởng 4,3%. Thất nghiệp ở mức thấp nhất trong lịch sử và không có lạm phát. Người giàu nhất hành tinh một lần nữa lại là người Mỹ. Sự giàu có của các vua dầu lửa (Trung Đông) đã bị lu mờ. Số tỷ phú người Mỹ đã có hàng trăm. Các doanh nghiệp Mỹ đã chiếm lại vị trí hàng đầu. Trong năm 1990, chỉ có hai doanh nghiệp Mỹ trong số 10 doanh nghiệp lớn nhất thế giới, con số này là 9 vào năm 1998. Tương tự, vào đầu thập kỷ 1990, không có một ngân hàng Mỹ nào trong số 15 ngân hàng lớn nhất, nhưng vào cuối năm 1998 đã có 9 ngân hàng Mỹ lọt vào danh sách. Ưu thế bên dưới đỉnh cao cũng rất lớn. Hai mươi trong số 25 doanh nghiệp to nhất hiện nay là của Mỹ. Nếu không có xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang tăng trưởng, một sự suy thoái toàn cầu có thể xảy ra trong năm 1999. Sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ đã được phục hồi và tái thống nhất với quyền bá chủ quân sự của họ. Đây là thời kỳ vàng son của Hoa Kỳ. Nhưng ngay bên trong Hoa Kỳ cũng có những ưu tư. Một nền kinh tế đang tăng trưởng nhưng cũng có những dấu hiệu đi xuống mạnh mẽ đối với nhiều người. Rất nhiều người Mỹ tin rằng con cháu của họ sẽ có mức sống thấp hơn họ - cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi mà 2/3 lực lượng lao động có mức lương thực tế thấp hơn mức lương vào năm 1973. Những gì mà họ tin rằng sẽ xảy đến cho con cháu họ cũng đang đến với họ. Thành phần trung lưu đang giảm sụt. Một ít giàu lên nhưng phần lớn đi xuống. Cũng không đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy những gì đang xảy ra đối với lương của thành phần thợ trung cấp nhưng cũng rất đáng ngại. Các trang thông tin tài chính hàng ngày đều cho thấy thị trường chứng khoán tăng mạnh nhưng thu nhập bình quân của các hộ gia đình lại giảm thay vì tăng lên và tài sản tài chính của họ dưới mức 10.000 đô la. Số 20% người nghèo nhất có số nợ cao hơn tài sản của họ. Trong khi kinh tế đang tăng trưởng mạnh, hàng năm có đến 500.000 đến 700.000 công nhân bị các công ty đang làm ăn có lãi cho nghỉ việc - trong năm 1998 có đến 680.000 công nhân. Những công nhân bị cho nghỉ việc trên 55 tuổi sẽ khó tìm được việc làm tốt. Những công nhân dưới 55 tuổi phải chấp nhận mức lương thấp hơn để được thu dụng lại. Dự kiến cho một nghề đem lại cuộc sống thoải mái suốt đời đã trở thành một bí ẩn lớn - ngay cả đối với sinh viên tốt nghiệp đại học. Làm thế nào để có sự thành đạt bền vững? Tìm đâu ra sự an toàn về mặt kinh tế? Chúng ta rất thích thú nhìn những nghệ sĩ biểu diễn đi dây trên cao nhưng thật sự không thích thú chút nào nếu mình là người đi trên sợi dây đó. Cũng như trong thời kỳ Đại khủng hoảng, tốt hơn chúng ta nên ở vị trí đỉnh cao của kim tự tháp biểu hiện sự giàu có và sẽ mãi mãi bền vững. Đáng lo ngại nhất là năng suất giảm gấp ba lần kể từ những năm 1960. Vì sau cùng, chính sự gia tăng năng suất (khả năng tạo nhiều sản phẩm hơn trong khi sử dụng ít nguyên liệu hơn) sẽ thúc đẩy việc tạo giàu có thật sự. Những biến động tạm thời trên thị trường chứng khoán có thể đem lại giàu có theo thị trường trong ngắn hạn nhưng nếu không có sự gia tăng mạnh về năng suất sẽ không tìm được của cải của sự giàu có về lâu về dài. Con mắt long lanh trên đỉnh của kim tự tháp trên tờ 1 đôla làm người ta không quan tâm đến phần đáy của nó. Cũng thế, sự sáng chói của mức độ giàu có nằm ở nấc cao nhất trên thang phân bổ giàu có - những tỷ phú mới - làm lu mờ phần đáy của kim tự tháp, là nền tảng của chính sự giàu có. Nhưng cho dù được nằm ở đỉnh là cả một sự hấp dẫn, kim tự tháp thật được xây dựng từ đáy lên chứ không phải từ đỉnh xuống. Vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, sáu công nghệ mới - vi điện tử, máy tính điện tử, viễn thông, nguyên liệu nhân tạo mới, rô bốt và công nghệ sinh học - đang tác động qua lại tạo ra một thế giới kinh tế mới và rất khác biệt. Những tiến bộ trong khoa học cơ bản làm nền tảng cho 6 lãnh vực này đã tạo ra những công nghệ đột phá làm nẩy sinh hàng loạt công nghiệp vừa to lớn, vừa mới mẻ: máy tính điện tử, mạch bán dẫn, tia la de... Những công nghệ này tạo cơ hội để cải tiến nhiều ngành công nghiệp cũ: Mua bán qua mạng thay thế mua bán thông thường; điện thoại di động rải khắp nơi. Nhiều sự việc mới có thể thực hiện được: cây và con biến đổi gien xuất hiện; một nền kinh tế toàn cầu hóa lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại trở thành hiện thực. Nói một cách tượng hình, đây là thời kỳ công nghiệp nhân tạo từ tri thức. Nền tảng cũ của sự thành công đã biến mất. Đối với hầu hết lịch sử nhân loại, nguồn gốc của sự thành công là sự kiểm soát tài nguyên thiên nhiên - đất đai, vàng bạc và dầu mỏ. Bất chợt lời giải là “tri thức”. Người giàu nhất thế giới, Bill Gates, không sở hữu bất kỳ vật hữu hình nào - không đất đai, không vàng bạc, không dầu mỏ, không nhà máy, không qui trình công nghệ, không quân đội. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại người giàu nhất chỉ sở hữu tri thức. Tri thức là cơ sở mới của sự giàu có. Điều này chưa bao giờ là một sự thật. Trước đây, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có của mình, họ nói về quyền sở hữu nhà máy, máy móc thiết bị và tài nguyên thiên nhiên. Trong tương lai, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có, họ sẽ nói về sự kiểm soát tri thức. Ngay cả ngôn ngữ để thể hiện sự giàu có cũng thay đổi. Người ta có thể nói về sở hữu thiết bị hay tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm về “sở hữu” ở đây rất rõ ràng. Nhưng người ta không thể nói sở hữu tri thức. Sở hữu tri thức là một khái niệm rất lỏng lẻo. Người có tri thức không thể trở thành nô lệ. Chính xác là làm sao để sở hữu tri thức mới thực sự là vấn đề cốt lõi trong nền kinh tế tri thức. Sự biến đổi hiện nay thường được mô tả một cách sai lầm là cuộc cách mạng thông tin hay là một xã hội thông tin. Nó còn vượt xa hơn thế nữa. Thông tin nhanh hơn hay rẻ hơn tự nó chẳng có giá trị gì. Thông tin chẳng qua là một trong những yếu tố đầu vào mới sử dụng để xây dựng một nền kinh tế khác biệt trong đó có nhiều sản phẩm và dịch vụ rất khác biệt. Thông tin nhiều hơn cũng chẳng có gì quan trọng hơn những loại nguyên liệu mới, những thực thể sinh học mới, hay những loại rô bốt mới trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức mới này. Xã hội cần phải tổ chức lại thế nào để tạo môi trường thúc đẩy làm giàu dựa trên tri thức? Điều gì cần thiết để làm cho các nhà doanh nghiệp thay đổi và làm cho sự giàu có nẩy nở? Làm thế nào để cho sự giàu có dựa trên tri thức phát sinh? Đòi hỏi kỹ năng gì? Tài nguyên thiên nhiên và môi trường tham gia vào nền kinh tế tri thức mới này thế nào? Vai trò của việc chế tạo công cụ trong nền kinh tế tư bản tri thức là gì khi mà các công cụ vật chất không còn chiếm vị trí trung tâm của hệ thống? Qui trình nào để sự giàu có có thể mua bán được của tư nhân xuất hiện? Cơ bản là làm thế nào sử dụng “tri thức” để xây dựng một kim tự tháp giàu có mới cho cá nhân, cho công ty và cho xã hội? Đây là những câu hỏi cần phải trả lời nếu muốn thành công trong nền kinh tế tri thức. Điều quan trọng về bất kỳ kim tự tháp nào không phải được khám phá bằng cách trèo lên đỉnh mà chính là các đường hầm dẫn đến các kho tàng ẩn giấu bên trong. Làm thế nào để lợi dụng các công nghệ mới để cải tiến sản xuất các sản phẩm cũ và tạo ra các sản phẩm cải tiến mới? Kỹ thuật xây dựng mới là gì để đưa các tảng đá to hơn (năng suất cao hơn) vào vị trí? Làm thế nào chúng ta có thể sử dụng các công nghệ mới này để xây dựng các kim tự tháp giàu có to hơn và cao hơn trong tương lai? Xây dựng một kim tự tháp giàu có bền vững đòi hỏi trước hết chúng ta phải tìm hiểu khung cảnh kinh tế mới đang hình thành. Nằm đâu đó trong khung cảnh này sẽ là một kim tự tháp biểu hiện sự giàu có mới. Một khi đã khám phá ra nó, các tính chất khảo cổ của nó cần phải được thông hiểu tường tận. Nó đã được xây dựng thế nào? Đâu là các lối vào? Thiếu các thông tin này, các nhà săn tìm kho tàng không thể tìm thấy của cải kinh tế chôn vùi bên trong. Chỉ sau khi là những nhà khám phá, nhà khảo cổ và những người săn lùng kho tàng, con người mới có thể trở về với công việc thực của mình - học cách xây dựng cho bản thân, cho công ty và cho xã hội của chúng ta một kim tự tháp biểu tượng cho sự giàu có vĩ đại, mới và bền vững. Mời các bạn đón đọc Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức của tác giả Lester C. Thurow.
Thịnh Vượng Tài Chính Tuổi 30 Tập 2 - Go Deuk Seong
Là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trí tuệ và kỹ năng quản lý tài chính từ bước đi của một nhà hoạch định tài chính nổi danh của ngân hàng SC First Hàn Quốc được tập hợp trong cuốn sách này. “Thịnh vượng tài chính tuổi 30 – tập 2” chú trọng đến những bước chuẩn bị về tài chính, và sự chuẩn bị đó được áp dụng vào đời sống thực tế như thế nào. Có thể nói cuốn sách này là bản thực hành của con người trước những việc cần chuẩn bị cho cuộc sống sau này, những hiện thực khốc liệt, tính cấp bách, tính tất yếu và mức độ cẩn trọng của công việc chuẩn bị cho những tháng năm về hưu. Đại diện Bảo hiểm nhân thọ AIG – Kim Seongil đã nhận định: “Nếu được đọc cuốn sách này sớm, con đường đến thành công của bạn sẽ bằng phẳng hơn. Đây không phải là cuốn sách dạy làm giàu hay liệt kê cách quản lý tài chính đơn thuần. Thông qua việc mô tả kinh nghiệm của năm nhân vật đang làm những công việc bình thường, cuốn sách sẽ lần lượt giảng giải về những vấn đề mà bạn gặp phải trong từng giai đoạn cuộc đời và hướng dẫn bạn cách quản lý tài chính trong giai đoạn đó. Các bạn thanh niên độ tuổi đôi mươi mới bước vào đời, các bạn độ tuổi ba mươi đang trong giai đoạn lập nghiệp, những người độ tuổi bốn mươi với vai trò người chủ gia đình, cùng những công chức độ tuổi năm mươi chuẩn bị về hưu…” Tiền bạc từ xưa đến nay luôn là vấn đề khiến con người suy nghĩ và phiền muộn nhiều nhất. Không sử dụng một mệnh lệnh thức, mà nhờ cách hành văn theo lối tiểu thuyết, tạo cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen, tác giả khéo léo mô tả cuộc sống của con người với việc chi tiêu cá nhân trong ngày. Từ đó nhẹ nhàng truyền tải đến người đọc những nguyên tắc ý nhị, sâu xa nhất, những ý tưởng và nguồn năng lượng tràn đầy. Chỉ đơn thuần là lời giảng, là bài học của Giáo sư Masu mà như một phép thần thông những khó khăn trong quá trình quản lý tài chính được gỡ bỏ một cáh nhẹ nhàng, và mục tiêu về một cuộc sống thịnh vượng trong tương lai không chỉ còn là mơ ước đối với mỗi người nữa. Và theo chính tác giả Go Deuk Seong thì “mục đích cuối cùng của quản lý chi tiêu là đạt đến sự tự do về mặt tài chính, cả đời không phải đau đầu vì tiền, lúc nào cần đến tiền là có để dùng ngay. Đến lúc về hưu chúng ta cũng cần phải được tự do về tài chính, chỉ có như vậy ta mới ứng phó được với những vấn đề sau khi về hưu. Cần biết rằng khoản tiền 1.000 NDT ta đã tiêu khi còn trẻ nếu để dành đến lúc về hưu sẽ có ý nghĩa và tác dụng lớn lao hơn rất nhiều”. Như một con ong chăm chỉ, như một chú kiến cần mẫn, siêng năng, tích lũy từng chút mật ngọt cho đời. Công việc vất vả và hi sinh của ngày hôm nay sẽ được trả thích đáng cho một tương lai tươi sáng, an bình và thịnh vượng sau này. Tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ có thời gian là thước đo chính xác nhất kết quả sự nghiệp của mỗi người. Thành công và thịnh vượng hay không, con đường làm giàu 30 năm hay thậm chí chỉ mất hơn 10 năm cũng đều là con đường do bạn phác thảo, vẽ ra và đi qua. “Thịnh vượng tài chính tuổi 30 – tập 2” – sẽ là hành trang, là bản thiết kế chi tiết cho cuộc sống hạnh phúc của bạn mai sau. *** Những bước chuẩn bị hôm nay sẽ quyết định tương lai 30 năm sau Khi còn nhỏ, cha mẹ thường dạy chúng ta rằng: “Con hãy học tập chăm chỉ, đạt điểm cao, thi đỗ trường đại học danh tiếng, con sẽ tìm được công việc với mức lương cao và đãi ngộ tốt”. Ngày nay, bạn tốt nghiệp đại học, bắt đầu đi làm, phấn đấu trong công việc, ngày nghỉ đi du lịch cùng bạn bè, như vậy cũng là tạm ổn. Nhưng 30 năm sau thì sao? Bạn đã bao giờ mường tượng về cuộc sống của mình 30 năm sau? Bạn sẽ cầm tay người bạn đời của mình ngắm mặt trời mọc trên biển Aegean Hy Lạp, hay ngồi ăn cháo trắng trong ngôi nhà nhỏ bé của mình? Mỗi người chúng ta đều sẽ già đi, nhưng không ai mong muốn thu nhập hôm nay kém hơn hôm qua; ai cũng mong mình sống lâu, và không muốn phải chịu cảnh buồn tủi lúc tuổi già. Bạn đã bao giờ tính toán thử xem 30 năm sau, với vai trò làm cha mẹ, bạn sẽ có bao nhiêu tiền để cho con ăn học, kết hôn? Sau khi nghỉ hưu bạn sẽ duy trì mức sống như hiện nay bằng cách nào? Bạn cần bao nhiêu tiền để làm việc đó? Giả sử hiện nay bạn 30 tuổi, bạn sẽ nghỉ hưu năm 55 tuổi, và sẽ mất vào năm 80 tuổi. Hiện nay chi phí tối thiểu cho cuộc sống ở thành phố và bảo hiểm y tế là 300.000 Won/tháng, tạm tính tỷ lệ lạm phát là 4%, 25 năm sau nếu muốn duy trì mức sống như hiện nay cần phải có 800.000 Won/tháng. Cuộc sống sau khi nghỉ hưu trong 25 năm tối thiểu cần 800.000 Won/tháng x 12 tháng x 25 năm = 240.000.000 Won. Nếu thêm 200.000 Won chi phí du lịch và thư giãn tối thiểu, thì sẽ phải thêm 160.000.000 Won nữa, tổng cộng là 400.000.000 Won. 400.000.000 Won mới chỉ là chi phí cho bản thân, tổng chi phí cho hai vợ chồng tính sơ sơ cũng lên đến 800.000.000 Won. Hơn nữa, nếu có sức khỏe, bạn còn có thể sống đến 85 tuổi thậm chí là 90 tuổi. Thêm vào đó là những chi phí không thể tính trước dành để chữa trị những căn bệnh của tuổi già. Do vậy mà số tiền cần thiết để dưỡng già sẽ có thể lên tới 1.000.000.000 Won hoặc cao hơn nữa. Nhưng tôi sẽ tiết lộ cho bạn biết thời gian để chúng ta kiếm ra số tiền đó. Theo giả thiết trên, nếu bạn đi làm năm 25 tuổi, thì thời gian làm việc là 30 năm, thời gian nghỉ hưu 25 năm, cũng có nghĩa là trong 30 năm đi làm bạn sẽ phải chuẩn bị 800.000.000 Won, trong đó chưa bao gồm khoản tiền mua nhà, mua xe và nuôi con cái. 30 năm, 800.000.000 Won, tôi dám chắc rằng bạn đang choáng váng với những con số này. Thực ra, bạn không cần phải hoang mang đến vậy, bởi vì nhà hoạch định tài chính hàng đầu châu Á đã tìm ra đối sách cho bạn, giúp bạn vượt qua bức tường ngăn cách giữa nghèo khó và giàu sang! Hãy cùng tôi xem xét bảng tính sau: Mỗi tháng 200.000 Won, 30 năm sau sẽ có 1.200.000.000 Won. Nếu bạn 30 tuổi, mỗi tháng bạn chỉ cần đầu tư 200.000 Won, thì 30 năm sau, tức là khi bạn 60 tuổi, bạn sẽ có 1.200.000.000 Won! 1.200.000.000 Won đủ cho bạn và người bạn đời hưởng thụ cuộc sống an nhàn lúc tuổi già. Có thể bạn thấy điều này thật khó, bạn đang trong độ tuổi lập nghiệp, bạn phải mua nhà, mua xe, chuẩn bị kết hôn, không thể để ra 200.000 Won mỗi tháng, vậy thì bạn có thể lùi lại 10 năm, đến khi 40 tuổi được không? Đáp án là có, nhưng bạn sẽ tổn thất hơn 900.000.000 Won. Từ năm 30 tuổi mỗi tháng đầu tư 200.000 Won, trong 30 năm thu lời sẽ là 1.200.000.000 Won. Đến năm 40 tuổi mới bắt đầu đầu tư, đầu tư trong 20 năm thì lợi nhuận sẽ là bao nhiêu? 282.744.200 Won! Chỉ chậm 10 năm thôi, thu nhập của bạn đã giảm đi hơn 900.000.000 Won. ... Mời các bạn đón đọc Thịnh Vượng Tài Chính Tuổi 30 Tập 2 của tác giả Go Deuk Seong.
Tự Tin Khởi Nghiệp - T. Jason Smith
Bước chân vào môi trường làm việc mới, chắc chắn bạn sẽ không tránh khỏi những bỡ ngỡ, thiếu sót và đôi khi là thất vọng. "Tự tin khởi nghiệp" là cuốn sách được một Chuyên gia Quản lý nhân sự viết ra từ những trải nghiệm của chính mình suốt 14 năm trong nghề. Cuốn sách sẽ gợi mở cho bạn nhiều kinh nghiệm quý báu trên bước đường khởi nghiệp, giúp bạn vượt qua những khó khăn ban đầu để đi đến thành công, đồng thời có được sự cân bằng trong cuộc sống.   Với những phần công việc thường ngày là tuyển dụng nhân viên mới cho công ty, tạo điều kiện cho họ phát triển, thưởng - phạt khi cần thiết và theo dõi một số vấn đề khác xoay quanh việc quản lý nhân sự, tác giả T. Jason Smith đã chia sẻ những “mẹo nhỏ” để bạn tự tin trên bước đường khởi nghiệp. Tuy nhiên, cuốn sách không đi vào những kỹ năng cụ thể mà tập trung tìm hiểu các hành vi. Nếu kỹ năng là điều bạn có được dựa trên kiến thức và thực hành thì hành vi là những phản ứng mang tính bản năng. So với kỹ năng thì hành vi phức tạp hơn nhiều. Hành vi của bạn như thế nào thường xuất phát từ tư cách của bạn, chứ không phải ở việc bạn có hiểu biết hay không. Một trong những mục đích của cuốn sách này là đi vào phân tích những hành vi cần và nên tránh trong năm đầu khởi nghiệp.   Giai đoạn đầu của quá trình hòa nhập và làm quen với công việc dường như khó khăn với bạn trẻ, bởi những kinh nghiệm non nớt trong ứng xử - giao tiếp với khách hàng, đồng nghiệp; bởi những hiểu biết hạn hẹp về những kỹ năng trong công việc và cách thức học hỏi từ những đồng nghiệp đàn anh, đàn chị. Và cuốn sách này được xem như một cẩm nang giúp bạn hòa nhập và thích ứng với môi trường làm việc mới. Những cân nhắc trước khi đưa ra ý kiến, giữ hòa khí, nổ lực cải thiện bản thân và không nhầm lẫn bất đồng công việc với xung đột cá nhân... là những điều đáng lưu ý và là trong số những chủ đề được đề cập trong cuốn sách. Mỗi nội dung sẽ có một bài kiểm tra để bạn thử sức. Do không thể biết trước được đâu là tình huống bạn sẽ phải đối mặt trong năm đầu tiên, nên cách tốt nhất, bạn hãy tìm hiểu qua tất cả chủ đề. Điều này sẽ giúp bạn có thêm kinh nghiệm và tránh bị sốc trước những khó khăn bất ngờ gặp phải trong môi trường làm việc mới.   Cuốn sách này hướng đến đối tượng là những sinh viên mới ra trường, những bạn trẻ hiện đang hoặc chẳng bao lâu nữa sẽ bước vào môi trường làm việc mới. Họ là những người năng động, nhiệt tình và đầy hoài bão. Ngoài ra, nếu bạn là người đã đi làm, bạn vẫn có thể dành một ít thời gian để tham khảo cuốn sách này, biết đâu bạn sẽ tìm được trong đó những kinh nghiệm bổ ích, tránh được những sơ suất đáng tiếc.   Những điều tác giả chia sẻ với bạn trong cuốn sách không có nghĩa sẽ giúp bạn trở thành vị lãnh đạo cao nhất, mà đơn giản chỉ là những kinh nghiệm giúp bạn bắt đầu xây dựng nền móng nghề nghiệp vững chắc để có được thành công trong tương lai. Bên cạnh vấn đề làm thế nào tránh được những sai lầm không đáng có, bạn sẽ được tìm hiểu nhiều vấn đề khác, ngoài công việc – những điều bạn vốn không xem trọng nhưng lại có ảnh hưởng lớn đến nền tảng nghề nghiệp của bạn.   *** Mỗi chúng ta đều ít nhiều mắc phải những sai phạm và hối tiếc về điều đó. Nhưng trong môi trường làm việc chuyên nghiệp, bạn sẽ không có nhiều cơ hội khắc phục sai phạm, nhất là những sai phạm khiến người khác có thành kiến về bạn. TRÁCH NHIỆM Trong phần này cũng như những phần sau, tôi muốn nói về những tình huống mà hành vi cá nhân có thể chen vào cuộc sống của bạn bằng những cách mà bạn không thể kiểm soát được. Trước tiên, chúng ta hãy bàn đến một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến năm khởi nghiệp của bạn, đó là trách nhiệm. Trách nhiệm được hiểu là phần việc được giao, hoặc coi như được giao, phải đảm bảo hoàn thành, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu hậu quả. Việc hiểu và biết chịu trách nhiệm trong cuộc sống rất quan trọng đối với việc tự lập hướng tới tương lai. Khi còn là một đứa trẻ, bạn được sống trong vòng tay nâng niu, chăm sóc của người thân yêu trong gia đình. Lớn hơn một chút, bạn có thể phải đi học xa, sống xa nhà, phải tự quản lý việc chi tiêu của mình. Nhưng nhìn chung, giai đoạn này hầu như bạn vẫn ít nhiều có được sự giúp đỡ từ gia đình. Khi cần tới tiền bạc hoặc cần sự trợ giúp, bạn có thể gọi điện về nhà nhờ người thân. Kết thúc khóa học, bạn được trở về nhà nghỉ ngơi, được ngủ một giấc thật sâu, ăn những thức ăn ngon do bố mẹ chuẩn bị. Tóm lại, đây là quãng thời gian bạn được đón nhận rất nhiều sự giúp đỡ và được thỏa mãn những nhu cầu của bản thân. Bước sang giai đoạn trưởng thành, bắt đầu cuộc sống tự lập, bạn cần điều chỉnh cách nghĩ, cách sống của mình sao cho phù hợp với thực tế. Lúc này, hầu như mọi thứ đều do bạn quyết định, tương lai của bạn tùy thuộc vào những quyết định ấy. Trách nhiệm của bạn là nhận biết đâu là điều cần thiết cho cuộc đời mình, biết dấn thân và chấp nhận những hậu quả có thể xảy ra. Sau mỗi hành động, người nhận được niềm vui hay nỗi buồn nhiều nhất, không ai khác ngoài bạn. Bạn không thể đổ lỗi cho bất cứ ai bởi đó là những quyết định bạn đã lựa chọn. Những người càng nắm giữ nhiều trọng trách càng phải gánh vác nhiều trách nhiệm, nhưng những kinh nghiệm tích lũy được sẽ trợ giúp cho họ rất nhiều. Ngược lại, một người trẻ tuổi lần đầu tiên đi làm sẽ phải chịu sức ép từ nhiều trọng trách khác nhau; họ sẽ dễ bị sốc và quá tải. Có thể nói, trách nhiệm len lỏi qua mọi khía cạnh cuộc sống tự lập của bạn, nhất là trong năm đầu khởi nghiệp. Bài học về trách nhiệm và việc hoàn thành trách nhiệm luôn là bài học hóc búa nhất mà ngay cả đến những nhân viên làm việc lâu năm đôi khi cũng phải vật lộn với nó. Trong công việc, trách nhiệm được thể hiện ở chỗ bạn sẽ thực hiện đến cùng và hoàn tất công việc được giao. Bên cạnh đó, khi hoàn tất công việc đúng thời hạn, bạn sẽ có được uy tín, sự tin tưởng của đối tác, khách hàng… Ở trường học, bạn có thể nói: “Xin lỗi, em đã không hoàn thành bài tập đúng hạn”, hoặc một ngày nào đó không muốn đến lớp, bạn vẫn có thể nghỉ ở nhà mà chẳng ảnh hưởng đến ai. Nhưng trong công việc lại khác. Khi bạn không hoàn thành trách nhiệm được giao, điều này có thể tác động không tốt đến người khác. Chẳng hạn, bạn có nhiệm vụ lên kế hoạch cho một sự kiện tại hội nghị thường niên trong đó công ty bạn là thành phần ban tổ chức. Công ty bạn bảo trợ mọi thứ, từ những bữa điểm tâm cho đến những bữa ăn tối, rồi vấn đề diễn giả… Đại sảnh được trang hoàng bằng tên và biểu tượng của công ty bạn. Việc lập kế hoạch cho sự kiện này khiến bạn quá mệt mỏi. Bạn quyết định nhờ một nhân viên khác làm nốt phần việc còn lại, trong khi bạn thì về nhà nghỉ ngơi, mặc dù ngày mai hội nghị diễn ra. Hậu quả của việc trốn tránh trách nhiệm này xảy ra ngoài dự đoán của bạn và cũng vô phương cứu chữa. Tên công ty của bạn được xướng lên trong đại hội nhưng những sự kiện mà bạn có trách nhiệm thực hiện thì thất bại hoàn toàn. Trong mắt của hàng ngàn người tham dự, ấn tượng về công ty bạn thật thảm hại. Và người “mất mặt” nhất hôm ấy không phải là bạn mà là sếp của bạn - người đã tin tưởng giao trách nhiệm cho bạn. Chẳng còn gì có thể cứu vãn được tình hình. Thất bại quá rõ ràng. Người ta sẽ không quan tâm đến những lý do như bạn quá mệt mỏi, bạn không thể làm được hay bạn không biết, hoặc bạn quên và rất lấy làm tiếc đã để chuyện đã xảy ra v.v… Điều duy nhất người ta nghĩ về bạn lúc này đó là một người thất tín. ... Mời các bạn đón đọc Tự Tin Khởi Nghiệp của tác giả T. Jason Smith.