Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mười Lẻ Một Đêm

"Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - Họa sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò đời: Họa sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái. *** Chất hài hước, nghịch dị trong 'Mười lẻ một đêm' Bằng tiếng cười, tác giả của “Mười lẻ một đêm” đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống. Mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 1. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm 1 của nhà văn Hồ Anh Thái có thể khiến người ta phải bật cười, bởi tính chất hài hước của nó. (Tôi không nói đây là cuốn tiểu thuyết hài, vì như thế sẽ sa vào một sự phân loại cực kỳ phức tạp). Cái đó có thể có gì đặc biệt hay không? Tôi cho rằng có. Nếu tôi không nhầm thì kể từ khi Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng ra đời đến nay, văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã đánh mất (một cách rất đáng tiếc) tiếng cười hài hước. Suốt một thời gian dài các nhà văn Việt Nam ít cười và cũng ít muốn khiến cho độc giả phải bật cười thông qua tác phẩm của mình. Chúng ta quá trang nghiêm, trang nghiêm đến mức coi sự cười cợt thoải mái là một trò lố, một sự vô bổ và thậm chí là có hại. Khi bắt tay vào việc viết một cuốn tiểu thuyết, nếu tôi không võ đoán, hẳn là các nhà văn của chúng ta đều "hằm hằm" nghĩ đến chuyện tác phẩm của mình sẽ phản ánh cái gì và phản ánh đến đâu, nó có vươn tới phục vụ những nhiệm vụ chính trị xã hội hay không và phục vụ đến đâu, nó có nêu một tấm gương đạo đức hay không và nêu đến đâu, nó có đưa ra một sự cảnh báo hay không và cảnh báo đến đâu... Nói chung, việc sáng tác tiểu thuyết bị đè xuống bởi một cứu cánh quá ư đạo mạo, nghiêm túc; và trong tình thế ấy thì không (hoặc khó) có thể bật ra tiếng cười giòn giã, vang rền, "xả láng". Nếu có chăng, nó chỉ là cái cười gằn, cười mỉa, hoặc cười mà ầng ậc nước mắt mà thôi! 2 2. Trở lại với tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái. Ta hãy đọc đoạn mở đầu tác phẩm: "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm và mười lẻ một ngày. Chính xác thì không đúng mười lẻ một đêm ngày, nhưng thực sự là bao nhiêu thì độc giả phải theo dõi hết cả cuốn sách mới biết được. Chẳng phải tác giả giữ mánh hay giấu bí quyết gia truyền, mà cái gì cũng phải tuần tự. Đôi khi đọc sách cũng là dịp thử thách lòng kiên nhẫn. Sách dở thì thử thách lòng khoan dung". Có thể thấy, giọng văn ở đây là kiểu giọng phát ngôn tưng tửng, nó được xuyên thấm bởi tính bỡn cợt, giễu nhại. Dường như có một khế ước mà tác giả đã thảo ra trước bạn đọc: "Các anh nên đọc hết cuốn sách này. Đọc xong các anh có thể tin hoặc không, vì những chuyện tôi kể có thể rất nghiêm túc hoặc có thể hết sức tầm phào”. Không đặt mục tiêu thuyết phục độc giả, nhà văn bày ra một cuộc chơi, bước vào cuộc chơi ấy, độc giả có thể vừa thưởng thức, vừa chứng nghiệm, vậy thôi! Và, cuộc chơi này được bắt đầu từ tình huống như vừa kể trên, "Một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm. Và mười lẻ một ngày". Còn số mười lẻ một đêm buộc người ta phải nghĩ đến truyện Nghìn lẻ một đêm lừng danh mà người Ba Tư đã cống hiến cho nhân loại, nghĩ đến những chuyện kể được tạo nên bằng sự tưởng tượng cực kỳ phóng túng, bất chấp logic đời sống thực tế. Chất phóng túng ấy có ở Mười lẻ một đêm. Trước hết, nó được thể hiện qua các nhân vật đậm tính nghịch dị (grotesque, mà hầu như tất cả các nhân vật của cuốn sách đều là nhân vật nghịch dị). Họa sĩ Chuối Hột chẳng hạn: "Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở. Thời trang yêu thích nhất là bộ cánh lúc lọt lòng mẹ". Sở thích - nếu có thể gọi đó là sở thích - khoả thân của Họa sĩ Chuối Hột được tác giả phóng đến cực đại. Ấn tượng nhất có lẽ là hình ảnh này: "Trong một góc nhà gã chống đầu xuống đất hai chân dốc thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy, trắng lôm lốp như thân chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ hoa ở quãng lưng chừng trời". Đó là cảnh hoạ sĩ Chuối Hột khoả thân tập yoga khi cửa nhà mở ra thông thống! Cảnh này, không hiểu sao cứ khiến tôi phải liên tưởng tới chàng hiệp sĩ xứ Mantra của Cervantes - nhân vật nghịch dị vĩ đại trong văn học thế giới: khi điên cuồng nhớ tới nàng Dulcinea, Don Quijote đã trồng cây chuối, áo sơ mi dốc xuống trùm mặt và chàng ta không hề mặc quần! Nhân vật Bà mẹ cũng đậm chất nghịch dị. Cái dâm của người đàn bà này được mở rộng tới mức quá khổ trên văn bản. Qua năm lần đò và vô vàn những cuộc phiêu lưu tình ái - tất cả đều diễn ra trước cặp mắt của đứa con gái, "con bé phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ" - Bà mẹ quả là mẫu người ham hố nhục dục đến mức vô độ và vô sỉ. "Về làm gì, ở lại đây ngủ cho vui" - đó là câu nói được bà mẹ lặp đi lặp lại với từng đối tác mới trong thú vui xác thịt triền miên vô tận. Cũng có thể coi đó như một dấu hiệu cá biệt hoá nhân vật, giống câu "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi" của cụ Cố Hồng trong văn Vũ Trọng Phụng. Nhẹ dạ, nông nổi, nhiều lầm lạc, con thiêu thân trong lò lửa đam mê - không ít lần tác giả làm người đọc ngỡ tưởng như vậy về nhân vật Bà mẹ - nhưng tất cả ấn tượng ấy phải được xét lại trước một thực tế thế này: "Năm lần lấy chồng, năm lần li dị, mỗi lần li dị được một cái nhà. Chồng đầu tiên được một cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia đôi căn phòng 26m2. Chồng thứ ba căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được 9m2 phố cổ. Chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất lượng cao". Việc nâng dần cấp độ đền bù sau mỗi lần li hôn như vậy là một cách phóng đại cho cái tham của Bà mẹ. Để rồi, người đọc không khỏi bật cười trước sự tổng kết của cô con gái: "Mẹ ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được"! Có một cặp nhân vật nghịch dị không thể không nói đến trong Mười lẻ một đêm, đó là giáo sư Một tên Xí, giáo sư Hai tên Khoả. Ông Khoả vốn là chồng thứ năm của nhân vật Bà mẹ. Ông khác đời ở cái bệnh cười vô tiền khoáng hậu: "Chỉ định bật lên một tiếng cười thôi thì cứ thế mà cười mãi. Không sao hãm lại được. Hơ hơ hơ hơ. Mãi. Chập dây thần kinh cười". Không có thuốc chữa tận gốc căn bệnh ấy, chỉ có một giải pháp tình thế: "Hễ bật lên tràng cười không tắt được thì chỉ việc tát cho chàng một cái. Đứt luôn". Từ cái bệnh cười ấy của ông mà tác giả cho chúng ta một "xen" hài kịch đáng xem: ông Khoả hướng dẫn luận văn cho nữ sinh viên, đến lúc ra về, sinh viên khẩn khoản xin lại thầy cái chân. "Thầy bật cười khan. Cười khan tức là chỉ cười một tiếng. Chết dở, nãy giờ thầy cho em về mà thầy vẫn giữ đùi em. Thầy cười khan, nhưng bệnh cười vượt quá quy định, bắt đầu nhân ra thành chuỗi cười bất tận. Cô sinh viên hoảng quá. Chẳng biết ứng phó thế nào. Cũng không dám rút chân ra khỏi tay thầy. Đúng lúc nàng (tức Bà mẹ) về. Nàng chồm lên tát vào mặt chồng một cái. Tịt. Nàng hất chân con kia ra khỏi tay chồng. Dứt". Hoạt cảnh này bóc lộ cái dâm, sự bất lực và cả cái quái đản của nhân vật, chính vì thế mà người ta phải bật cười. Từ hình ảnh một ông giáo sư già, tay nắm chân một người con gái trẻ, miệng cười không dứt, người đọc có quyền liên tưởng tới hình ảnh một con đười ươi tay giữ ống tre, nhìn về phía mặt trời cười sằng sặc, như dân gian thường kể, không nhỉ? Đó là ông giáo sư Hai, còn người tạo nên với ông hình ảnh cặp bài trùng, ông giáo sư Một, thì sao? Ngay từ đầu tác giả đã giới thiệu với chúng ta rằng ông là một nhà văn hoá lớn, là người duy nhất trong đám giáo sư tiến sĩ có thể sử dụng tiếng Anh để giảng dạy. Nhưng ngay sau đó, ông đã bị "lật tẩy" bằng chính những hành vi cực kỳ đối nghịch với các chuẩn mực văn hoá hiện hành. Dù không phải là đại biểu được mời tham luận trong một hội nghị quốc tế, ông vẫn "vô tư" phát biểu quá thời lượng cho phép, khiến cho cả chủ và khách đều lâm vào tình thế khó xử, mọi thứ rối tung như canh hẹ. Ông ăn uống trong bữa tiệc chiêu đãi sau hội thảo như trong chốn không người, đúng hơn, như một anh mõ trong xó bếp bần hàn của mình. Và đặc biệt là việc ông "tè bậy" vào chân nhóm tượng đài công nông binh - một công trình văn hoá - đều đều ngày hai lần, và bao giờ cũng khoan khoái, thoả mãn! Nhà văn hoá tiểu tiện vào công trình văn hoá, sự tương phản giữa cái "nó phải là" và cái "nó thực sự là" chính là một tình huống kiểu mẫu để bộc lộ cái hài. Chỉ có điều, cái "nó thực sự là" ở ông giáo sư Một, nhà văn hoá lớn, đã vượt ngưỡng phản văn hoá. Khai thác triệt để sự vượt ngưỡng này qua các hành vi ăn uống, tiêu hoá - vốn liên quan đến phần dưới cơ thể, phần được coi là thô, nặng, đục, uế tạp - của nhân vật, tác giả đã cho ta một hình ảnh đầy chất nghịch dị! (Hãy nhớ lại những nhân vật tương tự trong Gargantua và Pantagruel của Rabelais). 3. Còn có thể nói về chất nghịch dị - và từ đó gây cười - ở một số nhân vật khác trong Mười lẻ một đêm. Tựu trung, nó được hình thành từ việc tác giả chú ý nhặt ra một (hoặc một vài) thói tật và sự lập dị, bơm phồng lên, tô đậm vào, biến nó thành một tồn tại bất bình thường trong đời sống bình thường, một sự lộ liễu quá mức hình dung sẵn có về đối tượng. Và chính từ những nhân vật nghịch dị này mà tác giả đưa chúng ta vào những phạm vi hoạt động xã hội cũng đầy tính nghịch dị. Với họa sĩ Chuối Hột, chúng ta đặt chân tới hội họa đương đại, nơi mà nghệ thuật sắp đặt (installation) và nghệ thuật trình diễn (performance) đang rùm beng khua chiêng gõ mõ. Nó là cái gì thế? Xem nhé: "Bày mấy cái chậu nhựa trên vỉa hè. Treo lủng lẳng trên mỗi chậu một cái nón. Rồi cầm vòi nước tưới lên nón cho mưa rơi xuống chậu. Thế là hoàn chỉnh một tác phẩm. Ngũ Hổ cởi hết mở hết, đóng độc cái khối ngồi thế kiết già trong công viên. Bảo một thằng Tây đối tác đi qua từng vị cởi mở, lấy gậy gõ lên từng cái đầu trọc. Gõ một cái thì cái đầu trọc lại kêu cốc một cái kêu boong một cái. Thế là được một sô". Khoan hẵng bàn về chuyện đó là nghệ thuật hay không nghệ thuật. Điều chắc chắn là những hoạt động này không trở thành mục đích của chính nó. Như Họa sĩ Chuối Hột giảng giải, thì: "Sắp đặt và diễn là để thu hút. Người ta thấy là lạ ngô ngố ghê ghê kinh kinh, người ta xúm lại xem. Cái ú ớ khờ khạo vớ vẩn lại làm cho người ta thinh thích nhơ nhớ. Tên tuổi ta được lưu vào bộ nhớ của công chúng. Từ đó công chúng đếu đâu cũng để ý tìm tên tuổi ta. Từ đó công chúng mới xem tranh ta mua tranh ta. Đến đó mới là mục đích". Với nhân vật người đàn ông và chuyến đi dọc theo đất nước của anh, chúng ta tham dự hội Lim, nơi có "anh hai đi giày tây, chị hai đi giày khủng bố"; chúng ta lên vùng cao vào chợ văn hoá Bắc Hà, nơi mà những sơn nữ người Mông, người Dao đã biết sỗ sàng đòi tiền khách du lịch mỗi khi khách định chụp ảnh; chúng ta tới Đà Lạt, thành phố ngàn hoa với thác Cam Ly ngày một ít nước, còn rác rưởi thì vứt như thể đó là bãi tập trung rác cho cả khu vực! Theo chân Người đàn ông đưa con sang nước ngoài du học, chúng ta biết đến cảnh những du học sinh con các ông to bà lớn tụ bạ với nhau để chơi đêm, tán chuyện, đánh bài đánh bạc, hút hít chích choác, và "thực hành tiếng Việt đến mức điêu luyện" trên xứ sở của Anh ngữ! Với hai ông giáo sư khả kính Khoả và Xí, tác giả đưa chúng ta vào lãnh địa của khoa học xã hội nhân văn đương đại, nơi mà khá nhiều giáo sư đầu ngành "mãi mãi dừng lại ở trình độ cử nhân bổ túc công nông. Có thêm cái lanh cái ma cái xảo của cá tính. Có thêm kiến thức tham khảo khoa học xã hội Đông Âu đến những năm 1980". Tóm lại, đó là những ngụy khoa học gia với đầy những cố tật: uyên bác rởm, tham quyền cố vị, lừa bịp người đời và cũng tự huyễn hoặc chính mình (nhưng điều nguy hiểm là họ lại được một bộ phận đông đảo trong xã hội coi như là những giá trị!). Theo con đường "một bước lên bà" của nhân vật Người đàn bà, người đọc được khám phá một phần những "bí sử" cười ra nước mắt ở chốn quan trường. Nhiều, và nhiều những kẻ giống như nhân vật ông Víp (chồng của người đàn bà), loại chính khách xuất thân từ những phong trào "cờ đèn kèn trống" cơ sở, năng lực yếu, chuyên môn kém, nhưng lại được đặt vào những vị trí công tác trọng yếu, và bản thân họ cũng rất biết kiếm lợi từ đó. Quan ông thì thế, quan bà cũng không kém. Hội các phu nhân vụ trưởng, phu nhân thứ trưởng, phu nhân bộ trưởng được nói đến trong Mười lẻ một đêm quả đúng là một êkíp mua quan bán tước, mua đất kiếm lời đại tài và đầy gian ngoan. Tuy vậy, cái nét thô lậu "nhà quê" trong căn tính các mệnh phụ thì vẫn không sao gột rửa được. Chi tiết bà vợ một ông to "tắt mắt" lấy trộm cái đĩa sứ trong bữa tiệc do sứ quán nước ngoài chiêu đãi đã cho thấy điều này. Đó là một tiếng cười, tiếng cười lột tả đến đáy của sự thực: con vịt xấu xí không bao giờ có thể trở thành con thiên nga xinh đẹp! Đến đây thì đã có thể nhận xét đôi điều về những tình huống nghịch dị trong Mười lẻ một đêm. Được tạo ra bởi những nhân vật nghịch dị - tôi muốn nói là những nhân vật mang trong mình một vài nét tính cách lập dị, thậm chí là quái đản, nó phô lộ ra giữa chợ đời một cách hồn nhiên và hoàn toàn không nghĩ rằng mình lập dị, quái đản - những tình huống nghịch dị này tạo ra ấn tượng mạnh về một đời sống mất chuẩn: những chân giá trị và ngụy giá trị xâm thực, chồng chéo, che phủ lẫn nhau, người ta không có cách nào phân biệt được và vì thế luôn phải mò mẫm giữa các vách tường của ảo tưởng. Bằng tiếng cười, tác giả của Mười lẻ một đêm đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 4. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái, như đã nói, bắt đầu bằng việc "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - hoạ sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò: Hoạ sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái giai đoạn gần đây 3. Tính trào lộng suồng sã hết mức ở các sự kiện, các chi tiết được kể lại trong truyện khiến cho tôi, dù không muốn, cũng buộc phải nhớ tới một luận điểm cốt tử trong lý luận về tiểu thuyết của nhà bác học Nga Mikhail Bakhtine 4 rằng tiểu thuyết tiếp xúc với thế giới ở cái ngày hôm nay không hoàn kết; và rằng chính bằng thái độ trào lộng suồng sã hết mức ấy mà người viết mới có thể xoá bỏ mọi khoảng cách, "nắn gân bắt mạch" đối tượng một cách đầy tự tin và nói về nó một cách chính xác! Dẫu sao đi chăng nữa, chỉ riêng việc khiến cho độc giả có thể cười khi đọc Mười lẻ một đêm - trong bối cảnh một tình hình văn học quá ư đạo mạo nghiêm túc - đã là một thành công của nhà văn Hồ Anh Thái. Và để kết thúc bài viết này, xin lặp lại một câu của Milan Kundera trong tập Những di chúc bị phản bội: "Tim tôi đau thắt, khi nghĩ đến ngày Panurge 5  không còn gây cười". (Nguồn: Người Đại biểu Nhân dân, số ra ngày 25/4/2006) Mời các bạn đón đọc Mười Lẻ Một Đêm của tác giả Hoàng Anh Thái.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Latte Không Ngọt
“NEWTON VÌ NHÌN THẤY MỘT QUẢ TÁO RƠI MÀ PHÁT HIỆN RA LỰC HẤP DẪN LOÀI NGƯỜI CŨNG CHÍNH VÌ ĂN PHẢI MỘT QUẢ TÁO CÓ ĐỘC MÀ RƠI VÀO LÒNG LUẨN QUẨN” Latte không ngọt – món quà dành cho thanh xuân. Có lẽ rằng ai cũng mong một lần được quay trở lại tuổi trẻ với tình yêu ngây dại và đầy ngọt ngào đó. Và thanh xuân chẳng thể không có mối tình đầu. Với bạn mối tình đầu là gì với Latte Không Ngọt mối tình đầu của ai cũng đều có chút ngây ngô nó còn pha thêm cảm giác tuyệt vọng. Có mối tình đầu thanh xuân thêm dư vị Có mối tình đầu thanh xuân của cậu ngập tràn ánh nắng ấm áp *** [REVIEW SÁCH LATTE KHÔNG NGỌT] Thanh xuân ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, ký ức thanh xuân của mỗi người lại có những dư vị khác nhau, dẫu vậy ký ức nào cũng đẹp vô cùng. Đọc cuốn sách Latte không ngọt của tác giả Evon, lại thêm một lần nữa được bước vào vùng ký ức thăm thẳm của những người trẻ tuổi, để hoài niệm thời thanh xuân, cũng là trải nghiệm thêm một vị khác của thanh xuân. Latte không ngọt xoay quanh câu chuyện của bốn bạn trẻ Vương Đinh, Phương Sâm Đề, Ngô Lặc, Thi Khả Đệ tại Đài Loan. Họ là những người trẻ tuổi hiện đại, năng động luôn sẵn sàng dấn thân vào đời sống. Mỗi người một tính cách nhưng đã gặp gỡ và trở thành những người bạn thân thiết. Vương Đinh là người kể chuyện, cũng có thể xem là người dung hòa giữa các mối quan hệ trong tiểu thuyết. Anh đóng vai người hòa giải, quan sát, lắng nghe những câu chuyện của những người bạn. Dư vị đậm đà nhất trong ký ức thanh xuân của Latte không ngọt tình yêu. Mỗi người trẻ trong cuốn sách đều yêu say đắm, si mê. Xoay quanh vòng xoáy của tình yêu khiến mạch chuyện càng về sau càng lôi cuốn mạnh mẽ. Phương Sâm Đề là người hài hước, có tính cách mạnh mẽ nhưng khi đã bước vào tình yêu lại vô cùng nhẫn nại, dịu dàng, chung tình. Đem lòng yêu Phó Lỗi Nhã, cô bạn cùng lớp cấp ba thuở nào, rồi giữ mãi mối tình ấy, âm thầm theo dõi cô ấy, cho đến tận khi cô ấy nhận được thâm tình mà cảm động. Tưởng rằng tình yêu từ ấy đã viên mãn, hai kẻ yêu nhau say đắm có thể ở bên cạnh nhau mãi về sau, nhưng hóa ra ở bên cạnh nhau lại không thể chịu đựng được nhau. Sâm Đề từng kiên nhẫn chờ đợi đến thế lại không thể chịu đựng được tính khí ghen tuông ích kỷ của người yêu. Lỗi Nhã từng cảm động bởi sự chung tình của người yêu lại không thể đem lòng tin tưởng người mình yêu. Bởi thế nên chia tay, mệt mỏi, và đau khổ. Tình yêu thanh xuân thường gắn liền với những cảm xúc ngây thơ, trong sáng, có chút nổi loạn, nhưng tình yêu trong Latte không ngọt lại là vị đắng chát chất chứa nhiều đau thương và mất mát. Như Khả Đệ đã phải day dứt suốt đời vì không ở bên cạnh người yêu trong những giờ phút cuối cùng, ngược lại còn hiểu nhầm anh, ngỡ rằng anh đã thay lòng mà dày vò anh. Trong bộ phim Tro bụi thời gian, nhân vật Âu Dương Phong có một câu thoại rất hay rằng “nếu không thể có được thứ gì đó, hãy giữ nó trong ký ức”. Ký ức cũng bởi thế luôn mênh mang và thăm thẳm.Đến khi biết tin cái chết của người yêu, mới như sét đánh ngang tai, đau đớn tột cùng, tự nhủ trong nước mắt: “Em sẽ không bao giờ để bất cứ nỗi đau nào khiến mình trở nên đáng thương nữa, có một số việc… sẽ luôn được lưu giữ. Cho đến… mãi mãi”. Cũng giống như chàng thiếu niên đã rời khỏi cuộc sống này, nhưng sẽ mãi được lưu giữ trong tim người ở lại với nỗi lưu luyến day dứt. Khả Đệ là cô gái nhỏ nhắn, nhưng lại là người con gái dữ dội, quyết liệt. Khi rơi vào tình yêu đã yêu đến cuồng dại say đắm, khi đau khổ cũng mù quáng mà làm tổn thương bản thân. Nhưng Khả Đệ lại chính là hình dung sắc nét của tuổi thanh xuân, là khi ấy chúng ta còn quá trẻ để lý trí tỉnh táo, ta chỉ biết lao vào đời sống, yêu và sống cuồng nhiệt như nhau. Mỗi người trẻ, họ sống trong đời sống đi về mỗi phía khác nhau, hạnh phúc đau khổ trải qua trên đường sống khác nhau, nhưng thanh xuân có sự hiện hữu của nhau đã trở thành dấu ấn đẹp đẽ trong cuộc đời. Thanh xuân của họ giống như ly Latte nhưng đậm vị cà phê đắng hơn vị sữa ngọt ngào, nhưng lại có sức hấp dẫn khó cưỡng. Trong Latte không ngọt, thanh xuân gắn liền với những mối tình, đồng thời cũng từ tình yêu ấy tác giả đã khéo léo tạo nên bầu không khí hiện đại, trẻ trung của đời sống đương đại Đài Loan bằng lối viết dung dị, uyển chuyển, thấm đẫm chất thơ. Ở đó những người trẻ ngày ngày vẫn làm việc, mơ ước, đau đớn, và trưởng thành. Nhân vật Vương Đinh, là người quan sát và viết lại câu chuyện thanh xuân của những người bạn, sau cùng đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình. Theo anh cũng là cách lưu giữ ký ức và tự chữa lành cho chính bản thân mình. *** Tác giả Evon tên thật là Dư Dật Phàm, là nam tác giả trẻ trong giới văn học Đài Loan, đam mê nhiều thể loại sách như tình yêu, cuộc sống, lý luận, kinh dị, viễn tưởng… nhưng thể loại yêu thích nhất là tiểu thuyết kinh dị, đã từng cho ra mắt tác phẩm Câu chuyện kinh dị của Evon, là một tuyển tập các câu chuyện kinh dị ngắn - ở dạng sách điện tử. Tiểu thuyết tình cảm Latte không ngọt là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh được xuất bản dưới dạng sách giấy truyền thống. Cuốn sách đã được đông đảo độc giả trẻ Đài Loan yêu mến. *** GIỚI THIỆU NHÂN VẬT Vương Đinh: nam chính (người duy nhất kể chuyện theo vai “tôi”), nam cung Xử Nữ, hai mươi tuổi. Chiều cao trung bình, hơi gầy, tóc đen cột thành một chỏm đuôi ngựa ngắn, là mẫu người lịch thiệp, nước da trắng, thị lực khá tốt. Tính cách hướng nội, tinh tế, nhanh nhạy. Gặp phải chuyện gì đều phải trăn trở suy xét nhiêu lần, vì vậy mà thường khiến bản thân cảm thấy phiền muộn vô cớ, tự làm khổ mình. Tiểu thuyết “Latte không ngọt” là câu chuyện do chính anh viết về những trải nghiệm của bản thân cùng ba người bạn thanh mai trúc mã, được đăng tải trên mạng để mọi người cùng đọc. Hiện đang nuôi một chú chó Shiba Inu đặt tên là Tiểu Nặc. Là một người đặc biệt thích uống Latte đá. Phương Sâm Đề: nhân vật chính, nam cung Sư Tử, hai mươi tuổi, ngoại hình bình thường, hơi cao, dáng người tiểu chuẩn, tóc đen cắt ngắn, cách nói chuyện hài hước, thường hay tấu hài, từ nhỏ đã có năng khiếu lãnh đạo, rất giỏi trong việc giao tiếp với người khác, tính cách mạnh mẽ luôn tự tin vào chính mình. Thuộc phái hành động, một khi nghĩ ra cách giải quyết thích hợp cho chuyện gì sẽ hạ quyết tâm ngay lập tức, không bao giờ do dự. Mong muốn trở thành một giáo viên. Ngô Lặc: nhân vật chính, nam cung Thiên Yết, hai mươi tuổi, dáng người cao gầy, tóc đen, luôn để ngắn, lúc nào cũng đeo một cặp kính dày cộm, khi nói chuyện hay có thói quen đưa tay đẩy gọng kính để điều chỉnh lại vị trí. Gia đình giàu có, vô cùng thông minh, thành tích học tập và thể thao đều tốt, thuộc loại văn võ song toàn, miệng rất “độc”*, luôn một lời nói thẳng vào trọng tâm. Trong mắt người khác là một người rất lạnh lùng, nhưng khi đã quen biết sẽ nhận ra cậu ta rất quan tâm đến bạn bè. Quyết tâm trở thành một cảnh sát. Thi Khả Đệ: nhân vật chính (nhân vật nữ chính duy nhất), nữ cung Cự Giải, hai mươi tuổi. Dáng người nhỏ nhắn, hơi gầy, tóc đen dài mềm mượt xen lẫn vài sợi màu cà phê, gương mặt xinh đẹp, nước da trắng ngần, thân hình cân đối. Từ trung học đã sang Mỹ, tới đại học mới quay về Đài Loan, cũng chính vì thế nên có xu hướng suy nghĩ theo phong cách Mỹ. Vừa đi làm vừa học, hiện đang làm người dẫn chương trình cho một đài truyền hình địa phương. Có tính cách khá mạnh mẽ, vì quan điểm cá nhân, cách nhìn cuộc sống hoàn toàn trái ngược với Ngô Lặc nên thường hay đấu khẩu. • Nguyên văn: “Nhất châm kiến huyết”, chỉ lời nói thẳng thắn, sắc bén, nói trực tiếp vào vấn đề chính một cách tàn nhẫn. Mời các bạn đón đọc Latte Không Ngọt của tác giả Evon & Grant Zhan (dịch).
Chăn Gối
Chăn Gối - Alberto Moravia Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc dịch Trẻ xuất bản năm 1973, Sài Gòn Alberto Moravia , bút danh của Alberto Pincherle , (sinh ngày 28 tháng 11 năm 1907, Rome , Ý - mất ngày 26 tháng 9 năm 1990, tại Rome), nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn và tiểu thuyết gia người Ý nổi tiếng với những bức chân dung hư cấu về sự xa lánh xã hội và sự thất tình tình dục . Ông là một nhân vật quan trọng trong văn học Ý thế kỷ 20 . Moravia mắc bệnh lao xương (một dạng viêm tủy xương thường do Mycobacterium tuberculosis gây ra ) khi 8 tuổi, nhưng trong vài năm bị giam trên giường và hai năm trong viện điều dưỡng, anh đã học tiếng Pháp, Đức và Anh; đọc Giovanni Boccaccio , Ludovico Ariosto , William Shakespeare , và Molière; và bắt đầu viết. Moravia từng là nhà báo một thời gian ở Turin và phóng viên nước ngoài ở London. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh ấy ,Glierencei (1929; Thời gian thờ ơ ), là một nghiên cứu thực tế gay gắt về sự bănghoại đạo đức của một người mẹ trung lưu và hai đứa con của cô ấy. Nó đã trở thành một cảm giác. Một số tiểu thuyết quan trọng hơn của ông là Agostino (1944; Hai vị thành niên ); La Romana (1947; Người phụ nữ thành Rome ); La disubbidienza (1948; Bất tuân ); và Il contista (1951; The Conformist ), tất cả đều về chủ đề cô lập và xa lánh. La ciociara (1957;Two Women ) kể về một sự thích nghi với cuộc sống của người Ý sau Thế chiến thứ hai. La noia (1960;The Empty Canvas ) là câu chuyện về một họa sĩ không thể tìm thấy ý nghĩa trong tình yêu hay công việc. Nhiều cuốn sách của Moravia đã được dựng thành phim chuyển động. Những cuốn truyện ngắn của ông bao gồm Racconti romani (1954; Roman Tales ) và Nuovi racconti romani (1959; More Roman Tales ). Racconti di Alberto Moravia (1968) là một tập hợp những câu chuyện trước đó. Các tuyển tập truyện ngắn sau này bao gồm Il paradiso (1970; "Paradise") và Boh (1976; Tiếng nói của biển và những câu chuyện khác ). Hầu hết các tác phẩm của Moravia đều đề cập đến sự khô cằn trong cảm xúc, sự cô lập, và sự thất vọng hiện sinh , đồng thời thể hiện sự vô ích của sự lăng nhăng tình dục hoặc tình yêu vợ chồng như một lối thoát. Các nhà phê bình đã ca ngợi văn phong rõ ràng, không trang điểm của tác giả, khả năng thâm nhập tâm lý, kỹ năng trần thuật và khả năng tạo nhân vật chân thực và đối thoại chân thực của tác giả . Nhận quyền truy cập độc quyền vào nội dung từ Phiên bản đầu tiên năm 1768 của chúng tôi với đăng ký của bạn. Đăng ký ngay hôm nay Quan điểm của Moravia về văn học và chủ nghĩa hiện thực được thể hiện trong một cuốn sách tiểu luận đầy kích thích, L'uomo come fine (1963;Người đàn ông như một kết thúc ), và cuốn tự truyện của anh ấy , Cuộc đời của Alberto Moravia, được xuất bản vào năm 1990. Anh ấy đã kết hôn một thời gian với tiểu thuyết gia Elsa Morante . *** Lê Thanh Hoàng Dân (sinh năm 1937) là một cựu giáo sư, nhà nghiên cứu và dịch giả người Việt Nam. Giáo sư sinh tại Sài Gòn (tên cũ của Thành phố Hồ Chí Minh). Trước năm 1975 ông là giảng viên tại các trường Đại học như Võ Trường Toản (Sài Gòn, từ khi thành lập đến năm 1965), Quốc gia Sư phạm Sài Gòn, Đại học Sư phạm Sài Gòn, Đại học Sư phạm Cần Thơ, Cao Đài, Hòa Hảo. Ông viết một số sách về tâm lý, giáo dục và liên quan đến các bậc học phổ thông. Tủ Sách Văn Học Thế Giới Chăn Gối NXB Trẻ 1973 Alberto Moravia Dịch: Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc 196 Trang File PDF-SCAN *** Trước hết tôi cần phải nói ngay về vợ tôi. Yêu có nghĩa là, giữa bao nhiêu việc khác, tìm kiếm nét khả ái để nhìn ngắm và xét đoán người mình yêu. Và tìm kiếm nét khả ái không chỉ trong sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng, mà còn chiêm ngưỡng những khuyết điểm, dù ít hay nhiều. Ngay từ những ngày đầu của cuộc hôn nhân, tôi đã cảm thấy thích thú được nhìn ngắm Léda (tên nàng), được săm soi khuôn mặt và trọn cả con người nàng trong từng cử động nhỏ nhặt và từng nét mặt thoáng qua. Vợ tôi, ngày tôi cưới nàng, chỉ vừa hơn ba mươi tuổi. (Kể từ ngày đó và sau khi cho ra đời ba đứa con, một vài đường nét của nàng, tôi sẽ không nói là đã thay đổi, nhưng có biến đổi phần nào.) Tác người khá cao dù không thực sự cao lắm, trông nàng xinh đẹp, với một thân hình và một khuôn mặt khá hoàn mỹ. Khuôn mặt nàng dài và mỏng, có cái vẻ lẩn tránh, ngơ ngác, gần như khó dò được tình ý, mà một đôi khi những nữ thần cổ điển khoác lấy trong một vài bức tranh xưa cũ tầm thường, mà nét sơn phơn phớt bị sự meo mốc của thời gian khiến càng thêm phần mơ hồ. Cái vẻ độc đáo, vẻ đẹp khó nhận ra được nầy, tựa như một tia nắng phản chiếu lên một bức tường, hay một bóng mây trên mặt biển, mỗi lúc có thể mờ xóa đi, chắc hẳn là do mái tóc vàng màu kim khí, lúc nào cũng hơi rối, và những lọn tóc dài gợi lên nét vời vợi của niềm sợ hãi, sự trốn chạy, kể cả nét vời vợi của đôi mắt xanh lơ, bát ngát, hơi xếch lên, với con ngươi nở lớn và cái nhìn khép nép và phân vân, đã gợi lên, giống như mái tóc, một tâm trạng sợ sệt và bất chợt. Nàng có một sống mũi dài, thẳng và thanh tú, và một cái miệng rộng đỏ tươi, môi dưới viền rộng một cái cằm quá nhỏ, và nét môi quanh queo vô cùng gợi lên một nhục cảm đắm đuối và ám muội. Đó là một khuôn mặt không đều đặn và thế nhưng lại rất đẹp, một vẻ đẹp, như tôi đã nói, khó dò xét được tình ý, một vẻ đẹp mà trong một vài lúc nào đó và một vài trường hợp nào đó – như người ta sẽ thấy về sau – trở thành tiêu tán dần dần. Thân mình của nàng cũng giống như vậy. Nàng có một thân trên gầy ốm và thanh nhã của một cô gái, trái lại cái khối lượng, vẻ kiên cố, sự nở lớn của hông, bụng và hai chân để lộ ra một sức vạm vỡ và khêu gợi. Nhưng sự không tương xứng đó, giống như sự không tương xứng của khuôn mặt, biến mất dưới nét duyên dáng của một vẻ đẹp đã vây bọc lấy nàng từ đầu tới chân bằng một sự hoàn mỹ, giống như một điệu nhạc quen thuộc và thanh tao hay một ánh sáng đổi màu một cách huyền bí. Nói ra có vẻ lạ lùng, nhưng một đôi khi, nhìn nàng, tôi đâm ra nghĩ về nàng như nghĩ về một người với những đường nét và hình thể cổ điển, không khuyết điểm, hòa hợp nhịp nhàng, thanh tỉnh, cân đối. Tới mức cái vẻ đẹp đó, hãy gọi là vẻ đẹp tinh thần, vì không có một cách gọi nào khác, làm cho phấn khởi. Nhưng có lúc vẻ rực rỡ nầy bị rách đi và lúc đó tôi mới nhận thấy có nhiều sự thiếu đều đặn, vừa chứng kiến sự thay hình đổi dạng khổ sở của người nàng. Tôi khám phá ra được điều đó trong những ngày đầu tiên của cuộc hôn nhân và trong một giây lát tôi có cảm tưởng đã bị lừa gạt giống như một người lấy vợ vì quyền lợi nhưng hôm sau khám phá ra rằng của hồi môn của vợ quá nghèo nàn. Quả thực, một vẻ cau mày nhăn nhó và không thành lời, như để nói lên nỗi sợ hãi, niềm lo âu, sự ghê tởm và đồng thời một vẻ quyến rũ hững hờ một đôi khi làm cho khuôn mặt vợ tôi nhăn lại. Vẻ nhăn nhó đó có thể nói là nó đã làm nổi bẩn lên một cách mạnh mẽ sự không đều đặn tự nhiên giữa các đường nét, và tạo cho diện mạo của nàng cái vẻ gớm guốc của một mặt nạ quái dị trong đó những đường nét có thể bị thêm thắn tới mức trở thành một bức hoạt họa, bởi một trò khôi hài đặc biệt, khiếm nhã vừa khó chịu: nhất là cái miệng, kế tới hai lằn nhăn viền quanh nó và hai lỗ mũi và con mắt. Vợ tôi thoa rất dày trên môi một màu son đỏ chói, ngoài ra, vì nước da tái, nàng đánh phấn hai bên má. Khi vẻ mặt bình thản, những màu sắc nhân tạo đó không dễ nhận ra và chúng hòa hợp vối màu mắt, tóc và da nàng. Nhưng khi nàng nhăn nhó, chúng đột nhiên có vẻ sống sượng và lộ liễu, thế rồi trọn cả khuôn mặt, một phút trước đây rất đỗi thanh tỉnh, sáng láng và đẹp một cách cổ điển, giờ đây gợi lên những đường nét quái dị và bốc lửa của những mặt nạ vào dịp giả trang ngày lễ Carême, cộng thêm vẻ tục tĩu khó tỉa mà người ta có thể gọi, trong những lúc co giựt như vậy, đó là sự yểu điệu, mức nồng nhiệt và kích thích của xác thịt. Và thân mình của nàng, cũng giống như khuôn mặt, có riêng cho nó một cách thức khinh thường sức quyến rũ của vẻ đẹp để vặn vẹo một cách khó coi. Nàng co rúm người lại trong một cử động sợ sệt và ghê tởm, nhưng đồng thời, giống như một vài vũ công và diễn viên câm đã làm để khích động khán giả, nàng duỗi chân và tay trong một tư thế tự vệ và kháng cự, kế đó thân mình của nàng uốn thành cánh cung như để mời gọi hay khêu gợi. Lúc đó nàng có vẻ như lấy tay gạt tránh một mối hiểm nguy tưởng tượng, nhưng đồng thời sự co rúm kịch liệt của hai bên hông hình như chứng tỏ rằng mối hiểm nguy đó và sự tấn công đó không làm cho nàng khó chịu. Tư thế trông chướng mắt và, một đôi khi càng chướng thêm vì vẻ mặt nhăn nhó, khiến có lúc, người ta nghi gờ rằng nó thuộc về cùng một người mới đây rất đỗi giữ gìn, rất đỗi thanh tĩnh và đẹp khôn tả. Tôi đã nói yêu có nghĩa là âu yếm những nét xấu nơi đối tượng tình yêu của mình, nếu có cũng bằng như những vẻ đẹp. Những vẻ nhăn nhó, những sự co rúm đó, mặc dầu khá vô duyên, đối với tôi, cũng thân thiết mau chóng không kém gì nét duyên dáng, sự cân đối và vẻ thanh tĩnh của những lúc thơ mộng nhất. Nhưng yêu còn có nghĩa là không hiểu thấu, vì, nếu quả thực có một mãnh lực yêu thương bao hàm sự thông cảm thì đồng thời cũng có một mãnh lực khác, mê đắm hơn, khiến bạn trở thành mù quáng trước người mình yêu. Mù quáng thì tôi không có, nhưng tôi thiếu sự sáng suốt tinh thần của một tình yêu chịu nhiều thử thách và lâu đời. Tôi biết rằng trong một vài trường hợp vợ tôi trở thành xấu xí, điều đó đối với tôi như có vẻ quái gở nhưng lại dễ thương, giống như tất cả những gì liên hệ tới nàng, và tôi không muốn, cũng như không biết phải làm thế nào vượt quá nhận xét đó. Ngoài ra tôi còn phải nói rằng những chứng giựt gân đó xảy ra rất ít, và không bao giờ vào những lúc chúng tôi gần gũi nhau. Tôi không nhớ có một lời nào, một cử chỉ nào của tôi đã gây ra nơi nàng sự biến đổi lạ lùng đó của khuôn mặt trở thành mặt nạ và thân mình trở nên con vật múa rối. Trái lại, chính trong những lúc chăn gối nàng mới có vẻ như đạt tới cực điểm của vẻ đẹp huyền hoặc và không tả xiết của nàng. Lúc đó nơi con ngươi nở lớn của cặp mắt to lớn của nàng có một lời kêu gọi từ tốn, dịu dàng, nhu mì, nhiều ý tứ hơn mọi lời nói. Miệng nàng có vẻ như bày tỏ, qua vẻ gợi dục và nét quanh quẹo của đôi môi, một lòng nhân từ hay thay đổi và thông minh và nguyên cả khuôn mặt của nàng tiếp nhận những cái nhìn của tôi giống như một tấm kiếng huyền bí và khiến yên tâm, nơi mà những sợi tóc rối màu vàng bắt hình dùng ra một cái khung tương xứng với tấm kiểng. Thân hình tự nó như cố định trong hình dáng đẹp nhất của nàng, nằm sóng sượng một cách vô tội và uể oải, rũ rượi và trơ trơ, giống như một miền đất hứa trả rộng vài ối ra tận chân trời xa thẳm, với những cánh đồng, những dòng sông, những ngọn đồi và thung lũng dưới những cái nhìn đầu tiên. Trái lại, vẻ nhăn nhó và dám co rúm hiện ra trong những trường hợp bất ngời và vô lối nhất; tôi chỉ cần nhắc lại một vài trường hợp. Vợ tôi luôn là một độc giả say mê loại tiểu thuyết trinh thám. Nơi những đoạn mà tình tiết chắc hẳn trở nên hấp dẫn và hồi hộp hơn đoạn trước, tôi đã để ý thấy vẻ mặt của nàng dần dần trở nên khó coi dưới vẻ nhăn nhó và vẻ mặt này không biến mất trước khi chấm dứt cái đoạn đã kích thích nàng. Mặt khác, vợ tôi là một con bạc. Tôi cùng đi với nàng tới Campione, Monte-Carlo, San Remo. Không một lần nào, khi đặt tiền xong và khi bánh xe quay tròn, làm quả cầu nhỏ nhảy trên các con số, vẻ nhăn nhó làm cho xấu xí lại không biến khuôn mặt của nàng. Cuối cùng đôi khi chỉ cần nàng xỏ kim, hay trông thấy một đứa trẻ chạy dọc theo một miệng hố, có thể rớt xuống đó, hay chỉ cần nàng nhận phải một giọt nước lạnh trên ót là cử động co rúm đó vồ lấy nàng. Tuy nhiên, để xét cho tận tường sự việc, tôi muốn đề cập tới hai trường hợp mà sự biến đổi độc đáo của vợ tôi hình như, theo tôi, có những nguyên nhân phức tạp hơn. Một hôm, ở tại miền quê, trong khu vườn của biệt thự chúng tôi đang ở, tôi cố gắng nhổ một cây cỏ mọc lan, rễ già và cao nghệu, giống như một cây con đã mọc ngay chính giữa sân trước nhà, không hiểu bằng cách nào. Công việc không phải dễ dàng, vì cây cỏ xanh và ướt trơn tuột giữa hai bàn tay tôi và ngoài ra rễ của nó như đã ăn rất sâu dưới đất. Mải lo nhổ cây cỏ, ,tôi không hiểu tại sao tôi lại ngước mắt nhìn vợ tôi, và tôi đã sửng sốt trông thấy khuôn mặt và thân hình của nàng bị biến đổi hoàn toàn bởi sự co rúm dị thường chỉ riêng có nơi nàng. Cùng lúc đó cây cỏ bị sức nặng của tôi nhổ lên, đã bứng rễ và còn dính với lớp đất bằng một cái rễ dày và dài, và tôi té ngửa ra phía sau, may thôi đầu tôi đập lên mặt xi-măng trải quanh biệt thự. Một lần khác chúng tôi mời vài người bạn tới dùng cơm tối tại nhà chúng tôi ở La mã. Trước khi khách tới, vợ tôi bận áo tiệc, đánh phấn thoa son và đeo nữ trang, muốn đi xem qua một vòng nơi nhà bếp để coi mọi sự được như ý không. Tôi đi theo nàng. Chúng tôi trông thấy chị bép đang kinh hoảng lên vì con tôm hùm, một con vật to lớn với hai càng dữ tợn và còn thoi thóp, chị ta không dám bắt nó và quăng vô chảo. Một cách rất giản tiện, vợ tôi bước gần bàn, nắm lấy cái lưng con tôm hùm và nhúng nó vô nước sôi. Để làm việc đó, nàng phải đứng cách xa cái lò cũng như con tôm, thì cũng được đi. Nhưng sự thận trọng đó chỉ cắt nghĩa một phần nào thôi vẻ nhăn nhó của khuôn mặt, xấu và thô, và cử động của thân mình, trong một lúc, làm uốn éo một cách khêu gợi hai bên hông dưới lớp tơ sáng chói của áo tiệc. Tôi tưởng tượng rằng nhiều lần, và trong những trường hợp khác nhau, vợ tôi đã phải nhiều phen trải qua sự giựt gân co rúm đó. Dù sao cũng có một vài sự kiện vẫn còn xác thực: không khi nào khuôn mặt và thân mình của nàng lại co giựt trong khi ân ái. Ngoài ra, những lần co giựt đó bao giờ cũng tiếp theo bằng một sự im lặng âm thầm, lơ lửng, giống với tiếng kêu được nén lại hơn là một sự câm nín hoàn toàn. Cuối cùng, những lần co giựt đó bao giờ cũng hình như phát sanh nỗi lo sợ một biến cố bất ngờ, đột ngột, sấm sét. Một nỗi lo sợ, như tôi đã nói, pha trộn đầy nét quyến rũ. Mời các bạn đón đọc Chăn Gối của tác giả Alberto Moravia.
Thông Thái Và Số Phận
Đọc “Thông Thái và Số Phận” của Maurice Maeterlinck như đi vào một vườn mê cung. Nếu ta chỉ chú ý đi tìm lối ra hay con đường chính xác để giải thoát thì sẽ không thể cảm nhận được vẻ đẹp của nó.    Hãy cứ bước đi thong thả, cứ rẽ vào con đường mà bạn muốn, mỗi con đường đều không thẳng tắp mà có rất nhiều khúc quanh mở ra một con đường khác, và đương nhiên sẽ có lúc gặp phải ngõ cụt, vậy thì hãy quay trở lại chọn lối rẽ khác, hoặc bạn cũng có thể tự mình đào sâu, hay phá bỏ nó để đi xuyên qua, dù thế nào nó sẽ lại mở ra một con đường mới để ta khám phá. Và mê cung ấy có nhiều lối ra, có lối dẫn đến sự thông thái, có lối dẫn đến số phận, lý trí, tình yêu, hạnh phúc, khổ đau, niềm vui, nỗi buồn… đích đến nào cũng sẽ khai mở hoặc làm sáng tỏ con đường trong chính bản thân bạn. Khi chia sẻ thông tin về buổi tọa đàm về cuốn sách này trên một group rất thú vị và sôi nổi trên Facebook, có bạn chia sẻ khi đọc cuốn “Thông Thái và Số Phận” của Maurice Maeterlinck do dịch giả Nguyễn Trí Dũng chuyển ngữ và nhận xét là khó đọc, có vẻ như dịch giả dịch chưa chuẩn, chưa hay. Bản thân tôi cũng có cảm giác như vậy khi bắt đầu đọc, vì thế tôi có giới thiệu các bạn nên đi dự tọa đàm sách để có thể nghe dịch giả chia sẻ quan điểm, suy nghĩ cũng như khó khăn, tìm tòi trong quá trình dịch. Chắc chắn nó cũng sẽ giúp bạn hiểu hơn về tác phẩm. Thực tình tôi mới tò mò, quan tâm đọc thể loại sách triết học, tiểu luận, khảo luận… và cũng thấy là nhiều cuốn viết lan man, có mỗi cái đề tài thôi mà sao viết gì mà lắm thế, khó hiểu thế. Vậy nhưng khi đọc “Thông Thái và Số Phận” thì tôi lại không có những suy nghĩ như vậy, bởi vì đây là “Sách đọc chậm”, ngay trên trang bìa NXB đã ghi dòng chữ này để “cảnh báo” với độc giả đừng đọc nhanh, đọc liền một mạch, hãy đọc từng trang hoặc từng chương, có khi là từng đoạn, từng câu… thậm chí bạn có thể mở một chương bất kỳ và đọc vẫn có điều để bạn chiêm nghiệm, suy ngẫm. Tất nhiên, mỗi người sẽ có quyền tự chọn cách đọc của mình, nhanh-chậm, nhiều-ít tùy thích. Cuốn sách này không phải thể loại đọc một hồi xong thốt lên tuyệt vời quá, hay quá, mà đọc xong muốn tranh luận hoặc thậm chí là cãi nhau với chính mình, đọc xong chỉ cần “khai mở” hoặc có thể “phá hủy” và “tái tạo” lên trong đầu độc giả một cái nhìn mới, một con đường mới trong tư duy và nhận thức, đó là một thành công rồi, còn nếu không thì cũng không sao cả, chỉ là sách thôi mà. Theo loicuagio.com *** M aurice Maeterlinck (29/8/1862 - 6/5/1949) - nhà thơ, kịch tác gia, triết gia người Bỉ, giải Nobel Văn chương năm 1911. Vở kịch cổ tích “Con chim xanh” (L’Oiseau bleu) và vở “Aglavaine và Sélysette” của ông được giới phê bình xếp vào hàng những vở kịch hay nhất của thế kỷ XX. “Con chim xanh” được nhiều lần dàn dựng và biểu diễn ở Nga, Pháp, Mỹ, Nhật… Ngoài những tập thơ, kịch, M. Maeterlinck còn để lại cho văn chương, triết học thế giới những khảo luận, tiểu luận triết học vô cùng sâu sắc. Chúng tôi hân hạnh giới thiệu với bạn đọc bản dịch tiếng Việt tiểu luận triết học đời sống tuyệt vời của M. Maeterlinck “Thông thái và số phận”. Phần cuối của bản tiếng Việt chúng tôi đưa thêm chương “Sự im lặng”, chương đầu trong tập tiểu luận “Kho báu của những kẻ nhẫn nhịn”. Sau khi chú tâm đọc, lắng nghe những lời bàn đầy minh triết của tác giả, thì cái vĩ thanh tuyệt vời nhất, có lẽ, nên là “Sự im lặng” để chúng ta cùng chiêm nghiệm về cuộc đời, về sự thông thái và số phận. Trong “Thông thái và số phận” M. Maeterlinck có nhắc đến nhiều nhân vật, điển tích trong lịch sử, văn hóa, văn chương phương Tây. Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay việc tra cứu trở nên rất dễ dàng. Các chú thích có thể làm đứt mạch đọc tác phẩm của độc giả. Vì vậy, chúng tôi không làm chú thích về những nhân vật, điển tích được tác giả nêu ra trong tác phẩm. Thêm nữa, theo chúng tôi, khi tự tra cứu, bạn đọc sẽ mở rộng, làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân mình. Chúng tôi cố gắng chuyển tải một cách chính xác nhất văn phong của M. Maeterlinck. Quá trình dịch tác phẩm này sẽ không tránh khỏi sai sót. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành và thiện ý của tất cả các bạn. Xin chân thành cám ơn! Người dịch *** Tặng Madame Georgette Leblanc T ôi dành tặng cuốn sách này cho em. Nó tựa như là tác phẩm của em vậy. Có sự hợp tác cao quý và giá trị hơn sự hợp tác của ngòi bút: đây là hợp tác về tư tưởng và sự mẫu mực. Tôi không phải khó nhọc để nghĩ ra những quyết định và hành động xứng đáng với lý tưởng về đạo lý; tôi không phải rút ra từ con tim mình đạo lý của một ước mơ tuyệt vời vì sự cần thiết còn đôi chút mơ hồ. Tôi lắng nghe những lời nói của em, và chăm chú dõi theo em trong cuộc đời - thế là đủ. Đó cũng là lúc tôi dõi mắt theo các chuyển động, cử chỉ và thói quen của chính sự thông thái. Mời các bạn đón đọc Thông Thái Và Số Phận của tác giả Maurice Maeterlinck.
Những Người Hái Rong Biển
NHỮNG NGƯỜI HÁI RONG BIỂN Tác giả: ANATOLY KIM Nguyên tác: СОБИРАТЕЛИ ТРАВ (1976) Dịch giả: Thái Hà Thể loại: Tập truyện NHÀ XUẤT BẢN TÁC PHẨM MỚI - 1984 (Nguồn text: từ bản đánh máy và OCR từ bản chụp của chủ blog arral.wordpress.com) Ghi chú: so với bản gốc, bản ebook được sửa phiên âm lại các tên riêng tiếng Nga, tên gọi một số người gốc Triều Tiên và Nhật cho chính xác. Bản ebook này không phải bản đầy đủ và chỉ gồm các truyện trong tập Những người hái rong biển mà thôi. Các truyện khác trong sách gốc sẽ được cập nhật ở một phiên bản khác. *** Những người hái rong biển là một câu chuyện nhẹ nhàng, dìu dịu và buồn rầu. Nhân vật của Kim bất hạnh một cách bình thường, những nỗi bất hạnh ta có thể thấy ở khắp mọi nơi trên trái đất : vì cuộc sống gia đình không như mong đợi, vì bệnh tật, vì dốt nát, cổ lỗ, già yếu, vì tình yêu không được đền đáp, vì nghèo hèn, quê mùa, vì người thân đối xử lạnh nhạt … Mỗi người một lý do, nhưng tại một thời điểm nào đó, họ bỗng nhận ra mình đã bị đẩy ra khỏi dòng chảy chung của cuộc đời. Những nhân vật như thế rất thật, có lẽ chúng ta vẫn nhìn thấy họ hằng ngày, và đấy là chuyện thường không có gì đáng nói. Mỗi người đều có mặt tốt mặt xấu, mỗi nhà đều có những chuyện riêng, không ai giống ai. Hàng ngày, con người ta vẫn chết đi, điều đó không làm xáo động dòng đời chút nào. Vì thế, cái đáng nói là cách nhìn nhận của tác giả, Anatoli Kim cho rằng “thời gian là sự bồi đắp và tích tụ, thời gian như đoàn tàu chắc chắn sẽ đưa con người tới một ga nào đó, trong khi cứ trôi qua và bay đi hết giây phút này đến giây phút khác, cuối cùng nó cũng phải tụ lại ở một nơi nào đó. Không gian cũng thế. Xung quanh trái đất không phải chỉ có không khí và ánh mặt trời. Trên mặt đất này còn tích tụ một khối năng lượng khổng lồ do những người tốt chết đi tích lại ngày một nhiều. Vậy là không có một cuộc đời người tốt nào, dầu bất hạnh, lại trôi qua vô ích, không một đóng góp nào, dầu nhỏ bé, cho cuộc sống tinh thần con người lại không tích lũy cho một ngày mai hạnh phúc, và do đó, không một nơi nào lại không chứa đựng những cái chính yếu nhất của đời sống…” (theo Những người hái rong biển – Anatoli Kim | Agrael's words (wordpress.com)) Nhà văn, nhà viết kịch, dịch giả Nga Anatoly Kim sinh năm 1939 tại Kazakhstan. Tổ tiên của ông vốn là người Triều Tiên di cư đến Nga từ thế kỷ XIX. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Kim vào học Trường trung cấp nghệ thuật Moskva. Năm 1971, Kim tốt nghiệp tại chức Trường viết văn mang tên M. Gorky, những truyện ngắn đầu tiên của ông được xuất bản năm 1973. Một thời gian, Kim phụ trách xeminar văn xuôi tại Trường viết văn; từ năm 1996, ông là đồng Tổng biên tập tạp chí “Yasnaya Polyana”. Ông là tác giả của 7 tập truyện ngắn, 6 tập truyện vừa, 2 vở kịch và 7 tiểu thuyết. Tập truyện ngắn “Những người hái rong biển” của ông đã được dịch ra tiếng Việt. Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày sinh của nhà văn (1939-2019), xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà báo Vladimir Li về ông. Tôi làm quen với tác phẩm của Anatoly Kim vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước, khi được đọc tập truyện ngắn đầu tay của ông “Đảo màu xanh da trời” (1976). Những năm tiếp theo, tôi được đọc hai cuốn sách của ông “Dây lưng màu ngọc bích” và “Tiếng hót chim họa mi”. Tôi quan tâm tới Anatoly Kim trước hết vì ông là nhà văn Liên Xô gốc Triều Tiên đầu tiên mà tôi đã từng mua sách tại các hiệu sách ở Uzbekistan, còn sau khi Liên Xô sụp đổ, tôi không thấy ở đấy một cuốn sách nào của ông nữa. Cách đây 10 năm, khi chuyển đến Moskva, tôi mới biết rằng Kim viết nhiều truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết và kịch, đã trở thành nhà văn "cổ điển sống" của văn học Nga đương đại. Còn cách đây mấy năm, tôi được trực tiếp gặp ông thông qua người bạn chung của chúng tôi là Moisey Kim, hiện là Chủ tịch Hội những người Triều Tiên ở Nga. Lúc bấy giờ, tôi đã kể về cuốn sách đầu tiên của Kim mà tôi đã đọc. Số là về sau tôi phát hiện ra cuốn sách này trong một vali sách mà bố tôi muốn mang theo khi sang thế giới bên kia, nói rằng “ở đấy” ông sẽ đọc những cuốn sách này. Không một người thân nào dám phản đối ý nguyện cuối cùng của bố chúng tôi. Người đã qua đời ngày 2 tháng 8 năm 1980. Dưới quan tài của bố, chúng tôi đặt hai vali sách, trên cùng là cuốn “Cánh đồng mẹ” của Chingiz Aymatov và “Đảo màu xanh da trời” của Anatoly Kim. Sau khi chăm chú lắng nghe câu chuyện của tôi, Kim thốt lên: “Lần đầu tiên tôi được nghe một câu chuyện như vậy. Có nghĩa là từ thế giới bên kia, bố anh đã xui chúng ta gặp nhau và cần phải nâng cốc vì điều này”. Sau đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau, năm 2014 tôi được mời tới dự lễ kỷ niệm nhân 75 năm Ngày sinh của nhà văn và được ông ký tặng ba cuốn tiểu thuyết. Tháng 5 năm 2015, tôi cùng với Moisey Kim đến thăm nhà văn tại biệt thự của ông ở làng Peredelkino, Moskva. Và mấy năm gần đây, tôi đã nhiều lần được gặp nhà văn tại những sự kiện chính trị-xã hội khác nhau. Bàn về không gian và thời gian diễn ra câu chuyện trong tiểu thuyết, Anatoly Kim nói nguyên văn như sau: “Con chim, chiếc máy bay và, có thể, cả thiên thần nữa, cần cánh để bay, nhưng con người hoàn toàn không cần cánh để bay tới nơi tôi mời họ đến. Trong tiểu thuyết của tôi, có những chuyến bay không cần cánh, những cuộc di chuyển tự do trong không gian của những thế giới và thời đại khác nhau...”. Đề tài tình yêu chiếm vị trí chủ đạo trong toàn bộ sáng tác của Kim. Tình yêu - sự bảo đảm của hạnh phúc và sự tiếp tục nòi giống của con người. Ông nghiêng mình trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu là cơ sở của sự hài hòa của thế giới, sự hồi sinh của nhân loại và tương lai của nó. Hạnh phúc của Kim có dung lượng không gian và thời gian rõ rệt, bởi vì tình yêu là mặt trời với cuộc đời con người quay quanh nó. Nhưng khi mặt trời lùi xa và biến mất, tất cả trở nên bất động, giống như thiên nhiên ngủ thiếp đi trước mùa đông. Kim coi con người là một phần của vũ trụ, còn cuộc đời con người chỉ là khoảnh khắc, là ánh chớp lóe lên trong thời gian và không gian của vũ trụ nói chung. Trong khoảnh khắc đó, mỗi con người để lại dấu vết của mình trong không gian vô cùng tận, bởi Trái đất phản ứng rất nhanh trước tất cả những vận động của tâm hồn con người; khi con người làm điều ác thì không gian bao quanh nó chìm vào bóng tối, thời gian ngừng lại; còn khi con người làm điều thiện thì thế giới bừng sáng. Vấn đề hạnh phúc là một trong những đề tài sáng tác chính của Kim. Chỉ người biết yêu mới giành được hạnh phúc chân chính, bởi tình yêu là sức mạnh vĩ đại có thể hồi sinh con người. Sách của Kim không dành cho sự đọc dễ dãi, để kích thích giấc ngủ hay đơn giản là giết thời gian. Tác phẩm của ông mang đậm tính triết lý, nhiều tầng ý nghĩa, đa dạng, phổ quát, đầy biến hóa, không dễ gì nhận thức được. Nó ẩn giấu đạo lý thường tình ngàn đời nay của các dân tộc trên thế giới. Nói về tác phẩm văn học của mình, Kim giải thích rằng, ông cảm thấy mình là một nghệ sĩ hoàn toàn tự do và không bao giờ viết theo đơn đặt hàng của những kẻ cầm quyền. Ông làm việc theo ý thích và cảm hứng, chứ không phải hàng ngày. Không bao giờ nháp trước, không thu thập tài liệu hay thông tin bổ sung về điều gì đấy. Ông viết một mạch, hàng giờ liền, không nghỉ, dường như có ai đó từ “trên” đọc cho ông chép. Nhà văn khẳng định rằng, trong những ngôi làng Nga, nơi ông đã có dịp sống vào những năm khác nhau, người ta đánh giá con người ngắn gọn và đơn giản: “người tốt” hay “người xấu”. Anatoly Kim nói rằng, ông viết cho “người tốt”. “Người xấu” sẽ không đọc sách của ông, hắn không hiểu, ngay cả khi đọc. Vì vậy, sau khi đọc sách của Kim, hắn cũng sẽ không trở thành “người tốt”. Kim không trách mình vì trên đời có “những người xấu”. Khi được hỏi vì sao viết sách và viết như thế nào, ông nói: - Tôi viết sách cho “người tốt”. - Tôi không quan tâm người ta hiểu hay không hiểu tôi. - Tôi không viết cho đám đông và cho những người trên quảng trường gào lên: hoan hô Kim! - Tôi không muốn viết cho những người coi sách như ly cà phê hay ly rượu; - Tôi không thể chịu nổi thái độ tiêu thụ đối với sách. - Tôi không viết sách để về sau nó trở thành hàng hóa, vì vậy tôi phản đối thương mại hóa văn học. Anatoly Kim cho rằng, nhà văn không tồn tại thiếu độc giả. Nếu còn lại dù chỉ một độc giả thì đó là nhà văn. Nói về sự phản hồi của độc giả, Kim có thể dẫn chứng hàng chục bức thư, các cuộc gặp gỡ, lời nhắn nhủ của nhiều người đối với ông. Sau đây là một số ví dụ: ...Vào một ngày đẹp trời, có một người quen gọi điện thoại cho nhà văn Kim nói rằng vợ ông ta ốm nặng. Bác sĩ chẩn đoán bà bị ung thư dạ dày và trả về nhà vì chẳng còn sống được bao lâu nữa. Trước đó, người chồng đã đưa cho vợ đọc tiểu thuyết “Con sóc” của Anatoly Kim, và bây giờ nguyện vọng cuối cùng của bà là được gặp tác giả cuốn sách. Vào ngày hẹn, Kim đến nhà. Người phụ nữ cố ngồi dậy để chào khách. Anatoly Kim bảo bà đừng ngại, ông bước tới nắm bàn tay bà và ngồi đối diện với bà. Bà chân thành cảm ơn nhà văn về tiểu thuyết “Con sóc” và nói rằng, sau khi đọc cuốn sách, bà không còn sợ chết nữa. Những lời của độc giả nói với nhà văn trong giờ phút thập tử nhất sinh như vậy thật vô cùng giá trị - không thể không tin con người như vậy. Một ví dụ khác: ...Một lần, Anatoly Kim được nhà thờ Tin lành ở thành phố Voronezh mời đến dự hội nghị bàn về đấu tranh chống nạn ma túy trẻ em. Từ trên diễn đàn hội nghị, nhà văn nói rằng cuộc đấu tranh chống ma túy cực kỳ gay go và kém hiệu quả. Cách chống ma túy tốt và hiệu quả nhất là dự phòng và cảnh báo trước về tất cả sự nguy hại của việc sử dụng chất ma túy. Không bao giờ cho phép trẻ em thử dùng chất độc chết người này. Trong lúc nhà văn phát biểu trên hội nghị, có một phụ nữ mặc ào choàng trắng lặng lẽ bước vào phòng và ngồi vào một chỗ trống ở phía sau. Mấy phút sau, bà xin được phát biểu ý kiến. Bà là một nữ y tá, làm việc tại bệnh viên thành phố. Khi nghe tin nhà văn Anatoly Kim đến thành phố Voronezh và đang ở nhà thờ, bà xin phép bác sĩ trưởng đến đây. Bà nói rằng đã từ lâu mơ ước được gặp nhà văn và đến để cảm ơn ông về cuốn tiểu thuyết tuyệt vời “Onlirya”. Cuốn sách kỳ diệu này mang lại cho độc giả niềm hy vọng lớn và niềm tin vào một cuộc sống tốt đẹp. Sau khi đọc tiểu thuyết này, bà có cảm giác như được tắm mình trong một dòng nước nguồn tinh khiết, và muốn sống cuộc đời mới. Và bây giờ cuộc sống khó khăn của bà đã được cải thiện. Bà chân thành cảm ơn nhà văn và vái chào ông. Rồi bà vội vã ra đi trong tiếng vỗ tay của các đại biểu. Trong giờ giải lao, nhà văn muốn nói chuyện với người phụ nữ này, nhưng bà đã trở về bệnh viện. Nhớ lại những câu chuyện đó, Anatoly Kim trầm ngâm nói: “Những lời tâm sự đó của độc giả đem lại cho tôi sức mạnh và niềm cảm hứng đích thực, và tôi sẽ sáng tác cho những con người như vậy. Đó cũng có thể là câu trả lời: tôi viết cho ai”. (Theo Anatoly Kim - người đương thời của tôi | Báo Công an nhân dân điện tử (cand.com.vn))   Mời các bạn đón đọc Những Người Hái Rong Biển của tác giả Anatoly Kim.