Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lược Sử Máy Kéo Bằng Tiếng Ukraina

Ở tuổi tám mươi tư, ông kỹ sư già góa vợ tuyên bố đã tìm thấy tình yêu đích thực của đời mình. Tình yêu ấy mang hình hài một cô nàng ngực to tóc vàng đã ly dị chồng mà ông gặp ở Câu lạc bộ Ukraina. Hai cô con gái ông nhảy dựng lên, vất sạch những hằn học cá nhân để hợp lực tống cổ bằng được cô ả đào mỏ về nước. Tình huống bi hài ấy chẳng ngờ lại khiến những ký ức xúc động về người mẹ đã khuất, những phong tục của quê hương Ukraina từ lâu bị lãng quên cùng những sự thật không hề dễ chịu về quá khứ gia đình dần dần sống dậy... Câu chuyện, thoạt tiên, chỉ như một hài kịch vui nhộn. Nhưng nếu cảm nhận bằng trái tim, đó sẽ là một tấn bi kịch được thể hiện dí dỏm và sâu lắng, dưới một nhan đề có vẻ nghiêm túc đến độ cường điệu như Lược sử máy kéo bằng tiếng Ukraina.... *** Tên sách ngỡ như chỉ nói về cơ khí nông nghiệp. Ở ta, chắc chắn không có một nhà văn nào đặt kiểu như thế, tên sách là phải hùng dũng hay bi thương, đầy “khái quát” và đặc biệt phải sáng quắc lên mới đủ tầm. Thế nhưng, cái tên sách kiểu Tây như thế lại lôi cuốn được một lớp bạn đọc nhất định. Với tôi, đã quá lâu rồi chưa được đọc một cuốn sách nào nói về Ukraina...   Ngược với tên, ngỡ như cuốn tiểu thuyết cũng “nhẹ đồng cân” thôi khi những dòng đầu mở ra một câu chuyện bi hài đầy chất Mêlô: “Hai năm sau khi mẹ tôi mất, cha tôi đem lòng yêu một cô ả Ukraina tóc vàng quyến rũ đã li dị chồng. Ông tám mươi tư còn ả ba mươi sáu. Ả ta sấn sổ vào cuộc đời chúng tôi. Cứ như là một quả lựu đạn bọc bông màu hồng, khuấy đảo mặt nước âm u, khiến cho đám cặn ký ức bị vứt bỏ lại nổi lên, đá một cú mạnh vào mông của những bóng ma gia đình”.   Và từ ấy, cuốn phim cũ nát về ký ức, lịch sử gia đình, thậm chí còn là một phần của dân tộc Ukraina từ những năm đầu thế kỷ XX đến nay bỗng ập về.   Đó là một gia đình người Ukraina đã nhập cư vào nước Anh sau những biến động bi thảm của đất nước Ukraina và chính họ. Ông chủ nhà, một kỹ sư cơ khí yêu máy kéo như yêu gia đình. Ông đã dành những năm tháng cuối đời cho tình yêu sau cùng (cô ả tóc vàng người Ukraina đang khát khao kiếm chồng để định cư tại Anh) và tình yêu máy kéo muôn thuở của mình. Triết lý của ông là: “Yêu cũng như ngồi máy bay, quan trọng ở chỗ giữ được thăng bằng...”. Ông đã viết lược sử máy kéo bằng chữ Ukraina mẹ đẻ của mình. Nhưng cuốn ghi chép của ông không chỉ là máy kéo, mà nó còn nói đến nền nông nghiệp và cao hơn là một phần lịch sử của người nông dân và đất nước Ukraina. Và để “đấu tranh” lúc mạnh mẽ, lúc êm ái khôn ngoan tìm cách tống cổ “cô ả tóc vàng” ra khỏi nhà ông bố, hai chị em đã ở riêng, vốn mâu thuẫn không muốn nhìn mặt nhau đã đoàn kết lại và quan trọng hơn, ký ức về nguồn cội đã dần sống lại trong họ.   Câu chuyện được kể đầy chất uy-mua (humour - trào phúng) sắc sảo và đôi khi lạnh buốt đã đưa đến một cái kết vẫn đầy hài hước nhưng thật buồn. Ông lão vào nhà dưỡng lão và khi các con đến thăm, vẫn trần như nhộng chống tay quỳ dưới đất trên một tấm thảm trải giữa phòng phía trước cửa sổ. Ông đang “học” và câu kết thúc là “Ba chào mặt trời”. Trước đó người tình, người vợ tóc vàng - như tia nắng cuối cùng của đời ông - đã cùng ông li dị, theo chồng, con trở về Ukraina bằng chiếc Roll Royce cũ kỹ được ông sửa chữa và trao tặng. Ông cũng đã trao tặng sáng chế cuối cùng - những sáng chế chẳng đem lại tiền cho mình - sáng chế thứ 17, cho người chồng của “cô ả tóc vàng” - một nhà trí thức sang tìm vợ - mang về quê hương xứ sở với ước vọng nó sẽ “giúp nền công nghiệp máy kéo Ukraina hồi sinh...”.   Tác giả Marina Lewycka, sinh năm 1946 trong một trại tị nạn ở Đức, sau đó cùng gia đình sang Anh. Bà vốn chỉ viết sách về chăm sóc người cao tuổi. “Lược sử máy kéo...” là tiểu thuyết đầu tay của bà (2005). Những tiểu thuyết gần đây của bà vẫn chưa thể vượt qua “chiếc máy kéo” ấy.   Y Trang  (Tiểu thuyết của Marina Lewycka, Hồ Thanh Ái dịch từ nguyên bản tiếng Anh - Cty Nhã Nam và NXB Lao Động xuất bản năm 2010, 424 trang) *** Lời cảm tạ Rất nhiều người đã góp phần làm nên quyển sách này. Trước tiên, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình và bạn bè, vì lòng kiên nhẫn, sự ủng hộ và những lời góp ý quý báu của họ. Tôi đặc biệt cảm ơn Sarah White, Tessa Perkins và Lesley Glaister cùng Chris và Alison Tyldesley vì đã giúp đỡ tôi về mặt lịch sử, câu cú, và nếu không có họ thì con mèo của tôi có lẽ đã chết vì bị bỏ mặc rồi. Tôi cũng rất biết ơn Eveline và Patrick Lessware, tôi đã viết bốn chương cuối cùng của quyển sách này trong ngôi nhà xinh xắn của họ ở Totnes. Tôi chân thành cảm ơn Bill Hamilton vì lòng hào hiệp và những lời khuyên quý báu của ông, cảm ơn Livi Michael, Jane Rogers, Juliet Annan và Scott Moyers vì những lời góp ý chân tình trên bản thảo. Cũng xin cảm ơn mọi người ở nhà xuất bản Viking, Penguin và A. M. Heath đã hợp tác hết sức ăn ý. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn đến nhiều tác giả, phần lớn là vô danh, những bài viết của họ trên Internet về lịch sử máy kéo và ngành hàng không đã cho tôi cảm hứng viết nên quyển sách này. Danh sách những người tôi đặc biệt mang ơn được ghi rõ ở cuối sách. *** Hai cú điện thoại và một đám tang Hai năm sau khi mẹ tôi mất, cha tôi đem lòng yêu một cô ả Ukraina tóc vàng quyến rũ đã ly dị chồng. Ông tám mươi tư còn ả ba mươi sáu. Ả ta sấn sổ vào cuộc đời chúng tôi cứ như là một quả lựu đạn bọc bông màu hồng, khuấy đảo mặt nước âm u, khiến cho đám cặn ký ức bị vứt bỏ lại nổi lên, đá một cú mạnh vào mông của những bóng ma gia đình. Mọi chuyện bắt đầu từ một cú điện thoại. Giọng cha tôi run run vì phấn khích lách tách vang lên trong ống nghe. ‘Có tin mừng này, Nadezhda. Ba sắp lập gia đình!’ Tôi nhớ lại lúc đó máu mình đổ dồn lên đầu. Lạy trời cho đó chỉ là một lời nói đùa! Ôi chao, ông bị mát dây rồi! Ôi chao, ông già ngu ngốc! Nhưng tôi chẳng hề nói những lời này ra miệng. ‘Ô, hay đấy, ba ạ’ tôi nói. ‘Đúng, đúng vậy. Nàng và con trai từ Ukraina đến. Tỉnh Ternopil ở Ukraina.’ Ukraina: ông thở dài, hít sâu hương cỏ khô và hoa anh đào trong ký ức. Nhưng tôi ngờ rằng đó chỉ là mùi xì gà dỏm của nước Nga mới. Tên nàng là Valentina, ông kể với tôi. Nhưng nàng hợp với tên Venus hơn. ‘Nàng Venus của Botticelli nhô lên từ sóng biển. Tóc vàng óng. Mắt lấp lánh. Ngực căng phồng. Khi con gặp nàng con sẽ hiểu’ Con người chín chắn trong tôi thấy thông cảm với ông. Đóa hoa tình yêu cuối cùng nở muộn thật ngọt ngào làm sao. Nhưng đứa con gái trong tôi thì nổi điên lên. Tên phản bội! Đồ già dê mắc dịch! Mẹ chúng tôi mới mất có hai năm thôi mà. Tôi vừa giận dữ vừa tò mò. Tôi háo hức muốn gặp cô ả, người đàn bà tiếm ngôi của mẹ tôi. ‘Nghe có vẻ cô ấy tuyệt vời quá. Khi nào con có thể gặp cô ấy?’ ‘Sau đám cưới.’ ‘Con nghĩ bọn con nên gặp cô ấy trước mới phải chứ?’ ‘Con gặp làm gì? Con có cưới nàng đâu?’ (Ông biết như vậy không phải lắm nhưng vẫn cố lẩn tránh.) ‘Nhưng ba à, ba đã nghĩ kỹ chưa? Mọi chuyện có phần đột ngột quá. Ý con là cô ấy nhất định trẻ hơn ba rất nhiều.’ Tôi cố giữ giọng bình tĩnh, giấu đi mọi dấu hiệu bất bình, cứ như một người lớn sành sỏi chuyện đòi cư xử với một gã trẻ tuổi si tình. ‘Ba mươi sáu. Nàng ba mươi sáu, ba thì tám mươi tư. Thế thì sao chứ?’ (Ông phát âm ‘sao’ thành ‘xao’.) Ông độp lại ngay, xem ra ông đã dự đoán trước câu hỏi này. ‘À, tuổi tác chênh lệch khá nhiều đó...’ ‘Nadezhda, ba không ngờ con lại bảo thủ đến thế’ (Ông nhấn mạnh từ ‘bảo thủ’ - ôi trời đất ơi!) ‘Không, không.’ Ông buộc tôi phải co vòi lại. ‘Chỉ là... có thể có vài vấn đề.’ Sẽ không có vấn đề gì ở đây cả, ba tôi nói. Ông đã lường trước mọi thứ rồi. Ông biết nàng được khoảng ba tháng. Nàng có một ông cậu ở Selby và đã đến thăm ông ta bằng thị thực du lịch. Nàng muốn xây dựng cuộc đời mới cho mình và con trai ở phương Tây, một cuộc đời tươi đẹp, việc làm tốt, tiền bạc dư dả, xe cộ hào nhoáng - tuyệt đối không chấp nhận xe Lada hay Skoda - chỗ học hành tốt cho con trai, ít nhất phải là trường Oxford hay Cambridge. Nhân tiện phải nói luôn nàng là một phụ nữ có học. Có bằng dược sĩ. Nàng sẽ dễ dàng tìm được việc làm tốt ở đây, một khi học xong tiếng Anh. Trong thời gian chờ đợi, ông sẽ giúp nàng tiếng Anh, nàng thì sẽ lau nhà và chăm sóc cho ông. Nàng ngồi lên đùi ông và cho phép ông mân mê bầu ngực của mình. Hai người sẽ sống hạnh phúc bên nhau. Tôi có nghe lầm không? Cô ả ngồi trên đùi ba tôi và ông mân mê bộ ngực kiểu Botticelli vĩ đại của cô ả? ‘À, ừ...’ Tôi giữ giọng bình tĩnh nhưng cơn giận đã bùng lên trong tim, ‘... cuộc đời này tràn đầy những chuyện bất ngờ. Con mong mọi chuyện sẽ tốt đẹp với ba. Nhưng nghe này, ba’ (đã đến lúc phải nói huỵch toẹt ra) ‘con hiểu vì sao ba muốn cưới cô ấy. Nhưng ba có bao giờ tự hỏi vì sao cô ấy muốn cưới ba không?’ ‘Tak tak. Ừ, ba biết chứ. Hộ chiếu. Thị thực. Giấy phép lao động. Thế thì xao nào?’ Giọng ông cáu gắt, bực tức. Ông đã liệu trước mọi thứ. Nàng sẽ chăm sóc ông khi ông già yếu đi. Ông sẽ cho nàng một mái nhà, chia sẻ khoản lương hưu ít ỏi cho đến khi nàng tìm được một công việc đáng tiền. Con trai nàng, một cậu bé cực kỳ thông minh, một thiên tài, biết chơi dương cầm, sẽ được hưởng nền giáo dục Anh quốc. Họ sẽ trò chuyện về nghệ thuật, văn chương, triết học vào buổi tối. Nàng là một phụ nữ có giáo dục chứ không phải là một ả nông dân lắp bắp. Cũng phải nói luôn, ông đã dò hỏi quan điểm của nàng về Nietzsche* và Schopenhauer* và nàng hoàn toàn đồng ý với ông. Cũng như ông, nàng ngưỡng mộ chủ nghĩa kết cấu và kinh tởm chủ nghĩa tân cổ điển. Họ có rất nhiều điểm chung. Một nền tảng hôn nhân vững chắc. ‘Nhưng ba à, ba không nghĩ cô ấy lấy một người gần tuổi với mình thì sẽ tốt hơn sao? Chính quyền sẽ nhận ra đây là một cuộc hôn nhân giả hiệu. Họ không có ngu đâu’ ‘Hừm’ ‘Cô ấy vẫn có thể bị gửi trả về.’ ‘Hừm’ Ông chưa lường tới chuyện này. Nó làm ông lọng cọng một chút nhưng không thể cản ông lại được. Con biết đấy, ông giải thích, ông là niềm hy vọng cuối cùng của nàng, cơ hội duy nhất giúp nàng thoát khỏi tình trạng bị ngược đãi, cảnh nghèo túng, con đường bán thân nuôi miệng. Cuộc sống ở Ukraina quá cực nhọc cho một tâm hồn nhạy cảm như nàng. Ông thường hay đọc báo, và tin tức khá ảm đạm. Không có bánh mì, giấy vệ sinh, đường, không hệ thống thoát nước, cuộc sống bon chen, điện đóm chập chờn. Làm sao ông có thể để một người phụ nữ đáng yêu chịu cảnh sống đó được? Làm sao ông có thể ngoảnh mặt làm ngơ? ‘Con phải hiểu, Nadezhda, chỉ có ba mới giúp được cô ấy!’ Đúng vậy. Ông đã thử. Ông đã hết sức cố gắng. Trước khi quyết định cưới cô ta, ông đã tìm kiếm những người chồng hợp cách. Ông đã đến gặp gia đình Stepanenko, một cặp vợ chồng già người Ukraina đang sống chung với đứa con trai còn độc thân. Ông đã nói chuyện với ông Greenway, một người đàn ông góa vợ sống ở quê, ông này có đứa con trai chưa vợ thỉnh thoảng về thăm. (Hợp lý đây. Một kỹ sư. Không phải loại tầm tầm. Là một đám rất tốt cho Valentina.) Bọn họ đều từ chối cả: họ hẹp lượng quá thể. Ông đã nói thẳng vào mặt họ như vậy. Giờ thì gia đình Stepanenko và ông Greemvay chẳng ai thèm nói chuyện với ông nữa. Cộng đồng Ukraina ở Peterborough cũng chối bỏ cô ấy. Bọn họ đúng là thiển cận. Bọn họ không bị ấn tượng trước quan điểm của cô ấy về Nietzsche và Schopenhauer. Bọn họ chỉ quan tâm đến quá khứ, chủ nghĩa dân tộc Ukraina, Banderivtsi. Cô ấy là một phụ nữ hiện đại phóng khoáng. Nhưng bọn họ đơm đặt những lời đồn kinh khủng về cô ấy. Bọn họ nói cô ấy bán dê và bò của mẹ để lấy tiền chăm chút nhan sắc nhằm quyến rũ đàn ông phương Tây. Bọn họ nói toàn thứ nhảm nhí. Mẹ cô ấy chỉ nuôi gà lợn chứ nào có dê hay bò. Chỉ nhiêu đó thôi cũng thấy rõ những kẻ ngồi lê ngu ngốc ra sao. Ông ho sù sụ ở đầu dây bên kia. Ông bị bạn bè xa lánh vì chuyện này. Nếu cần thì ông cũng sẽ từ luôn đám con gái. Ông sẽ một mình chống lại cả thế giới, chỉ với người đàn bà xinh đẹp đứng bên cạnh. Lưỡi của ông không theo kịp sự hứng khởi của Ý Tưởng Lớn đó. ‘Nhưng ba à...’ ‘Còn chuyện này nữa, Nadia. Đừng nói cho Vera biết.’ Chẳng có cơ đâu. Tôi đã không nói chuyện với bà chị gái hai năm rồi, kể từ trận tranh cãi nảy lửa sau đám tang của mẹ. ‘Nhưng ba à...’ ‘Nadezhda, con phải hiểu đàn ông đôi khi có những cơn bốc đồng khác hẳn với phụ nữ’ ‘Ba à, làm ơn đừng phân tích sinh học với con.’ Ô, cần quái gì? Cứ để ông ấy nếm mùi đau khổ. ○○○ Có lẽ câu chuyện bắt đầu từ trước cú điện thoại này. Có lẽ nó bắt đầu từ hai năm trước, trong chính căn phòng ông đang ngồi, nơi mẹ tôi nằm hấp hối và ông đi loanh quanh khắp nhà trong nỗi đau khổ vô biên. Tất cả cửa sổ mở toang, làn gió luồn qua tấm màn vải lanh khép hờ mang lại mùi oải hương từ khu vườn phía trước. Tiếng chim hót, tiếng người đi lại trên đường, cô con gái nhà hàng xóm làm màu với cậu bạn trai trước cửa. Trong căn phòng nhợt nhạt tinh tươm, mẹ tôi hổn hển thở hắt hết giờ này sang giờ khác, sự sống trong bà cứ mất dần, còn tôi thì đút morphine cho bà bằng muỗng. Cái chết khoác bộ đồng phục cao su: găng tay y tá bằng latex, tấm ga trải giường không thấm nước, đôi dép xốp, một hộp thuốc glycerine đặt hậu môn lấp lánh như những viên đạn bằng vàng, ghế tiểu tiện với nắp đậy và chân bọc cao su lúc này chứa đầy chất lỏng còn cợn xanh lè. ‘Mẹ có nhớ...?’ Tôi lặp đi lặp lại những câu chuyện về bà và thời ấu thơ của chúng tôi hết lần này đến lần khác. Đôi mắt mờ đục của bà chớp chớp. Trong một giây phút tỉnh táo, bàn tay bà nằm trong tay tôi, bà nói, ‘Hãy chăm sóc cho Kolya tội nghiệp’ Ba ở bên mẹ khi bà mất trong đêm. Tôi còn nhớ ông đã gào lên đau khổ. ‘Bắt tôi đi, bắt tôi theo cùng!’ Giọng ông khàn khàn nghẹn ngào, chân tay cứng đờ như bị động kinh. Vào buổi sáng, sau khi họ đưa thi thể của mẹ đi, ông ngồi ở căn phòng phía sau, vẻ mặt đau xót. Một lúc sau ông nói, ‘Con có biết không, Nadezhda, ngoài phương pháp chứng minh bằng đại số, định lý Pythagore còn có cách chứng minh bằng hình học nữa. Nhìn xem nó đẹp chưa này.’ Trên một tờ giấy, ông vẽ các đường thẳng và các góc, biểu trưng bởi các ký hiệu nhỏ, rồi lẩm bẩm trong lúc giải phương trình. Ba hoàn toàn mất trí rồi, tôi nghi. Kolya tội nghiệp. ○○○ Mấy tuần trước khi mất, mẹ tôi nửa nằm nửa ngồi dựa vào chiếc gối trên giường bệnh, lòng lo lắng không yên. Đám dây nhợ lằng nhằng nối liền mẹ với chiếc máy ghi lại từng nhịp đập yếu ớt của trái tim. Mẹ cằn nhằn luôn miệng về phòng bệnh chung - giường này giường nọ chỉ cách nhau bởi một tấm màn khép vội, về tiếng hắt hơi, tiếng ho, tiếng ngáy đầy khó chịu của mấy ông già. Mẹ co rúm trước bàn tay mập mạp lạnh lùng của nam y tá trẻ. Anh ta đến cắm dây truyền phía trên bầu ngực dúm dó bất cẩn hở ra dưới tấm áo choàng bệnh viện. Mẹ chỉ là một bà già bệnh tật. Ai thèm để ý đến những cảm nhận của mẹ chứ? Rời bỏ cuộc đời không dễ chút nào, mẹ nói. Quá nhiều chuyện phải lo trước khi có thể an tâm rời đi. Kolya, ai sẽ chăm sóc cho ông ấy? Chắc không phải là hai cô con gái rồi, chúng lanh lẹ đấy nhưng hay gắt gỏng quá. Chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng? Chúng có tìm được hạnh phúc không? Hai tên đàn ông dễ thương nhưng vô dụng mà chúng lấy liệu có chăm sóc chúng đàng hoàng không? Rồi ba cô cháu ngoại nữa, thật xinh đẹp mà vẫn chưa chồng. Còn quá nhiều thứ để lo mà sức khỏe của mẹ lại đang dần yếu đi. Mẹ viết di chúc trong bệnh viện, chị Vera và tôi đều đứng ngay tại đó vì chẳng ai tin tưởng người kia cả. Mẹ tự tay viết những dòng di chúc xiêu vẹo, có hai y tá làm nhân chứng. Giờ bà yếu lắm nhưng bao nhiêu năm qua bà đã rất mạnh khỏe. Bà già ốm yếu bệnh tật nhưng di sản - số tiền tiết kiệm cả đời bà - vẫn đang sinh sôi trong ngân hàng Co-op. Một điều mẹ cương quyết: di sản không thể giao cho ba được. ‘Nikolai đáng thương, ông ấy không minh mẫn đâu. Đầu óc ông ấy chỉ toàn những kế hoạch quái dị. Tốt hơn là hai con chia đôi, mỗi người một nửa’ Bà nói chuyện bằng tiếng Anh bồi, pha lẫn vài từ Ukraina. Khi rõ ràng là bệnh viện chẳng thể làm gì hơn, họ cho bà về nhà để bà chết yên ổn bên cạnh người thân. Chị tôi ở cạnh bà trong suốt tháng cuối cùng. Tôi thì thường đến thăm vào cuối tuần. Trong tháng cuối cùng đó, khi tôi không có mặt, chị tôi đã viết thêm khoản phụ lục di chúc, chia đều di sản giữa ba cô cháu ngoại, Anna của tôi và hai đứa con gái Alice, Alexandra của chị ta, thay vì chia đôi giữa hai chị em. Mẹ tôi đã ký tên, hai người hàng xóm làm chứng. ‘Mẹ đừng lo’ tôi nói với mẹ trước khi bà mất, ‘mọi chuyện sẽ ổn thôi. Chúng con sẽ buồn, sẽ nhớ mẹ, nhưng chúng con sẽ thu xếp được’ Thực tế là chúng tôi chẳng ổn chút nào. Mẹ được chôn ở nghĩa trang nhà thờ trong làng, trên một khoảnh đất mới nhìn ra đồng quê thoáng đãng. Mộ của bà nằm ở cuối một dãy mộ mới tinh. Ba đứa cháu ngoại, Alice, Alexandra và Anna, dong dỏng cao và tóc vàng, ném hoa hồng vào huyệt, tiếp theo đó là những nắm đất. Nikolai, gập người vì bệnh thấp khớp, nước da xám xịt, đôi mắt vô hồn, bám chặt vào tay chồng tôi trong nỗi đau khổ không thể bật ra thành nước mắt. Hai đứa con gái, Vera và Nadezhda, Niềm tin và Hy vọng, chị tôi và tôi, đã sẵn sàng đánh nhau vì di chúc của mẹ. Khi khách dự tang lễ quay trở về nhà, ăn đồ nguội và say xỉn với rượu samo-hơnka của Ukraina, chị tôi và tôi tranh cãi trong phòng bếp. Chị đang mặc bộ đồ lụa đen mua từ một tiệm chuyên bán quần áo cũ bé tẹo nằm trong góc khuất ở Kensington. Trên giày chị có mấy cái khoen vàng, tay chị cầm cái túi Gucci có khóa vàng và trên cổ đeo một sợi dây chuyền vàng mảnh. Tôi thì mặc một bộ đồ màu đen mua ở Oxfam.* Vera hết nhìn lên rồi lại nhìn xuống tỏ vẻ chê bai. ‘À, bộ dạng nông dân. Tôi thấy rồi’ Tôi bốn mươi bảy tuổi và là giảng viên đại học, nhưng giọng điệu của bà chị gái bỗng chốc biến tôi trở thành một đứa nhóc bốn tuổi thò lò mũi xanh. ‘Nông dân thì có sao. Mẹ cũng là nông dân đấy’ đứa nhóc bốn tuổi phản pháo. ‘Cũng gần thế’ bà chị lớn nói. Chị châm một điếu thuốc. Khói thuốc bay lên cao lượn vòng điệu nghệ. Chị cúi về phía trước để cất bật lửa vào chiếc túi Gucci, và tôi nhìn thấy sợi dây chuyền vàng của chị có gắn một trái tim nhỏ lồng ảnh, lấp ló trong ve áo. Trông nó lỗi mốt và chẳng hợp chút nào với bộ đồ thời trang của Vera. Tôi nhìn nó chằm chằm. Mắt ngấn nước. ‘Chị đang đeo mặt dây chuyền của mẹ.’ Đó là của quý duy nhất mẹ mang đi từ Ukraina, đủ nhỏ để có thể giấu trong viền váy. Đó là món quà ông ngoại tặng cho bà ngoại trong ngày cưới. Bên trong trái tim, hai bức ảnh của ông bà tôi nhoẻn miệng cười nhìn nhau. Vera nhìn thẳng vào mắt tôi. ‘Mẹ cho tôi đó.’ (Tôi không thể tin được điều này. Mẹ biết tôi yêu mặt dây chuyền này, biết tôi mong có được nó hơn hẳn mọi thứ khác. Nhất định Vera đã lấy trộm nó. Không có cách giải thích nào khác.) ‘Bây giờ, cô muốn nói gì về di chúc nào?’ ‘Em chỉ muốn công bằng thôi’ tôi rên rỉ. ‘Có gì sai chứ?’ ‘Nadezhda, cô mua quần áo từ Oxfam cũng quá đủ rồi. Cô còn phải nghĩ đến cả chuyện đó nữa sao?’ ‘Chị đã lấy mặt dây chuyền. Chị ép mẹ ký vào khoản phụ lục di chúc. Chia đều số tiền cho ba cháu ngoại thay vì giữa hai con gái. Như vậy, chị và gia đình kiếm được nhiều gấp đôi. Đồ tham lam.’ ‘Hết chỗ nói, Nadezhda. Tôi thật sốc khi cô nghĩ như vậy.’ Đôi lông mày tỉa tót của bà chị lớn run run. ‘Cũng chưa sốc bằng em khi em biết rõ sự thật đâu’ con nhóc thò lò mũi xanh kêu lên be be. ‘Cô không có mặt ở đó, phải không, cô em bé bỏng của tôi? Cô đi làm công việc tuyệt vời của mình. Cứu vớt thế giới. Theo đuổi sự nghiệp. Để mặc mọi trách nhiệm lại cho tôi. Cô vẫn luôn làm như thế’ ‘Chị hành hạ những ngày cuối cùng của mẹ bằng câu chuyện về vụ ly dị, về sự tàn nhẫn của chồng chị. Chị đốt hết điếu này đến điếu khác bên giường bệnh của mẹ trong khi mẹ đang hấp hối’ Bà Chị Lớn búng tay gạt tàn thuốc rồi thở dài điệu bộ. ‘Cô thấy đấy, vấn đề của thế hệ các cô, Nadezhda, là cô chỉ đi lướt qua mặt ngoài cuộc sống thôi. Hòa bình. Tình yêu. Người lao động cầm quyền. Đó chỉ là những lý tưởng nhảm nhí. Cô phải gánh lấy sự xa xỉ của thói vô trách nhiệm, bởi vì cô chưa bao giờ nhìn thấy mặt đen tối của cuộc đời.’ Vì sao cái giọng ngân nga dạy đời của bà chị làm tôi nổi điên đến thế? Vì tôi biết đó là giả dối. Tôi biết cái giường đơn chúng tôi cùng nhau ngủ, biết cái nhà vệ sinh ở phía bên kia sân và chồng báo cũ chùi đít. Chị ta không thể qua mặt tôi. Nhưng tôi cũng có cách châm chích lại chị ta. ‘Ô, mặt đen tối của cuộc đời làm chị băn khoăn sao? Hay là chị đi xin tư vấn đi?’ Tôi ranh mãnh đề nghị bằng giọng điệu thành thạo hãy-biết-điều-với-nhau-đi, giọng điệu hãy-xem-tôi-người-lớn-thế-nào-này, giọng điệu tôi thường dùng với ba. ‘Làm ơn đừng nói theo kiểu của nhân-viên-xã-hội nữa, Nadezhda.’ ‘Điều trị tâm lý đi. Thấu hiểu mặt đen tối, rồi tống nó ra ngoài, trước khi nó ăn mòn chị.’ (Tôi biết nói vậy sẽ làm cho chị ta nổi điên.) ‘Tư vấn. Trị liệu. Hãy nói ra mọi khó khăn của chúng ta. Hãy ôm lấy nhau để cảm thấy dễ chịu hơn. Hãy giúp đỡ những người kém may mắn. Hãy tặng hết số tiền chúng ta có cho những đứa nhỏ đói khát.’ Chị ta cắn mạnh vào miếng bánh. Một trái ô liu bắn vọt xuống sàn. ‘Vera, chị vừa ly dị, lại mất mẹ. Đương nhiên là chị cảm thấy căng thẳng rồi. Chị cần được giúp đỡ’ ‘Đó chỉ là trò tự dối mình. Đằng sau tấm rèm, con người ai cũng nhỏ nhen, ích kỷ, chỉ biết vun vén cho bản thân. Cô không biết tôi khinh bỉ đám nhân viên xã hội thế nào đâu’ ‘Em biết chứ. Nhưng Vera này, em không phải là nhân viên xã hội’ Ba tôi cũng nổi điên. Ông đổ lỗi cho bác sĩ, chị tôi, gia đình Zadchuk, người đàn ông cắt cỏ sau nhà, đã làm mẹ chết. Thỉnh thoảng ông cũng tự đổ lỗi cho mình. Ông đi loanh quanh lẩm bẩm, nếu chuyện này không xảy ra, nếu chuyện kia không xảy ra, Millochka của ông vẫn còn sống. Gia đình lưu vong bé nhỏ của chúng tôi, trước giờ được gắn kết chặt chẽ bởi tình yêu thương và món xúp củ cải của mẹ, nay bắt đầu tan vỡ. Một mình trong căn nhà trống, ba tôi sống nhờ vào đồ hộp và thức ăn nhanh, cứ như thể trừng phạt mình kiểu đó thì ông sẽ mang được bà quay trở lại vậy. Ông không chịu đến sống với chúng tôi. Thỉnh thoảng tôi đến thăm ông. Tôi thích ngồi trong nghĩa trang nhà thờ nơi đặt mộ của mẹ. Tấm bia ghi rằng: Ludmilla Mayevska Sinh năm 1912 ở Ukraina Vợ yêu của Nikolai Mẹ của Vera và Nadezhda Bà ngoại của Alice, Alexandra và Anna Người thợ đá đã cất công ghi hết tất cả những từ này lên bia mộ. Có một cây anh đào đang trổ hoa, bên dưới là một băng ghế gỗ trông ra những khoảng cỏ vuông vắn mà quá nửa đã được chuyển thành phần mộ, một hàng rào táo gai ngăn cách nghĩa trang và cánh đồng lúa mạch, tiếp đó là những cánh đồng khác trồng lúa mạch, khoai tây, hạt dầu... nối liền nhau tới tận chân trời. Mẹ tôi gốc gác từ thảo nguyên, bà cảm thấy thư thái trước chân trời rộng mở. Lá cờ Ukraina có hai khối màu hình chữ nhật: màu xanh phía trên màu vàng - màu vàng biểu trưng cho cánh đồng bắp, màu xanh biểu trưng cho bầu trời. Khu đầm lầy mênh mông bằng phẳng không có gì đặc biệt này khiến bà nhớ lại quê nhà. Chỉ có điều bầu trời nơi đây hiếm khi xanh như bầu trời quê hương. Tôi nhớ mẹ, nhưng tôi bắt đầu chấp nhận sự mất mát này. Tôi có chồng, có con và cuộc đời của riêng mình. Ba tôi thơ thẩn đi quanh căn nhà ba mẹ từng sống chung. Đó là một căn nhà kiểu mới, nhỏ, xấu xí, tường ốp đá, ga ra sàn bê tông ở bên hông. Ba mặt còn lại quanh nhà là vườn, nơi mẹ tôi trồng hoa hồng, oải hương, tử đinh hương, mao lương, anh túc, păng xê, cây ông lão (giống Jackmanii và Ville de Lyon), hoa mõm chó, hoa ủy lăng, hoa quế trúc, bạc hà mèo, hoa lưu ly, mẫu đơn, hoa cải tím, hoa nghệ tây, hoa chuông, hoa hồng đá, hoa hương thảo, hoa diên vĩ, hoa loa kèn và hoa đậu tía xen lẫn vào nhau, cứ như ở vườn bách thảo vậy. Có hai cây táo, hai cây lê, ba cây mận, một cây đào và một cây mộc qua, những trái cây vàng ruộm thơm nức luôn giành giải thưởng ở hội làng hai mươi năm nay. Phía sau, bên ngoài vườn hoa và bãi cỏ, là ba khoảnh đất nơi mẹ tôi trồng khoai tây, hành, đậu đũa, đậu tằm, đậu Hà Lan, ngô ngọt, rau bí, cà rốt, tỏi, măng tây, rau diếp, rau bi na, bắp cải và cải bruxen. Thì là và mùi tây mọc rải rác giữa các luống rau. Ở một góc vườn, mấy luống mâm xôi, dâu, quả ngẩy, phúc bồn tử đen và đỏ, cùng một cây đào nằm gọn trong nhà lưới mà ba tôi dựng lên ngăn lũ chim béo háu ăn vào mổ. Nhưng vài cây dâu và mâm xôi đã lọt ra khỏi lưới, lan sang mấy khóm hoa. Trong nhà kính, những dây nho tím đầy sức sống uốn lượn bên trên những luống cà chua và ớt lúc lỉu. Phía sau nhà kính là thùng chứa nước, hai nhà kho nhỏ, một đống phân trộn và một đống phân chuồng vốn là niềm mơ ước của cả làng. Đó là phân bò đã hoại, toi xốp và giàu dinh dưỡng, do một người làm vườn người Ukraina tặng. ‘Sô cô la đen’ mẹ tôi gọi nó như vậy. ‘Nào, cục cưng của ta’ bà thì thầm với những mầm cây, ‘dùng chút sô cô la đen nào.’ Chúng ngấu nghiến sô cô la đen, rồi lớn nhanh vùn vụt. Mỗi lần ba tôi ra vườn, ông lại thấy bóng dáng mẹ lờ mờ in trên vách nhà kính, đang lúi húi giữa đám cây lá, với tay buộc lại mấy ngọn đậu đũa. Đôi khi giọng bà gọi ông văng vẳng giữa các gian nhà trống vắng. Mỗi lần nhớ ra là bà không còn ở đây nữa, vết thương của ông lại vỡ ra nhức nhối. Cú điện thoại thứ hai gọi đến vài ngày sau cú đầu tiên. ‘Nadezhda, con nghĩ một người đàn ông tám mươi tư tuổi có thể có con không?’ Thấy cách ông luôn đi thẳng vào vấn đề chứ? Không rào trước đón sau. Không thèm hỏi ‘Con thế nào? Mike và Anna khỏe không?’ Không dài dòng về thời tiết. Không thứ gì phù phiếm trì hoãn được ông khi ông đã nảy ra một Ý Tưởng Lớn. ‘Ô, con không chắc...’ Tại sao ba lại hỏi tôi? Làm sao tôi biết được? Tôi không muốn biết. Tôi không muốn con sóng xúc cảm đẩy tôi quay về tuổi thơ thò lò mũi xanh, thuở ba vẫn còn là một vị anh hùng và tôi luôn sợ bị ông quở mắng. ‘Nếu có con được, Nadezhda’ ông nhanh nhảu nói tiếp trước khi tôi kịp phòng vệ, ‘con nghĩ có bao nhiêu phần trăm đứa nhỏ bị thiểu năng?’ ‘Ô ba à’ (ngừng lại một chút để thở, cố giữ giọng vui vẻ và ân cần) ‘y học đã chứng minh rất rõ rằng phụ nữ càng lớn tuổi thì càng có khả năng sinh con mắc bệnh Down. Đó là một loại bệnh gây khó khăn trong học tập, còn gọi là bị đần độn’ ‘Hừm.’ (Ông không vui khi nghe tin này.) ‘Hừm. Nhưng có lẽ bọn ba sẽ liều một phen. Con thấy đấy, ba cho rằng nếu cô ấy là mẹ của một công dân Anh, đồng thời là vợ của một công dân Anh, cô ấy chắc chắn sẽ không bị trục xuất...’ ‘Ba à, con nghĩ ba không nên vội vã...’ ‘Bởi vì luật pháp nước Anh là tốt nhất toàn cầu. Nó vừa là một sứ mệnh vừa là một gánh nặng lịch sử, muốn gọi thế nào cũng được...’ Ba luôn nói với tôi bằng tiếng Anh, nhấn giọng sai và dùng mạo từ quái dị, nhưng đủ để hiểu được. Tiếng Anh của dân kỹ sư. Mẹ nói tiếng Ukraina với tôi, thứ tiếng thấm đẫm mọi sắc thái hậu tố. Tiếng mẹ đẻ. ‘Ba, nghĩ kỹ lại đi. Đây có phải là điều ba muốn không?’ ‘Hừm, điều ba muốn à?’ (ông phát âm thành ‘đều ba mún’). ‘Đương nhiên làm cha một đứa trẻ như vậy không đơn giản chút nào. Nhưng về mặt kỹ thuật thì có thể có cách...’ Nghĩ tới chuyện ba tôi ngủ với ả đàn bà này, tôi cảm thấy quặn bụng. ‘... Cái khó là không cương cứng được nữa. Nhưng có lẽ với Valentina thì...’ Ông lần khân ở kịch bản sinh sản này quá lâu so với sức chịu đụng của tôi. Nhìn từ những góc độ khác nhau. Tính ngược tính xuôi.’... con nghĩ thế nào?’ ‘Ba à, con không biết phải nghĩ thế nào cả’ Tôi chỉ muốn ông ngậm miệng lại. ‘Đúng, với Valentina thì vẫn có thể...’ Giọng ông trở nên mơ màng. Ông đang nghĩ mình sẽ tạo ra một đứa con như thế nào - một đứa bé trai, chắc chắn thế. Ông sẽ dạy nó cách chứng minh định lý Pythagore và cách đánh giá đúng chủ nghĩa kết cấu. Ông sẽ thảo luận về máy kéo với nó. Điều ba tôi nuối tiếc nhất là hai đứa con của ông đều là con gái. Trí tuệ kém cỏi, không đến nỗi phù phiếm và nữ tính như đám phụ nữ nói chung, nhưng vẫn là những sinh vật ồn ào, cứng đầu và không biết tôn ti trật tự. Đúng là bất hạnh cho đàn ông. Ba chưa bao giờ cố che giấu nỗi thất vọng của mình. ‘Ba à, con nghĩ trước khi làm chuyện gì, ba nên xin tư vấn pháp luật trước đã. Có thể mọi chuyện sẽ không như ba nghĩ. Ba có muốn con nói chuyện với luật sư không?’ ‘Tak tak.’ (Ừ... ừ.) ‘Con nên kiếm một luật sư ở Cambridge ấy. Có đủ yếu tố nước ngoài ở đó. Bọn họ nhất định biết chút ít về luật nhập cư’ Ông luôn tự động phân loại con người. Ông không có chút ý niệm gì về phân biệt chủng tộc cả. ‘OK, ba. Con sẽ ráng tìm một luật sư chuyên về luật nhập cư. Đừng làm gì cả cho đến khi con gọi lại cho ba.’ Viên luật sư là một chàng trai trẻ thạo việc ở một hãng luật trong khu ổ chuột. Anh ta viết: Nếu cha của bà muốn lập gia đình thì ông ấy cần phải nộp đơn tới Bộ Nội vụ xin cho vợ ông ấy ở lại. Để được chấp thuận, bà ấy cần phải thỏa mãn những điều kiện sau: Kết hôn không phải nhằm mục đích giúp bà ấy vào Anh hay ở lại Anh. Hai người đã gặp nhau. Hai người định sống chung lâu dài với tư cách là vợ chồng. Họ có thể tự trang trải cuộc sống mà không cần xin cứu trợ xã hội. Vấn đề chính là Bộ Nội vụ (hoặc Đại sứ quán nếu bà ấy nộp đơn bên ngoài nước Anh) rất có thể sẽ cho rằng bà ấy lấy chồng cốt chỉ để di dân sang Anh, bởi tuổi tác cách biệt và bởi đám cưới diễn ra quá gần ngày bà ấy phải rời khỏi Anh. Tôi chuyển lá thư đó cho ba tôi. Viên luật sư cũng nói với tôi rằng cơ hội thành công sẽ lớn hơn hẳn nếu cuộc hôn nhân kéo dài được năm năm hoặc hai người có con. Tôi không nói gì với ba tôi về chuyện này. Mời các bạn đón đọc Lược Sử Máy Kéo Bằng Tiếng Ukraina của tác giả Marina Lewycka & [Hồ Thanh Ái (dịch)].

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Mèo Tự Dưng Biết Nói - Claude Roy
Bí mật của mọi bí mật, đó chính là tất cả các con mèo đều biết nói. Có những loài mèo biết nói ngay từ khi mới sinh ra. Và tất nhiên, có những con mèo chậm nói hơn... vào thời điểm này của cuộc đời, chúng chẳng còn gì là không biết cả, kể cả lời nói. Đúng vậy đấy, loài mèo biết nói. Nhưng chúng chỉ quá khôn ngoan và quá kín đáo không để chúng ta nhìn thấy. Quá thận trọng và quá khiêm nhường không để chúng ta biết. Loài mèo nói - mỗi khi chúng ta không có ở đó. (Con mèo tự dưng biết nói) *** Claude Roy sinh ra tại Paris ngày 28 tháng 8 năm 1915. Thuở nhỏ, ông sống tại Jarnac, rồi sau đó chuyển tới Paris và bắt đầu học luật. Trong chiến tranh, ông tham gia vào tổ chức Kháng chiến và đã gặp gỡ nhiều đại văn hào Pháp như Louis Aragon, Elsa Triolet, André Gide và Jean Giraudoux. Sau cách mạng, ông là một trong những trí thức nổi tiếng nhất tại Pháp Là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia, và một người ưa chu du khám phá, ông không cho rằng một nhà văn phải nói với trẻ em giống như là với những kẻ chậm hiểu và nói với người lớn như là họ đã mãi mãi hết tuổi thơ. Các tác phẩm dành cho người lớn của ông, và bộ tác phẩm dành cho độc giả từ 4-104 tuổi: Ngôi nhà biết bay, Chú mèo dễ thương, Con mèo tự dưng biết nói… Năm 1985, Viện hàn lâm Goncourt đã trao giải nhất Goncourt Thơ cho ông, và đến năm 1995, ông đã nhận giải Guillaume Apollinaire cho sự nghiệp sáng tác của mình. Claude Roy mất ngày 13 tháng 12 năm 1997. *** Chàng mèo Gaspard Mac Kitycat, bạn chí cốt của Thomas, một hôm bỗng tự dưng biết nói. Chuyện đến tự nhiên như không. Gaspard mang dòng máu Scotland thừa hưởng từ bố, một danh miêu tiếng nổi như cồn trong loài Mèo Xanh của Anh, còn ở Pháp thì được gọi là mèo sác-trơ, thế nhưng màu lông lại xám xịt chứ không như cái tên. Tristram Mac Kittycat, tức công tước thứ mười ba của dòng họ Garth (một dòng họ lâu đời xứ Ê-cốt), ngay từ cái nhìn đầu tiên đã phải lòng một nàng mèo Pháp màu xám cũng dòng sác-trơ quyến rũ bậc nhất thiên hạ tên là Mouflette de Vaneau, nam tước Flon. (Nàng là hậu duệ của ngài Flonflon lừng danh đã tham gia chuyến tàu chở quân trang phục vụ Đại Quân. Vị tướng mèo này được Napoléon Đệ nhất đích thân phong tước nam tước trên chiến trường Austerlitz. Vinh dự này tưởng thưởng việc ngài đã có công giúp thống chế Murat diệt trừ lũ chuột đã dám to gan ra răng nghiến ngấu cả toa yến mạch của quân đội.) Cuộc hôn nhân mỹ mãn của công tước Tristram xứ Scotland và nữ nam tước Flon lần lượt cho ra đời bốn nhóc mèo nhà nòi. Gaspard Mac Kitycat, kẻ được định sẵn sau này sẽ kế tục cương vị Công tước thứ mười bốn dòng họ Garth, là anh cả. Người thân gọi cậu là Gaspard. Gaspard là một chú mèo can trường có bộ lông màu xám sac-trơ đặc trưng. Những kẻ ngù ngờ vẫn hay bảo: “Đó là một con mèo xám lông chuột”, dù rằng thật thiếu văn hóa mới đi so sánh một chú mèo với một con chuột. Gaspard mê tít trò vờn nhay-rí rách-nhấm nháp đám cỏ mọc cuối vườn. Một buổi sớm giống như bao buổi khác, Gaspard ngồi ăn sáng với Thomas. Khi Thomas đi học, Gaspard còn tiễn cậu chủ nhỏ ra tận cửa và đúng thủ tục tạm biệt hàng ngày, chú nói “Tạm biệt!” bằng một tiếng meo khe khẽ và một tiếng gừ gừ mãnh liệt. Gaspard nổi tiếng trong giới mèo là được trời phú một chất giọng mê ly. Tuy nhiên, có vẻ ý kiến của loài người về vấn đề này lại không được thống nhất cho lắm. Thomas quả quyết rằng Gaspard có một điệu meo meo tuyệt vời, và một âm meo hay lịm người. Nhưng bố của Thomas, lúc nào đang đọc báo mà nghe tiếng Gaspard nhặng lên đòi ăn tối là y như rằng khăng khăng: “Con mèo này có tiếng kêu y như tiếng cửa xát.” Nhưng dù gì, Thomas cũng luôn bảo vệ Gaspard đến cùng mỗi khi có ai nói xấu mèo cưng của cậu. Ngay từ hồi còn bé, Thomas đã luôn đối xử tốt với Gaspard. Cậu không bao giờ kéo đuôi, giật râu hay vuốt ngược lông Gaspard. Cậu cho Gaspard ăn, nói chuyện với Gaspard bằng giọng tôn trọng và trìu mến. Tóm lại, cậu đối xử với chú mèo của mình chẳng khác gì một con người, mà lại còn như người bạn thân nhất. Vậy là, sáng hôm đó, sau khi Thomas ra khỏi nhà, Gaspard lang thang trong vườn và lại bắt đầu chơi trò vờn nhay-nhấm nhẳng-nhí nhách với đám cỏ. Có một loại cỏ cậu chàng chưa bao giờ nhìn thấy nhưng trông lại có vẻ đúng loại khoái khẩu. Gaspard xông vào vờn, nhai, nhí nhách, nhấm nháp và cuối cùng nuốt chửng lấy nó. Vừa nuốt qua khỏi cổ họng, Gaspard đột nhiên thấy như có một dòng điện kỳ lạ chạy rần rật từ vòm miệng xuống dạ dày. Một giây sau, một con bướm bay vèo qua râu chú ta và Gaspard, khi nhảy lên bắt bướm, nghe thấy một giọng nói nhỏ giống hệt tiếng một cây vĩ cầm đồ chơi. Cái giọng đó thì thầm: “Bướm kia, tao mà bắt được mày, tao chén thịt không tha!” “Ai đang nói thế nhỉ?” Gaspard nhìn quanh quất, tự hỏi. Chú chẳng thấy bóng ai, nhưng lại nghe thấy giọng khe khẽ nói tướng lên suy nghĩ thầm kín của chú: “Ai đang nói thế nhỉ?” “Chẳng có ai đang nói cả, vì làm gì có ai”, Gaspard tự nhủ. Và cùng lúc đó, chú vẫn lại nghe thấy cái tiếng nói bé tí, hao hao tiếng cây vĩ cầm đồ chơi. Nó lại nhại: “Chẳng có ai đang nói cả, vì làm gì có ai.” “Chả đúng thế còn gì. Gaspard tự nhủ. Chẳng ai nói gì bởi vì làm gì có ai ngoài mình, và bởi vì mình thuộc họ nhà mèo, là mèo thì làm sao nói được chứ. Ấy thế mà mình lại nghe thấy ai đó nói: “Chẳng có ai nói cả, vì làm gì có ai.” Thế thì phải có một ai đó. Vì theo lẽ thường mà nói, không có người làm sao có tiếng.” ... Mời các bạn đón đọc Con Mèo Tự Dưng Biết Nói của tác giả Claude Roy.
Con Gái Người Giữ Ký Ức - Kim Edwards
Mọi sự khởi đầu trong một đêm bão tuyết, hai đứa trẻ sinh đôi chào đời trong chính đôi tay của người cha, bác sĩ chuyên khoa xương David Henry. Cô bé mắc hội chứng Down. Trong giây phút choáng váng và bồng bềnh, David đã quyết định gửi con gái vào nhà cứu tế, và ý tá Caroline Gill là người được giao trách nhiệm đó. Bước ngoặc của số phận bắt đầu, khi Caroline tự đưa ra quyết định của riêng mình, và nỗi ám ảnh từ đó đeo báo David Henry. Anh làm bạn với máy ảnh như một sự giải thoát, để lưu giữ một phần ký ức, nhưng rồi quá khứ tựa đoàn tàu vùn vụt chạy qua anh không thể níu lại, không biết rằng ở một nơi nào đó, con gái anh, đang như cái mầm cây gắng gỏi vươn lên giữa cuộc đời khó khăn... Con Gái Người Giữ Ký Ức đã làm được điều kỳ diệu với một bi kịch gia đình được viết một cách cuốn hút, cảm động và tràn đầy thấu suốt đối với tâm lý con người. Tác phẩm là một hiện tượng xuất bản Mỹ với 31 tuần đứng trong danh sách bán chạy nhất của tờ The New York Times. "Kim Edwards đã tạo ra một câu chuyện về sự hối tiếc và cách chuộc tội của những con người bị ám ảnh bởi quá khứ. Được chạm khắc bằng những ngôn ngữ say đắm lòng người khiến bạn đọc phải đọc lại từng những đoạn văn, chỉ để không ngừng bị cuốn hút... đơn giản chỉ là một cuốn sách tuyệt đẹp" *** TUYẾT BẮT ĐẦU RƠI VÀI GIỜ TRƯỚC KHI NÀNG TRỞ DẠ. LÚC ĐẦU chỉ một vài bông trên bầu trời xám xịt ảm đạm buổi chiều muộn, rồi những cơn lốc và gió xoáy vần vũ quanh bờ hàng hiên rộng trước nhà họ. Anh đứng cạnh nàng bên cửa sổ, ngắm nhìn những cơn sóng tuyết cồn lên mạnh mẽ, rồi xoáy tròn và trôi xuống mặt đất. Đèn đã sáng lên ở mọi nhà xung quanh, còn những cành cây trơ trụi thì chuyển sang màu trắng. Sau bữa tối anh nhóm một đống lửa, xông ra ngoài trời để lấy củi – anh đã chất đống trước ga ra từ mùa thu năm trước. Bầu không khí sáng sủa lạnh toát phả lên mặt anh, tuyết trên lối vào đã ngập tới nửa bắp chân. Anh gom những thanh gỗ, rũ sạch những chỏm tuyết trắng muốt mềm xốp phủ trên chúng rồi bê vào nhà. Thanh mồi trên chiếc ghi lò sắt bắt lửa ngay lập tức, anh ngồi một lát trước lò sưởi, chân bắt tréo, cho thêm củi và ngắm nghía những ngọn lửa bùng lên, lưỡi lửa xanh biếc đầy mê hoặc. Ở bên ngoài, tuyết vẫn rơi lặng lẽ trong bóng đêm, sáng và dày như những hạt tĩnh điện trong luồng sáng đổ xuống từ những cột đèn đường. Khi anh đứng lên nhìn ra ngoài cửa sổ, chiếc xe của họ đã biến thành một ngọn đồi trắng toát xôm xốp đứng bên lề đường. Cả những dấu chân của anh trên lối vào cũng đã bị lấp đầy và biến mất. Anh phủi bụi tro trên tay và ngồi xuống chiếc sofa cạnh vợ, chân nàng kê lên mấy chiếc gối, đôi mắt cá sưng phù bắt tréo nhau, cuốn Bác sĩ Spock đặt ngay ngắn trên bụng. Mải mê đọc, nàng vô thức liếm ngón trỏ mỗi lần giở sang trang. Bàn tay nàng mảnh mai, những ngón tay ngắn và cứng cáp, nàng khẽ cắn môi dưới một cách chăm chú khi đọc. Ngắm nhìn nàng, anh thấy lòng mình tràn ngập yêu thương và kinh ngạc: rằng nàng là vợ anh, rằng con của họ, chỉ trong vòng ba tuần nữa, sẽ sớm ra đời. Đây sẽ là đứa con đầu lòng của họ. Họ mới chỉ kết hôn được một năm. Nàng nhìn lên, mỉm cười, khi anh quấn tấm chăn quanh chân nàng. “Anh biết không, em vẫn thắc mắc không biết hồi đó ra sao,” nàng nói. “Ý em là trước khi mình được sinh ra ấy. Ta chẳng nhớ nổi tí gì, chán thật.” Nàng cởi nút áo choàng và kéo chiếc áo len mặc bên trong lên, làm lộ ra cái bụng tròn và rắn như quả dưa. Nàng đưa bàn tay xoa lên bề mặt bụng mềm mại, ánh lửa nhảy múa trên làn da, hắt ánh vàng hơi nhuốm đỏ lên mái tóc nàng. “Anh có nghĩ là giống như sống trong một cái đèn lồng lớn không? Trong sách nói là ánh sáng thấm qua cả da em cơ, rằng đứa trẻ đã có thể nhìn được rồi đấy.” “Anh không biết,” anh nói. Nàng cười vang. “Sao lại không?” nàng hỏi. “Anh là bác sĩ cơ mà.” ... Mời các bạn đón đọc Con Gái Người Giữ Ký Ức của tác giả Kim Edwards.
Cá Cược Với Tình Yêu - Jennifer Crusie
Minerva Dobbs biết rằng chuyện sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi chỉ là chuyện cổ tích, đặc biệt là với một người đàn ông mời cô đi ăn tối chỉ để thắng một vụ cá cược như Calvin Morrisey. Calvin Morrisey thừa biết việc chịu trách nhiệm là bất khả thi, đặc biệt là với một người phụ nữ gàn dở như Min Dobbs. Khi hai người nói lời chào tạm biệt vào cuối bữa tối, họ cũng nhanh chóng chia tay và đồng ý sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Nhưng Định mệnh lại có những kế hoạch khác và không lâu sau Min và Cal đã gặp lại nhau. Họ sẽ phải đối phó với những người bạn thích xen vào chuyện người khác, một anh bạn trai cũ ưa ghen tuông, bánh vòng Krispy Kreme, một nhà tâm lý học dai như đỉa, thuyết hỗn mang, một cô dâu phát rồ, món gà sốt nấm, một chú mèo tinh khôn quái đản, những quả cầu tuyết, hai bà mẹ cực kỳ kinh khủng, những đôi giày tuyệt đẹp và những lời bày tỏ còn táo bạo hơn những gì ai trong hai người từng mơ đến. Bao gồm cả canh bạc lớn hơn hết thảy - tình yêu thực sự. *** Jennifer Crusie (sinh năm 1949) là bút danh của nhà văn Jennifer Smith, một tác giả dòng tiểu thuyết lãng mạn bán chạy và dành nhiều giải thưởng. Bà đã viết được hơn 15 cuốn tiểu thuyết, đã được xuất bản ở hơn 20 nước trên thế giới.  Bà đã tốt nghiệp ở trường Trung học Wapakoneta và có bằng cử nhân ngành Mỹ thuật tại trường Đại học Liên bang Bowling Green ở Bowling Green, bang Ohio. Bà có hai bằng Thạc sĩ. Bằng đầu tiên thuộc về chuyên ngành Professional Writing and Women's Literature ở Đại học Liên bang Wright, Crusie đã viết luận văn về vai trò người phụ nữ trong tác phẩm văn học kỳ bí. Bằng thạc sĩ thứ hai của bà thuộc nghành Mỹ thuật trong Tiểu thuyết của Đại học Liên bang Ohio.  Vào mùa hè năm 1991, bà bắt đầu nghiên cứu cho luận văn về ảnh hưởng giới tính đối với việc tường thuật, nghiên cứu sự khác nhau của việc kể chuyện giữa phụ nữ và đàn ông. Là một phần trong quá trình nghiên cứu, bà đã dự tính đọc một trăm cuốn tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ và một trăm cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Các tiểu thuyết lãng mạn hóa ra khá nữ quyền và quá hấp dẫn, khiến bà không bao giờ đụng đến tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Thay vào đó, bà quyết định viết tiểu thuyết, bỏ việc và dành toàn bộ thời gian để viết cũng như hoàn tất học vị tiến sĩ. Đây là một trong những bước biến chuyển vô cùng mạo hiểm vì bà đã không bán được cuốn sách đầu tiên của mình mãi cho đến tháng Tám năm 1992.  Mặc dầu NXB Silhouette đã từ chối cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Crusie, NXB Harlequin đã chấp nhận nó và xuất bản vào năm 1993 với tên gọi Săn chồng thuộc dòng sách Quyến rũ của họ. Thêm năm cuốn nữa của bà được Harlequins xuất bản, gồm Getting Rid of Bradley - đã giành được giải RWA dành cho Tiểu thuyết ngắn hiện đại hay nhất, Strange Bedpersons, What the Lady Wants, Charlie All Night, and Anyone But You.  Các tác phẩm tiểu thuyết của bà tiếp tục khám phá các cuộc hành trình của những người phụ nữ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, tình bạn, cộng đồng, và sự sáng tạo. Bà là một phụ nữ may mắn, và bà biết điều đó. *** Ngày xửa ngày xưa, Minerva Dobbs nghĩ thầm khi đứng giữa một quầy bar ồn ĩ dành cho thanh niên thành thị, thế giới đầy rẫy những người đàn ông tốt. Cô nhìn khuôn mặt đẹp trai của người đàn ông mà cô định đưa tới dự đám cưới của gái mình và nghĩ, Những ngày đó đã qua rồi. “Đối với anh thì mối quan hệ này chẳng ra gì hết,” David nói. Mình có thể chọc cái que khuấy rượu này xuyên qua tim anh ta, Min nghĩ. Cô sẽ không làm thế, tất nhiên rồi. Cái que chỉ làm bằng nhựa và còn lâu mới đủ nhọn. Bên cạnh đó, người ta không làm những việc như vậy tại Bắc Ohio. Một khẩu súng cưa nòng, thế mới đúng điệu. “Và cả hai ta đều biết tại sao,” David tiếp tục. Chắc anh ta còn không biết là mình đang cáu kỉnh; anh ta hẳn luôn nghĩ mình thật bình tĩnh và đúng mực. Ít nhất thì mình cũng biết là mình đang giận dữ, Min nghĩ. Cô để cơn giận dữ bao quanh mình, và nó khiến cả người cô nóng lên, nhiều hơn tất cả những gì David từng làm được. Ở bên kia phòng, một ai đó ở quầy bar hình bánh xe roulette rung chuông. Một điểm nữa chống lại David: Anh ta đang đá cô tại một quán rượu theo chủ đề. The Long Shot(1) . Chỉ nội cái tên thôi hẳn đã phải cảnh báo cô trước. “Anh rất tiếc, Min,” David nói, rõ ràng là không có vẻ như thế. Min khoanh tay lại trên chiếc áo vest kẻ ca-rô xám để cô không thể đánh anh ta. “Có phải vì em không về nhà với anh tối nay không? Hôm nay là thứ Tư. Ngày mai em phải làm việc. Ngày mai anh phải làm việc. Em đã trả tiền đồ uống của em rồi.” “Không phải vậy.” David tỏ ra vẻ thật cao ngạo và bị tổn thương theo kiểu mà duy nhất chỉ có những kẻ cao lớn, ngu muội và tự cao tự đại mới bày ra được. “Em không có bất kỳ cố gắng nào để khiến cho mối quan hệ của chúng ta tốt đẹp thêm, tức là…” Tức là chúng ta đã hẹn hò được hai tháng và tôi vẫn chưa ngủ với anh. Min không nghe anh ta nói nữa, và nhìn quanh đám đông đang nói lao xao. Nếu mình có một loại thuốc độc không thể bị phát giác thì bây giờ mình có thể bỏ vào đồ uống của anh ta và những người mặc vest kia sẽ không một ai chú ý hết. “… và anh cũng nghĩ rằng, nếu chúng ta có bất kỳ một tương lai nào, thì em cũng nên góp sức,” David nói. Ồ, Tôi đã không đấy, Min nghĩ, cũng có nghĩa là David đã đúng một điểm. Tuy vậy, thiếu tình dục không thể là lời bào chữa cho việc đá cô ba tuần trước khi cô phải mặc một chiếc áo phù dâu khiến cô trông giống như một nàng chăn cừu béo ị, điên rồ. “Tất nhiên chúng ta có tương lai, David,” cô cố gắng dằn cơn giận lại. “Chúng ta có nhiều kế hoạch. Ba tuần nữa Diana sẽ cưới. Anh được mời tới dự đám cưới. Tới bữa tối tổng duyệt. Tới bữa tiệc độc thân. Anh sắp sửa bỏ lỡ những vũ công thoát y đấy, David.” “Đó là tất cả những gì em nghĩ về anh sao?” Giọng của David cao vút lên. “Anh chỉ là một bạn hẹn tới đám cưới của em gái em à?” “Tất nhiên là không,” Min nói, “Cũng như em chắc chắn rằng đối với anh, em có ý nghĩa nhiều hơn là một người để ngủ cùng.” David há miệng ra và rồi lại khép vào. “Ừm, tất nhiên. Anh không muốn em nghĩ rằng chuyện này phản ánh con người em. Em thông minh, em thành công, em chín chắn…” Min lắng nghe, biết rằng Em xinh đẹp, em mảnh mai sẽ không đến. Giá mà anh ta bị đau tim nhỉ. Chỉ bốn phần trăm những cơn đau tim ở đàn ông xảy ra trước tuổi bốn mươi, nhưng nó có thể xảy ra. Và nếu anh ta chết, kể cả mẹ cô cũng không thể trông đợi cô đưa anh ta đến đám cưới được. “… và em sẽ là một người mẹ tuyệt vời,” David kết thúc. “Cảm ơn,” Min nói, “Thật vô cùng không lãng mạn.” “Anh đã nghĩ chúng ta sẽ đi đến một kết cục tốt đẹp, Min à,” David nói. “Phải rồi,” Min nhìn quanh quầy bar lòe loẹt. “Đến những nơi như thế này đây.” David thở dài và nắm tay cô. “Anh chúc em những điều tốt lành nhất, Min. Giữ liên lạc nhé.” Min rụt tay lại, “Anh không cảm thấy tay trái đau(2) tí nào à?” “Không,” David cau mày với cô. “Đáng tiếc,” Min nói, và đi về chỗ các bạn của cô, đang theo dõi họ từ đầu phòng bên kia. “Hắn ta nhìn còn tức tối hơn bình thường,” Liza nói, trông cô thậm chí còn cao và hấp dẫn hơn thường ngày khi cô đứng dựa vào chiếc máy hát tự động, mái tóc rực lửa dưới ánh đèn. David hẳn sẽ không đối xử với Liza nhẫn tâm như thế. Anh ta chắc hẳn sẽ sợ hãi, cô ấy có thể sẽ chặt tay chặt chân anh ta ra. Phải giống Liza hơn, Min nghĩ và bắt đầu gạt các thẻ bài hát trong hộp. “Cậu có buồn vì hắn không?” Bonnie nói từ phía bên kia của Min, mái đầu vàng của cô ngẩng lên trong lo lắng. David hẳn cũng sẽ không bỏ rơi Bonnie. Không ai có thể xấu tính với Bonnie bé nhỏ, ngọt ngào. ... Mời các bạn đón đọc Cá Cược Với Tình Yêu của tác giả Jennifer Crusie.
Baby Thượng Hải - Vệ Tuệ
Vệ Tuệ đã dùng một trích dẫn như thế để nói về Coco, nhân vật chính của Baby Thượng Hải. Bởi với người phụ nữ này, tuổi trẻ là phải cuồng loạn, phải lăn xả hết mức, không màng mọi chuẩn mực đạo đức. Được viết theo kiểu bán tự truyện, dễ dàng thấy được chân dung của tác giả qua hình ảnh nhân vật chính, nhưng sâu hơn đó chính là chân dung của giới trẻ thành phố ở thời buổi giao thoa văn hóa. Thượng Hải trong tác phẩm đã chứa đựng tất cả những xa hoa và rực rỡ nhất của nó. Những ánh đèn rực rỡ, những tòa nhà cao chót vót, bầu trời cao xanh không khí âm ẩm, đại lộ về đêm lung linh thẳng tấp. Con người trong thế giới đó năng động và hiện đại, nung nấu khát khao giàu sang và muốn nếm trải hết mọi mùi vị của đời. Thượng Hải xa xỉ và cô đơn. Những người trẻ rơi vào hoan lạc cám dỗ, cháy sáng rồi lụi tàn. Họ luôn luôn cảm thấy trống trải và dường như không bao giờ thấy thỏa mãn. Vệ Tuệ viết về tình dục như một bản năng và như một khát khao thuần khiết chi phối cuộc sống của giới trẻ thành thị. Tiếp cận với văn hóa phương Tây, rượu và thuốc phiện, họ cần những xúc tác mạnh để đốt cháy năng lượng của tuổi thanh xuân, để những cuộc vui hoan lạc luôn thấm mùi tình ái. Đặc biệt, Vệ Tuệ cho rằng yếu tố sex là một gia vị thiết yếu của tình yêu nam nữ, vì chỉ yêu bằng lời nói và tâm hồn không bao giờ thỏa mãn trọn vẹn. Phải yêu bằng thân thể, bằng xác thịt, hòa quyện tất cả vào đối phương mới đạt đến cảnh giới cao nhất. Không bóng bẩy, không nói giảm nói tránh, Vệ Tuệ dùng những lời lẽ đơn giản, mộc mạc mà xoáy thẳng vào sự thật trần trụi, về cuộc sống mà hào nhoáng và cô đơn luôn song hành, tình dục và tình yêu là những khái niệm rối rắm và phức tạp. Với Baby Thượng Hải, chúng ta có thể thấy được một Thượng Hải với tất cả dữ dội ngấm ngầm đang tuôn chảy bên trong, cả mặt tối và mặt sáng của giới trẻ dám nghĩ dám làm. Đó là một giấc mơ thanh xuân của tuổi trẻ, tươi đẹp nhưng lại tàn khốc. *** Gặp được tình yêu của tôi Doora nói: “Sinh lấy vài nhóc” Mẹ và Baci nói: “Hãy tìm cho mình một hội từ thiện, giúp đỡ người nghèo và người tàn tật, hoặc bỏ thời gian để hoàn thiện môi trường sinh thái” Đúng vậy, có cả một thế giới mênh mông sự nghiệp cao quý Có cảnh đẹp đang đợi bạn tới khám phá Nhưng giờ đây, ta chỉ thực sự muốn Tìm một người yêu thuộc về ta. Jonny Mitchell “Bài ca tặng Shalon” Tên tôi là Nghê Khả, nhưng bạn bè đều gọi là Coco (y hệt thần tượng thứ hai của tôi là Coco.Chanel - một phụ nữ Pháp nổi tiếng sống thọ tới chín mươi tuổi. Thần tượng thứ nhất tất nhiên vẫn là Henry Miller). Mỗi sáng vừa thức dậy, tôi đã tự hỏi phải làm chuyện gì thật ghê gớm khiến mọi người phải chú ý, rồi tưởng tượng sẽ có một ngày tôi được bắn vụt lên bầu trời thành phố như những chùm pháo hoa rực rỡ. Chúng hầu như đã trở thành một lý tưởng sống của tôi, một lý do đáng để tiếp tục tồn tại. Điều này có quan hệ tới Thượng Hải nơi tôi ở. Thượng Hải luôn phiêu lãng trong lớp sương mù xam xám và vô số lời đàm tiếu trĩu nặng, còn có cả cảm giác ưu việt được kế thừa từ thời kì thực dân. Cái cảm giác ưu việt đó luôn kích thích đứa con gái nhạy cảm và kiêu ngạo như tôi. Tôi vừa yêu vừa hận nó. Nhưng dù sao chăng nữa, tôi mới chỉ hai mươi lăm tuổi. Một năm trước, tôi vừa xuất bản một tuyển tập truyện ngắn tuy không kiếm mấy tiền, song mang lại danh tiếng (có cả độc giả nam giới gửi thư kèm theo những tấm hình gợi tình cho tôi). Ba tháng trước, tôi bỏ nghề phóng viên ở một tờ tạp chí. Và giờ đây, tôi mặc mini zuýp làm hầu bàn trong một tiệm cà phê có tên Lục Đế. Một chàng trai tuấn tú, dong dỏng luôn ghé qua tiệm. Mỗi lần anh ngồi nhâm nhi cà phê, đọc sách cũng mất tới nửa ngày. Tôi rất thích quan sát những nét biểu cảm nho nhỏ và từng hành động của anh. Dường như anh cũng biết tôi đang quan sát, nhưng không bao giờ hé răng. Mãi tới một hôm, anh chuyển tới một mảnh giấy, bên trên có dòng chữ “Anh yêu em”, kèm theo tên và địa chỉ. Tôi đã bị hớp hồn bởi vẻ đẹp mông lung khó nắm bắt của chàng trai tuổi Mão hơn tôi có một tuổi này. Cái đẹp đó bắt nguồn từ vẻ kiệt sức và nỗi khát khao được yêu của anh. Tuy xem ra hai chúng tôi thuộc hai típ người khác hẳn nhau, tim tôi vẫn đập rộn, người bừng bừng. Cả thế giới trong mắt tôi như một trái cây mọng nước, đang chờ đợi bị cắn ngập một miếng. Còn anh vẫn im lặng u sầu. Đối với anh, cuộc sống như thể miếng bánh kem tẩm độc, càng ăn càng trúng độc nặng thêm. Song sự khác biệt đó chỉ khiến cả hai càng hút vào nhau, y hệt cực Bắc và cực Nam của trái đất không thể chia lìa. Chúng tôi nhanh chóng rơi vào lưới tình. Quen nhau không lâu, anh kể cho tôi một bí mật thuộc nội bộ gia đình. Mẹ anh hiện sống cùng một người đàn ông bản xứ, mở một tiệm ăn Trung Hoa ở thị trấn nhỏ Catex, Tây Ban Nha. Nghe nói bán tôm cua và vằn thắn Trung Quốc ở đó kiếm được bộn tiền. Nhưng bố anh qua đời rất sớm, lại chết bất đắc kỳ tử trong chuyến sang thăm vợ chưa đầy một tháng. Trong giấy khám nghiệm tử thi ghi rõ “nhồi máu cơ tim”. Tro người chết được mang về nước bằng máy bay McDonnell Douglas. Anh còn nhớ hôm đó nắng vàng rực rỡ, bà nội thấp bé khóc lóc như mưa ở phi trường. “Bà nội luôn khẳng định đó là một vụ mưu sát. Bố anh chưa bao giờ mắc bệnh tim. Đó là do mẹ anh hại chết bố anh. Bà nội nói mẹ anh ở đó đã có người đàn ông khác và cùng hắn đồng mưu giết chồng”. Anh có tên Thiên Thiên, nhìn chằm chằm vào tôi bằng ánh mắt quái dị. “Em có tin không? Tới giờ, anh vẫn chưa làm rõ rút cục mọi chuyện ra sao. Có thể đó cũng là sự thật. Nhưng mỗi năm mẹ gửi cho anh rất nhiều tiền. Anh luôn phải dựa vào chúng để sống”. Anh lặng lẽ nhìn tôi. Câu chuyện li kì đó thoắt một cái úp chụp lên tôi. Tôi vốn là một đứa con gái luôn dễ bị xúc động bởi bi kịch và âm mưu. Hồi còn theo học tại khoa Văn trường Đại học Phúc Đán, tôi đã có quyết tâm trở thành một nhà văn chuyên viết tiểu thuyết khiến độc giả phải rung động. Trong đầu tôi luôn nhảy nhót các từ ngữ như âm mưu, tình dục, độc dược, điên rồ, ánh trăng... Tôi dịu dàng ngắm nghía khuôn mặt đẹp đẽ nhưng yếu ớt của anh, hiểu ra nỗi muộn phiền hiếm có trên người anh từ đâu tới. “Theo thời gian, cái bóng của chết chóc chỉ càng dày thêm. Cuộc sống hiện nay của anh và chuyện cũ vỡ nát kia vĩnh viễn chỉ cách nhau một lớp kính mỏng trong suốt”. Tôi nói ý đó với anh. Mắt anh chợt ướt đẫm, một tay nắm chặt tay kia. “Nhưng giờ đây anh đã tìm được em. Anh quyết định tin em, sống cùng em”, anh nói, “Đừng tò mò về anh, cũng đừng bao giờ lập tức rời bỏ anh”. Tôi dọn tới sống cùng Thiên Thiên ở trong một chung cư lớn ba phòng ngủ tại khu ngoại ô phía Tây thành phố. Anh sắp xếp đồ đạc rất đơn giản, dễ chịu, một cái ghế salông đặt sát tường mua từ Ikea về, lại có cả một cây đàn piano hiệu Straus. Phía trên cây đàn treo một tấm tranh tự họa, đầu anh trông như nhô từ dưới nước lên. Nói thật, tôi không thích khu dân xung quanh chung cư. Hầu như con đường nào cũng bẩn thỉu. Hai bên đường chen chúc những mái nhà thấp tì, xấu xí, biển quảng cáo hoen gỉ, đống rác bốc mùi hôi thối, và cái cột điện thoại công cộng mỗi lần mưa lại dột lênh láng như trong phim “Titanic”. Từ cửa sổ nhìn ra, tôi không tài nào bắt gặp nổi một cái cây xanh tươi, một bóng dáng đàn ông đẹp trai hoặc đàn bà tươi trẻ. Bầu trời sạch tinh, như thể không nhìn thấy tương lai. ... Mời các bạn đón đọc Baby Thượng Hải của tác giả Vệ Tuệ.