Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông

Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mê Cung Đỏ
Con người ta luôn luôn đòi hỏi những câu chuyện. Trong đó, câu chuyện miêu tả cái chết thường gây kích thích hơn cả. Anh thất nghiệp, lang thang tìm việc, đi phỏng vấn rồi một ngày nọ thức dậy ở nơi xa lạ. Khung cảnh kì quái với núi đá dày đặc những khía ngang thân, không gian thảy đều nhuốm đỏ, lửa đỏ, chiều đỏ, đất đỏ, đến núi đá cũng đỏ lòm. Từ máy trò chơi ai đó để sẵn bên cạnh, anh nhận được thông điệp, "Chào mừng đến với mê cung sao Hỏa. Những người đến đích và an toàn thoát khỏi mê cung sẽ nhận được tiền thưởng và trở về Trái Đất. Trò chơi bắt đầu!" Tin vui là không chỉ có mình anh gặp tình cảnh tương tự, còn tám người nữa cũng tỉnh dậy sau một giấc ngủ kì quặc và được đưa tới đây. Bọn họ bị cô lập giữa thiên nhiên hoang vắng này và muốn thoát ra, họ buộc phải tham gia trò chơi của kẻ giấu mặt. Ban đầu chẳng ai hay biết, muốn trở về được, họ phải tiêu diệt người chơi khác để bản thân trở thành kẻ duy nhất sống sót. Đáp án tàn khốc ấy sẽ từ từ hé lộ sau mỗi chặng hoàn thành nhiệm vụ. Trò chơi dần dần biến thành cuộc chiến sinh tồn, cuộc đuổi bắt giành giật sự sống, và cuối cùng đi đến nấc cao nhất trong cầu thang tiến hóa: giẫm lên xác đồng loại để sống, hi sinh mình cho người khác sự sống, hay đoàn kết với nhau để cùng được sống. Tất cả trông chờ vào tỉ lệ giữa lòng tin và nghi ngờ, bác ái và tàn nhẫn, vào sự lựa chọn của nhân cách con người… *** Review Mê Cung Đỏ - Kishi Yusuke Review của một bạn xin giấu tên về cuốn tiểu thuyết đã có mặt ở Việt Nam 2 năm tuổi rồi nhé :D Mê Cung Đỏ kể về câu chuyện của một người đàn ông tên là Fujiki, khoảng tầm 40 tuổi. Sau một khoảng thời gian trên đỉnh cao sự nghiệp, anh ta tụt dốc và bây giờ đang vật vờ khắp nơi. Nhưng rồi thật kỳ lạ, anh ta bị đưa đến một vùng mà không hề ai biết đến. Khung cảnh kì quái với núi đá dày đặc những khía ngang thân, không gian thảy đều nhuốm đỏ, lửa đỏ, chiều đỏ, đất đỏ, đến núi đá cũng đỏ lòm. Tất cả những gì anh biết là một máy trò chơi mà cho thông tin về trò chơi. "Chào mừng đến với mê cung sao Hỏa. Những người đến đích và an toàn thoát khỏi mê cung sẽ nhận được tiền thưởng và trở về Trái Đất. Trò chơi bắt đầu!" Thực chất đây là vùng Bungle Bungle ở Australia. Fujiki và 6 người chơi nữa cũng được đưa đến đây. Nhiệm vụ ban đầu dường như là chỉ cần đi đến hết các trạm kiểm soát là sẽ thắng. Nhưng càng về sau thì trò chơi càng khiến người chơi bộc lộ bản chất khi chính họ phải giết hại lẫn nhau để có thể sinh tồn được. Khi 7 người chơi gặp nhau ở trạm kiểm soát số 1, thì đã được chia làm bốn hướng, và mỗi hướng sẽ được cung cấp những thứ khác nhau, bao gồm dụng cụ phòng thân, thức ăn, vũ khí và thông tin. Vậy Fujiki sẽ chọn hướng nào, và liệu anh ấy có sinh tồn được không? Cuối cùng cá người chơi bước đến nấc cao nhất trong cầu thang tiến hóa: giẫm lên xác đồng loại để sống, hi sinh mình cho người khác sự sống, hay đoàn kết với nhau để cùng được sống. Tất cả trông chờ vào tỉ lệ giữa lòng tin và nghi ngờ, bác ái và tàn nhẫn, vào sự lựa chọn của nhân cách con người… Nếu đã đọc cuốn Nhà đen, đừng bỏ lỡ Mê Cung Đỏ nhé! ♥️ *** KISHI YUSUKE Sinh năm 1959 tại Osaka, tốt nghiệp khoa Kinh tế học Đại học Kyoto. Năm 1996, tác phẩm ISOLA - Nhân cách thứ 13 của ông đoạt giải xuất sắc Tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản. Sau đó, các tác phẩm khác của ông như: Nhà đen (1997), Búa thủy tinh (2004), Tân Thế Giới (2005), Giờ học của ác quỷ (2008) cũng lần lượt được nhận các giải thưởng văn học khác nhau. Một anh nọ làm ở công ty bảo hiểm nhân thọ, chuyên môn thẩm định tiền bồi thường tử vong. Một ngày kia, anh ta được khách gọi đến tận tư gia, và bất ngờ trở thành người đầu tiên phát hiện ra thi thể treo cổ của đứa con trai nhà ấy. Qua thái độ của bố mẹ chúng, anh ngờ rằng đây không phải là tự tử, mà là giết con để lấy tiền bảo hiểm, nên khi đơn yêu cầu bồi thường được gửi tới, anh đã âm thầm tiến hành điều tra. Từ đó, ác mộng dồn dập tấn công cuộc sống của anh. Nỗi khủng hoảng triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn quanh nghi can sát nhân. Và hơn hết thảy, cái chết của những người vô tình hoặc cố ý đã nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Một truyện dài bất tận dẫn vào địa hạt của bất nhân và run rẩy… Nhà đen đoạt giải Nhất tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản năm 1997. *** Nhánh củi bùng lên trong ngọn lửa… Âm thanh đơn điệu, không theo bất cứ trật tự nào ấy cứ vang vọng trong đầu. Rồi nguồn gốc phát ra âm thanh từ từ di chuyển ra thế giới bên ngoài. Thang âm cao thêm một chút, kể cả tiếng vang và tiếng ồn nho nhỏ cũng trở nên rõ ràng, nghe chẳng khác gì âm thanh của đường rải lạo xạo trên mặt báo trải rộng. Không khí chạm vào da nóng ẩm, nhớp nháp. Thỉnh thoảng có cơn gió lạnh phả qua đầu, mang theo hơi nước rét buốt. Mũi ngửi thấy mùi đất ẩm. Ra là trời đang mưa… Cuối cùng, một ý nghĩ cũng hình thành trong cái đầu đang hỗn độn. Fujiki cố cử động thân thể khi nhận ra có gì đó là lạ. Sống lưng và vai có cảm giác cồm cộm, không giống với cảm giác nằm trên tấm đệm quen thuộc chẳng bao giờ gấp ở căn hộ chung cư tồi tàn. Có vẻ đêm qua anh đã trực tiếp ngủ trên nền đất ẩm, hơn nữa còn trên một mặt sỏi gồ ghề. Đây là đâu? Trong đầu chẳng có câu trả lời nào cho câu hỏi hiển nhiên ấy. Quả thật có mấy lần say túy lúy về được nhà, rồi sáng hôm sau cố thế nào cũng không nhớ nổi những chuyện xảy ra trong đêm trước, nhưng đây là lần đầu tiên anh không biết mình đang ở đâu. Có lẽ anh nên uống ít rượu lại. Anh tự biết mình không thể uống một cách vô độ như ngày xưa, cũng chẳng hề có ý định ganh đua với bóng dáng tuổi trẻ. Nhưng, cứ cho là say rượu đi chăng nữa, tình huống này… Fujiki từ từ mở mắt, cố gắng ngồi dậy. Cơn chóng mặt ập đến bất ngờ, mắt hoa lên khiến tầm nhìn càng lúc càng hẹp lại, cảnh vật xung quanh mờ dần đi. Anh lập tức nhắm mắt, đợi tuần hoàn máu phục hồi như cũ. Rốt cuộc thì chuyện gì đã xảy ra với anh? Cảm giác gần như hoảng loạn trào lên. Thân thể bải hoải, miệng khô khốc như vừa ốm dậy. Anh thử thè lưỡi ra liếm thì thấy môi nứt nẻ, nước bọt có vị đắng nghét tựa vị senburi*. Lạ thật. Trạng thái này không bình thường. Có chuyện gì đó đã xảy ra. Chắc chắn có một chuyện mà anh không ngờ tới đã xảy ra. Một loại thực vật của Nhật vị rất đắng, thuộc họ Long đởm, thường được dùng làm thuốc và trà. (Các chú thích trong sách đều của người dịch và Ban Biên tập tiếng Việt). Anh nơm nớp lo sợ, mở mắt ra lần nữa. Một thế giới nhuốm màu đỏ thẫm kì quặc xuất hiện trong tầm nhìn. Mọi thứ trông thật hư ảo qua màn mưa dày đặc. Chuyện quái gì thế này? Fujiki thẫn thờ nhìn chằm chằm vào cảnh tượng trước mắt. Đó là một nơi trông như hẻm núi, hai bên bị bó hẹp bởi hai vách đá hình thù quái dị. Chỗ anh đang nằm là một hốc đá lõm vào một bên vách, nhờ vậy mà anh không bị ướt mưa. Anh chưa từng thấy, cũng không thể tưởng tượng được rằng trên Trái Đất lại tồn tại một nơi có phong cảnh lạ lùng thế này. Đá kết thành từng cụm tròn nằm san sát với kích cỡ khác nhau, trông giống những sinh vật mọc thành chùm như nấm hay bí ngô hơn là những tảng đá vô tri vô giác. Màu và hoa văn của chúng lại càng kì lạ hơn. Tất cả núi đá trong tầm mắt anh đều có sắc đỏ thắm, lấp lánh dưới mưa. Trên bề mặt, các đường sọc ngang đen giống hệt nhau chẳng khác gì vòng tuổi của cây đại thụ, nhìn kĩ hơn một chút còn có thể thấy cả những họa tiết phức tạp hình thành từ vô số đường gân mảnh màu trắng. Anh không nghĩ mình đã hóa điên, bởi cảnh vật trước mắt quá sống động để có thể coi là ảo giác. Thính giác, thị giác, xúc giác đều đã chấp nhận hiện thực và liên tục truyền tải thông tin cho não bộ, chẳng qua nơi đó vẫn chưa thể cho ra một lời giải thích hợp lý nào. Fujiki bỗng thấy khát cháy cổ. Tuy tình huống khó tin hiện giờ khiến anh điên cả đầu, nhưng trước nhu cầu sinh lý của cơ thể, anh vẫn phải tạm thời dẹp nghi vấn sang một bên. Gần chỗ anh, trừ màn mưa mịt mùng ngoài kia ra, chẳng còn nơi nào có nước nữa cả. Ngay cả lúc phải vất vưởng ở khu Shinjuku, anh cũng chưa từng uống nước mưa, vì trong ấy thường hòa lẫn những chất bẩn gây ô nhiễm khí quyển nên tốt nhất là không uống. Có điều, lúc này không phải lúc để kén cá chọn canh. Anh vừa đứng dậy bằng đôi chân run lẩy bẩy thì lập tức mất thăng bằng, ngã chống tay xuống đất. Cảm giác có thứ gì đó chạm vào đầu ngón tay, anh nhìn xuống và thấy một bình đựng nước hình tròn, màu xanh lá cây. Ngoài ra, bên cạnh còn có một hộp đựng cơm màu đỏ để trong túi nhựa trong suốt và một cái túi nhỏ màu bạc. Thật lạ là đến tận bây giờ, anh mới nhận ra chúng nằm ở đấy. Bình nước nặng trịch. Anh mở nắp bình, thứ bên trong có vẻ là nước. Lý trí mách bảo Fujiki nên xác nhận tính an toàn của nó trước, song, anh chẳng còn đủ sức làm điều đó. Anh đưa lưỡi liếm thử miệng bình rồi bắt đầu tu ừng ực. Nước nặng mùi kim loại nhưng anh thấy ngon không sao tả được. Anh uống một mạch gần nửa bình, giữa chừng còn bị sặc hai, ba lần. Cơn khát vừa dịu đi, cảm giác đói bụng đã ập tới. Đầu óc choáng váng cho anh biết mình đang khẩn thiết cần bổ sung glucose. Sau khi có nước vào, dạ dày teo cứng bắt đầu hoạt động trở lại khiến anh có cảm giác sâu sắc rằng, hình như đã mấy ngày… không, phải một tuần rồi anh chưa được ăn gì. Fujiki lôi hộp đựng cơm từ túi nhựa ra, nhẹ nhàng mở nắp. Bên trong xếp đầy thực phẩm dinh dưỡng dạng thanh. Anh cầm lấy một thanh, do dự vài giây rồi cắn thử một góc. Chúng có vị như bột bánh quy, hình như đã nằm trong hộp khá lâu vì đã ỉu hết cả. Tuy vậy, anh vẫn cứ bốc từng thanh một lên ăn ngon lành. Đến lúc nhận ra thì anh đã ăn hết hàng đầu tiên rồi. Fujiki lập tức đếm số thanh còn lại, ba hàng, mỗi hàng tám thanh, tổng cộng là 24. Anh vội vã rụt tay về, trực giác cho rằng lúc vẫn chưa hiểu được chuyện gì đang xảy ra thì phần lương thực này rất quan trọng. Khi đầu óc tỉnh táo trở lại, Fujiki quan sát xung quanh thêm lần nữa, tự hỏi trước khi tới đây thì mình đã ở đâu. Anh vừa phóng tầm mắt ra xa vừa cố gắng khơi gợi lại kí ức. Trước lúc mất ý thức, nơi cuối cùng anh ở là… Anh có cảm tưởng như một phần nào đó trong kí ức của anh đang bị một màn sương mờ che phủ, cứ như thể đã bị cho uống thuốc gì đó, hoặc anh đã thực sự bị đánh thuốc. Anh nhớ rõ tên mình. Fujiki Yoshihiko. 40 tuổi. Cho đến năm ngoái, anh vẫn là nhân viên của một công ty chứng khoán lớn. Thời kì bong bóng là khoảng thời gian huy hoàng nhất của anh. Gần như đêm nào anh cũng đến Ginza, uống Moêt & Chandon hay Veuve Clicquot* bằng tiền của công ty và tự mãn trong tiếng nịnh nọt của các cô tiếp viên. “Giám đốc điều hành trẻ,” anh thấy sung sướng mỗi khi được gọi bằng cái hư danh ngu ngốc ấy. Thế nhưng, tất cả chỉ là ảo ảnh. Fujiki đã nhận ra điều đó sau khi công ty phá sản và bản thân trở thành một kẻ thất nghiệp. Cả hai đều là tên các nhãn hiệu Champagne nổi tiếng và lâu đời của Pháp. Từ tiểu học, cấp hai cho đến cấp ba, dù chưa từng dốc hết tâm sức cho việc học, anh cũng chưa từng bê trễ mà vẫn cần mẫn đi học thêm. Cuối cùng, bằng thành tích tầm trung, anh bước vào một trường đại học cũng tầm trung nốt. Vì thế, anh chẳng có gì đặc biệt để gợi nhớ về thời thanh xuân cả. Có điều, nhờ cái bằng đại học đó mà anh kiếm được việc ở một công ty lớn và ổn định. Bấy giờ anh nghĩ như thế thật. Nói gì thì nói, nó cũng là công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo. Đã được bảo đảm vững vàng, đáng lẽ đến lúc anh nghỉ hưu, nó vẫn không phá sản mới đúng. Nào ngờ chuyện tưởng như không thể lại xảy ra. Ba ngày trước khi bị đuổi khỏi kí túc xá của công ty, vợ anh - Kyoko, đã bỏ nhà ra đi. Giờ nghĩ lại thì ngay từ thời điểm công ty bắt đầu sa sút, chắc chắn cô đã định làm thế rồi. Không đi ngay lúc ấy, có lẽ chỉ vì cô bận tâm đến điều tiếng xung quanh. Dù sao thì anh với Kyoko cũng chưa có mụn con nào, hơn nữa, vốn dĩ vợ chồng anh cưới nhau không phải vì tâm đầu ý hợp. Cô chỉ bị cám dỗ bởi ảo ảnh tương lai ổn định cùng thu nhập ở thời kì đỉnh cao của anh mà thôi. Sau đó, anh dao động giữa thất nghiệp và vô gia cư rồi may mắn dừng lại ở dạng đầu tiên. Nhờ việc này mà anh hiểu ra rằng, không có một ranh giới rõ ràng nào để phân chia hai loại người ấy, bởi chẳng hề tồn tại một thứ như vòng dây tokudawara* cho những kẻ vốn đã thất bại. Vòng dây thừng giới hạn trong môn sumo, ra khỏi vòng tròn sẽ bị loại. Anh vẫn nhớ được mọi chuyện tính đến thời điểm đó, nhưng tiếp theo thế nào thì chịu. Mảnh kí ức cốt lõi có thể giải thích một cách rành mạch tại sao anh lại ở nơi kì dị này dường như đã biến mất. Anh thậm chí còn không thể nhớ nổi anh đã ở đâu trước khi mất ý thức. Cảm giác về thời gian bị nhiễu loạn khiến anh không thể xác định được đâu là điểm cuối cùng của kí ức. Phòng trọ tồi tàn có bếp và phòng ngủ để sống qua những tháng ngày thất nghiệp. Bờ sông có thể thoải mái tản bộ lúc chạng vạng mà không cần để ý đến ánh mắt của người khác. Văn phòng giới thiệu việc làm. Quán cà phê có giấy dán tường màu kem bong tróc bán những bữa sáng rẻ. Quầy ăn bằng gỗ ép hơi bẩn của quán nhậu, nơi duy nhất mang lại chút niềm vui. Những hình ảnh ấy hiện lên trong đầu, lộn xộn, rời rạc, và vẫn không thể tìm được mắt xích nào kết nối với hiện tại. Mất trí nhớ… Vừa nghĩ đến điều ấy, Fujiki rùng mình. Nhưng nghĩ kĩ thì đó là lời giải thích hợp lý nhất, vì có phải phim Miền ảo ảnh đâu mà có chuyện anh đột nhiên vượt qua không gian, thời gian để xuất hiện ở một nơi kì quặc thế này. Chắc chắn là anh đã đánh mất mảng kí ức về những việc xảy ra trước khi bị đưa tới đây. Chỉ cần lấy lại được chúng, mọi sự sẽ hoàn toàn sáng tỏ. Chứng mất trí nhớ ngược chiều. Đó là cụm từ anh nghe bác sĩ nói khi tới bệnh viện thăm người đồng nghiệp vào công ty cùng đợt ở Phòng Kinh doanh. Anh ta bị tai nạn giao thông trong lúc đi gặp khách hàng, đầu bị đập vào đâu đó nên những thông tin cơ bản như tên và nhân thân thì vẫn nhớ, song kí ức về tất cả những chuyện đã trải qua cho đến khi bị tai nạn lại chẳng còn đọng lại mảy may. Nguyên nhân khiến con người mất trí nhớ không chỉ bởi phần đầu bị tổn thương, một số loại thuốc nhất định cũng có thể gây ra tình trạng tương tự sau khi tiêm vào. Tuy nhiên, dù vì lý do gì thì cũng rất hiếm có trường hợp bệnh nhân quên đi những kí ức cơ bản như địa vị xã hội và tên tuổi. Bởi các thông tin ấy đã bị lặp đi lặp lại vô số lần và khắc sâu vào tiềm thức nên dẫu một phần của não bộ có bị mất chức năng hoạt động đi chăng nữa, họ vẫn có thể lấy chúng ra từ bản lưu dự trữ. Quả là trong đầu anh có ghim “bản sao” về sự thật anh thất nghiệp, hệt như mấy hình vẽ lăng nhăng ở nhà vệ sinh, Fujiki nhếch mép cười khẩy, bởi anh đã không ngừng dằn vặt bản thân mình về điều đó trong suốt thời gian qua. Nhưng, cứ cho là anh đã bị ngã rồi mất một phần kí ức đi, anh vẫn chẳng tìm được lời giải thích hợp lý nào cho khung cảnh lạ lùng trước mắt. Fujiki vừa chăm chú nhìn những dãy núi tròn quái dị vừa cảm nhận nỗi sợ hãi đang dần dâng lên trong lòng. Anh bắt đầu thấy hoang mang, vì đây không đơn giản chỉ là mất trí nhớ. Dù anh có cố gắng tưởng tượng chuyện đã xảy ra với bản thân trong kí ức bị thiếu sót kia là một chuyện hoang đường thế nào đi chăng nữa, vẫn chẳng có giả thiết nào thích hợp cho tình huống hiện tại. Bất chấp cái nóng ẩm ngột ngạt, toàn thân anh túa đầy mồ hôi lạnh. Có gì đó không đúng đến từ xúc giác. Nóng ẩm ngột ngạt… Anh sực nhớ ra một chuyện. Cuối cùng anh cũng tóm được một mảnh trong phần kí ức bị mất. Mùa đông. Đúng, không thể sai được. Tuyết phủ trắng xóa. Đây tuyệt đối không phải Tokyo, cái lạnh như cắt da cắt thịt… Nơi cuối cùng anh ở chắc chắn đang vào giữa đông. Thử nhìn xuống trang phục trên người, trên dưới đều là vest, cổ đeo cà vạt, bên trong mặc sơ mi trắng dài tay. Đồng hồ đeo tay hiển thị 5 giờ 16 phút, rất có thể là buổi chiều. Kim giây vẫn đang chạy bình thường. Fujiki thấy ân hận khi đã chọn Rolex, loại đồng hồ kiểu cổ mang dấu vết của thời kì bong bóng. Đây là loại đồng hồ cơ lên dây cót tự động, có độ chính xác không thua gì thạch anh. Chỉ cần kim vừa dừng, đồng hồ sẽ tự động lên dây cót và tiếp tục chạy. Dù sao thì cũng không thể tin tưởng hoàn toàn vào giờ đang hiển thị được. Mời các bạn đón đọc Mê Cung Đỏ của tác giả Kishi Yusuke.
Nhà Đen
Nhà Đen từng đoạt giải Nhất Tiểu thuyết Kinh dị Nhật Bản năm 1997. Một truyện dài vô tận dẫn vào địa hạt của bất nhân. … Wakatsuki làm việc tại một hãng bảo hiểm, công việc chuyên môn là thẩm định tiền bảo hiểm tử vong. Hằng ngày anh phải tiếp xúc với rất nhiều thành phần khách hàng, trong đó có cả những kẻ lừa đảo rắp tâm chiếm đoạt tiền bảo hiểm. Sau một lần tư vấn quá mức chân tình cho khách, anh bị lợi dụng, bị biến thành nhân chứng đầu tiên cho một cái xác thiếu niên treo lủng lẳng. Tuy bố mẹ cậu bé khẳng định là con mình tự tử, nhưng trực giác mách bảo Wakatsuki rằng đây là một vụ giết người. Do gián tiếp ngăn cản việc chi trả tiền bảo hiểm, chuỗi ngày tiếp theo của anh không còn yên bình như trước. Các màn khủng bố triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn, và hơn hết thảy, thi thể không toàn vẹn của những người hoặc vô tình hoặc cố ý nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Bất chấp tất cả, Wakatsuki vẫn bền bỉ khai quật sự thật, nhưng anh không ngờ mình phải đối mặt với quá nhiều sững sờ và run rẩy. Trong ngôi nhà đen ngập ngụa hôi thối, từ điểm bắt đầu là cái xác treo cổ, Wakatsuki đã đào lên cả một ổ dòi… *** Review NHÀ ĐEN - Kishi Yusuke Người dịch: Nguyệt Phùng #Nhà_Đen #Kishi_Yusuke #TrinhthamNhatBan ------------------------- Một tác phẩm khác của Kishi Yusuke. Mình không biết review này có thiên vị hay không nhưng vì mình quá thích Mê cung đỏ nên cuốn này cũng sẽ khen không ngoại lệ. Mình đọc xong lâu rồi nhưng giờ mới viết. Giọng văn của Kishi đặc biết đến cái độ mà dù không biết cùng một tác giả, một khi đã đọc được một tác phẩm của tác giả này rồi thì dễ dàng nhận ra văn phong đặc trưng của ông trong những tác phẩm sau. Kỳ lạ, lôi cuốn, hồi hộp. Nếu như Mê cung đỏ là một chuyến phiêu lưu thì Nhà đen chính là một án mạng kinh hoàng. Nhưng nó đáng sợ không phải những màn dọa ma hay jumpscare kinh dị, nó đáng sợ từ chính những con người. Câu chuyện kể về Wakatsuki - một nhân viên chịu trách nhiệm kiểm định các hợp đồng bảo hiểm, bỗng một ngày được khách hàng mời đến nhà và chứng kiến thằng con trai treo cổ tự sát. Dẫn theo sau đó là những vụ giết người kinh tởm mà thủ phạm là một kẻ thái nhân cách không bình thường. Đọc truyện mình có thể thấy tác giả phải nghiên cứu sâu về tâm lý học tâm lý tội phạm và tâm lý nhân vật ra sao mới có thể vẽ nên từng nhân vật đặc sắc và diễn biến nội tâm hợp lý đến thế, dù chỉ là những nhân vật phụ như trợ giảng đại học Kanaishi hay bảo hiểm đen Miyoshi. Ngoài ra truyện cho người đọc tiếp thu một lượng kiến thức khổng lồ về ngành bảo hiểm, quy trình hợp đồng và những kẽ hở lách luật hay những án bảo hiểm đầy mưu mô, tác giả có lẽ phải đọc rất nhiều mới có thể khiến tình tiết đi hợp lý đến thế. Nếu Mê cung đỏ là dùng câu chuyện kỳ ảo để nói về bản thể con người thì trong Nhà đen bản thể con người được khắc họa qua những câu chuyện vô cùng thực tế vốn tồn tại xung quanh ta. Chi tiết về con sâu bướm cuối truyện như vẽ nên một viễn cảnh về xã hội tương lai khi mà con người ta chính là đàn kiến đang sợ hãi hoang mang trước thế lực quá mới mẻ mang tên tâm lý băng hoại của loài người, không còn đến từ cá nhân, mà đến với số lượng khổng lồ. Megumi -bạn gái Wakatsuki đã nói thế này "Không, họ hoàn toàn bình thường. Có thể nói là hầu như tất cả đều bình thường. Vấn đề là họ có chung một nỗi bi quan đến mức bệnh hoạn, cả nỗi tuyệt vọng vô bờ bến đối với nhân loại nữa. Mọi thứ họ nhìn đều phản chiếu nỗi tuyệt vọng tăm tối đó. Họ tuyệt nhiên không chấp nhận một điều, rằng thiện ý và tình cảm của con người sẽ làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Cho nên, chắc chắn họ có ác cảm trên mức cần thiết đối với mọi sự việc trên đời. Họ bảo vệ bản thân bằng thứ mánh khóe vô cùng tinh tế, đó là không kết nối tình cảm và yêu thương bất cứ thứ gì để dù bị phản bội cũng sẽ không tổn thương. Và họ áp đặt thành kiến độc ác lên mọi đối tượng đe dọa sự tồn tại của họ, ngộ nhỡ có bất trắc xảy ra cũng sẽ dễ dàng rũ bỏ mà không cảm thấy đau đớn." Nói tóm lại, Nhà đen không phải truyện trinh thám, không có yếu tố thủ phạm bất ngờ, cũng không phải truyện kinh dị như kiểu The ring, đây là câu chuyện mang yếu tố hình ảnh khắc họa con người rất tốt, tính gợi cao và lối kể chuyện hấp dẫn. Giống như Ktakami Jiro đã bình về cuốn này, nó mô tả bi kịch hiện đại của một xã hội phải đối mặt với sự suy đồi đạo đức thông qua những câu chuyện phụ được liên kết phức tạp cũng như ngòi bút tạo dựng nhân vật xuất chúng, lột tả một cách cảm động sự tôn nghiêm và kỳ vọng của con người. Người viết: Ngoc Anh Pham - fb/trinhthamgroup *** KISHI YUSUKE Sinh năm 1959 tại Osaka, tốt nghiệp khoa Kinh tế học Đại học Kyoto. Năm 1996, tác phẩm ISOLA - Nhân cách thứ 13 của ông đoạt giải xuất sắc Tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản. Sau đó, các tác phẩm khác của ông như: Nhà đen (1997), Búa thủy tinh (2004), Tân Thế Giới (2005), Giờ học của ác quỷ (2008) cũng lần lượt được nhận các giải thưởng văn học khác nhau. Một anh nọ làm ở công ty bảo hiểm nhân thọ, chuyên môn thẩm định tiền bồi thường tử vong. Một ngày kia, anh ta được khách gọi đến tận tư gia, và bất ngờ trở thành người đầu tiên phát hiện ra thi thể treo cổ của đứa con trai nhà ấy. Qua thái độ của bố mẹ chúng, anh ngờ rằng đây không phải là tự tử, mà là giết con để lấy tiền bảo hiểm, nên khi đơn yêu cầu bồi thường được gửi tới, anh đã âm thầm tiến hành điều tra. Từ đó, ác mộng dồn dập tấn công cuộc sống của anh. Nỗi khủng hoảng triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn quanh nghi can sát nhân. Và hơn hết thảy, cái chết của những người vô tình hoặc cố ý đã nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Một truyện dài bất tận dẫn vào địa hạt của bất nhân và run rẩy… Nhà đen đoạt giải Nhất tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản năm 1997. *** Ngày 8 tháng Tư năm 1996, thứ Hai. Ngừng bàn tay đang cầm cây bút chì xanh lại trong chốc lát, Wakatsuki Shinji khẽ vươn vai. Anh vén rèm lên, để ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ phía Đông của phòng Tổng hợp, tạo thành những đốm nắng nhỏ trên mặt bàn. Những tia sáng li ti lấp lánh trên các đồ vật nằm trong khay bút, nào nắp bút bi, con dấu, kính lúp soi dấu hồ sơ và cả com-pa nữa. Wakatsuki nhìn ra bên ngoài cửa sổ, bầu trời Kyoto trong vắt, đâu đó có những vệt mây đang lặng lờ trôi, như thể được quệt bởi đầu bút vẽ. Anh hít căng không khí trong lành của buổi sáng rồi lại tiếp tục kiểm tra số hồ sơ yêu cầu tiền bảo hiểm tử vong đang chất đống trên bàn làm việc. Một thợ mộc 48 tuổi, ho ra máu, nhập viện và bị chẩn đoán mắc ung thư dạ dày. Một nhân viên văn phòng 60 tuổi, ngất xỉu trong lúc chơi golf và bị phát hiện mắc bệnh u não. Một sinh viên đại học vừa làm lễ trưởng thành[1] năm nay, chạy xe quá tốc độ nên đâm phải cột điện ở khúc cua… Wakatsuki đang đối diện với cái chết của những con người anh chưa một lần gặp mặt. Xem ra, khởi đầu mỗi buổi sáng bằng công việc như thế này thật chẳng mấy dễ chịu. Trong vòng năm năm sau khi vào công ty, Wakatsuki được phân bổ về ban Đầu tư trái phiếu quốc tế ở trụ sở chính. Bấy giờ, trong đầu chỉ rặt những vấn đề kinh tế vĩ mô như lãi suất dài hạn của Mỹ hay tỉ giá hối đoái, thành ra anh cứ ý thức một cách mơ hồ rằng mình đã trở thành nhân viên của một cơ quan tài chính chứ nào phải công ty bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm ngoái, anh đã chuyển đến chi nhánh Kyoto làm công việc thẩm định tiền bảo hiểm tử vong. Kể từ đó, anh mới có cảm giác mình thật sự là nhân viên của một doanh nghiệp liên quan đến chuyện sống chết của con người. - Hôm nay lại có hàng tá vụ tử vong nữa nhỉ. Phó phòng Kasai Yoshio ngồi kế bên, nhìn sang bàn Wakatsuki và cất tiếng. - Đang mùa xuân mà... Tội nghiệp quá. Ngẫm lại, đúng là số người chết nhiều đến bất thường. Theo thống kê, lượng người chết nhiều nhất là vào mùa đông vì người già hay bệnh nhân sức khỏe yếu thường không vượt qua nổi giá rét. Chắc chắn phải có nguyên do nào đó mới dẫn đến quá nhiều cái chết ngay giữa mùa xuân thế này... Wakatsuki thử lật mớ hồ sơ. Ngay dưới đơn yêu cầu tiền bảo hiểm do người thụ hưởng điền đều có biên bản xác nhận tử vong của bác sĩ, bản phô tô hộ khẩu gia đình, vài trường hợp có biên bản chứng minh tai nạn giao thông. Ẩn số ngay lập tức được giải đáp. - Ồ, hồ sơ vụ hỏa hoạn ở quận Sakyo đây mà. Khoảng ba tuần trước, một xưởng mộc bị thiêu rụi khiến năm người trong gia đình thiệt mạng. Hiện tại, có tổng cộng mười lăm yêu cầu tiền bảo hiểm tử vong cùng một lúc nên thoạt nhìn, số trường hợp có vẻ nhiều hẳn lên. Già nửa số đó là những loại bảo hiểm có tính tiết kiệm cao, chẳng hạn như bảo hiểm dưỡng lão kì hạn năm năm. Chắc toàn những người không nỡ từ chối đây mà, Wakatsuki tưởng tượng. Họ đã động lòng vì lời nài nỉ “bị áp lực chi tiêu” của đám nhân viên bán bảo hiểm và cứ liên tiếp bỏ tiền ra mua giúp. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm nhân thọ của Nhật Bản cao nhất thế giới, phần lớn là nhờ công của những khách hàng như thế. - Mà này, có kẻ đốt đúng không? Biết thủ phạm chưa vậy? - Chưa anh ạ, nhưng khả năng có người thụ hưởng rất thấp nên em nghĩ việc thanh toán không vấn đề gì đâu. - Rõ thật là... Cứ phải tử hình hết cái bọn đốt nhà người khác làm vui đi cho rồi! Kami lẩm bẩm. Anh xắn tay áo sơ mi lên, để lộ cánh tay to như lực sĩ, thi thoảng lại lấy khăn mùi soa lau mồ hôi trán. Chiều cao tầm 1m75, cân nặng lên đến 120 kilogam có lẻ nên nhiệt lượng thoát ra từ anh hẳn phải lớn hơn nhiều so với người bình thường. Mới buổi sáng đầu xuân mà lưng và phần nách chiếc áo sơ mi dài tay màu xanh da trời cỡ XXL trên người anh đã ướt đẫm. Điện thoại đổ chuông. Kasai nhấc ống nghe không chút chần chừ rồi ấn chiếc nút đang nhấp nháy. Anh cố thực hiện kế hoạch chỉ đạo âm thầm đối với các nhân viên nữ rằng phải trả lời điện thoại ngay lập tức. - Bảo hiểm Nhân thọ Showa chi nhánh Kyoto xin nghe! Xin lỗi đã để quý khách chờ lâu! Giọng nam cao sang sảng của Kasai vang lên khắp phòng. - Nhờ anh nhé, chủ nhiệm Wakatsuki. Sakagami Hiromi đặt lên bàn tập hồ sơ yêu cầu tiền bảo hiểm trợ cấp nằm viện sau khi kiểm tra xong một lượt. Cô là nữ nhân viên xuất sắc đã có kinh nghiệm năm năm làm việc tại công ty. Ngoài hồ sơ mới, số hồ sơ đã được phân loại theo màu cũng nằm la liệt trên mặt bàn, nào là thanh toán bảo hiểm hết thời hạn, thanh toán bảo hiểm sinh kì, thanh toán lương hưu, vay tiền theo hợp đồng bảo hiểm, cắt hợp đồng, đăng kí con dấu, thay đổi người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng tiền bảo hiểm, đính chính địa chỉ hoặc ngày tháng năm sinh, thậm chí còn đính chính thông tin người thân hay giới tính của người mua, và cả tái phát hành bảo hiểm rủi ro chứng khoán nữa. Nói chung là muôn hình vạn trạng hồ sơ, không có thời gian mà đủng đỉnh. Wakatsuki nhanh chóng bắt tay vào kiểm tra. Ngoại trừ vụ cháy xưởng mộc, hầu hết đều là người chết do bệnh tật kinh niên, không thấy vấn đề gì. Nhưng gần đến cuối, anh phát hiện ra một trường hợp. Bảo hiểm trọn đời 10 triệu yên, tham gia bảo hiểm đã hai mươi năm. Một hồ sơ rất bình thường, nhưng đáng chú ý nhất là dòng chữ “Biên bản xác nhận tử vong” đã được thay thế bằng dòng chữ “Biên bản khám nghiệm tử thi”. Sự khác nhau của hai biên bản này nằm ở chỗ, bác sĩ lập biên bản có khám cho người đó trong vòng 24 giờ trước lúc chết hay không. Nếu là “Biên bản khám nghiệm tử thi” thì ngay từ đầu, bác sĩ đã chỉ tiếp xúc với tử thi nên chưa thể khẳng định chắc chắn nguyên nhân gây ra cái chết. Wakatsuki kiểm tra các mục theo thứ tự từ trên xuống dưới. Mời các bạn đón đọc Nhà Đen của tác giả Kishi Yusuke.
Hiệp Hai
Thiếu tướng Reinga Helen, cục trưởng cục tình báo quân sự Đức “Những đội quân nước ngoài ở phương Đông”, ngay từ năm 1944 đã đi đến kết luận rằng sự diệt vong của Hitler đã đến gần và đó là điều không thể nào tránh khỏi. Trong tình trạng hoảng loạn bao trùm lên cả nước Đức hồi đó, Helen là một trong số rất ít người không hoảng sợ trước nguy cơ bị trả thù, mà biết bắt đầu hành động. Helen đã thảo một bản kế hoạch luân chuyển và rút lui các nhân viên tin cẩn nhất vào hoạt động bí mật. Kế hoạch được Himmler tán thưởng rồi đưa trình lên Hitler và Helen được phong lên cấp bậc trung tướng. Theo kế hoạch này, trong những điều kiện vô cùng cẩn mật, một cuộn micro phim dài hàng ngàn mét được gấp rút chuẩn bị để chụp danh sách các điệp viên của cục tình báo do Helen chỉ huy. Cuộn phim được cuộn vào trong những chiếc hộp nhỏ bằng kim loại và niêm phong cẩn thận. Vào một đêm tối trời tháng hai năm 1945, dưới tiếng đệm của những làn đạn đại bác, từ thị trấn nhỏ Sosen, ngoại thành Berlin, nơi đóng quân của bộ chỉ huy các lực lượng lục quân phát xít, ba chiếc xe tải bịt kín mít và một chiếc xe bọc thép hộ tống từ từ đi ra. Đoàn vận tải bí mật này vượt qua những quãng đường núi lởm chởm ổ gà một cách dễ dàng rồi đến vùng thượng lưu Bavaria, ở đây, ba chiếc xe tải cùng với chiếc xe bọc thép vượt biên giới. Một đoàn người ăn mặc giống hệt các vận động viên leo núi khoác lên vai những chiếc túi nặng rồi biến vào núi. Đoàn người đến một căn cứ nằm sâu trong núi, một túp lều gọi là Elenslam, vào một đêm giông tố bão bùng. Ở đây, trưởng đoàn, không phải ai xa lạ, mà chính là Reinga Helen cùng với hai sĩ quan SS cận vệ dồn những hộp kim loại kia vào những chiếc thùng dài rồi đem giấu vào chiếc hầm bí mật đã được đào sẵn từ trước. Sau bữa ăn tối, điều mà sau này mới rõ, hai sĩ quan cận vệ “đột nhiên” cảm thấy khó chịu và mấy phút sau lăn ra chết. Xác họ bị quẳng xuống một vực sâu gần đấy. Ở Elenslam, những “nhà du lịch” còn sống sót tiếp tục sống hơn hai tháng. Ở đây, hàng ngày, đài và vô tuyến điện thông báo cho chúng biết tình hình cục diện chiến tranh. Được tin chiến cuộc kết thúc, Helen liền hạ lệnh cho các nhân viên của hắn xuống núi và ra đầu hàng nhưng chỉ được đầu hàng quân Mỹ! Còn chính hắn và một số tay chân thân cận khác thì mấy ngày sau mới xuống. Có mặt trong đoàn thiết giáp thuộc quân đoàn bảy của Mỹ, Helen yêu cầu, phải lập tức đưa hắn về quân đoàn bộ. Tại đây, hắn yêu cầu phải nhanh chóng đưa hắn về bộ chỉ huy của cục tình báo Mỹ. Không phải chờ đợi lâu, một chiếc xe quân cảnh có hộ tổng cẩn thận được phái đến. Chiếc xe này được lệnh phải nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của người Đức bí ẩn này. Và đây, bước cuối cùng của cuộc chạy đua: Helen được tướng Paterson, một thủ lĩnh của CIC, cơ quan tình báo bảo vệ an ninh cho quân Mỹ ở Đức, tiếp. - Ngài Helen, tôi hy vọng ngài đã không gặp khó khăn gì trên đường đi? - Paterson hỏi hai người bạn đồng nghiệp Đức. - Cảm ơn tướng quân, mọi việc đều hoàn toàn thuận lợi! - Thế thì tuyệt! Bây giờ ngài đi nghỉ đi. Tôi sẽ không quấy rầy ngài. Chúng ta nói chuyện sau. - Chân thành cảm ơn ngài đã che chở cho chúng tôi. Nếu có thể, nhờ ngài chuyển tới Tổng thống Truman lòng biết ơn sâu sắc nhất của chúng tôi. Chúng tôi biết và nhớ rằng chính ngài Tổng thống đã nói: “Nếu thấy quân Nga sắp thắng, chúng ta sẽ giúp đỡ quân Đức”. - Than ôi! - Paterson khoa hai tay lên trời - Ngài nên nhớ rằng tất cả những gì đã xảy ra sau chiến dịch Stalingrad và sau này, lúc cuộc chiến tranh sắp kết thúc, hoàn toàn không nằm trong kế hoạch của chúng tôi… Sáng hôm sau, được biết cấp bậc của “tên tù binh” Đức, Allen Dalles, cục trưởng cục tình báo châu Âu, sau này là kẻ cầm đầu CIA, đã đáp máy bay đến Visbac. Việc này càng tăng thêm tốc độ của các sự kiện kế tiếp. Ngay ngày hôm đó, Helen và một số nhân viên tin cẩn khác cùng với những tài liệu quan trọng nhất của cục tình báo phát xít, đáp chuyến máy bay đặc biệt đi Washington. Và lại những cuộc gặp gỡ thân mật nữa. Trong phạm vi rất hạn chế của các nhà lãnh đạo tình báo Mỹ, mà cụ thể là: Cục trưởng cục tình báo chiến lược Mỹ - tướng Wiliam Donovan, cục phó Magrude, nhà lý thuyết cục tình báo Mỹ - giáo sư Sheman Kent và một nhân vật quan trọng khác, Helen đã báo cáo về những “kho báu” của mình, và đã làm cho các ông chủ mới phải hoa mắt bởi những hiểu biết sâu rộng về nghiệp vụ và những tài liệu phong phú về Liên Xô của hắn. Để kết thúc, Helen đề nghị thành lập ngay những cơ quan tình báo gián điệp tại Đông Âu để tiến hành các hoạt động phá hoại chống các nước này và thu thập các tài liệu có liên quan đến Liên Xô. Các nhà lãnh đạo tình báo Mỹ từ lâu chỉ biết mơ ước về một đề nghị như thế, nên đã không do dự, đồng ý đề nghị này của Helen. Còn về phía mình, ngoài những điều kiện khác, hắn đã đưa ra những yêu cầu sau: - Toàn bộ nhân viên, mà trước hết những nhân vật lãnh đạo của các tổ chức tình báo gián điệp đã được thành lập, phải là người Đức, trừ những điệp viên được tuyển dụng và huấn luyện ngay ở các nước mục tiêu. - Không ai có quyền giao những nhiệm vụ nhằm chống lại “những quyền lợi của nước Đức” cho Helen và bất kỳ nhân viên nào của hắn, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Và những quyền lợi này phải do chính Helen xác định. Một khi Tây Đức trở thành một quốc gia độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, Helen và cơ quan của hắn sẽ trở lại phục vụ cho nước Đức mới. Thế là trong những ngày, khi mà những người đứng đầu của bốn cường quốc ngồi lại xung quanh chiếc bàn tròn trong điện Saesilenchov ở Postdam để vĩnh viễn kết liễu chủ nghĩa phát xít, quét bỏ nguy cơ chiến tranh ở châu Âu, thì ờ Washington, một thành viên của bộ tứ - Tổng thống Hari Truman, đã làm một bước đầu tiên cho cuộc “chiến tranh lạnh”. Và hơn thế nữa, cuộc chiến tranh thầm lặng bí mật nhằm chống lại Liên Xô và các nước đang có ý định xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều tên quân phiệt và tội phạm chiến tranh có nhiều tội ác, không những không bị trừng phạt mà còn trở lại tiếp tục hoạt động, bất chấp cả lời khuyên của Helen, và không chỉ tuân theo mệnh lệnh của hắn… *** - Tôi mời anh đến đây là để hỏi xem anh đã nghỉ ngơi thế nào và đã chuẩn bị xong cho chuyến đi Brussels chưa? - Cảm ơn tướng quân! Tôi đã chuẩn bị đâu vào đấy. Công việc đào đất và cái yên tĩnh đồng quê, dĩ nhiên, bao giờ cũng làm cho thần kinh bớt căng thẳng, song phải thú thực rằng những ngày gần đây tôi đã sống với công tác trước mắt… nhiều lúc tôi muốn được ngồi lên xe để vù ngay đến Rensburg. - Nghĩa là anh đã sẵn sàng? Rất sung sướng được nghe anh nói như thế. Tôi tin tưởng anh sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Ý tôi muốn nói những kinh nghiệm của anh, và cả việc anh đã từng ở đấy. Hồi đó là năm… - Mùa hè năm 1956, cùng với vị thủ tướng đã quá cố. Người Nga là những người hết sức mến khách. Họ đã để cho chúng tôi nghỉ lại ở khách sạn Xô viết, một trong những khách sạn tốt nhất Moscow. Họ tham quan quanh thành phố. Tuy vậy, chúng tôi còn có thời gian để đi bách bộ, mà cái đó đặc biệt có lợi… - Thế còn thứ ngoại ngữ ấy ra sao rồi? Tôi muốn nói đến trình độ hiểu biết tiếng Nga của anh? - Chuyến đi hồi đó làm cho tôi sung sướng. Tôi đã đến được cả những vùng Baltic. Song, việc lợi dụng sự có mặt ở Moscow để làm những việc quan trọng hơn đã không thành. Bộ chỉ huy cho rằng chúng tôi bị cơ quan phản gián Nga theo dõi nên đã chỉ thị cho chúng tôi phải tuyệt đối thận trọng, và chuyển tôi sang kiểm tra hoạt động của các sĩ quan thuộc cục A-I và A-III. - Còn bây giờ anh sẽ phải giữ một vai trò khác. Trước tiên, đây là một công việc độc lập và có mục tiêu rõ ràng. Tôi chưa kịp làm quen với các chỉ tiết của kế hoạch, song cảm thấy rằng mục tiêu mà các bạn đồng nghiệp của ta ở Đại Tây Dương đang quan tâm. Anh đã xác định được cách tiếp cận thuận lợi rồi thì phải. - Vâng, đúng thế. Một nhân viên của tôi đã làm được một số việc. - Vâng, tôi đã xem qua báo cáo của anh. Anh đã quyết định đến đó bằng cách nào chưa? - Theo tôi, con đường thuận lợi nhất vẫn là qua Bắc Âu. Sau khi ở lại Brussels một vài ngày, tôi sẽ đi Oslo và Stokholm và sau đó đến Moscow. - Tuyệt lắm! Anh có muốn hút thuốc không? - Không, thưa tướng quân. Chỉ còn ít lâu nữa là tròn hai mươi ngày kể từ ngày người bạn đồng nghiệp của tôi - Paul Kad - mất. Hồi anh ấy còn sống, tôi đã thề là sẽ không bao giờ hút thuốc. Còn rượu thì chỉ uống trong những trường hợp hết sức cần thiết. Và tất cả những cái đó là để giữ gìn sức khỏe cho cuộc đấu tranh vĩ đại của chúng ta. Cho đến nay, như tướng quân thấy, tôi vẫn giữ trọn lời thề đó. - Có phải anh nói cái đó là có nhã ý khuyên tôi từ bỏ những thói đáng yêu đó không? Nhưng dù sao, tôi cũng vẫn thành thật cảm phục nghị lực của anh. Thôi, chúc anh thành công, và mong anh sẽ sớm đưa đến cho tôi những tin tức đáng mừng. - Vâng, thưa tướng quân…   Mời các bạn đón đọc Hiệp Hai của tác giả Alesandr Taradankin & Igor Phesenco.
Truy Sát
Nước Mỹ đã vô thức kéo kẻ thù nguy hiểm nhất trên thế giới gần mình. Brad Thor - tác giả cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ đã cho thấy “Không khoan nhượng” vẫn chưa phải là tác phẩm trinh thám hay nhất của mình bằng một tác phẩm mới về đặc vụ chống khủng bố Scot Harvath, cựu đặc nhiệm Hải quân Hoa Kỳ, người phải một mình đối mặt với trận chiến chống khủng bố mà những nhân viên tình báo kỳ cựu nhất của cường quốc này chưa bao giờ hình dung được. Sau nhiều năm không bị tấn công, một nhóm khủng bố đã chọn kỳ nghỉ cuối tuần là Ngày Độc lập 4-7 làm mốc chấm hết cho sự yên bình trên đất Mỹ. Bằng một chiến dịch tấn công hoàn hảo, hệ thống cầu và hầm đường bộ ra vào đường đi nghỉ cuối tuần. Lợi dụng các nỗ lực tìm kiếm và cứu hộ nạn nhân khủng bố đang diễn ra, một nhóm biệt kích tinh nhuệ nước ngoài đã thâm nhập vào New York chỉ để tìm một người của họ - một đối tượng với sự nguy hiểm và ảnh hưởng lớn đến mức nước Mỹ sẽ làm mọi thứ cần thiết và bằng mọi giá để kiểm soát được. Trong tình huống đó Scot Harvath là hy vọng duy nhất của nước Mỹ. Bằng mọi cách, băng qua những con phố đổ nát và cháy sập của Manhattan, Scot thực hiện nhiệm vụ của mình, anh tìm bắt đối tượng mà chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thậm chí không chính thức công nhận sự hiện hữu. Với phong cách viết thể loại hành động đặc trưng, ly kỳ và kiến thức phong phú của mình, Brad Thor đã mang lại một tác phẩm trinh thám hàng đầu mà chắc chắn khi đọc độc giả sẽ nhiều lần phải nín thở khi lật sang trang mới. *** Thường thì người ta chỉ nhận ra được là mình đã xuất hiện nhầm chỗ, vào thời điểm không thích hợp, vào lúc đã quá muộn. Đó chính là trải nghiệm trớ trêu của Steven Cooke, vì đến tận phút chót của đời mình, Cooke vẫn nghĩ rằng mình đã may mắn trúng giải độc đắc trong nghề điệp viên tình báo. Chàng trai 26 tuổi tóc vàng và mắt xanh đã có mặt tại cuộc gặp hoàn toàn vô tình. Thật ra, Cooke chẳng có việc gì phải đến khu chợ ngoài việc cô em gái đã nhờ anh mua và mang về một chiếc áo choàng dài kiểu Thổ Nhĩ Kỳ có đai thắt ngang lưng trong chuyến về thăm nhà cuối tuần đã dự định từ lâu nhưng vẫn chưa thực hiện được. Còn cả đống việc phải giải quyết trước khi về nhưng Steven vẫn không thể từ chối yêu cầu của Alison. Hai người thân nhau thậm chí hơn cả anh em ruột và là bạn thân từ hồi còn bé. Alison thực ra là người duy nhất biết Steven làm nghề gì, thậm chí bố mẹ Steven cũng không hề biết con trai mình là một điệp viên CIA. Steven mới đến Marocco được gần một năm và cũng khá thông thạo Marrakech. Nằm tại trung tâm thành phố, khu chợ là một mê cung của những lối đi hẹp và ngoắt ngoéo. Xe lừa chất nặng hàng nằm ngổn ngang lộn xộn trên những con phố nóng nực, bẩn thỉu trong lớp bụi mờ cố hữu dày đến mức đứng trên khu quảng trường lớn cũng không thể nhìn thấy những bức tường gạch xây bằng bùn của thành phố, thậm chí người ta chẳng nhìn thấy dãy núi Atlas từ khu chợ. Cái nóng gay gắt khó chịu khiến cho Cooke cảm thấy hài lòng khi đi vào trong dãy chợ có mái che để tìm mua áo choàng cho Alison. Khi đi tắt qua những lối đi chính của khu chợ, Steven lướt mắt qua một cửa hàng nhỏ bán cà phê và đột ngột dừng ánh mắt của mình vào một người khách - một người đàn ông đã biệt tăm hai ngày trước vụ tấn công 11/09 mà nước Mỹ vẫn đang tìm kiếm kể từ đó đến nay. Nếu đúng thế thì phát hiện của anh sẽ không chỉ là một chiến công của ngành tình báo Mỹ mà còn là cơ hội để bản thân trở thành một điệp viên trẻ nổi bật. Hấp dẫn đấy, nhưng Cooke tự nhủ rằng mình gia nhập CIA để phụng sự tổ quốc trước tiên chứ không phải chỉ cố gắng để nhận khen thưởng. Steven dùng điện thoại di động gọi cho cấp trên và thông báo về những gì mình thấy, cộng thêm cả thông tin là có một đối tượng nam chưa rõ danh tính khác vừa vào quán cà phê và ngồi cùng bàn với người đàn ông đó. Vì không có ai hỗ trợ, điều khả dĩ nhất cấp trên của Steven có thể làm là yêu cầu một trong những vệ tinh do thám của mình tập trung thu thập thêm thông tin. Thế nhưng phần lớn nhất của việc thu thập thông tin lại thuộc về Steven. CIA có một loạt những câu hỏi tối quan trọng và cần Steven thu thập thông tin nhiều nhất có thể về người đàn ông trong quán cà phê cũng như những dự định của anh ta. Cảm thấy chất adrenaline chảy rần rật trong máu, cả sự sợ hãi và cả sự phấn khích, Cooke cố tập trung vào những gì mình đã được huấn luyện để tự kiềm chế bản thân. Điều Steven cần làm đầu tiên là làm sao có được dữ liệu lưu lại cuộc gặp giữa hai người đàn ông trong quán cà phê. Không thể đường hoàng bước vào quán với gương mặt da trắng đậm chất Mỹ của mình vì điều đó sẽ đánh động đối tượng, Steven cần phải kiếm cho ra một cái máy ảnh. Đi nhanh nhất với tốc độ an toàn, cuối cùng anh cũng tìm được thứ mình cần, nhưng vấn đề duy nhất là Steven không có đủ tiền. Móc túi trong chợ nhiều như rươi, bản thân thì không bao giờ mang thẻ tín dụng còn tiền mặt chỉ mang vừa đủ tiêu vặt, vật giá trị duy nhất mà Steven có là chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Kobold Chronograph và người bán hàng vui vẻ đồng ý đổi chiếc đồng hồ của anh lấy một chiếc máy ảnh kỹ thuật số Canon, loại có ống kính tương đối tốt đi kèm một thẻ nhớ dung lượng cao. Từ một vị trí trên mái nhà đối diện với quán cà phê, Steven vừa chụp ảnh, vừa quay những đoạn video ngắn với hy vọng chuyên gia phân tích của CIA ở Langley có thể giải đoán được. Lý do để người đàn ông lộ mặt ra nơi công cộng hẳn sẽ cực kỳ quan trọng không kém gì cuộc gặp này. Steven đã dùng hết thẻ nhớ dung lượng cao và chuẩn bị thay nó bằng thẻ nhớ đi kèm máy của nhà sản xuất, định sẽ dùng để chụp những bức ảnh về chiếc xe hơi của người đàn ông khi rời quán, thì nghe thấy một tiếng động sau lưng mình. Tiếng sợi dây rít lên trong không khí rồi thắt chặt vào cổ anh. Steven quờ quạng vô vọng vì một chân kẻ thắt cổ đã chẹn chặt vào lưng anh và bắt đầu cảm thấy đường thở của mình tắc nghẹn. Khí quản Steven thắt lại, chiếc máy ảnh rơi xuống mái nhà kêu lọc cọc. Kẻ ám sát không để ý đến hiện trường đổ vỡ lộn xộn khi lôi xác người điệp viên CIA trẻ ra khỏi bức tường rồi nhét cái máy ảnh và thẻ lưu dữ liệu vào túi. Điều duy nhất mà Abdul Ali quan tâm là làm sao để không có bất cứ chứng cứ gì về cuộc gặp ở quán cà phê được tồn tại. Người Mỹ sẽ sớm biết việc này và lúc đó thì đã quá muộn.   Mời các bạn đón đọc Truy Sát của tác giả Brad Thor.