Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Viên Tướng của Nhà Vua - Daphne Du Maurier

Tác phẩm Le Géneral du Roi (Viên tưởng nhà vua) được đề tựa là "Thiếu nữ tật nguyền thời ly loạn" khi xuất bản, đạt một con số kỷ lục về phát hành: một triệu bản bán hết sạch trong vòng ba tháng bên Hoa Kỳ và được dịch ra 20 thứ tiếng. Tác phẩm nhằm mô tả mối tình nghiệt ngã giữa một cô gái tật nguyền và một viên tướng chọc trời khuấy nước. Nhân vật trung tâm của thiên tiểu thuyết này là một cô gái sinh ra và lớn lên trong một gia đình danh giá ở Cornouailles, Anh quốc, nhưng cũng như bao gia đình khác, sớm bị cuốn hút vào cuộc nội chiến năm 1642 giữa hai phe: một bên là quân đội bảo hoàng trung thành với vua Charles Stuart, bên kia là lực lượng phiến loạn của Hội đồng Nghị Viện. Honor Harris (tên cô gái, nhân vật chính trong truyện) từ lúc quen biết với Richard Grenvile, viên tướng nhà vua ở miền tây, đã bị gia đình phê phán nghiêm khắc, vì Richard mang nhiều tai tiếng và tính khí lạ thường của ông ta không gây thiện cảm với mọi người. Gia đình ép Honor lấy một thanh niên khác, nhưng Honor nhất định cự tuyệt. Cuối cùng gia đình phải thuận cho cô ta làm lễ đính hôn với người mình yêu. Gần đến ngày đám cưới, Richard tổ chức một cuộc đi săn bằng chim ưng. Nhưng cuộc đi săn hào hứng ban đầu lại kết thúc bằng tấn thảm kịch: Honor bị ngã ngựa xuống vực và từ đó hai chân bị bại liệt vĩnh viễn. Tai nạn trên xảy ra một phần do ác ý của Gartred, em gái của Richard. Giữa Honor và Gartred có mối thù từ lâu, khi Gartred còn là chị dâu của Honor, vì Honor không thích tính tình lẳng lơ của chị dâu, ngược lại Gartred ghét tính soi mói của em chồng. Ngay sau khi bị tai nạn và phải chịu tật nguyền suốt đời, Honor trở về nhà xưa ở Lanrest và quyết không cho Richard gặp mặt nữa. Cuối năm đó, Honor được tin người yêu đi lấy vợ. Richard lấy vợ không phải vì yêu, nhưng nhắm vào gia tài của vợ để thanh toán nợ nần. Cũng vì thế họ sớm ly dị với nhau, tuy rằng đã có với nhau một trai, một gái. Đứa con trai tên Dick, ngay từ nhỏ đã chứng kiến cảnh cha mẹ ẩu đả, cảnh máu đổ, nên nó rất oán hận cha nó. Giữa hai cha con luôn xảy ra mâu thuẫn gay gắt. Người cha là hình ảnh hung thần, thích bạo lực và chém giết. Đứa con là biểu tượng của sự yếu đuối tinh thần lẫn thể xác. Năm 1642, nội chiến bùng nổ khắp nước Anh. Phe phiến loạn ủng hộ Nghị Viện do các danh tướng Fairfax và Cromwell chỉ huy dần dần thắng thế. Trong nội bộ phe bảo hoàng ủng hộ Đức Vua, tướng Richard lại không được tin dùng. Năm 1646, phe bảo hoàng bị đánh tan trên toàn cõi nước Anh. Hoàng tử de Galles cùng ban tham mưu phải lưu vong bên Pháp, mưu đồ sự nghiệp khôi phục ngai vàng. Điều đáng nói ở đây là trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn này, vai trò của Honor, thiếu nữ tật nguyền, không phải là lu mờ. Trái lại chính cô là hình ảnh tiêu biểu của ngươi phụ nữ trong thời chiến với những đức tính dũng cảm, nhẫn nại và thủy chung. Chính Honor đi theo, động viên người yêu trên đường chinh chiến. Chính Honor giúp đỡ hai cha con Richard trốn thoát khỏi sự truy lùng của phe thắng thế. Chính Honor là người khích lệ, an ủi mọi người trong gia đình khi xứ sở lâm vào cảnh bị chiếm đóng. Nữ văn sĩ Daphné du Maurier khi viết tác phẩm này đã dựa trên một số tài liệu có thật, liên quan đến giòng họ Rashleig trong cuộc nội chiến 1642. Trong bối cảnh lịch sử có thật đó, bằng bút pháp chan chứa tình cảm, bà đã lồng vào một mối tình ngang trái của người thiếu nữ tật nguyền hiền lành nhưng không kém phần khôn ngoan với một viên tướng khét tiếng hung bạo, nhưng trung thành với lý tưởng. *** Tháng chín 1653. Cuối hè. Những ngọn gió lạnh đầu tiên của mùa thu. Khi tôi thức dậy, ánh sáng mặt trời không tràn vào cửa sổ hướng đông như thường lệ nữa. Vầng thái dương biếng nhác chỉ đi qua phía trên đỉnh đồi sau làn gió. Một làn sương mù trắng thường che khuất vịnh cho đến giữa trưa, tỏa vào không trung một hơi thở buốt giá. Đồng cỏ không sao khô được và đến trưa vẫn còn ướt đẫm đươi ánh nắng. Những giọt nước treo lơ lửng, bất động trên đầu các ngọn cỏ. Tôi chú ý đến thủy triều hơn. Mỗi lần biển rút xuống, bãi cát khô tỏa rộng thêm, với những đường gợn đều đặn. Trong trí tưởng tượng của tôi lại xuất hiện những giấc mơ xưa như loài sò hến cùng những tảng đá nhô mình ra khi làn nước rút xuống. Một cảm giác lạ lùng, phơi phới xâm chiếm hồn tôi khi mơ về quá khứ. Tôi không hối tiếc gì, trái lại tôi sung sướng và hãnh diện. Trên trời những đám mây đã lẫn trốn và mặt trời bây giờ đã lên cao, những tia nắng ấm chào đón thủy triều lên. Tôi có cảm tưởng vào giữa trưa biển vẫn xuống khi mà hy vọng trong lòng dâng lên cao nhất và tâm hồn tôi lắng đọng. Sau đó, tôi cảm thấy một bóng mờ tỏa lên và niềm vui tan biến. Những đám mây đầu tiên của chiều tối lại ló dạng, vươn dài những ngón tay trên bầu trời biển. Mặt nước căng phẳng, chiếm dần bãi cát. Không còn đá trắng và sò hến nữa. Bãi biển đã bị che lấp và những giấc mơ của tôi cũng bị chôn vùi cùng với màn đêm, biển đã chiếm lại những gì đã mất. Chính vào lúc này Matty đến thắp sáng các ngọn đèn, khều lửa trong lò sưởi và bận rộn với công việc. Nếu tôi trả lời vắn tắt, hay không trả lời, cô ta sẽ gật đầu, nhắc rằng mùa thu là mùa đau khổ của tôi. Nỗi sầu thu của tôi. Nhớ lại những ngày xa xưa, khi còn thanh xuân, tôi đã sớm hiểu thế nào là nỗi sầu thu trong khi Matty sừng sộ xua đuổi người khách: "Hôm nay cô Honor không tiếp khách". Gia đình đã quen để tôi yên. Bình yên! Hai chữ khá mỉa mai đủ mô tả những nổi tuyệt vọng đen tối mà tôi là nạn nhân... Quái!... Đã khá xa rồi những cơn khủng hoảng, những phút giây đau khổ thể xác mà tôi không thể tìm được thảnh thơi. Đó là những cuộc đấu tranh để sinh tồn của tuổi thanh xuân. Tôi không nổi loạn nữa. Những năm tháng đã trôi qua. Phần thưởng đã đến với sự chịu đựng. Điều bất hạnh là tôi không thể đọc sách nhiều như khi xưa nữa. Lúc còn hai mươi lăm tuổi, sách là niềm an ủi lớn lao của tôi. Là một học trò giỏi, tôi say mê học tiếng Hy lạp và tiếng La tinh. Sự học đã chiếm một phần lớn trong cuộc đời tôi. Còn bây giờ, học có ích lợi gì? Đã từng ngông cuồng khi còn trẻ, tôi e rằng sẽ còn ngông hơn theo tuổi tác. Robin cũng đoán chắc thế. Tội nghiệp Robin. Thời gian cũng không buông tha anh. Năm nay Robin đã già đi rất nhiều. Có lẽ vì lo lắng cho tôi. Tôi biết Matty và anh đã bàn bạc về tương lai khi họ tưởng rằng tôi ngủ. Tôi nghe tiếng thì thầm của hai người trong phòng khách. Nhưng mỗi khi đứng trước mặt tôi, Robin làm bộ tịch vui vẻ khiến tôi đau lòng. Ôi người anhyêu dấu của tôi. Khi anh ngồi bên tôi, bằng cái nhìn phán đoán mà tôi chỉ có đối với những người tôi thương yêu, tôi nhận thấy hai túi lệ đường nặng trỉu dưới đôi mắt anh, hai bàn tay vừa run rẩy vừa mồi ống điếu. Có phải anh đấy không, con người có trái tim thư thái và tinh thần đầy đam mê? Ai đã xông ra chiến trường, tay nắm chim ưng? Ai, mới cách đây mười năm đã cùng với Bevil Grenvile đưa quân đến Braddock Down giương lá cờ đỏ chói với ba sọc vàng óng ánh trước mắt quân thù? Anh có phải là người mà có lần tôi thấy đấu kiếm với tình địch dưới ánh trăng, chỉ vì một người đàn bà không chung thủy? Bây giờ nhìn anh thật buồn cười. Ông anh Robin đáng thương của tôi, với những lọn tóc lỏa xỏa xuống tận vai. Phải, những lo âu của chiến tranh đã để lại dấu vết trên hai chúng tôi. Chiến tranh và những người thuộc huyết thống Grenvile. Có lẽ Robin vẫn luôn gắn bó với Gartred, như tôi gắn bó với Richard. Chúng tôi không bao giờ đề cập đến những vấn đề đó. Chúng tôi chỉ còn lại cuộc sống vô vị của từng ngày. Vả lại, trọng giới hạn bạn bè của chúng tôi, ít ai mà không chịu đựng đau khổ. Có nhiều người đã khuất hoặc tan nát cửa nhà. Tôi không quên rằng Robin và tôi chỉ sống bằng tiền cứu tế. Nếu Jonathan Rashleigh không cho chúng tôi ngôi nhà này, chúng tôi không có lấy một nơi trú ngụ. Lanrest không còn nữa và Radford thì bị chiếm đóng. Jonathan có vẻ rất già và mệt mỏi, sau một năm cay nghiệt bị tù đày ở Saint - Mawes cùng với cái chết của con trai là John. Mary vẫn không thay đổi. Có lẽ phải thêm một cuộc nội chiến nữa mới mong đánh đổi được tính cương quyết trầm tĩnh và đức tin của chị ta nơi Chúa. Alice và các con vẫn ở với họ, nhưng Peter đã quên Alice và không bao giờ đến thăm cô ta nữa. Tôi nghĩ đến cái thời mà tất cả chúng tôi tụ tập trong hành lang dài. Alice và Peter cùng cất tiếng hát, John và Joan hơ tay gần đống lửa. Ai cũng trẻ trung cả! Phải nói như trẻ con! Ngay cả Gartred với ác ý có tính toán, cũng không thể phá tan bầu không khi vui nhộn của buổi tối hôm ấy.. Nhưng Richard, Richard của tôi, vừa mỉm cười, vừa đưa ra một lời nhận xét tàn nhẫn làm mọi người cụt hứng, nỗi vui tan biến. Tôi tưởng chừng căm ghét Richard nhưng hoàn toàn hiểu tính khí chàng. Ôi! Cầu Chúa xui khiến những người thuộc giống họ Grenvile này phải xấu hổ - sau này tôi nghĩ thế - khi họ chỉ gây buồn phiền cho người khác, khi chỉ cần đổi giọng họ biến vui sướng thành đau thương. Làm sao mà họ, Richard và Gartred, có thể tìm thấy được khoái cảm qua những lối nói tàn nhẫn đó? Ác thần nào đã hộ mệnh họ từ khi còn nằm trong nôi? giữa họ và Bevil khác nhau biết bao! Bevil, con người lịch sự nghiêm trang, niềm nở, đạo đức, yêu mến con mình và con người khác. Các con trai của ông ta đều xứng đáng. Jack và Bunny không hề có tật xấu. Nhưng Gartred! Đôi mắt lim dim dưới mái tóc óng ánh, cái miệng dâm đặt và hơi thô. Tôi không bao giờ ngờ rằng, ngay cả cái hồi Gartred thành hôn với Kit, cô ta có thể đánh lừa được ai. Khăn sắc của cô ta thật quyến rũ. Cha mẹ tôi như sắp mcm dưới những ngón tay nhào nặn của cô la. Còn ông anh Kit đáng thương ngay từ lúc đầu đã biến thành nô lệ, cũng như Robin sau này. Nhưng tôi không bao giờ nhường nhịn cô ta. Sắc đẹp của cô ta thật nguy hiểm và luôn luôn nguy hiểm, tôi nghĩ thế. Cô ta sẽ mang theo xuống mồ một vét sẹo dài mỏng từ mắt xuống miệng, dấu ấn của một nhát dao. Vậy mà vẫn còn được nhiều người say mê. Người cuối cùng bị Gartrcđ hớp hồn có thể sẽ là một người thuộc giòng họ Carcy, ở Bedford gần đấy. Tôi tin điều ấy dễ dàng. Bây giờ thì mọi sự đã qua, tôi vẫn có thể khoan dung tha thứ cho cô ta phần nào. Hình ảnh cô ta bỡn cợt với George Carcy - cô ta lớn hơn Carcy hai mươi tuổi - dù sao cũng gieo một ám hiệu tươi vui trong một xã hội u ám. Thật là một xã hội ảm đạm! Những khuôn mặt buồn thảm, áo quần xốc xếch bằng vải len thô. Những năm mất mùa, kinh doanh sa sút, ai cũng nghèo hơn trước và trong dân gian là cảnh khốn cùng. Hậu quả của chiến tranh. Mật thám của viên Công tước Bảo hộ tung hoành khắp thành thị và làng xã. Người ta bỏ tù ngay bất cứ kẻ nào mà họ nghi ngờ là phản bội. Các viên trưởng lão khắt khe nắm quyền và chỉ có những kẻ biết trục lợi thành công, như Frank Buller và Robert Bennett hoặc kẻ thù xưa của chúng tôi là John Robartes. Ai cũng cố trục lợi trên sự đầy đoạ của những con người đau khổ trong xã hội. Những hành động thô bạo, thái độ lịch thiệp chỉ còn là một kỷ niệm xa xưa. Ai cũng nghi ngờ láng giềng của mình. Thật là một xã hội ghê tởm. Người Anh nào đó bảo có thể chấp nhận chế độ này, nhưng chúng tôi, người dân ở Cornouailles thì không. Họ sẽ không bao giờ cướp đoạt được độc lập của chúng tôi và trong một hoặc hai năm nữa, khi mà những vết thương đã liền da, chúng tôi sẽ nổi dậy một lần nữa. Máu sẽ chảy một lần nữa. Lại thêm những cảnh đau lòng. Nhưng chúng tôi chỉ thiếu người chỉ huy. A! Richard! Richard của tôi. Ma quỷ nào đã xui khiến chàng bất hoà với mọi người, và khiến Đức Vua trở thành kẻ thù của chàng? Lòng tôi thương xót chàng lâm vào nổi bất hạnh cuối cùng này. Tôi thấy chàng âu sầu, bị mọi người bỏ rơi, ngồi bên cửa sổ, dõi mắt nhìn trên đất nước Hà Lan bằng phẳng, đang viết hồi ký để tự bào chữa mà Bunny đã kể sơ cho tôi nghe những nét chính, sau lần đi thăm Richard. "Đừng tin tưởng vào các ông Hoàng, lẫn con cái của họ. Họ chẳng giúp ích gì cho mọi người". Những lời lẽ cay đắng, tuyệt vọng, không mang lại một điều gì hay, và chỉ là nguồn gốc của những nỗi đau mới. Vì lòng tự phụ mà ngài Richard Grenvile, bị người ta tuyên bố coi như một tướng cướp và lòng trung tín thật sự của ngài được đánh giá là một tội ác. Nếu ngài ta quả thật đáng chê trách, thì cầu Chúa hãy ban cho Đức Vua những người cố vấn trung thành, và cầu mong rằng không ai trong những người này sẽ làm điều gì trái ý Thánh Thượng và những người thuộc giòng dõi hoàng lộc. Còn về phần ngài Richard Grenvile, hãy để ngài ra đi với phần thưởng được là cựu chiến binh của Đức Vua. Bây giờ ngài không biết giúp ích được gì. Mong rằng Hội đồng cố vấn sẽ nghĩ đến ngài, khi cần đến, nếu chưa quá trễ. Biết bao cảm giác, bao tự hào và bao cay đắng cho đến lúc kết thúc. Bởi vì đã đến lúc kết thúc. Tôi biết điều ấy và chàng cũng thế. Nỗi đau không thuốc chữa chàng đã tự hại mình mãi mãi. Mọi người, bạn và thù, đều sợ và ghét chàng. Đại tướng của Đức Vua ở miền Tây, Người mà tôi yêu một thời gian ngắn sau khi đảo Sorlingues bị mất, Jack và Bunny đã đến thăm tôi. Chúng tôi đã nói về Richard và ngay lập tức Jack lên tiếng: Chú Richard của cháu đã thay đổi nhiều. Cô khó nhận ra được chú ấy. Chú ngồi hàng giờ, im lặng, nhìn mưa rơi bất tận qua của sổ của căn phòng xoàng xĩnh - Lạy Chúa! trời mưa ở Hà Lan! - và chú không muốn nhìn thấy mặt ai. Chắc cô còn nhớ khi xưa chú thích bông đùa, cười cợt với chúng cháu và giới trẻ? Còn bây giờ, nếu chú ấy nói, chỉ để chỉ trích, như một người già cau có, la rầy người khác Hoàng thượng sẽ không bao giờ dùng chú Richard nữa, và chú ấy biết thế - Bunny nói - Sự bất hòa với triều đình khiến chú bực tức. Chú ấy thật điên khùng mới khêu lại ngọn lửa thù hận xưa với Hyde. Jack sáng suốt hơn và khi nhìn thấy mắt tôi, nói rất nhanh: Chú cháu luôn luôn là kẻ thù ghê gớm nhất của ông ta. Cô Honor cũng biết điều đó, phải không? bây giờ chú ấy chỉ còn một mình. Và những năm sắp tới chỉ là trống rỗng. Chúng tôi giữ im lặng một hồi lâu. Tim tôi đau nhói vì Richard. Bọn trẻ cũng cảm biết được điều ấy. Chú ấy không bao giờ nói về Dick - Bunny tiếp tục câu chuyện, hạ thấp giọng - có lẽ chúng ta không bao giờ biết được số phận buồn thảm của Dick ra sao. Tôi cảm thấy rùng mình sợ hãi. Tôi quay mặt đi để bọn trẻ không nhìn thấy mặt tôi. không - tôi chậm rãi nói - Chúng ta sẽ không bao giờ biết. Bunny nhịp ngón tay trên bàn, còn Jack vô tình lật những trang sách. Tôi nhìn mặt nước lặng yên dưới vịnh và những thuyền nhỏ đánh cá từ Gorran Haven đến và đang từ từ vượt qua núi Đầu Đen. Trong ánh hoàng hôn, những cánh buồm mang màu vàng óng. Nếu Dick bị rơi vào tay quân thù - Bunny nói tiếp Tại sao người ta lại dấu diếm sự việc này? Tôi không trả lời. Bên cạnh tôi, Jack ngồi không yên. Có lẽ đám cưới - nó mới lấy vợ từ mấy tháng nay - khiến nó mẫn cảm hơn. Tôi hiểu rằng nó đã cảm nhận được nỗi sầu não của tôi. Trở về quá khứ thì có ích gì? - Jack nói - Chúng ta chỉ làm buồn cô Honor thôi. Ít phút sau đó, cả hai hôn tay tôi và từ giã ra về, hứa rằng sẽ trở lại thăm tôi trước khi quay về Pháp. Tôi nhìn chúng phi ngựa xa dần, dáng điệu trẻ trung, tự do, vô tư. Tương lai là của chúng. Một ngày kia, Đức Vua sẽ trở về với dân tộc đang đợi ngài. Jack và Bunny đã từng anh dũng chiến đấu vì ngài, sẽ được trọng thưởng. Người ta sẽ quên đi cuộc nội chiến, quên đi thế hệ trước chiến tranh, thế hệ đã đổ vỡ và thất bại, thế hệ không có gì có thể đền bù lại được. Tôi nằm dài trên ghế, nhìn bóng hoàng hôn xuống dần. Lúc đó Robin bước vào và đến ngồi gần tôi, hỏi thăm tôi có mệt không với vẻ ân cần trìu mến. Anh có ý tiếc vì không gặp được anh em nhà Grenvile và kể lại cho tôi nghe một vài vụ bê bối được đưa ra xử trước tòa án Tywardrcath. Tôi giả bộ lắng tai nghe, nhưng thương hại nghĩ đến tầm quan trọng mà Robin gắn cho những sự việc nhỏ nhặt thường ngày nàv. Nhớ khi xưa, anh ta cùng với các đồng đội đã để lại danh tiếng bất hủ bằng lòng quả cảm bảo vệ lâu dài Pendennis, tuy không thành công, trong nhiều tháng bi thảm của năm 1646. Lúc ấy tất cả chúng tôi đều hãnh diện vì Robin... Vây mà bây giờ anh ta cử lẩm cẩm nhắc đi nhắc lại vụ một bà góa ò St.Blazcy bị mất trộm năm con gà mái. Chính vào lúc ấy, lần đầu. Tiên tôi có ý nghĩ tự giải thoát mình khỏi gánh nặng đè nén bằng cách viết lại hồi ký của những năm mới qua đây. Chiến tranh! Chiến tranh đã thay đổi cuộc sống của chúng tôi như thế nào? chiến tranh đã xâm nhập vào chúng tôi, đã hủy diệt tâm hồn chúng tôi, đã đưa số phận chúng tôi đến chỗ bế tắc. Gartred và Robin, Richard và tôi, cả gia dinh Rashleigh, chen chúc trong ngôi nhà đầy bí ẩn này, vậy mà có ai ngờ rằng chúng tôi đã rã đám? Hiện nay, chỉ còn Robin đi dùng cơm tối ở Menabilly vào mỗi chủ nhật. Tôi không tham dự, lấy lý do vì tình trạng sức khỏe. Vì những điều tôi biết, tôi không thể trở lại nơi đó. Menabilly, nơi xảy ra thảm kịch cuộc đời chúng tôi, lại quá gần chỗ tôi đang ở chỉ cách ba dặm. Ngôi nhà vẫn trống rỗng và điêu tàn như khi xưa khi tôi gặp lại nó lần cuối cùng vào năm 1648. Jonathan không đủ can đảm lẫn tài chánh để trùng tu nó lại, khiến nó càng trở nên tồi tệ hơn trước, Jonathan và Mary cùng con cái chỉ ở một cánh nhà. Tôi cầu xin Chúa cho họ đừng biết gì đến thảm kịch cuối cùng. Chỉ có hai người sẽ mang điều bí ẩn này theo xuống mồ, đó là Richard và tôi. Chàng đang ở Hà Lan, xa tới hàng trăm dặm. Còn tôi đang yên nghĩ ở Tywardcath. Bóng tối u ám đang lượn trên đầu hai chúng tôi. Ngày chủ nhật, khi Robin đi tới Menabilly, tinh thần tôi tháp tùng anh ta. Trí lưởng tượng của tôi theo Robin băng qua hoa viên, đến những bức tường cao bao quanh ngôi nhà. Sân trống trải, mặt tiền hường tây của nhà như nhìn ngó tôi. Những tia nắng cuối cùng lọt vào căn phòng xưa của tôi, phía trên cao, bởi ví tấm rèm được kéo lên. Những cửa sổ phòng bên thì đóng kín, bên ngoài chằng chịt những mầm cây leo, rêu phủ đầy vách đá trên phía trên cửa sổ. Mặt trời biến dạng và một lần nữa mặt tiền phía tấy của ngôi nhà lại quay về với bóng tối. Chính nơi đó gia đình Rashleigh ăn ở. Họ đi ngủ dưới ánh đèn và mơ mộng. Nhưng tôi, cách đó ba dặm, ở Tywardcath, tôi giật mình thức dậy trong đêm ngỡ rằng đang nghe tiếng con trẻ gọi tôi trong nỗi kinh hoàng, ngỡ rằng nghe những ngón tay của nó cào vào vách tường và trong đem tăm tối, hình ảnh con trai của Richard hiện ra sống động. Tôi ngồi bật dậy, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Matty, người hầu trung tín, nghe tôi thức dậy, vội đến thắp sáng đèn. Cô ta sắc thuốc cho tôi uống, xoa bóp sống lưng đau nhức cho tôi, và choàng một tấm khăn rộng lên hai vai tôi. Trong phòng bên, Robinvẫn chìm đắm trong giấc ngủ không có chiêm bao. Tôi cố đọc, nhưng đầu óc tôi quá bị ám ảnh, không thể tìm thấy thảnh thơi. Matty mang đến cho tôi giấy và ngòi bút lông.Tôi bắt đầu viết. Tôi có nhiều điều muốn nói, nhưng thời gian còn lại của tôi có thể đếm được. Tôi không lầm đâu. Mặc dù vẻ mặt của Robin cố che đậy, nhưng bản năng riêng của tôi báo trước cho tôi biết rằng mùa thu này sẽ là mùa thu cuối cùng của tôi. Và trong khi mọi người còn tranh cãi về những lời bào chữa của Richard qua cuốn hồi ký, trong khi cuốn sách của chàng sẽ được người đời xếp cho một chỗ đứng trong văn khố của thế kỷ Mười bảy này, thì những gì tôi viết đây sẽ theo tôi xuống tận đáy mồ, và sẽ tan rã thành bụi cùng với thân xác tôi. Tôi sẽ nói vì Richard, những gì mà chàng không bao giờ nói cho chính mình. Tôi sẽ chứng tỏ rằng, mặc dù những lỗi lầm của Richard, vẫn có thể có một người phụ nữ yêu chàng bằng cả tâm hồn lẫn trí tuệ - và người đàn bà ấy chính là tôi. Tôi viết lúc giữa đêm, dưới ánh sáng ngọn đèn dầu. Chuông nhà thờ vang lên báo hiệu những giờ đầu canh. Không một tiếng động nào khác vọng đến tôi ngoài những lời than thở của gió bên ngoài cửa sổ và tiếng thầm thì của thủy triều đang dâng lên tràn ngập bãi cát đến tận vũng nước tù dưới cầu St.Blazey. Mời các bạn đón đọc Viên Tướng của Nhà Vua của tác giả Daphne Du Maurier.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bướm Trắng
"Nếu chỉ có một năm để sống" bạn sẽ làm gì? Ðây có thể là đề tài một cuốn phim hồi hộp, một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn hay một tác phẩm văn học phân tâm. Nhất Linh chọn giải pháp thứ ba: Bướm Trắng là một ăng-kết của Trương về bản ngã mình. Trương bị lao và bác sĩ cho biết chàng chỉ có thể sống được một năm nữa là cùng. Nhất Linh đem máy ghi âm đặt vào óc Trương để ghi lại những ý nghĩ, những phản ứng của Trương từ khi biết mình chỉ còn một thời gian sống nhất định.  Phản ứng đầu tiên của Trương là sẽ ghi vào sổ nhật ký, ngày 21/2: Hôm nay mình chết (Bướm Trắng, NXB Ðời Nay tái bản, 1970, trang 34). Ðó là cái chết đầu tiên, sau khi biết mình sắp chết, cái chết này biểu hiện tính cách hóa thân của hai từ Bướm Trắng và đưa Trương vào đoạn đời thứ nhì, đoạn đời mà Trương quyết định rằng từ nay "chàng sẽ nếm đủ các khoái lạc ở đời, chàng sẽ sống đến cực điểm, sống cho hết để không còn ao ước gì nữa, sống cho chán chường. Trương thấy mình nô nức hồi hộp mà lại sung sướng nữa. Chàng sung sướng vì chàng thấy mình như con chim thoát khỏi lồng, nhẹ nhàng trong một sự tự do không bờ bến. Những cái ràng buộc, đè nén của cuộc sống thường không có nữa, chàng sẽ hết băn khoăn, hết e dè được hoàn toàn sống như ý mình. - Chết thì còn cần gì nữa?" (trang 38)  Ðặt ngược lại vấn đề, Albert Camus bắt đầu cuốn tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe) bằng câu: "Chỉ có một vấn đề triết lý thật sự nghiêm túc: đó là tự tử, xét rằng đời đáng sống hay không đáng sống là trả lời câu hỏi cơ bản của triết học". Cả hai tác giả Nhất Linh và Camus, đi từ hai con đường khác nhau nhưng dường như đều cùng muốn điều tra ý nghĩa của cuộc sống từ cái chết. Rồi Nhất Linh và Camus đều chết bất đắc kỳ tử. Camus, tai nạn xe hơi ở tuổi 47, Nhất Linh tự tử ở tuổi 57, một trùng hợp phi lý.  Cái chết, trước tiên, đối với Trương là một giải thoát, khi giao hẹn "hôm nay mình chết" là Trương đã tự hóa, từ một người bị ràng buộc, trở thành người tự do, hồi sinh trong cuộc sống mới, với hai lớp lang: biết mình sắp chết và quên rằng mình đang sống.  Ở lớp thứ nhất, Trương quyết định tìm vui trong trụy lạc: trụy lạc thể xác và tinh thần. Về thể xác, hưởng thụ hết những thú vui nhục dục trước khi chết và về tinh thần, chiếm hữu tình yêu của Thu, người con gái tình cờ gặp mà ngay sau đó Trương đã muốn yêu như một trò chơi: yêu cũng được mà không yêu cũng được.  Ở từng thứ nhì, Trương sợ sống: không dám về nhà, muốn quên rằng mình đang sống, lẩn tránh những ý nghĩ của mình, sợ đối diện với chính mình. "Trương ở vào tình trạng một người không cần gì nữa, chỉ mong xảy đến cho mình một việc, bất cứ việc gì, miễn là khác thường để cho mình quên được sự sống" (trang 55). Hai trạng thái, hai lớp lang tâm thần ấy giao nhau trong một môi trường không có lối thoát: Sự trụy lạc mà Trương tìm đến như một ao ước hưởng thụ hết trước khi chết, không đem lại cho Trương tị ti thỏa mãn nào, và cuộc tình đối với Thu, mới đầu chỉ là một trò chơi, sau đã lấn át tâm hồn Trương, chi phối tư tưởng Trương như một lớp sống, một định mệnh thứ ba: Cái định mệnh quái ác, tưởng (yêu) đùa lại hóa (yêu) thật, tưởng chết lại không chết, lại sống, cứ sống, rồi chính cái sống thừa, sống ra ngoài mọi ước vọng ấy, đã chơi khăm Trương, vì mọi toan tính về định mệnh đều vô nghĩa: không ai có thể biết trước được định mệnh, kể cả những thầy thuốc giỏi nhất và cũng không ai dự đoán được kết quả một cuộc tình. Trương như con bướm trắng lượn trong các nẻo tâm tư của chính mình, Trương bay hết nơi này đến nơi khác, từ những phăng-tát cực đoan của một người bệnh bị cái chết ám ảnh trong mỗi phút sống, đến những giây phút hạnh phúc cũng như bi đát của một người bình thường, nhảy từ những ý nghĩ trong sáng, dịu dàng nhất đến những toan tính đen tối, đồi tệ, đê hèn nhất. Trương là bướm trắng bay trong não trạng của chính mình, Trương hành động, nhận xét mình hành động, mà không hiểu những gì đã xẩy ra quanh mình, cho mình. *** « Trương chậm bước lại vì chàng vừa nhận thấy mình đi nhanh quá tuy không có việc gì vội và cũng không nhất định đi đến đâu ». Câu văn khơi dòng cho tiểu thuyết Bướm Trắng của Nhất Linh, là bước chân người đi. Người ấy lắng nghe, và nhận định nhịp bước, nhận thấy mình đi nhanh quá, mà không có lý do, không có việc gì vội. Sau đó lại bổ sung không nhất định đi đến đâu, dường như muốn tu chỉnh câu vừa mới nói : không có việc gì, không cần đến chữ vội, như lỡ bước quá một bước, thốt quá một lời, viết quá một chữ. Quá một chữ, không nhất thiết phải là thừa, vì câu nói, lời văn, bước chân đưa đẩy như vậy, trong đời sống như vậy. Khi ta bước, hay thở, không mấy khi ta lưu ý. Cũng có khi cố tình nhanh hay chậm chân một chút, hay thở mạnh, sâu hơn một chút, vì lý do nào đó. Như lý do đưa đẩy Nhất Linh viết truyện Bướm Trắng : chuyện của Trương biết mình bị bệnh phổi, được bác sĩ tiên đoán sống một năm. Biết vậy, và cho rằng không tránh khỏi, Trương lắng nghe cuộc sống đang tiếp diễn, và gây thêm biến cố, để cuộc sống xao động hơn, để mình nghe tiếng động của đời sống rõ rệt hơn. Trong Tiếng nói của im lặng (Les voix du silence), André Malraux có giải thích tác phẩm của mình : « Tôi có lần kể cuộc phiêu lưu của một người không nhận ra giọng nói của mình vừa được thu âm, vì anh ta mới nghe lần đầu qua lỗ tai chứ không qua cổ họng ; và vì chỉ có cổ họng mới chuyển đến ta, tiếng nói của nội tâm, tôi gọi tên sách là Thân phận làm người (La condition humaine) ». Nói rộng ra, gọi Bướm Trắng là tiếng thầm thì của nội tâm cũng được. Bướm Trắng viết vào năm 1939, đăng báo 1940, xuất bản 1941, khi Nhất Linh đã có địa vị vững vàng trong văn học ; tiểu thuyết Đoạn Tuyệt, 1934, đã gây chấn động vì luận đề xã hội. Nhất Linh dựng lại hai nhân vật Dũng và Loan trong Đôi Bạn, 1938-39, giầu tính chất văn chương hơn, nhưng cái nền của tác phẩm vẫn còn tồn đọng chuyện xã hội và chính trị trong bối cảnh nông thôn miền Bắc. Đến Bướm Trắng, ông chủ tâm viết một tác phẩm văn học thuần tuý, không hàm ý chính trị hay xã hội, lấy đời sống đô thị làm khung cảnh. Nhất Linh muốn thể nghiệm một kỹ thuật khác xưa : viết tiểu thuyết để hành văn, lấy văn chương làm cứu cánh, không mượn văn học để luận về xã hội và thời thế. Dù rằng thời điểm Bướm Trắng, 1939-1940, tình hình đất nước đang căng thẳng. Bản thân Nhất Linh đã dấn thân sâu vào thời cuộc, nhưng không mượn văn chương để bày tỏ quan điểm xã hội. Tuy nhiên tác phẩm bao giờ cũng phản ánh đời sống xã hội qua một thành phần nào đó, điều này là quy luật hiển nhiên, không tránh khỏi. Chuyện xảy ra tại Hà Nội, giữa một nhóm thanh niên trí thức thuộc gia đình khá giả. Trương, sinh viên trường luật, thôi học vì bệnh lao phổi. Trong giới hạn thời gian còn sống, Trương muốn khám phá triệt để cuộc sống, chủ yếu qua hai cách : qua tình yêu với Thu và qua kinh nghiệm trác táng. Có lúc thụt két, phải vào tù mấy tháng. Ra tù, Trương khỏi bệnh, về làng cưới vợ quê. Trong một tham luận nhân cuộc hội thảo về Tự lực văn đoàn ở Cẩm Giàng, quê Nhất Linh, ngày 9/5/2008, học giả Nguyễn Huệ Chi đã nhận ra những biến chuyển trong quan niệm và kỹ thuật tiểu thuyết Nhất Linh « nhà văn luôn luôn tìm tòi không ngừng không mỏi. Vừa cho ra mắt một loạt tiểu thuyết luận đề làm cả một thế hệ thanh niên yêu thích, ông lại thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết không có truyện, lấy việc phân tích các biến thái tâm lý nhân vật làm chủ điểm (Đôi Bạn) rồi lại thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết khơi sâu vào những miền khuất tối, không dễ nhận biết cái của « tôi », cái thế giới bí mật nhất trong mỗi con người, kể cả sự mò mẫm vô thức trên quá trình cái tôi phân thân, tự huỷ, ít nhiều mang dáng dấp hiện sinh (Bướm Trắng) » i. Chúng tôi lưu ý vào hai chữ hiện sinh. Tiểu thuyết, thông thường thì cần cốt truyện. Chuyện Trương đối diện với cái chết có thể là một đề tài hấp dẫn, nhưng tác giả không muốn lôi cuốn bằng chuyện kể, không tạo tình tiết éo le, ly kỳ, gây cấn. Sự việc phần nhiều là do nhân vật cố tình tạo ra để thăm dò cảm giác và suy tưởng của chính mình : « Mình thụt két mà Thu còn yêu mới thực là yêu, Thu không yêu nữa càng hay. Thử xem sao. Chẳng có gì mà sợ, chết cũng không sợ lại còn sợ một việc cỏn con như thế này à ? » (Bướm Trắng, tr.119, Nxb Văn Mới, 2014, California). Trương, con người bình thường, thậm chí tầm thường, trở nên nhân vật tiểu thuyết vì bệnh lao, việc có thể đến với bất cứ người nào. Nhất Linh chọn nhân vật thanh niên trí thức Hà Nội, vì hoàn cảnh này thuận lợi cho việc tạo ra sự việc để nhẩn nha và tỉ mỉ phân tích nội tâm. Dụng tâm của Nhất Linh là kể một câu chuyện đời thường, bằng giọng văn đời thường, không lên bổng xuống trầm, không hùng hồn để thuyết phục, không bi luỵ để gây xúc cảm, không thắt nút mở nút. Chuyện của Trương chấm dứt ở đây, nhưng vẫn có thể tiếp tục diễn tiến. Kết cuộc như thế, không tự nhiên, cũng không bất ngờ, có thể không như thế. Câu kết : «Nói xong, Nhan nhìn Trương, mỉm cườ i; nàng sung sướng có cái cảm tưởng như được săn sóc âu yếm đến một người chồng ». Mời các bạn đón đọc Bướm Trắng của tác giả Nhất Linh.  
Ông Hoàng Hollywood
Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn F. Scott Fitzgerald thường tự nhận mình là người con của “thời đại nhạc Jazz”. Cùng với người vợ xinh đẹp Zelda Sayre, ông sống một cuộc đời sôi động, tràn đầy tiệc tùng và luôn tiêu tiền như nước. Tuy vậy, trong một truyện ngắn, ông mở đầu: “Thế giới người giàu hoàn toàn khác biệt với bạn và tôi”. Và thế giới được coi là “khác biệt” với mình đó còn được ông miêu tả trong rất nhiều những tác phẩm như Đẹp và đáng nguyền rủa, Gasby vĩ đại. Cuộc sống chìm trong rượu và những đại tiệc xa xỉ của vợ chồng Fitzgerald đã thu hút sự hiếu kỳ của công chúng thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các sáng tác của ông khá đắt khách. Trong lá thư gửi cho một người bạn, nhà văn viết: “Một truyện ngắn có thể viết ngay đầu miệng chai nhưng với một cuốn tiểu thuyết, anh phải giữ cho đầu óc mình thật tỉnh táo và minh mẫn để có thể kiểm soát được tất cả các nhân vật như Ernest Hemingway đã làm được trong Giã từ vũ khí”. Tác phẩm: This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920) Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920) The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa/Đợi Của, 1922) Vegatable (Rau cỏ, 1923) The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925) Tender is the Night (Đêm dịu dàng/Cuộc Tình Bỏ Đi, 1934) Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng/Ông Hoàng Hollywood, 1941) The Crack-Up (Sụp đổ, 1945) Gatxbi Vĩ Đại Và Truyện Ngắn - Francis Scott Fitzgerald Mời các bạn đón đọc Ông Hoàng Hollywood của tác giả F. Scott Fitzgerald & Tô Hoàng (Dịch).
Điệp Khúc Cơn Đói
Paris 1931. Một cuộc đời được dựng nên qua các mảnh ký ức. Cô bé Ethel thăm triển lãm thuộc địa cùng ông chú họ. Cuộc sống đầy đủ trong gia đình dân gốc đảo Maurice. Chủ nghĩa Đức quốc xã. Gia đình sa sút. Mối tình đầu. Chiến tranh. Cuộc trốn chạy về miền Nam nơi cơn đói khát hiện hữu. Tất cả đẩy một thiếu nữ, dù không muốn, trở thành anh hùng khi vừa tròn đôi mươi. Lối viết thi vị nhưng tái hiện đầy sức nặng hình ảnh nước Pháp trước ngưỡng cửa một đoạn lịch sử cùng cực, đã khiến Điệp khúc cơn đói trở thành một trong những tác phẩm đặc biệt nhất, gây xúc động nhất của nhà văn giành giải Nobel 2008. *** Ở Việt Nam, J. M. G. Le Clézio được biết đến từ những năm 1960 với các tập truyện ngắn và tiểu thuyết đã được dịch (trong tổng số hơn 60 tác phẩm) như: Vòng xoáy Người chưa bao giờ thấy biển Những nẻo đường đời và những bản tình ca khác Sa mạc Điệp khúc cơn đói Bão Lũ mục đồng ... Từ tác phẩm đầu tiên Le Procès-verbal (Biên bản) cho đến khoảng cuối thập niên 1970, Le Clézio từng có một thời theo đuổi lối viết thể nghiệm về hình thức, gần gũi với phong trào “Tiểu thuyết mới”, không dễ đọc. Nhưng dõi theo con đường viết của ông, nhất là những tập truyện gần đây, thì càng ngày càng nhận thấy sự thay đổi rõ rệt trong lối viết. Hướng đến sự giản dị, chân phác về hình thức kể chuyện, giữ được sự tinh tế trong ngôn từ song vẫn không ngừng nuôi dưỡng những tầng sâu xúc cảm, triết lí. Tám câu chuyện của Lũ mục đồng giống như những câu chuyện cổ tích, đôi khi lan man chảy trôi trong dòng xúc cảm sống tuôn trào mãnh liệt của tâm hồn thơ trẻ, dường như không hướng đến một sự kết thúc khô cứng nào. Con chữ ngưng lại, trang giấy đóng vào, nhưng đâu đó trong những giấc mơ, dòng xúc cảm ấy vẫn âm thầm chảy, bầu khí quyển trong thế giới của những đứa trẻ vẫn âm thầm ôm ấp, xoa dịu, làm ấm lòng. Riêng có chất thơ lãng mạn bay bổng là hồ như xuyên suốt những trang viết của ông. Có thể bởi, với Le Clézio chất thơ đã trở thành một tâm thế để sống, để cảm và là phương thức gần gũi, giản dị nhất để chia sẻ những giấc mơ. Cũng như biển, chất thơ trong cốt tủy đời sống tự nguyên thủy chưa từng thay đổi. Khi trao giải Nobel năm 2008 cho Le Clézio, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã ca ngợi ông là “tác giả của những hành trình mới”, “người khai phá cái nhân văn bên dưới và vượt ra ngoài nền văn minh thống trị”. Nhưng có lẽ nên nói rằng, bởi những giấc mơ đe dọa đến lí trí và trật tự đạo đức, nên bị kiểm duyệt và khuôn phép xã hội “khóa chặt trong nhà ngục của sự câm lặng, bị ném vào hầm tù của ký ức. Những giấc mơ là ngọn lửa bị giấu kín mà con người phải tìm cách lấy lại để phát lộ phía khác của bản ngã chính mình, để đạt đến một sự tự do đích thực. Nhà văn hiểu rằng, đơn giản mình chỉ cần làm một điều, đó là trả lại cho việc mơ sự tự do mà chúng cần có. Cả nhà văn, nhân vật, cũng như người đọc đôi khi chẳng khác nào đang làm một chuyến vui chơi nho nhỏ “đi ngắm nhìn phía bên kia quả đồi” đấy thôi. *** Ethel. Cô bé đang đứng trước lối vào công viên. Bây giờ là buổi chiều tối. Ánh sáng dìu dịu, màu ngọc trai. Có lẽ sắp có giông trên sông Seine. Cô bé nắm thật chặt tay ông Soliman. Cô bé vừa tròn mười tuổi, vẫn còn thấp bé, đầu Ethel mới chỉ cao ngang hông người đàn ông, là ông trẻ của cô bé. Phía trước họ, nom như có một thành phố nằm giữa những cây đại thụ của khu rừng Vincennes, người ta trông thấy nào tháp, nào tòa, nào vòm. Trên những đại lộ vây quanh, đám đông chen chúc nhau. Đột nhiên, cơn mưa rào ập xuống, cơn mưa ấm nóng làm bốc lên một làn hơi nước bao trùm thành phố. Chỉ trong chốc lát, hàng trăm cây dù màu đen bật mở. Người đàn ông quên không đem theo cây dù của mình. Trong khi những giọt mưa lớn bắt đầu rơi xuống, ông lưỡng lự. Nhưng Ethel vẫn kéo tay ông, và hai ông cháu cùng nhau băng qua đại lộ, chạy về phía mái vẩy của lối vào, đứng trước những cỗ xe ngựa chở khách thuê và dãy ô tô. Cô bé kéo tay trái ông, ông cụ dùng tay phải giữ cho chiếc mũ màu đen ngay ngắn trên cái đầu nhọn của mình. Khi ông chạy, chòm râu xám bên má bay phất phơ theo từng nhịp bước khiến Ethel bật cười. Thấy cô bé cười, ông cũng bật cười theo, đến mức phải dừng lại trú dưới một cây dẻ. Đó là một nơi rất tuyệt. Ethel chưa từng nhìn thấy, cũng chưa từng mơ đến thứ gì tương tự. Đi hết lối vào, bước qua cửa ô Picpus, họ men dọc theo tòa nhà viện bảo tàng, đằng trước có đám đông đang chen lấn. Ông Soliman không quan tâm. “Viện bảo tàng thì xem lúc nào chả được”, ông bảo vậy. Ông đã có sẵn trong đầu một dự định. Chính vì thế ông muốn đến đây cùng Ethel. Cô bé đã cố gắng tìm hiểu, từ nhiều ngày qua em đã gặng hỏi ông. Cháu láu lỉnh lắm, đó là câu ông đã nói với cô bé. Em biết cách dò hỏi khéo léo. “Nếu đó là một điều bất ngờ, ta biết nói gì với cháu bây giờ? Nói ra thì còn gì là bất ngờ nữa?” Ethel lại tiếp tục nài nỉ. “Ít ra ông cũng cho cháu đoán thử xem.” Sau bữa tối, ông ngồi trên ghế bành hút xì gà. Ethel thổi bay đám khói xì gà. “Cái đó có ăn được không ạ? Có uống được không? Một chiếc váy dài tuyệt đẹp chăng?” Nhưng ông Soliman vẫn cương quyết không tiết lộ. Ông hút xì gà và uống rượu cô nhắc như mọi tối. “Ngày mai cháu sẽ biết.” Ethel, sau cuộc nói chuyện đó, không thể chợp mắt. Cả đêm em trằn trọc trở mình trên chiếc giường nhỏ bằng kim loại kêu kèn kẹt. Mãi đến buổi bình minh em mới thiếp đi và khó khăn lắm mới thức dậy được vào lúc mười giờ, khi mẹ em tới đón qua nhà các cô dùng bữa trưa. Ông Soliman vẫn chưa thấy tới. Thế nhưng đại lộ Montparnasse không xa phố Cotentin là mấy. Cách có mười lăm phút đi bộ, mà ông Soliman lại đi bộ rất cừ. Ông bước rất thẳng, chiếc mũ đen bắt chặt vào đầu, cùng cây can mũi bịt bạc không hề chạm đất. Bất chấp tiếng ồn ào ngoài phố, Ethel nói em nghe thấy tiếng chân ông từ đằng xa, tiếng động nhịp nhàng của đôi gót ủng bằng sắt gõ trên vỉa hè. Em bảo tiếng động ấy giống như tiếng vó ngựa. Em thích so sánh ông Soliman với ngựa, và điều đó cũng không khiến ông phật ý, thi thoảng, bất chấp cái tuổi tám mươi của mình, ông nhấc bổng em lên vai để đi dạo trong công viên, và bởi ông rất cao lớn, em có thể chạm tới những cành cây sà xuống thấp. Cơn mưa đã tạnh, họ nắm tay nhau bước tới bờ hồ. Dưới vòm trời xám xịt, hồ có vẻ rất rộng, cong cong, trông giống một đầm lầy. Ông Soliman thường nhắc đến những cái hồ và miền đất trũng khi xưa ông đã tới, tận bên châu Phi, thời ông còn là bác sĩ quân y đóng quân tại phần lãnh thổ Công gô thuộc Pháp. Ethel thích nghe ông kể chuyện. Ông Soliman cũng chỉ kể chuyện cho mình em nghe. Tất cả những gì em biết về thế giới này đều thông qua những chuyện ông đã kể cho em. Trên mặt hồ, Ethel nhận thấy vài con vịt, một con thiên nga lông ngả vàng có vẻ buồn chán. Họ đi qua trước một hòn đảo bên trên có xây một ngôi đền Hy Lạp. Đám đông chen lấn để vượt cây cầu gỗ và ông Soliman hỏi, nhưng rõ ràng chỉ để yên tâm: “Cháu có muốn…?” Quá đông đúc, và Ethel kéo tay ông trẻ. “Không ạ, không ạ, chúng ta hãy lập tức đến Ấn Độ thôi!” Họ đi men theo bờ hồ theo hướng ngược lại với dòng người. Đám đông rẽ ra trước người đàn ông cao lớn vận áo khoác dài, đầu đội mũ kiểu cổ, và cô bé tóc vàng diện cái váy dài xếp nếp, mang giày cao cổ. Ethel hãnh diện khi đi cùng ông Soliman. Em có cảm tưởng đang đi cùng một người khổng lồ, một người có thể khai thông lối đi trong bất cứ sự hỗn loạn nào của thế giới. Lúc này, đám đông di chuyển theo chiều ngược lại, về phía cuối hồ. Vươn cao trên những rặng cây, Ethel nhìn thấy những tòa tháp lạ mắt, màu xi măng. Em chật vật lắm mới đánh vần được cái tên ghi trên một tấm biển: “Ang… kor… - Vat! ông Soliman nói nốt. Angkor Vat. Đây là tên một ngôi đền của Campuchia. Trông có vẻ giống đấy nhưng trước hết, ta muốn chỉ cho cháu thấy cái này.” Ông đã có sẵn trong đầu một dự định. Vả lại, ông Soliman không muốn đi cùng hướng với đám đông. Ông dè chừng những chuyển động mang tính tập thể. Ethel thường được nghe người khác nói về ông trẻ em: “Một người thật kỳ quặc.” Mẹ em bênh vực ông, chắc chắn bởi ông là chú ruột của bà: “Ông cực kỳ dễ mến.” Ông đã nuôi dạy bà rất nghiêm khắc. Khi cha bà qua đời, chính ông đã nhận bà về nuôi. Nhưng bà không gặp ông thường xuyên, ông luôn ở xa, tận đầu kia thế giới. Bà quý mến ông. Có lẽ bà còn cảm động hơn bởi người đàn ông già cả này vô cùng yêu chiều Ethel. Như thể bà được chứng kiến trái tim ông rốt cuộc đã rộng mở, vào đoạn cuối của một cuộc đời đơn độc và chai sạn. Cạnh đó, một con đường dẫn ra xa khỏi bờ sông. Người đi dạo mỗi lúc một vãn đi. Một tấm biển đề: CÁC THUỘC ĐỊA CŨ. Bên dưới là những cái tên, Ethel chậm rãi đọc: RÉUNION   Mời các bạn đón đọc Điệp Khúc Cơn Đói của tác giả J. M. G. Le Clézio & Bằng Quang (dịch).
Ân Sủng Của Đời
"Ân sủng của đời" là một trong những tiểu thuyết mới nhất của Daniel, trong đó, tác giả tiếp tục gây ấn tượng với lối viết vừa hài hước vừa ý nhị, duyên dáng. Thông qua câu chuyện về nhân vật chính Geri, tác giả viết về tình cảm cha - con, thể hiện trách nhiệm của Geri với cậu con trai 14 tuổi của mình, cũng như bàn về vai trò của người làm báo trong thế giới đương đại vô vàn áp lực. Mượn góc nhìn của Geri, những vấn đề xã hội như: nhập cư trái phép, tị nạn, thất nghiệp, đói nghèo... được Daniel Glattauer đề cập tới bằng ngòi bút gây cười, cái cười giúp người ta hiểu có thể tiếp cận những vấn đề nóng trong xã hội theo nhiều cách khác nhau. *** Kệ tôi có được không Đời ? (đọc tiếp...) Đời: không :]]] Mình chưa bao giờ có ý niệm về văn học Áo sẽ như thế nào. Rồi lại tình cờ phát hiện ra một trong những cuốn sách hiếm hoi ở Việt Nam đến từ một tác giả Áo. Đây đúng là “ân sủng của đời” ! ---------------------- ????Geri, 43 tuổi, nhà báo hạng "xoàng" viết cho tờ báo lá cải Everyday, một kẻ thất bại. Mà chính ông còn nhận mình là như vậy nữa chứ. Cuộc đời ông lộn xộn như cái căn hộ bừa bộn mà thứ luôn đầy đủ là bia, cuộc sống chỉ xung quanh bia rượu. Mới đầu mình nghĩ? Nhân vật chính cái kiểu gì thế này ? Nhưng cuộc đời đã cho ông một cơ hội để tìm lại con người của mình. Từ một thất bại đến người quan trọng. Tất cả bắt đầu từ những "của nợ" "rơi" từ đâu xuống. Đứa con bất ngờ Manuel(trái ngược hoàn toàn với ông bố rơi- một học sinh được nhiều bạn bè yêu quý, học sinh xuất sắc) đến và thức tỉnh những giá trị tốt đẹp của Geri. Đừng đùa với anh???? Đột nhiên, những bài báo về những hoàn cảnh khó khăn của Geri lại được một nhà hảo tâm để ý. Những nhân vật tổ chức được nhắc đến sẽ được gửi 10.000 euro. Ban đầu với tư tưởng bất cần đời Geri đã mặc kệ vì nghĩ nhưng muốn gây ấn tượng với thằng cu Manuel nên Geri viết tiếp và giúp đỡ nhiều hơn nữa. Hóa ra ông cũng từng là nhà báo viết cho những tờ lớn nhưng do vài chuyện nên quyết định sống vât vờ. Những bài viết của Geri cũng phải có sự đăc biệt riêng trong cách viết thì mới phù hợp với mong muốn của nhà hảo tâm chứ. Được mời làm công tác viên cho cả tờ báo lớn nữa. Xã hội phức tạp lắm ???? Qua những bài báo của Geri, Daniel Glattauer khéo léo đề cập đến những vấn đề nhức nhối của xã hội: Quan hệ của gia đình thời hiện đại, vượt biên, nhập cư trái phép, tị nạn, thất nghiệp, cán cân giàu - nghèo, trách nhiệm của nhà báo,... Geri bị coi thường khi chưa dính dáng đến nhà hảo tâm. Từ khi sự nghiệp đi lên thì mọi người lại bắt đầu để ý đến vì tiền mà ông có thể đem đến cho họ :]]] Trách nhiêm của người bố, của người cầm bút✍️ Bản năng làm bố trong Geri được đánh thức và ông làm bố theo cách riêng. Không bắt ép con cái mà có lúc còn như thông đồng với chúng. Điều này lại khiến con cái dễ trải lòng với Geri. Bây giờ thì báo chí thường đi theo những phong trào và xu hướng đánh mất giá trị thực sự của nghề này. Phản ánh cuộc sống một cách trung thực. Geri từng nghĩ về nhà báo như vậy nhưng nghề này lại quá chú trọng đến những tin tức giật gân, danh tiếng. Ai xé mất đoạn cuối rồi ????????????????☹️???? Hết. Đang gay gấn thì hết. Còn mình thì còn cả đống câu hỏi chưa được giải đáp. Nhà hảo tâm không chịu xuất hiện thứ ông để lại là vài lời nhắn, Geri không biết là có nói ra mình là bố của Manuel không trước khi thằng bé có cha dượng, chuyện giữa Geri và cô nha sĩ sẽ đến đâu, mẹ của Geri có liên quan đến nhà hảo tâm không ??? Nó có thể giống cuốn “Nỗi đau tột cùng”(sách tưởng tượng) trong “Khi lỗi thuộc về những vì sao” Cuộc sống xuất phát từ cuộc sống. Cuộc sống đem lại cuộc sống đem lại cuộc sống đem lại cuộc sống đem lại cuộc sống và cứ tiếp như vậy. [ILEARNED] ????Niềm tin vào bản thân. Đời có lúc lên lúc xuống. Sẽ có lúc ta thấy mình là một thất bại và ngừng nỗ lực. Đó cũng là lúc phải đứng lên tìm lại giá trị của chính mình. ????Đời đập đập ta vô số lần nhưng cũng giúp ta vô số lần. [Myopinion] Lý do mọi người nên đọc quyển này ????Mọi người có thể thử văn học Áo với quyển này. Cách viết của tác giả cực nhiều “muối” . Dí dỏm, hài hước, tự trào. Đố bạn không cười khi đọc luôn. ????Thử một góc nhìn về cuộc sống, về nhà báo và những khía cạnh xung quanh. ????Lối dẫn chuyện tự nhiên, những chi tiết đơn giản mà khi kết hợp vơi nhau lại tạo ra một bức tranh bất ngờ. 9.5/10sao ???? Ommis cellula e cellula Review Đỗ Đắc Hiệp *** Tôi hình dung con trai tôi khác hẳn. Thỉnh thoảng tôi rời mắt khỏi màn hình và làm ra vẻ nghĩ lung. Nhưng thực ra tôi quan sát Manuel - đúng những lúc nó cảm thấy không bị quan sát, và khi ấy cu cậu không ngông ngáo lắm. Thú thực, tôi thấy đặt cho nó cái tên Manuel là xấc xược, đối với nó và cả với tôi. Tại sao tôi không được hỏi ý kiến? Nếu biết thì tôi đã không cho phép, thì tôi đã ngăn Manuel, ít nhất là ngăn cái tên Manuel. Còn con người Manuel thì… nói sao bây giờ, đã ở dưới gầm trời này thì tránh đâu cho khỏi nắng. Ông trời của tôi thường xuyên cao hơn tôi một chút. Kỳ thực cũng chẳng sao, nếu ông ấy cứ ở hẳn trên cao ấy. Nhưng đâu được thế, một lúc nào đó ông lại sà xuống vỗ vai chào hỏi tôi. Lần này dưới dạng thằng cu mười bốn tuổi của tôi. Ngày thứ mười cùng Manuel trôi qua nhàn nhạt, tương tự mọi thứ Hai năm nay. Thực ra các thứ Ba cũng vậy. Thứ Tư thì tôi thường xin nghỉ, mấy ngày còn lại của tuần cứ thế tuần tự trôi qua. Mãi rất lâu sau tôi mới ngộ ra ý nghĩa của ngày thứ Hai này, và quả thực tôi vô cùng khâm phục trí nhớ đã bốn mươi ba tuổi và bị bia rượu làm mờ mịt đáng kể của tôi, vì lâu thế rồi mà nó vẫn đủ khả năng tái hiện vô vàn hình ảnh và câu chữ nguyên bản, đa phần của con trai tôi - lúc này đang ngồi cùng văn phòng và làm bài tập về nhà, hay ít nhất là ra vẻ như thế. “Thế nào, ổn cả chứ?” tôi hỏi. “Có gì mà không ổn chứ?” Hình như tất cả chúng nó đều khinh khỉnh thế chăng, cái bọn nhãi ranh dậy thì mười bốn tuổi với mấy sợi lông măng lún phún và chất giọng nằm đâu đó giữa vĩ cầm chùng dây và còi xe yếu điện, tôi cũng không rõ, nhưng tôi đã thấy nóng mắt. “Bác không muốn biết vì sao không ổn, bác muốn biết có ổn hay không”, tôi đáp. “Ai nói là bác muốn biết tại sao mọi chuyện không ổn?” nó hỏi. Nó hỏi thế vì nó biết tôi chắc chắn không tham gia vào một cuộc tranh luận bại não như vậy và nhờ đó cuộc đối thoại giữa hai chúng tôi chấm dứt. Manuel không ưa tôi - đó là một trong những vấn đề trong quan hệ còn khá mới mẻ giữa tôi và con trai tôi. Biết vậy để hiểu rõ những ánh mắt ngán ngẩm, vô hồn và chán chường trên cả mức ngáp ngủ mà nó dành cho tôi mười hôm nay. Ánh mắt ấy phản ánh cái mà nó nhìn thấy: Tôi. Giá mà nó biết tôi là bố nó thì có lẽ nó cũng chẳng ưa tôi, nhưng có thể nó nhân từ hơn với tôi. Nhưng nó không biết. Còn tôi thì thú thực cũng chỉ mới biết trước đây mấy tuần. Mời các bạn đón đọc Ân Sủng Của Đời của tác giả Daniel Glattauer & Lê Quang (dịch).