Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngửa Mặt - Du Tử Lê

Du Tử Lê sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai. Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tỵ nạn bên Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ. *** Nhự hơ hãi đem hung tin đến, tôi. Tôi lặng người không dám mở mảnh giấy nhỏ ra đọc. Còn đọc gì được. Mới nghe Nhự nói, chưa rõ đầu đuôi nước mắt tô đã chạy vòng quanh. Nhự cũng lúng túng, loay hoay hết nhìn tôi lại ngoái vào trong. Tôi nắm chặt hai tay, mím môi, nghiến răng để khỏi bật tiếng nấc. Mẹ tôi từ nhà trong đi lên, thấy cảnh hai đứa khác thường, giữa cửa, chắc bà cụ cũng ngạc nhiên không ít nhưng may mắn là người không tỏ dấu nghi ngờ gì. Mẹ tôi bảo, sao các con không vào hẳn trong này. Bàn ghế đó, thiếu đâu mà đứng như vậy kìa, Nhự chào mẹ tôi, nói đỡ, vâng, bác mặc chúng con. Để chúng con ra vườn cho mát. Mẹ tôi không nhìn, rẽ vào buồng bên nói, ừ, hay ra vườn cũng được. Các cô lại thèm đồ chua rồi chứ gì. Nhự cố cười, bác nói trúng ý cháu quá, làm cháu mắc cỡ, cháu định xin bác mấy trái khế. Nhự nói và kéo tôi đi xềnh xệch. Mắt tôi hoa. Đầu tôi choáng váng. Tôi không còn nhận được bất cứ một sự gì ở chung quanh. Người tôi hình như đang lả dần, héo rũ như thân cây chờ phút rã mục. Gân cốt trong người tôi nhão ra, người tôi mềm nhũn. Tôi tựa người vào Ngự, bước những bước chập chờn đầy hình ảnh chàng. Chàng và Yến, Yến, con... tôi muốn tìm một tiếng nguyền rủa thậm tệ nào đó, dành riêng cho Yến. Nhưng tôi không thể mở miệng được. Tựa lưng vào thân cây khế, tôi ngả đầu vào vai Nhự. Những bông hoa khế nhỏ xíu xinh xinh màu tím nhạt lay động trên đầu tôi. Tôi bắt đầu nức nở. Tôi khóc giữa những lời an ủi vỗ về của Nhự. Trong một thoáng, cùng lúc, những ý tưởng mâu thuẫn, lộn ngược dầm dập lóe trong óc tôi. Tôi sẽ bỏ chàng. Phải, em sẽ bỏ anh, em không thể yêu anh được nữa. Làm sao em yêu được anh, khi chính anh, đã phản bội tình em, khi chính anh đã từ chối đã phủ nhận tình yêu đó. Anh không còn xứng đáng với tình yêu của em nữa. Hết. Thế là hết. Hết, nghĩa là chúng ta không bao giờ gặp nhau. Em sẽ đi lấy chồng. Em sẽ thuộc về người khác. Anh sẽ vào ngồi tù, anh sẽ bị tử hình có thể. Anh sẽ chết, nhục nhã, dần mòn. Anh sẽ chết một mình, lẻ loi. Anh sẽ chết, một mình, không có em ở bên cạnh. Không. Không thể như thế. Anh vô tội. Em tin chắc là anh vô tội. Có đáng tội chăng là Yến, Yến. Chính cô ta. Chính con nhỏ đó. Chính nó. Trời ơi. Chính nó. Nó đã giết đời anh. Nó đã giết đời em. Nó đã giết cuộc tình mình. Không. Em không thể để anh vào tù, em không thể đứng đợi ngồi trông tin anh ra tòa, lãnh án một cái án tử hình. Tử hình. Anh. Anh của em. Không em sẽ giết anh. Không kẻ nào khác hơn em, có quyền giết anh. Em sẽ dành cho bằng được cái quyền cuối cùng ấy, về đời anh. Tôi đưa tay gạt nước mắt; lắc đầu để xua đuổi tất cả những ý nghĩ hắc ám dật dờ. Nhự ái ngại lau những giọt lệ còn đọng trên má tôi. - Phải bình tĩnh mới được, Thục. Sự thể đã đến thế. Tất nhiên không thể không buồn, không khổ. Nhưng còn có những vấn đề khác quan trọng, khẩn cấp hơn mà mình phải tính ngay mới kịp và thiết thực hơn, ngay bây giờ phải xem Tự sống ra làm sao, ở đâu. Phải hỏi Tự xem Tự định thế nào. Giờ thì chỉ còn Thục, mà Thục không bình tĩnh nữa là hết... Không cứu vãn được gì cả. Nghe Nhự nhắc tới tình trạng hiện tại của Tự, tôi mới sực nhớ, không biết giờ này, chàng ở đâu. Tôi hỏi Nhự, Nhự lắc đầu: - Nhự cũng đâu có biết. Mảnh giấy này do Hiệp đưa lại. Nhự có hỏi chỗ ở của Tự, thì Hiệp bảo, mọi liên lạc qua Doãn. Chỉ có một mình Doãn biết rõ chỗ ở của Tự mà thôi. Tôi nóng nảy: - Hay là mình Doãn ngay bây giờ, Nhự. Nhự ngập ngừng: - Cũng được. Nhưng làm sao đi, khi mắt Thục đỏ hoe thế này. Bác sinh nghi, hỏi vặn vẹo thì sao? Tôi nhíu mày, trừng mắt, cương quyết: - Thục đã có cách, Nhự cứ để mặc Thục. Tôi nói rõ mưu định của mình xong bỏ mặc Nhự ngoài vườn tôi vào nhà, lên gác thay quần áo thật nhanh. Mẹ tôi đã đứng đợi sẵn ở dưới chân thang. Bà cụ hỏi: - Con có chuyện gì mà đi gấp gáp quá vậy. Con có vẻ hoảng hốt lắm. Mẹ lo quá. Chuyện gì vậy Thục. Con. Mẹ tôi nắm lấy bàn tay tôi còn trên thành vịn. Tôi lao đao mất thăng bằng ngã dúi vào người mẹ tôi. Người ôm gọn tôi, giữa lúc nước mắt tôi lại trào ra, dàn dụa. - Sao vậy con. Con Thục kìa. Con lạ quá. Có chi sao không nói cho mẹ biết. Con cứ nói đi, mẹ hứa, dù là chuyện gì, mẹ cũng không rầy la con đâu. Con đừng sợ. Tôi gượng người, lấy lại thăng bằng và bình tĩnh. Tôi nói với người, trong khi mặt cúi gầm, ngó xuống: - Thưa mẹ, không có chuyện gì cả. - Có mà. Có chuyện gì đó thì con mới khóc như vậy chứ. Nói đi. Nói đi, mẹ tha thứ hết. Lúc nào mẹ cũng thương con. Thương con hơn hết, hơn cả các anh, các chị con, con biết thế chứ. - Vâng. Con biết. - Vậy sao không nói cho mẹ nghe chuyện gì đó. - Con không muốn nói, vì con định dấu mẹ. Mẹ tôi âu yếm vuốt tóc tôi. Những ngón tay người nhẹ nhàng vuốt tóc ở hai bên má tôi, thả thẳng về phía sau, chậm rãi: - Mẹ biết mà. Mẹ biết con có chuyện buồn. Chuyện gì buồn lắm. Nên con mới hốt hoảng, nên con mới khóc như vậy. Nào. Thôi, con gái cưng của mẹ, nói cho mẹ nghe đi, chóng ngoan mẹ cưng nhiều. (Mẹ tôi cười cười ghé sát mặt tôi) gớm, con gái lớn thế này, như ngày xưa là mẹ đã có cháu ngoại bồng rồi, chứ chơi đâu, mà nhõng nhẽo hoài à. Tôi không thể cười được, dù rất muốn cười để mẹ tôi hài lòng. Tôi nói từng tiếng: - Cô giáo con bị đau nặng, phải vào nhà thương, chắc khó qua khỏi. Con xin phép mẹ cho con đi với Nhự thăm cô. Mẹ tôi tròn mắt, bán tín bán nghi: - Cô giáo con. Thật không? Cô nào? - Cô Mùi. Cô dạy Pháp văn. Cái cô thương con nhất lớp mà con vẫn kể chuyện mẹ nghe đó. - À. À. Cô Pháp văn. Có thế thôi sao? Chỉ thế thôi mà con làm mẹ hết hồn. Mẹ đã tưởng chuyện gì. - Thế mẹ tưởng chuyện gì. Tôi ngước mắt nhìn mẹ tôi. Người lúng túng lảng tránh: - Ờ. Mẹ tưởng, tưởng có chuyện gì quan trọng hơn thế nữa xảy đến cho con. Tôi thu hết can đảm, nói một mạch: - Giờ con chẳng còn chuyện gì quan trọng nữa. Con không còn thiết tha một điều gì. Mẹ cứ yên tâm, con bây giờ sẽ sống như một cái máy. Một cái bóng trong căn nhà này. Con sẽ sống mãi như vậy. Chịu đựng mãi như vậy, để mẹ và ba vừa lòng. Con sống giờ không còn là cho con nữa. Vì đời sống con, chỉ có một cần thiết, là tình yêu, là cuộc tình của con và Tự. Nhưng mẹ đã không bằng lòng. Mẹ đã bắt con phải chọn lựa giữa mẹ và Tự. Con đã nghe mẹ. Con đã bỏ Tự. Bỏ Tự là bỏ lẽ sống của đời con. Bỏ Tự là bỏ nguồn hạnh phúc, là bỏ ánh sáng bỏ khí trời, bỏ tương lai, bỏ tất cả những gì lẽ ra ngày mai, đời con sẽ có. Đời con sẽ được hưởng. Nhưng con vẫn nghe mẹ, con vẫn bỏ Tự. Con đã bỏ Tự. Con đã nói cho Tự biết điều đó, và mẹ yên tâm, mẹ có thể yên tâm hoàn toàn, vì... Vì Tự đã không còn nữa. Không. Cơn xúc động nghẹn ngào lại làm tôi ứ đầy cổ tôi. - Sao con nói sao? Nó không còn nữa? Không còn nữa? - ... - Nó đã chết rồi. Làm sao nó chết? Ai giết nó? - Không. Không ai hết. - Vậy sao nó chết? - Không. - Thế nghĩa là sao? - Con. - Con giết nó? - Mẹ nghĩ thế cũng được: Mẹ không hài lòng sao? Nói xong, tôi mới biết mình lỡ lời. Nhưng đã muộn. Mẹ tôi hét lên: - Trời ơi. Con tôi. Nhự chạy vào, ngơ ngác: - Thưa bác, có chuyện gì đấy ạ. Mẹ tôi vừa khóc vừa đưa tay phân bua, Nhự nghe xong lắc đầu: - Thưa bác, theo chỗ cháu biết thì không có chuyện đó. Làm gì có. Bác đừng lo. Mẹ tôi ngừng khóc, chỉ tay vào tôi: - Thì đó, cháu xem. Chính nó nói ra miệng chứ ai. Nhự cằn nhằn: - Thục bậy quá (quay sang mẹ tôi), con xin bác đừng để ý. Thục nó bị giao động mạnh về chuyện cô Mùi vào nhà thương, nên nó nói lung tung không đâu vào đâu hết. Bác thì còn lạ gì tính Thục nữa. Cô ta chỉ cần một chuyện nhỏ thôi cũng đã đủ để hoảng hốt ầm ĩ lên được. Thôi có đi thăm cô Mùi thì đi để không có trễ rồi Thục. Tôi lấy khăn lau nước mắt nhìn mẹ tôi tần ngần. Tôi muốn nói một lời xin lỗi, hay tỏ dấu ân hận về hành vi nông nổi thiếu suy xét vừa qua mà sao tôi không thể mở miệng được. Cuối cùng, tôi nắm tay mẹ tôi: - Mẹ. Con lúc này, như điên như mất trí. Con không biết là con đã nghĩ gì và đã nói những gì với mẹ. Mẹ thương con. Mẹ đừng buồn con, nghe mẹ. Mẹ tôi lắc đầu: - Không. Mẹ thương con. Mẹ không bao giờ giận con hết, Mẹ biết con mẹ lúc này đang khổ sở, đang rối loạn. Mẹ không giận con đâu. Mẹ chỉ mong, thời gian sẽ giúp con quên dần nó. Thời gian sẽ giúp con lần lần bình tĩnh trở lại. Mẹ chỉ mong, chỉ cầu xin có thế thôi. - Mẹ đừng nói nữa mẹ. Mẹ nói thêm con lại khóc bây giờ. Con khổ quá. Mẹ biết không. Con không ngờ đời con lại khổ đến thế này. - Thì thôi, mẹ không nói nữa. Thôi con đi đi, Mẹ biết mà. Tôi thất thểu theo chân Nhự tới Doãn. Doãn tiếp chúng tôi bằng đôi mắt lạnh lùng, nghiêm khắc, như có phần oán trách thù ghét. Doãn bảo, chờ tôi một chút, thay quần áo, xong tôi đưa hai chị đi. Chiếc Taxi chạy quanh co một hồi. Cuối cùng tôi nhận ra khu bến tàu. Xóm Cầu khỉ. Nhự nói, khi Doãn bảo xe ngừng ngoài lộ chính. Chúng tôi xuống xe, lầm lũi theo chân Doãn rẽ vào một con đường đá dăm. Suốt từ lúc ra xe cho đến khi bước xuống, Doãn hút thuốc liền tay, ngậm miệng không nói một tiếng. Tôi dồn hết mọi khả năng chú ý, ghi nhận để lần sau có thể đến một mình. Đây là khu xóm lao động như trăm ngàn khu xóm lao động khác trong thành phố. Nhưng điểm đặc biệt của nó là khi bỏ con đường đá dăm, rẽ vào lòng xóm, người ta không có một đường đi nào, khác hơn bước lên những cây tre mảnh, hờ hững trên những trụ cột bằng xi măng hay gỗ, đó sâu xuống lòng đất bùn. Nước lấp xấp một mầu đen tanh tưởi, đầy những lăng quăng và rác rến. Càng vào sâu lòng xóm càng mở rộng những ngã rẽ với những thân tre nhỏ hơn, chỉ vừa đủ một người đi. Trong lúc di chuyển, chẳng may ở một góc nào đó, có người đi tới, một người lùi lại, đứng chéo chân ở một ngã ba hay ngã tư của hai chiếc cầu, cho kẻ kia đi qua. Với một người không quen như tôi, chỉ một chút sơ xảy nhỏ, là có thể té ngả dầm mình xuống nước bùn. Dù rón rén gượng nhẹ tránh được những tiếng kẽo kẹt của mấy cây tre vẫn uốn rung dưới chân tôi. Nhự đi trước, ngay sau Doãn, dơ tay ra phía sau cho tôi nắm. Dân trong xóm nhìn lũ tôi như một bầy quái vật. Họ hướng những con mắt nghi kỵ, gian giảo, tra khảo vào chúng tôi. Lũ trẻ con trần truồng, đứng tồng ngồng trong những căn nhà mái lá chạm sát đầu chúng. Nắng trưa làm tôi hoa mắt tư tưởng nhão chảy, tan lẫn, bầy nhầy cùng cảnh vật và bùn nước. Hình như không có một ý nghĩ nào đậu được lâu trong tâm hồn tôi. Mọi thứ đều rời rã, chia tay, cách biệt. Đôi bận, tôi muốn nhắm mắt, mặc cho chân đưa, thả lỏng thân xác cho rủi may, bất chợt. Không nghĩ về Tự, không nghĩ về gia đình, về mẹ tôi, ba tôi, các anh, các chị, về những khó khăn đã thành hàng rào thẳng ngọn, đang chắn ngang trước mặt tôi, tôi cũng không còn đủ trí nhớ để tưởng đến một chuyến đi xa không thành, những ngày đi làm đã gần đến. Tôi không biết gì hết, ngay cả những bước chân tôi đang ngập ngừng, sẻn dè tiến tới. Qua hết những chiếc cầu khỉ, chúng tôi đặt chân lên một con đường đất đỏ. Tới đây, nhà cửa có phần cao ráo hơn, nước trong và đầy. Con đường đất đỏ, chia hai khu nhà, mặt quay vào lòng sông Doãn chậm chận, quay lại nói: - Sắp tới rồi. - Xóm này tên là Cầu Khỉ phải không anh? Nhự hỏi. - Phải. Sao chị biết? Nhự cười bí mật, không đáp, mắt lơ đãng nhìn lên khoảng trời xanh cao vừa thấy được, Doãn đốt một điếu thuốc khác, vẻ hằn hộc đã lặn tan, trở lại trên gương mặt xương xẩu, khắc khổ của Doãn vẻ lạnh lùng phẳng lặng cố hữu. Thọc tay vào túi Doãn đi thản nhiên như một người đang bách bộ. Nhự lùi chân, ngang với tôi: - Liệu có nhớ được đường vào không? Tôi thở hắt ra, lấy khăn lau mồ hôi. - May ra, nếu lúc về đi đường cũ. - Rồi sau đây tính sao? Tôi cúi nhìn những ngón chân tụ máu lòi ra khỏi quai dép, chậm rãi: - Chưa biết. Mà cũng chả biết phải tính sao. Nhự lắc đầu bỏ thỏng: - Tội nghiệp. Tôi không biết Nhự dành cho ai trong lũ chúng tôi, hai chữ ấy. Ai. Hay tất cả, tất cả, trong đó có Nhự, có mọi người, có cả những kẻ ở trên bốn năm tầng lầu và tất nhiên, luôn cả những kiếp người chui rúc trong xóm Cầu Khỉ này. Bỗng dưng, tôi buột miệng bảo Nhự: - Muốn chết cho rảnh, Nhự ơi. - Bậy nào. Nhự nắm và bóp mạnh tay tôi. - Thật đó. Chết. Muốn chết quá. Cho xong. - Điên? - Đến rồi. Tiếng Doãn chặn tắt câu nói vừa thoát khỏi họng tôi, nửa chừng. Một câu gì đó, mà chính tôi cũng không nghe được. Doãn nhích tấm cửa làm bằng tôn cao bồi (1), cúi đầu bước vào. (1) loại tôn mỏng có in nhiều hình vẽ xanh đỏ. Căn nhà tối thầm thẩm. Nước róc rách chuyển mạnh dưới tấm ván láng bóng. Mùi hôi hám làm tôi phải nhăn mặt, muốn hắt hơi. Doãn đánh tiếng: - Chị Tư Xệ có nhà đó không? Sâu hút bên trong, có tiếng chân xê dịch nặng nề, rồi một thiếu phụ trạc tuổi gần bốn mươi, hiện ra ở khung cửa giữa, nối liền hai gian nhà. Chị chàng mặc một chiếc áo bà ba xanh có chấm hoa lớn mầu đỏ. Mấy nút áo ngực bung hết, trên tay chị, đứa con trai cỡ độ hơn một năm, đã ngủ, nhưng miệng vẫn cắn chặt vú mẹ. Chị Tư Xệ (đúng là người đàn bà mà Doãn vừa hỏi đó) dợm bước tới, rồi lại ngập ngừng như muốn lui, ngó sững chúng tôi. Doãn vội lên tiếng trước: - Doãn đây mà chị Tư. Doãn bạn của Long Đầu Bạc đây, chị quên rồi sao? Chị Tư Xệ hề hề, lúc lắc cái đầu xù một đầu dầy tóc, quăn tít. - À. À. Ủa anh đó sao anh Hai. Tối quá. Tui nhận không ra. Doãn tiến tới sát gần, đưa tay vờ vờ thằng nhỏ: - Ảnh đâu chị Tư. - Ảnh đi xe từ hồi sớm. Ai dậy anh Hai? Chị Tư Xệ hất hàm hỏi. Doãn quay lại: - A, mấy cô em của Thầy Ba đó chị. - Dậy hả. Mời các cô ra ngoài này cho mát. Chị Tư Xệ quay lưng, chậm chạp, bước. Doãn làm vẻ quen thuộc chỉ ghế cho chúng tôi ngồi, xong ngước mắt nhìn lên chiếc cầu thang ở góc phải căn buồng. - Xấp nhỏ đâu chị? - Ai. Anh Hai. Chị Tư đặt con xuống chiếc đi văng kê sát vách, lom khom cài nút áo hỏi lại Doãn. - Thì xấp nhỏ nhà, chứ ai chị Tư. Chị Tư cười nhìn tôi: - Ấy, chúng chạy chơi đâu đó anh. Ờ để tui đi rót nước mời đã chứ há. Doãn xua tay, Nhự mau mắn: - Thôi được rồi chị Tư. Mặc tụi tui mà. Coi như người nhà hay bà con lối xóm đi cho tiện chị Tư. - Ờ, dậy hả. Dậy cũng được à nghen. Ủa, mà hai cô đây là bà con với thầy Ba sao? - Chỉ có cô này thôi chị (Nhự chỉ tôi), còn tui là bạn, bạn là bạn đó vậy mà chị Tư, Nhự cười liếc mắt nhìn tôi. Tôi đưa mắt hỏi Doãn, Tự đâu. Doãn đằng hắng: - A, có thầy Ba trên đó không hà, chị Tư? - Có. Có đó anh Hai. Suốt từ sáng giờ thầy ấy hổng có bước xuống đây. Ngó bộ thầy ấy buồn bã quá đi anh Hai ơi. Ba xấp nhỏ, trước khi đi xe có nói với thầy ấy, cần gì cứ bảo tui hay gọi xấp nhỏ cũng được. Hoặc có buồn nữa thì đi chơi loang quanh lối xóm đây cho khuây khỏa đó mà. Nhưng thầy ấy, hổng đi đâu hết. (Bỗng chị ta hạ thấp giọng thầm thào, nghiêm trọng) mà thầy ấy bị chi dậy anh Hai? Doãn chặc lưỡi, nói nhỏ: - Trốn lính. - Dậy hả. Chị Tư vẫn tròn mắt. Tội nghiệp. Còn trẻ quá mà, trốn chi cho khổ cái thân không biết nữa. Í mà, nghe nói bạn của anh Long, Ba bầy trẻ đây, cũng như tui, quí lắm anh Hai ơi. Chả là ba xấp nhỏ và anh Long là bạn cùng mần ăn từ ngày xưa đó anh Hai. Tự hồi chưa lấy tui lận. Doãn cười, rút thuốc mời: - Hút chơi điếu đi Chị Tư. - Dà. Chị Tư Xệ vừa đáp vừa đưa tay nhón một điếu thuốc gắn lên môi một cách thành thạo. Doãn bật lửa. - Tụi tui lên gác chút nghe chị Tư. - Dà, mời, mời anh Hai và hai cổ lên đó chơi. Thầy Ba ở trển đó. Tội nghiệp, tội nghiệp. Những tiếng sau được chị kéo dài ra, ê a như phường tuồng. Doãn ra dấu cho chúng tôi theo chân lên gác. Thật không ngờ một căn nhà gỗ lại có thể có một căn gác lửng kín đáo như thế này. Nhờ hai cánh cửa sổ bên hông và một hàng lan can nhỏ, mở vào lòng sông, nên ánh nắng chan hòa căn gác. Tự quay lưng lại chúng tôi. Chàng đang tỳ tay trên thành gỗ lan can, đầu cúi xuống mặt nước. Thoạt thấy chàng, tim tôi đập mạnh, không bước được nữa. Bao mạch máu trong người tôi như ứ đọng ngừng nghỉ. Những hạch nước mắt ở hai thái dương như chỉ chực chờ tuôn trào. Tự quay lại. Tôi thấy chàng với đôi mắt sâu hoắm, hai gò má nhô cao, nước da xạm tái. Trong một hoàn cảnh khác, chắc tôi không dám quả quyết đó là Tự. Đó là người tôi từng ngất trong tay. Đó là người mà tôi đã tự nguyện hiến dâng cả đời mình, cho một ngày mai có thể đen tối, có thể thảm thiết. Tự. Tự. Tôi nghẹn ngào không gọi thành tiếng. Tự. Tự. Tôi rũ liệt toàn thân, bủn rủn muốn ngã. Tự. Tự. Chàng chập chờn bước vào. Tự. Tự. Chàng lao tới đỡ tôi trước khi tôi quỵ ngã xuống sàn gỗ. Anh. Anh. Tôi quờ quạng bên mặt chàng, đẫm ướt. Anh. Anh. Tôi bấm cả mười ngón tay trên ngực, trên vai chàng. Anh. Anh. Tôi cắn nghiến môi tôi để thấy mình còn tỉnh, còn thức. Đây không phải là cơn mê. Đây không là giấc mộng. Đây là sự thực. Một sự thực bật máu. Một sự thực trừng trừng, trợn ngươi. Sự thực như một giả tưởng, một ảo ảnh. Chúng tôi cùng ngồi bệt xuống sàn. Tôi vẫn chưa thể lấy lại được bình tĩnh. Tôi dấu mặt mình vào ngực Tự, trong khi chàng ôm lấy mặt tôi, và tỳ cằm lên đầu tôi, im lặng. Doãn xuống thang gác. Nhự ra ngoài lan can, ngó xuống dòng sông. Đợi một lúc lâu, khi tôi lần lần tỉnh lại, Tự nâng cằm tôi lên, nhìn thẳng vào mắt tôi. Con mắt chết cứng, con mắt trợn trừng, con mắt nghiêm lạnh, đe dọa, tàn nhẫn. Tôi rên rĩ, khép mắt: - Anh đừng nhìn em như thế. Tội nghiệp em với chứ. Không còn thương em nữa sao? Anh. Tự. Chàng đưa tay, ghì xiết lấy tôi. Tôi thấy hơi thở chàng dồn dập, đôi vai rung động. Chàng lại khóc. Tôi biết. Chàng đang khóc. Chàng mím môi, chàng nghiến răng để đừng bật thành tiếng nấc. Nhưng những giọt nước mắt nóng hổi của chàng theo làn tóc tôi, chảy xuống, ấm hai bên má. Tôi vẫn nép trong ngực chàng: - Em phải về. Em phải về. Em không thể ở đây. - Anh đuổi Thục? - Không phải thế. Không bao giờ. Anh... Khổ quá, anh không giải thích được. - Em hiểu. Anh khỏi cần nói. - Nhưng mà... - Nhưng mà cái gì? - Còn mẹ. Còn ba em. còn chung quanh... Còn..., còn đời em, dài lắm. Không được. - Không. Em đã có thái độ. - Không có thái độ gì hết. Em phải về. Em phải trở về. Em đối với anh, như thế này là quá đủ rồi. Anh không còn ước gì hơn nữa. Lúc chết, anh sẽ sung sướng nhắm mắt. Anh hạnh phúc hơn nhiều người khác. Anh đầy đủ lắm. Em đừng nghĩ gì đến anh nữa. Phải nghe anh mới được. Em đừng nghĩ gì đến anh nữa. Phải nghe anh mới được. Em. - Vâng, em nghe anh. Em sẽ về. - Ừ. Có thế chứ. Anh biết, em yêu anh. Em nghe anh. Em của anh, ngoan lắm... - Nhưng... - Nhưng gì nữa... - Em sẽ... - Làm sao? - Em. - Gì, em cứ nói đi. Thục, Thục ơi. Toàn thân chàng lại rung lên. Tôi cũng nghẹn ngào: - Em... em sẽ trở lại với... anh. Em không thể bỏ anh được, trong tình cảnh này. - Thôi. Anh van em. Anh xin em. Anh lạy em. Anh không muốn sau này em sẽ hối hận. Em sẽ oán thù anh. Em sẽ nhìn anh, như một kẻ giết hại đời em. Giết lần mòn tuổi trẻ của em. Em phải bình tĩnh. Phải thật bình tĩnh. Anh không còn gì cho em, để giúp em thực hiện những ước mơ của hai đứa nữa. Anh sẽ bị bắt, anh sẽ vào tù, anh sẽ bị xử bắn. Em. Anh van em, Thục. Anh lạy Thục. - Không. Em bình tĩnh lắm. Anh thấy không. Anh nhìn em đi. Nhìn vào mắt em đi, Thục của anh đây. Anh thấy em không. Em thật bình tĩnh. Em đâu có khóc nữa. Anh. Anh. Tôi vịn đầu chàng xuống. Chàng lắc đầu, tránh mắt nhìn của tôi. - Anh biết, anh biết em trọng nghĩa em trọng thủy chung, em cao cả. Em thánh thiện như thiên thần. Nhưng rồi em sẽ hối hận. Em sẽ đau đớn. Em sẽ khốn quẫn một đời vì anh. Còn ba em, còn mẹ em, còn gia đình còn xã hội, còn bạn bè en. Còn... Tôi đưa tay bịt miệng chàng: - Anh điên rồi. Anh sảng rồi. Anh hãy nghe em nói đã. Anh. Tự. Em sẽ ở bên anh, mãi mãi bên cạnh anh. Em tin anh, tin nơi em, tin nơi tình yêu của mình. Em không lý tưởng, em không lãng mạn một chút nào hết. Anh hãy nghe em. Quyết định này của em, chắc chắn sẽ làm ba, mẹ buồn, buồn lắm, buồn đến độ ba mẹ có thể từ em, không nhìn nhận em nữa. Nhưng một mặt nào khác, ở một góc âm thầm nào đó, của lương tâm, của tình người. Ba, mẹ sẽ hài lòng, sẽ hài lòng, sẽ âm thầm hài lòng về hạnh động của em. Rồi ba, mẹ sẽ hiểu em. Sẽ hiểu anh. Hơn nữa, trong trường hợp này, em không thể bỏ anh được. Không bao giờ, dù em có bị thế nào. Bình thường, em có thể bỏ anh, em có thể vì gia đình, vì lòng hiếu để, vì gì gì đó, em xa anh. Nhưng trong trường hợp này, hoàn cảnh này, thì không. Em nói: Không. Thà mai sau em hối hận với quyết định hôm nay của mình, khi anh phản bội tình em, còn hơn là em sẽ chết héo với cắn rứt lương tâm, của tình cảm tự nhiên, thuần khiết nơi tâm hồn em, nơi trái tim em. - Không. Thục. Anh muốn em nghĩ lại. Anh muốn em trở về. Trở về và suy nghĩ chín chắn. Dầu sao thì anh cũng vẫn mong em sẽ không trở lại đây, một lần nữa. - Anh không còn cần đến em. Anh không còn yêu em? Anh oán giận em điều gì? Anh. Tự. - Không. Anh không còn cần đến em nữa. - Trời ơi. Anh. Tôi tức tưởi và khóc nức nỡ. Nhự hốt hoảng chạy vào: - Có chuyện gì vậy? Tự lắc đầu. Nhự loay hoay hết đưa tay vuốt tóc lại buông thõng: - Anh phải thương Thục mới được. Anh phải hiểu nó. Anh đừng làm khổ nó thêm. Ích gì? Tự trừng mắt, cố dịu giọng: - Nhự cho rằng tôi muốn làm khổ Thục lắm sao? Tôi còn đau đớn gấp trăm ngàn lần Thục nữa. Tôi, kẻ... mà Nhự phụng phịu: - Thì Nhự nói vầy vậy đó, chứ nào có ý gì đâu. Tôi nói trong nước mắt: - Thôi. Nhự, Nhự xuống nhà đi. Thương Thục với, xuống nhà đi. Nhự ngập ngừng, khoát tay, như có một điều gì muốn nói mà không nói được. Chờ Nhự khuất, tôi mới lau nước mắt ngồi ngay ngắn người lại, nhìn thẳng vào mặt chàng: - Anh đừng dối lòng anh. Anh có thể gian dối với tất cả mọi người, nhưng không lẽ với em anh cũng thế. Tự nhìn xuống, lặng lẽ. Tôi tiếp: - Bây giờ anh trả lời em một câu thôi, một câu cuối cùng. Anh có yêu em không? Tự ngước lên, khuôn mặt chàng tiều tụy. Tôi hồi hộp thắt ruột, đứng tim. Chàng nhìn đăm đăm, xong lại cúi xuống. Tôi lay vai chàng. Anh phải trả lời em. Anh hãy trả lời đúng với lòng anh. Không lẽ đến giờ phút này, anh còn gian dối với em. Tự lại ngước mắt nhìn lên. Đôi mắt chàng long lanh. Chàng mím môi. Một lát, tôi nín thở. Chàng gật đầu, và khóc. Tôi ôm lấy chàng: - Thế là đủ rồi. Em chỉ cần có thế. Em yêu anh. Em tự dành cho mình mọi quyền hạn của một người yêu và được yêu. Chàng ghé khuôn mặt đầm đìa nước mắt, cắn vào cổ tôi. Tôi nghiến răng chịu đựng. Chúng tôi cùng nằm xuống sàn gỗ. Nắng trưa hầm hập. Những con nước lách mình, chuyển động dưới thấp. Tiếng cười hể hả của chị Tư Xệ, theo cầu thang, ngược dốc lên căn gác kín khép. Mời các bạn đón đọc Ngửa Mặt của tác giả Du Tử Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cửa Hiệu Tự Sát
Trong Cửa Hiệu Tự Sát - Jean Teulé đã đưa quyền được chết trở thành một thứ quyền được công nhận, nơi các công cụ trợ tử trở nên phổ biến, cái chết trở thành sự cứu rỗi cho hy vọng. Thế giới trở nên phi lý, sự sống cũng trở nên phi lý, loài người phải làm thế nào để có thể giữ được những giá trị nhân bản ngay trong cuộc sống vô nghĩa này, làm thế nào để có thể lấp đầy trái tim bằng tình yêu, tìm được hạnh phúc trong thân phận phi lý của con người? *** Tác giả Jean Teulé sinh năm 1953, là nhà văn, tác giả truyện tranh, biên kịch phim điện ảnh và truyền hình người Pháp.  Một số tác phẩm của ông từng xuất bản như: Rainbow pour Rimbaud (1991), Darling (1998), Ô Verlaine! (2004), Je, François Villon (2006), Le Magasin des suicides (2007), Le Montespan (2008), Mangez-le si vous voulez (2009). *** Review của Jenny Lu về sách Cửa Hiệu Tự Sát: " Bạn đã sống dở ư? Với chúng tôi, bạn sẽ chết tốt " Thử tưởng tượng một nơi mà tự tử là một việc hợp pháp, hơn nữa , được khuyến khích. Nghe có vẻ điên rồ nhưng đây chính là bối cảnh của tác phẩm - Cửa hàng dành cho những kẻ ngán sống. Câu chuyện xoay quanh gia đình Tuvache, có truyền thống " trợ tử " hơn mười đời. Cửa hàng của họ thật tăm tối , không có một tia sáng mặt trời nào và chỉ có ánh sáng tù mù từ đèn ne-ông như nhà xác. Họ cũng không bao giờ cười, luôn luôn tiễn khách hàng bằng câu " Xin vĩnh biệt". TRong cửa hàng luôn là những dụng cụ ghê rợn như dây treo cổ , thuốc độc , súng , ... và khách hàng luôn nhận được lời tư vấn nhiệt tình ( nhưng cũng rợn hết sức) . Ông bà Tuvache nhồi nhét vào đầu con cái họ những điều bi quan , những thảm họa , những tư tưởng muốn chết. Tuy nhiên , họ bó tay với đứa con út - Alan Tuvache- một đứa trẻ luôn lạc quan và giúp họ " khuynh gia bại sản" Nửa đầu cuốn sách là một màu xám u ám , càng về sau khi Alan dần dần thay đổi suy nghĩ của ba mẹ mình thì những màu sáng mới được vẽ lên. Nó không phải là một cuốn sách buồn về cái chết , mà lại là một cuốn sách vừa bi vừa hài , cảnh hài hước đã xuất hiện ngay từ đầu cuốn sách ( lần đầu tiên đọc một cuốn sách về đề tài này mà cười nhiều đến vậy) Mỗi một khách hàng tìm đến cửa tiệm với những lý do khác nhau và có cả tất cả các độ tuổi. Người tìm đến vì bệnh tật hoặc vì chán nản, ... Có những lý do rất quen thuộc với mình. Một trong những đoạn ấn tượng nhất là : " - Sao con lại vẽ chị ấy đang bận rộn và xinh thế hả? Con biết rõ là chị ấy luôn nói mình là đồ vô dụng và xấu lắm kia mà? -Nhưng con , con thấy chị ấy xinh - Marilyn đưa hai lòng bàn tay lên bịt tay, bật khỏi chiếc ghế đẩu và chạy biến về phía cuối cửa hàng" Mình từng trải qua những cảm xúc thật tồi tệ , như nhân vật Marilyn. Cũng đã từng thử các phương pháp ... nhưng đương nhiên là không thành công. Qua những kháh hàng chán sống đó , dường như tác giả muốn gửi gắm rằng bất kỳ một lý do , mọi lứa tuổi , chỉ cần cảm xúc tiêu cực xuất hiện , là đủ đưa họ đến với cái chết. Vì vậy đừng thờ ơ với nhưng người xung quanh mình. Nói chung cuốn sách khá đáng đọc , có những đoạn khá cảm động , chỉ tiếc cho cái kết khá bi thương và gây khó hiểu. " Sứ mệnh của Alan vậy đã được hoàn thành , nó liền buông tay ra " Thật sự không hiểu sao Alan lại phải tự tử nữa trong khi là nguời lạc quan nhất? Hay đó là một cách để tác giả làm cho độc giả phải lưu luyến? p/s : Mình đọc bản cũ , dưới tựa " Cửa hàng dành cho những kẻ ngán sống" *** Cửa hiệu tự sát được viết bởi nhà văn người Pháp Jean Teulé. Tác phẩm này từng được chuyển thể thành phim hoạt hình của Pháp mang tên “The Suicide shop” được phát hành vào năm 2013. Cửa hiệu tự sát kể về một thế giới không có thực, ở đó cuộc sống trở nên phi lý, con người có quyền được lựa chọn cái chết. Tại nơi đó có một cửa hiệu mang tên “Cửa hiệu tự sát”- nơi bán tất cả những vật dụng giúp con người có thể tự kết thúc cuộc sống của mình. Xã hội loài người phải làm thế nào để có thể mang lại ý nghĩ tồn tại? Là tình yêu? Cái gì là Ánh sáng của nguồn sống cho thế giới của họ? Một thế giới giả tưởng đầy tăm tối và chết chóc Là một cuốn sách thuộc thể loại “Phản địa đàng” (Dystopia) – thể loại sách viết về một thế giới được xây dựng từ nền tảng là thế giới mà con người hiện nay đang sống. Tuy nhiên Cửa hiệu tự sát lại là một thế giới đen tối hơn rất nhiều, đó có thể là một thế giới được gây dựng nên sau khi thế giới bị hủy diệt, hậu tận thế, hoặc một chính phủ bị lật đổ. Tuy nhiên, đây cũng là một thể loại sách rất nhân văn. Viết về cái chết để ca ngợi hạnh phúc được sống, là một cách thức để châm biếm và đả kích vào những mặt trái đang tồn tại trong xã hội loài người mà vô tình bị lãng quên hoặc buộc phải chấp nhận. Phản địa đàng là một thể loại sách khá khó đọc vì nó thường rất đen tối, khiến người đọc dễ rơi vào cảm giác nặng nề và đọng lại nhiều suy ngẫm. Nếu muốn thử trải nghiệm một thể loại sách mới, nếu muốn mở rộng cảm quan đọc của bạn thì Cửa hiệu tự sát là một khởi đầu hợp lý vì sự nhẹ nhàng tương đối của nó. Cửa hiệu tự sát hoàn toàn không phải là một tác phẩm kinh dị như cái tên mà nó gợi ra và nó cũng là một cuốn sách đỡ đen tối hơn rất nhiều so với các tác phẩm cùng thể loại. Giữa một xã hội mà cái chết được coi là khởi đầu cho mọi hy vọng, việc tự sát hoàn toàn được công nhận, người ta luôn nghĩ đến cái chết đầu tiên khi gặp bất cứ một nỗi buồn hay sự cố nhỏ nào trong cuộc sống. Cửa hiệu tự sát đề cập đến cái chết một cách tự nhiên như con người chúng ta thường nói về sự sống, thế giới được miêu tả bản chất là đen tối nhưng lại được kể một cách hài hước- một kiểu hài hước lấy ra từ những vấn đề chẳng hài hước chút nào- Đó là cách kể chuyện thường thấy của những bộ phim thuộc thể loại “Hài kịch đen” (Black comedy). Thực trạng của xã hội – “Trào lưu” tự sát Cuốn sách miêu tả rất ít ỏi về thế giới bên ngoài, tất cả những sự việc xảy ra chỉ gói gọn trong không gian của Cửa hiệu- Nơi sinh sống và buôn bán những vật dụng để giúp con người ta tự sát – của gia đình Tuvache gồm một cặp vợ chồng và ba người con lần lượt tên là Vincent, Marilyn và cậu con trai út khác biệt Alan. Những vị khách của Cửa hiệu tự sát, họ để những áp lực, sự buồn chán và nỗi cô đơn đeo bám vào cuộc đời mình khiến bản thân họ tàn tạ, thảm hại tới mức chính họ cũng phải cảm thấy nực cười và ghê tởm. Không cần những viên kẹo độc, không cần những lưỡi dao cạo sắc bén hay sợi dây thừng thắt cổ. Chỉ cần đưa cho những vị khách một chiếc mặt nạ bằng nhựa màu trắng phi nhân cách, trên mũi chiếc mặt nạ gắn một cái gương vậy là đủ để họ cười sặc sụa, thấy ghê tởm mà dẫn đến một cơn đột quỵ. Câu chuyện mà Cửa hiệu tự sát mang đến không phải là thực trạng của một thế giới tưởng tượng. Tự sát là một tình trạng đáng báo động có thực của xã hội con người. Xã hội càng phát triển, con người càng dễ bị cô lập, trầm cảm và tìm đến cái chết. Điều gì khiến một con người được tạo hóa ban cho sự sống, nhưng lại sợ cảm giác được sống? Con người thường bận tâm về những điều người khác nói về mình, thay vì tự yêu thương và chăm sóc, trân trọng những điều bản thân đang sở hữu. Marilyn – con gái của cặp vợ chồng chủ Cửa hàng tự sát là “ người thiếu nữ đẹp nhất khu phố! Không một cô gái trẻ nào trong khu phố Những Tôn Giáo Bị Lãng Quên có thể bằng cái mắt cá chân của cô (Vì cô vô cùng xinh đẹp)”. Tuy nhiên suốt nhiều năm, Marilyn luôn tự ti về bản thân, đó là bởi bố mẹ của cô luôn nói rằng cô thật xấu xí và vô dụng. Nếu con người được nghe quá nhiều về cùng một điều, họ sẽ tin điều đó là đúng. Marilyn cũng vậy. Còn anh trai của Marilyn – Vincent, đó là một cậu bé thông minh và có vô vàn những ý tưởng. Nhưng tài năng ấy lại luôn bị định hướng xuôi theo những góc nhìn tiêu cực và thậm tệ nhất. Bởi vậy, con người không trở nên bất hạnh vì xấu xí và ngu dốt. Cuộc sống là thiên đàng hay địa ngục tùy vào góc nhìn của mỗi con người. Thế giới của Cửa hiệu tự sát là một thế giới đen tối và dường như hoàn toàn không còn hy vọng. Sự ra đời của cậu bé Alan – Con trai út của cặp vợ chồng chủ Cửa hiệu tự sát giống như sự cứu rỗi mà Thượng đế đã ban tặng đến một nơi tăm tối như vậy. Cậu bé khác tất cả những người trong gia đình, khác tất cả những người khách mỗi ngày đến cửa hiệu. Cậu luôn vui tươi, lạc quan và hạnh phúc. Cậu bé làm mòn những lưỡi dao cạo, làm đứt những sợi dây thừng để thắt cổ, loại bỏ những viên kẹo độc trong lọ… và nói những điều lạc quan nhất đến với những khách hàng của gia đình – Alan làm trái tất cả những thông điệp kinh doanh của gia đình.  Alan là hiện thân cho tâm hồn thánh thiện và luôn tràn đầy lạc quan của một đứa trẻ hạnh phúc. Thế giới của Cửa hiệu tự sát là một thế giới dễ liên hệ đến thế giới của những người lớn, một thế giới mà con người giành phần nhiều thời gian của mình để làm việc và áp lực từ chính thứ công việc đó. Họ không biết cách để kết nối với người khác và luôn cảm thấy bản thân thật cô đơn, ngu dốt và nhạt nhòa. Bởi vì họ quá bận tâm tới việc làm hài lòng tất cả mọi người thay vì quan tâm tới cảm nhận của bản thân mình. Alan đã nói với một cô gái trẻ muốn được tìm đến cái chết vì “những người đồng nghiệp cho rằng cô là một người ngu ngốc” rằng: “Đó là vì cô thiếu tự tin. Vì thế cô trở nên long ngóng, nói những điều sai thời điểm. Nhưng nếu cô biết chấp nhận hình ảnh của chính mình trong chiếc mặt nạ này và yêu thương hình ảnh đó…”, “Trước tiên cô hãy kết bạn với cô gái ấy và những người khác sẽ làm theo như vậy”. Không có một cuộc sống hoàn hảo, cũng không bao giờ có được những con người hoàn hảo. Hãy luôn giữ một thái độ tích cực trước những điều bản thân còn thiếu sót và học cách tha thứ cho chính mình, đó cũng là bước đầu để nhìn cuộc sống và những người khác một cách tích cực nhất. “Cuộc đời là như thế. Nó đáng giá của nó. Nó làm những gì có thể, nó cũng có những sai lầm. Không nên đòi hỏi quá nhiều ở cuộc đời. Đến mức phải tự sát.” Một cuốn truyện rất ngắn với một cái kết dài và khó lý giải Cửa hiệu tự sát chỉ dài vỏn vẹn 188 trang giấy. Tuy nhiên lại đề cập được một thực trạng rất lớn và được toàn xã hội quan tâm – Vấn nạn của việc tự sát ngày càng gia tăng, con người coi thường cơ hội được sinh ra và tồn tại. Viết về một xã hội tối tăm nhưng không sử dụng những câu từ nặng nề, đáng sợ hay lớn lao. Thông điệp thật sự được ẩn chứa đằng sau những tiếng cười hài hước. Và một tác phẩm ngắn hoàn toàn không chứng tỏ rằng nó hời hợt, phần lớn tên các nhân vật, từ chính tới phụ rồi tới các địa danh trong truyện đều là những tìm hiểu tỉ mỉ của tác giả Jean Teulé, đằng sau mỗi cái tên ấy là một câu chuyện về những người nổi tiếng đã lựa chọn tự sát để kết thúc cuộc đời mình.  Cửa hiệu tự sát cũng có một kết thúc khá khó hiểu và mang đến nhiều suy ngẫm. Nhất định sẽ có những độc giả cảm thấy, cảm xúc của mình trước đấy giống như bị phản bội. Điều gì ẩn sau cái kết ám ảnh và khó hiểu đó? Cuối cùng sau tất cả, Là tươi sáng hay tăm tối? Là nụ cười hay nước mắt?  Hà Thúy Ngà Mời các bạn đón đọc Cửa Hiệu Tự Sát của tác giả Jean Teulé.
Cô Gái Vượt Thời Gian
Cô gái vượt thời gian là câu chuyện về Yoshiyama Kazuko, một nữ sinh trung học bất ngờ sở hữu khả năng vượt thời gian. Khi đang dọn dẹp trong phòng thí nghiệm hóa học, Kazuko bỗng nghe thấy tiếng thủy tinh vỡ. Từ trong ống nghiệm vỡ tan tành, một mùi hương ngọt ngào lan tỏa khắp không gian. "Mình biết mùi hương này!"Kazuko thoáng nghĩ. Và giây tiếp theo, cô mất ý thức, ngã xuống nền đất lạnh. Để tìm ra nguyên nhân của những bí ẩn xảy đến với mình, Kazuko buộc phải trở về quá khứ, thời điểm nguồn cơn của mọi rắc rối mà cô gặp phải.Tại đây, cô đã tìm ra kẻ thủ phạm gây nên mọi chuyện, thế nhưng cùng với đó là một sự thật khiến cô đi từ tức giận, kinh ngạc, cho đến xúc động, luyến tiếc… Không đơn thuần là câu chuyện khoa học viễn tưởng khô khan, Cô gái vượt thời gian còn khéo léo lồng vào những tâm tư, rung động đầu đời của các chàng trai, cô gái ở lứa tuổi mới lớn, còn bỡ ngỡ nhưng cũng vô cùng chân thật, chân thành. Mang thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về lòng tin, về tình bạn, tình yêu, tình thầy trò, Cô gái vượt thời gian chắc chắn là cuốn sách không thể thiếu cho những ai muốn hồi tưởng lại những năm tháng thanh xuân trong trẻo của mình. Cô gái vượt thời gian còn được chuyển thể rất nhiều lần thành phim truyền hình, phim điện ảnh và manga. Trong đó, thành công vang dội nhất phải kể đến bản live-action năm 1983 của đạo diễn Nobuhiko Obayashi và bản anime năm 2006 của đạo diễn Mamoru Hosoda, siêu phẩm từng oanh tạc doanh thu phòng vé Nhật Bản, đồng thời rinh về nhiều giải thưởng danh giá. *** Tác giả: Yasutaka Tsutsui Sinh năm 1934 tại Osaka, tốt nghiệp Đại học Doushisha chuyên ngành Văn học. Những tác phẩm tiêu biểu bao gồm: - Oinaru joso, Kyojin tachi (đoạt giải thưởng văn học Izumi Kyoka) - Kyoko sendan, Yume no kizaka bunkiten (đoạt giải thưởng văn học Tanizaki Junichiro) - Papurika, Watashino guranpa (đoạt giải thưởng văn học Yomiuri)... Gần đây, ông còn tham gia diễn xuất trong những vở kịch, phim điện ảnh và cả phim truyền hình. *** Review sách Cô Gái Vượt Thời Gian, Nguyễn Khánh Huyền:   Vì việc ra mắt khá lặng lẽ, Cô gái vượt thời gian không được xem là bom tấn của năm đó nhưng bộ phim được xem là một trong những phim thành công nhất năm 2006 và nhận được nhiều đánh giá tốt trong các liên hoan phim mà bộ phim tham dự. “Cô gái vượt thời gian” không chỉ là câu chuyện về những hiện tượng “bước nhảy thời gian” và “dịch chuyển tức thời” – những sáng kiến của con người đến từ tương lai được đề cập trong truyện, mà còn kể về những rung động đầu đời của Yoshiyama và Kazuo. Những rung động đến thật nhanh mà cũng rất đỗi trong sáng, ngây thơ. Khi phải đối mặt với những điều quá sức kì quặc và mới lạ, diễn biến tâm lí của Yoshiyama thay đổi xoành xoạch: lo sợ có, hồi hộp có, nhưng cũng cực kì can đảm và dũng cảm để tìm đến người lớn và đối mặt với thách thức để có một lời giải thích đáng cho mọi chuyện. Ngay cả khi đã phát hiện ra chân tướng sự thật, cảm xúc của Yoshiyama cũng được khắc hoạ tỉ mỉ, từ căm ghét, tức giận khi biết nguồn cơn mọi rắc rối của mình là do đâu, đến rung động, bối rối khi nhận được lời tỏ tình bất ngờ và cả những nuối tiếc khi phải nói lời tạm biệt. Tất cả đều cực kì ngây ngô và chân thật đúng với lứa tuổi mới lớn. Mặc dù nội dung rất đơn giản và ngắn gọn, nhưng chính tình cảm và hoàn cảnh đặc biệt của Yoshiyama và Kazuo, cùng lời hứa hẹn về một tương lai sẽ gặp lại nhau, là nguồn cảm hứng lớn để tác phẩm được chuyển thể sang nhiều thể loại khác. Không đơn giản là câu chuyện khoa học viễn tưởng khô khan, " Cô gái vượt thời gian " còn khéo léo lồng vào những tâm tư, rung động đầu đời của các chàng trai, cô gái ở lứa tuổi mới lớn, còn bỡ ngỡ nhưng cũng vô cùng chân thật, chân thành. Mang thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về lòng tin, về tình bạn, tình yêu, tình thầy trò, Cô gái vượt thời gian chắc chắn là cuốn sách không thể thiếu cho những ai muốn hồi tưởng lại những năm tháng thanh xuân trong trẻo của mình. *** “Cô gái vượt thời gian” gồm ba mẫu truyện ngắn: “Cô gái vượt thời gian”, “Chân tướng của ác mộng” và “Vũ trụ đa nguyên”. Tác giả tập trung khai thác yếu tố viễn tưởng thông qua từng câu chuyện, ở mỗi câu chuyện là những bí ẩn khác nhau và đều được ông lí giải cặn kẽ, nhưng tất cả không chỉ là những cuộc phiêu lưu khám phá những điều huyền bí đơn thuần, mà còn chất chứa cả những tâm tư, tình cảm ngây ngô của tuổi mới lớn. Truyện ngắn “Cô gái vượt thời gian” đã từng được chuyển thể qua rất nhiều thể loại truyện tranh, anime, kịch, phim truyền hình,…, Trong đó, gần nhất và được giới trẻ biết đến rộng rãi nhất hẳn phải kể đến anime movie The girl who leapt through time do Mamoru Hosoda đạo diễn, nhưng bản thân cốt truyện gốc lại khá đơn giản. Những rắc rối, phiền muộn xảy ra với Yoshiyama và cả việc giải quyết chỉ diễn ra vỏn vẹn trong vòng vài ngày. Giọng văn đơn thuần và mộc mạc đứng từ góc nhìn của Yoshiyama – một cô gái chỉ mới 15 tuổi, nên tình tiết câu chuyện dù dồn dập cũng không quá hồi hộp hay khiến người đọc phải bối rối mà tạo một cảm giác cuốn hút vừa đủ. Trong một ngày học tập bình thường như bao ngày, tình cờ nghe phải một mùi oải hương quen thuộc, sau khi ngất xỉu và tỉnh dậy, Yoshiyama bỗng dưng có được siêu năng lực: cô có thể “vượt thời gian” và quay lại những thời điểm trong quá khứ. Có được năng lực này, Yoshiyama không hề háo hức mà ngược lại rất e dè và lo lắng, chỉ mong sao có thể sớm trở về trạng thái bình thường. Và thế là hành trình đi tìm lời giải của cô bắt đầu. Nhưng “Cô gái vượt thời gian” không chỉ là câu chuyện về những hiện tượng “bước nhảy thời gian” và “dịch chuyển tức thời” – những sáng kiến của con người đến từ tương lai được đề cập trong truyện, mà còn kể về những rung động đầu đời của Yoshiyama và Kazuo. Những rung động đến thật nhanh mà cũng rất đỗi trong sáng, ngây thơ. Khi phải đối mặt với những điều quá sức kì quặc và mới lạ, diễn biến tâm lí của Yoshiyama thay đổi xoành xoạch: lo sợ có, hồi hộp có, nhưng cũng cực kì can đảm và dũng cảm để tìm đến người lớn và đối mặt với thách thức để có một lời giải thích đáng cho mọi chuyện. Ngay cả khi đã phát hiện ra chân tướng sự thật, cảm xúc của Yoshiyama cũng được khắc hoạ tỉ mỉ, từ căm ghét, tức giận khi biết nguồn cơn mọi rắc rối của mình là do đâu, đến rung động, bối rối khi nhận được lời tỏ tình bất ngờ và cả những nuối tiếc khi phải nói lời tạm biệt. Tất cả đều cực kì ngây ngô và chân thật đúng với lứa tuổi mới lớn. Mặc dù nội dung rất đơn giản và ngắn gọn, nhưng chính tình cảm và hoàn cảnh đặc biệt của Yoshiyama và Kazuo, cùng lời hứa hẹn về một tương lai sẽ gặp lại nhau, là nguồn cảm hứng lớn để tác phẩm được chuyển thể sang nhiều thể loại khác. “Vũ trụ đa nguyên” là nơi tác giả thể hiện quan niệm của mình về thuyết thế giới song song, khi cho rằng vũ trụ mà ta sinh sống là một “tấm màn vải dệt từ rất nhiều những sợi chỉ dọc và ngang”, mà thế giới có lịch sử là sợi chỉ dọc, còn sợi chỉ ngang đại diện cho thời gian đã chia thế giới có lịch sử thảnh vô vàn những thời điểm khác nhau. Bằng câu chuyện bi hài của Nobuko khi du hành từ thế giới này sang thế giới khác, gặp gỡ bản thân mình và những người chung quanh trong những phiên bản khác nhau, tác giả đã thể hiện một tâm lí thường thấy ở con người: Thật kì lạ rằng khi chúng ta đã có thể sống một cuộc sống mình mơ ước, người bên cạnh cũng là một phiên bản mà chúng ta kỳ vọng, nhưng chúng ta vẫn luôn hoài niệm và chỉ mong có thể trở về thế giới cũ mà thôi. Khác với hai câu chuyện còn lại, “Chân tướng của ác mộng” không khai thác những yếu tố viễn tưởng mang tính vĩ mô như thế giới song song hay du hành thời gian mà chỉ đơn thuần là quá trình Masako “hoá giải” nỗi sợ hãi của em trai mình, cũng như chính ám ảnh về cây cầu dài và chiếc “mặt nạ quỷ” của bản thân. Truyện ngắn gợi nhiều hình ảnh kinh dị và ghê rợn, nhưng khi khám phá ra thì lại đầy bất ngờ và dễ thương. Sự gắn bó giữa Masako và Bunichi, cách mà họ cùng nhau vượt qua những nỗi sợ hãi, hay tình bạn trong sáng của Masako và Etsuko, và cả sự trưởng thành, mạnh mẽ lên của Yoshio, luôn được tác giả lồng ghép khéo léo trong nội dung của câu chuyện. Trong những truyện ngắn của Yasutaka Tsutsui, các nhân vật luôn dễ dàng chấp nhận và đương đầu mỗi khi có thách thức mới đến. Cũng như dễ dàng tha thứ, bỏ qua cho nhau dù đã phải chịu nhiều rắc rối vì đối phương. Nét đặc biệt nhất của “Cô gái vượt thời gian” có lẽ chính là ở đó, sự đơn thuần và dễ mến trong tính cách của từng nhân vật, sự tin tưởng và những tình cảm ngây ngô, hồn nhiên đều khiến người đọc thấy thoải mái và nhẹ nhàng. Có thể nói, “Cô gái vượt thời gian” là nơi Yasutaka Tsutsui thể hiện những quan điểm của mình về các giả thuyết viễn tưởng, bằng cách giản đơn và dễ hiểu nhất. G1nergy Takoyaki Mời các bạn đón đọc Cô Gái Vượt Thời Gian của tác giả Yasutaka Tsutsui.
Bóng Đêm
"Bóng đêm" tái hiện lại bức tranh về cuộc đời sinh động được kết hợp rất linh hoạt giữa bút pháp hiện thực với suy tưởng lãng mạn, đôi chỗ có đan cài những chi tiết “sex”, những chi tiết đẹp về tình yêu cũng là cách lựa chọn độc đáo của tác giả để tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm. Nếu ai đó có tham vọng đi tìm sự thật trong "Bóng đêm" so với vụ việc đã xảy ra ngoài đời như thế nào để đánh giá mức độ chân thực của tiểu thuyết thì quả là vô ích. Bởi hiện thực ở đây chỉ là đường viền, là cái khung cho bức tranh tưởng tượng, sáng tạo của tiểu thuyết. Sau tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc đời các chiến sĩ, một hệ luận kiêu hãnh và cũng thật xót xa có thể chín muồi, xuất hiện trong tác phẩm: Những con người mang sứ mệnh đối diện với bóng đêm, chống lại tội ác, có mặt trên đời này không phải để ra lộc ra hoa mà còn để mang thương tích. Trước khi cài hoa trên ngực thì cũng có không ít những Trừng, Nhâm đã đối diện với cái chết, sự mất mát, phải đau đớn dằn vặt về thể xác...  *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Chim Én Liệng Trời Cao Bóng Đêm Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ *** Tươi mát hết xẩy chứ, các chú? Nhưng cẩn thận jish[1] đấy! - Cho to tiếng lên một tí nữa, ông chủ! - Có hiểu tiếng Tây đ. đâu. Chỉ thấy nó la hét như điên như dại thôi! - Khoái hai cái lỗ mát quá! Đúng không bố, hạnh phúc quả là sự thỏa mãn những cái lỗ trên người. - Chú nào nói chí lý đấy! Đàn ông là bảy lỗ, tức thất khổng. Còn đàn bà là cửu khổng, chín lỗ, các chú ạ. - Ông chủ này! Thằng kia trông như Việt Cộng ấy nhỉ! Còn con kia, đàn bà mà hở răng cửa là đại dâm đấy. Ông có thấy nó giống Từ Hy Thái Hậu không? - Khẽ chứ, Gióoc[2] đấy! Lặng lẽ, trong làn sáng ao ảo hắt ra từ mặt chiếc màn hình khổ rộng và cái bóng đèn mờ gắn trên trần, bốn cặp trai gái trong bốn ngăn buồng nhỏ như chuồng chim đang ôm ấp, quặp riết thân thể nhau. Ông chủ của cõi giới nửa thiên đường nửa địa ngục đội lốt quán Karaoke là một lão già đeo cặp kính lão mắt tròn từ thời Sêkhốp, dáng vẻ phong lưu, trí thức. Mặc bộ quần áo lanh nhuộm chàm người Tày, khuy vải, chòm râu cố đạo như một phần của cái cằm vuốt dài ra, săn chắc như một tên áp tải thuốc phiện lậu đường rừng, lão đang nghênh nghênh tai. Hình như lão đang nghe tiếng rao báo từ ngoài phố vọng vào. Mặc lão chủ, tám cặp mắt của bốn đôi trai gái, trong mấy căn buồng nhỏ vẫn hau háu dán vào màn hình. Phim con heo Đài Loan, Hồng Kông hay Pháp, Đức? Chẳng cần biết. Giống nhau tuốt. Nghĩa là chẳng có cốt truyện đếch gì cả. Chàng gặp nàng. Bố già gặp gái tơ. Choai choai gặp chanh cốm. Gã hám của lạ gặp ả nạ dòng. Toàn loại mới thoạt nhìn thì mũ cao áo dài, xiêm y lộng lẫy, ra dáng thượng lưu, công tử, con nhà có giáo dục lắm. Nhưng gặp nhau mới chỉ dăm ba câu giao đãi đã nồng nã lôi nhau lên giường trút áo, tháo váy, cởi xu chiêng, trăm phần trăm trần trụi. Chẳng còn một giới hạn tối thiểu nào cho sự câu nệ, dè dặt, xấu hổ gọi là. Ấy thế, đã chơi phải chơi cho lệch mới xinh! Cuộc trưng bày đùi vế, vú vê thật là có một không hai. Dẫu sao cũng phải công nhận bọn gái làng chơi trong những pha cụp lạc này đẹp mê hồn đi. Toàn loại co quắp ra co quắp. Vú như trái lê, trái táo, mẩy mang, sù sụ. Đùi thì đùi nào đùi nấy vừa rảnh như đùi dế, vừa phộp phạp, vừa săn lẳn, vừa dài muôn muốt. Mà chẳng có mờ mờ ảo ảo gì hết. Cứ trần trùng trục, lồ lộ và cận cảnh ráo. Trắng lốp. Đỏ hoen hoét. Phúng phính. Rậm rì như nửa thú nửa người. Thở hồng hộc. Rên rỉ. La thét thành con cái con đực tuốt. Ngồi ôm một con bé mười sáu tuổi ở ngăn buồng sau cùng, là một gã đàn ông gầy gùa, da như nhuộm chàm, mắt lồi ba góc. Những pha làm tình trên màn hình khiến gã run bần bật. Con bé ngồi trong lòng gã, giữa vòng tay xiết chặt của gã cũng vậy. Đấy là lần đầu tiên gã đến cái động mại dâm trá hình này. Con bé do gã đưa đến. Gã gặp nó ở một quán bia ôm. Nó kêu mới ở nhà quê lên, đang tìm chỗ làm, nhưng thật ra là một con điếm lõi đời. Trên màn hình, một thằng đen vùa đè dập một con trắng xuống đất. Gã cũng lập tức dằn ngửa con bé, vập mặt vào vũng hõm sâu giữa cặp vú cương cứng của con bé và tay quài ra sau lưng tìm cái nút gài của chiếc xu chiêng còn đang vướng víu trên co nó, thì nó đă ưỡn người lên, há mồm ngoạm vào môi gã. - Thích không? - Lỗ nẻ trên đất cũng còn thích nữa là. - Sợ cá không? - Vớ vẩn. - Trông có vẻ nhát nhúa mà tợn quá thế! -Hừ! Con bé như vùng dậy. Sao bỗng dưng thằng đàn ông lại ngẩng đầu lên và hai tay nới lỏng lưng nó. Nó nhoai lên, đưa tay vít đầu gã. Trời! Đầu người gì mà gồ ghề, nổi u nổi cục. Mà da mặt thì như nhuộm chàm, trong khi hai con mắt bỗng dưng trắng dã như phát sáng và như là nhớn nhác thế. Trên màn hình đang diễn ra cuộc làm tình tập thể của hai đứa con gái và một thằng con trai. Ba cái thân hình chuồi chuội, díu vào nhau, tạo nên một quái tượng có ba đầu, sáu tay. Con bé bị kích thích cao độ. Lần này. nó kéo mạnh. Và gã đàn ông gần như ngã đè lên nó. Nhưng nó nhận ra gã đàn ông lại run lẩy bẩy như nhiễm lạnh. Trên màn hình, cảnh đã chuyển. Một thằng da màu đang hôn hít một con da nâu. Con bé da nâu có thân hình thăn lẳn gợi cảm hết sức. Nó quẫy. Nó rít. Môi nó chằm bập. Chà, thì cái con bé đang nằm dưới gã đây có kém gì! Cứ như là nó đang lên cơn động rồ. Vậy thì cơn động dục nhất định phải bùng nổ. Rộn rực nóng ran khắp người, gã cúi xuống há to miệng, cắn vào vai bên trái con bé. Con bé rướn người lên và trong động tác này của nó, lẽ ra gã sẽ trương căng cái vùng bụng dưới và hai bắp đùi mới phải, thì trái lại, bỗng dưng gã như quả bóng xì hơi, bẹp dí và oải ra từng mồi thẻo cơ bắp trên hai cánh tay. - Chèn đét ôi! Mần cái chi mà như ma xó thế! - Phải nói là em đẹp đến dã man. Trong thân hình em, cái gì đáng to thì to, đáng nhỏ thì nhỏ. - Đồ đểu! - Em ơi, giống đực và giống cái là phát minh quan trọng nhất của thiên nhiên đó. Đàn bà phải được đặc quyền hưởng thú vui xác thịt, em à. - Dâm vô tang, đạo vô tích, sợ quái gì!   Mời các bạn đón đọc Bóng Đêm của tác giả Ma Văn Kháng.
Kỵ Sỹ Không Đầu
Main Rid sinh năm 1818 tại Bắc Ailen và mất năm 1883 tại Luân Đôn. Từ nhỏ ông đã tỏ ra là một cậu bé rất có cá tính, can đảm, ưa thể thao, thích đi đây đi đó mặc dù xuất thân trong một gia đình đã mấy đời làm linh mục. Vào năm hai mươi tuổi, ông bỏ nhà, vượt Đại Tây Dương sang chây Mỹ. Tuy nhiên khác với những kẻ hướng về vùng đất mới với ước mong khi trở về nặng túi, Main Rid ra đi với lòng khao khát tự do và khám phá những thế giới mới. Ở Mỹ Châu, dấu chân ông ngang dọc khắp nơi, ông làm đủ nghề: giáo viên, buôn bán, săn bắn, đồng thời còn là phóng viên chuyên viết phóng sự, làm thơ, làm nghệ sỹ, viết văn. Năm 1847 cuộc chiến tranh giữa Hoa kỳ và Mếch-xích bùng nổ, ông gia nhập đội quan những người tình nguyện, nhưng sau đó ông đã nhận ra đây chỉ là một cuộc chiến tranh ăn cướp. Rồi ông bị thương nặng. Chính trong thời gian chữa vết thương ông đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình “Những mũi tên tự do” được in ở Anh năm 1849. Và từ đó, tức là khi quay về lại châu Âu ông đã lần lượt cho ra đời một loạt các tiểu thuyết đặc sắc “Những kẻ săn da đầu” “Ôxkêôla thủ lĩnh bộ lạc Xêminol” “Những người Kvaterôn”. Tiểu thuyết “Kỵ sỹ không đầu” ra đời năm 1865 là quyển tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Main Rid, được đông đảo bạn đọc trên nhiều nước nhiệt liệt hoan nghênh. KỴ SỸ KHÔNG ĐẦU mở ra cho bạn đọc thấy một chương bi thảm và hùng tráng trong lịch sử của mảnh đất Tếchdơt hoang sơ ngày đó. Đó là câu chuyện về mối tình nồng cháy giữa chàng trai săn ngựa hoang Moric Gieran dũng cảm, hào hiệp và nàng Luiza kiều diễu khao khát tự do. Biết bao hoạn nạn đã đến với đôi trai tài gái sắc này, song tình yêu của họ đã vượt lên hết thảy. Đó cũng là câu chuyện kể về mối xung đột dữ đội giữa một bên là những kẻ đầy dã tâm xâm chiếm đất đai, phá hoại hạnh phúc lứa đôi và sẵn sàng giết người như đại úy giải ngũ Kôlhaun, bọn “Mèo rừng” “Sói đồng”... với một bên là những con người trung thực, giàu nghị lực, biết tôn trọng nhân phẩm và sự công bằng như già Zep Xtump, chàng trai Henri... Qua câu chuyện rùng rơn, khốc liệt mang màu sắc phiêu lưu hoang dã, hấp dẫn bạn đọc này, Main Rid giúp chúng ta thấy rõ quá trình xâm nhập của các địa chủ Mỹ tới các vùng đất Mếchxich, cho thấy sự phân hóa của xã hội và ngay cả trong từng gia đình thời bấy giờ, cho thấy quan hệ người với người căng thẳng và thù địch trên mỗi bước đi. Cũng qua đó ông khẳng định quyền tự do, quyền bình đẳng cho mọi màu da, lên án chế độ nô lệ và coi đó là một vết nhơ làm ô nhục nước Mỹ, đồng thời ông cũng nói về những người da trắng nghèo khổ mà địa vị xã hội của họ cũng chẳng khác gì so với những người nô lệ. Vào cuối đời, Main Rid còn đến châu Mỹ một lần nữa. Lúc này Châu Mỹ đã hoàn toàn biến đổi. Nó không còn là đất nước của những người khai phá gan dạ mà là đất nước của sự kinh doanh, cạnh tranh gay gắt. Song những trang sách thời ấy của ông vốn thắm đượm tình yêu con người. lòng dũng cảm, tính cao thương vẫn mãi mãi truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho những trái tim trẻ tuổi tiếp tục làm những điều thiện cho đời. Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm KỴ SỸ KHÔNG ĐẦU với bạn đọc. *** Con hươu vùng Tếchdớt đang mơ màng trong đêm tĩnh mịch của trảng cỏ mênh mông chợt nghe thấy tiếng vó ngựa. Nhưng nó cũng chưa vội rời bỏ chỗ nằm, thậm chí còn chưa chịu nhỏm dậy. Khoảng không bao la này đâu phải chỉ có mình nó. Lũ ngựa hoang thảo nguyên cũng gặm cỏ ở đây vào ban đêm. Chú hươu chỉ rướn đầu lên - cặp sừng của nó đã nhô ra sau đám cỏ - nó nghe ngóng: tiếng động có lặp lại hay không? Một lần nữa tiếng vó ngựa lại vọng đến, nhưng bây giờ thì nó vang lên một cách khác. Có thể phân biệt được, cả tiếng kim loại, tiếng đập của vỏ thép vào đá sỏi. Đối với chú hươu tiếng động đó thật là nguy hiểm, khiến hành động của nó thay đổi ngay lập tức. Bật nhảy chồm lên và lao vút đi, nhưng ngay sau đó nó chợt đứng lại và ngoảnh ra sau, nó muốn biết: kẻ nào đã xáo động giấc ngủ của nó? Và trong ánh trăng vằng vặc chú hươu đã kịp nhận ra kẻ thù nguy hiểm nhất: đó là con người. Một người cưỡi ngựa đang tiến gần lại. Bị một nỗi sợ hãi bản năng xâm chiếm, chú hươu chực phóng tiếp. Nhưng có một cái gì đó trong diện mạo của người kỵ sỹ, một cái gì đó thật kỳ dị đã giữ chân nó lại. Con hươu dường như chỉ đứng trên hai chân sau, đầu ngoảnh lại, vừa run sợ vừa tiếp tục nhìn. Trong đôi mắt nâu mở to của nó ánh lên nỗi kiếp sợ và ngạc nhiên. Cái gì quái lạ trong hình dạng kỳ dị kia làm chú hươu chết lặng chăm chăm nhìn như vậy? Con ngựa ư? Không đây là một con ngựa rất bình thường được đóng yên cương cẩn thận - con ngựa rõ ràng không thể gợi lên cho nó nỗi ngạc nhiên và sợ hãi nào. Thế thì chú hươu chỉ có thể sợ người kỵ sỹ. Đúng như vậy! Người kỵ sỹ đã làm chú hươu khiếp sợ. Diện mạo người ấy có cái gì đó hết sức khủng khiếp, trái tự nhiên. Trời! Người kỵ sỹ không có đầu! Đến một con vật không lý trí cũng nhận ra điều đó. Ngay từ giây phút đầu tiên nhận ra, chú hươu đã hoảng hốt, không tài nào hiểu nổi: cái gì vậy? Kinh hoảng, nó bỏ chạy. Nó còn chưa dừng lại khi nào còn chưa bơi qua con sông Lêông và dòng nước cuồn cuộn còn chưa ngăn cách nó với người kỵ sĩ đáng sợ kia. Không hề chú ý đến chú hươu đang hoảng hốt bỏ chạy, dường như không biết đến sự hiện diện của nó, người kỵ sĩ không đầu tiếp tục con đường của mình. Kỵ sĩ cũng đi về phía con sông, nhưng chàng không hề vội vã, cả người và ngựa, bằng những bước chân long trọng, tiến bước chậm rãi, im lìm. Người kỵ sĩ không thốt ra một lời nói, cũng không có một cử chỉ nào thúc giục con ngựa, mà dường như đang chìm sâu vào những suy tư của mình, kỵ sĩ nới lỏng tay cương và con ngựa mệt mỏi gặm cỏ. Bỗng có tiếng rú của bọn sói thảo nguyên, con ngựa ngẩng lên, thở phì phì và dừng lại. Như đắm mình trong những tình cảm thấm sâu nào đó, nên những sự việc nhỏ bé không kéo được chàng ra khỏi trạng thái đăm chiêu. Không một tiếng động nào có thể hé mở được bí mật của chàng. Con hươu hoảng hốt, con ngựa, bầy sói và vầng trăng nửa đêm là những người duy nhất chứng kiến sự đăm chiêu trầm lặng ấy của chàng. Kỵ sĩ khoác trên vai một tấm xerap1 rộng, khi gió giật, tấm choàng phồng lên làm che lấp một phần thân hình. Chàng mang đôi ghệt bằng da báo để tránh hơi ẩm ban đêm và những cơn mưa rào nhiệt đới. Chàng đi về phía trước, lặng lẽ như những vì sao lấp lánh trên đầu, thờ ơ như tiếng dế kêu ri rỉ trong cỏ, như ngọn gió đêm vờn trên những nếp áo choàng. Cuối cùng hình như có một cái gì đó cũng kéo được kỵ sĩ ra khỏi mối trầm tư - con ngựa của chàng chuyển nước kiệu rồi lắc đầu và hý lên vui mừng - nó rướn cổ lên chạy về phía trước, lỗ mũi phập phồng và trong khoảnh khắc đã phóng nước đại. Con ngựa càng lao nhanh khi dòng sông hiện ra gần trước mắt. Kỵ sĩ chưa dừng lại chừng nào chưa đến với dòng nước trong vắt và nước chưa dâng lên đến đầu gối chàng. Con ngựa vục mõm uống hối hả. Khi đã thỏa mãn cơn khát, nó bơi qua dòng sông và bằng một bước nhảy vọt, con ngựa nhanh nhẹn lao lên bờ dốc. Đến bờ, kỵ sĩ dừng lại, như chờ cho ngựa rũ nước. Tiếng dây cương, tiếng bàn đạp loảng xoảng trong đám mây bụi nước. Kỵ sĩ không đầu hiện lên trong vầng sáng đó và tiếp tục con đường của mình. Con ngựa chắc đã bị đinh thúc dồn và bị cương giật nên nó không còn đủng đỉnh nữa mà phi chạy một cách thành thạo về phía trước, như trên con đường mòn quen thuộc. Phía trước, trảng cỏ mênh mông trải tận chân trời. Và trên nền xanh thẳm của bầu trời nổi lên hình dạng kỳ dị, giống như một con nhân sư bị phạt cụt. Hình dạng kỳ dị đó xa dần cho tới khi biến đi trong ánh trăng tà huyền ảo. Mời các bạn đón đọc Kỵ Sỹ Không Đầu của tác giả Main Rid.