Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Trẻ Cát

Tahar Ben Jelloun sinh năm 1944, nhà văn người Ma-rốc viết bằng tiếng Pháp. Đứa trẻ cát xuất bản năm 1985, được báo chí Pháp ca ngợi và độc giả đón đọc say mê ngay từ khi vừa phát hành. Đêm thiêng là phần tiếp nối và bổ sung cho đề tài Đứa trẻ cát nổi tiếng đã đưa ông đến với giải Goncourt 1987.   Chuyện xảy ra tại một khu đông dân của một thành phố Ả Rập, ông chủ lò gốm cay cú vì vợ sau bảy lần sinh chỉ toàn là con gái. Cảm thấy xấu hổ, nhục nhã vì không có con trai thừa kế, ông ta đã đi đến một quyết định thách thức với số mệnh rằng dù thế nào đi nữa, đứa con sắp ra đời dứt khoát phải là một thằng con trai. Thật oái oăm, đứa thứ tám chào đời vẫn là con gái. Thế rồi Ahmed - tên đứa trẻ sơ sinh - được trình làng và nuôi dạy như một đứa con trai. Nhưng sau bao năm tháng, cậu bé lớn lên, bối rối khám phá ra ý nghĩa đích thực của cái mà người ta vẫn che giấu cậu: giới tính.   Những di chứng quái gở của tôn giáo, sự ngu muội ở một bộ phận cộng đồng là lí do dẫn dắt ông bố đi đến một quyết định sai lầm kéo theo sau đó bao nhiêu tai họa cho gia đình, cho đứa con mà ông bất chấp mọi quy luật áp đặt nên. Và đó cũng là mục tiêu mà tác giả cũng đã tập trung phê phán trong một số tiểu thuyết khác của ông. Và không chỉ có vậy, François Nourissier, viện sĩ Viện hàn lâm Pháp, trong khi đánh giá về tiểu thuyết của Tahar Ben Jelloun, đã gọi đó là những tiểu thuyết của sự lưu đày, của trạng thái không thể hòa nhập, của sự chia rẽ của hai nền văn hóa!  ***  Tahar Ben Jelloun (Tiếng Ả Rập: الطاهر بن جلون‎) (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1944 tại thành phố Fes, Ma-rốc) là một nhà thơ, nhà văn người Ma-rốc. Mặc dù ngôn ngữ mẹ đẻ của ông là tiếng Ả rập nhưng hiện nay, các tác phẩm của ông đều được viết bằng tiếng Pháp.   Học trung học ở một trường song ngữ (tiếng Ả Rập và tiếng Pháp), sau đó Ben Jelloun học tiếp tiếng Pháp ở thành phố Tangier miền bắc Ma-rốc cho tới năm 18 tuổi. Đỗ vào trường đại học Mohamned-V ở Rabat, ông theo học ngành triết học. Trong những năm học đại học, ông đã viết nên những bài thơ đầu tiên của mình (được tập hợp trong tập thơ Hommes sous linceul de silence (1971)).   Tốt nghiệp, Ben Jelloun trở thành giáo sư dạy triết học ở Tetouan rồi sau đó ở Casablanca, Ma-rốc. Năm 1971, sau sự việc môn triết không được dạy bằng tiếng Ả Rập nữa, ông rời Ma rốc và đến Pháp để tiếp tục sự học môn triết của mình. Ở Pháp, ông bắt đầu viết nhiều hơn.   Đầu năm 1972, Ben Jelloun bắt đầu viết bài cho tờ Le Monde (Thế giới). Năm 1975, ông được công nhận học vị tiến sĩ về tâm thần học. Với những kinh nghiệm về tâm lý liệu pháp (nhờ vào những khảo cứu và lòng say mê), ông viết cuốn La Réclusion solitaire vào năm 1976.   Năm 1985, Ben Jelloun xuất bản cuốn tiểu thuyết L'enfant de sable (Đứa trẻ cát) được ca tụng rộng khắp. Ông được trao giải Goncourt năm 1987 cho tiểu thuyết La Nuit Sacrée (Đêm thiêng).   Năm 1997, cuốn Le Racisme expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) được ông cảm tác dựa trên những thực tế trong gia đình mình được xuất bản.   Ông thường xuyên được mời diễn thuyết hoặc thỉnh giảng tại các trường đại học ở Ma-rốc và trên khắp châu Âu.   Năm 2004, Ben Jelloun giành được giải thưởng văn học quốc tế IMPAC Dublin cho tác phẩm This Blinding Absence of Light (do Linda Coverdale dịch sang tiếng Pháp). Ông cũng giành được giải Prix Ulysse vào năm 2005 cho toàn bộ sự nghiệp của mình.   Tháng 9 năm 2006, Ben Jelloun giành được giải đặc biệt vì “hòa bình và tình hữu nghị giữa người với người” tại Lễ hội văn hóa Lazio between Europe and the Mediterranean Festival được tổ chức tại Rome, Lazio nước Ý.   Ngày 1/2/2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã trao cho ông Huân chương Bắc đẩu Bội tinh.   Ben Jelloun có 4 người con và hiện đang sống tại Paris.   Hai cuốn tiểu thuyết L'Enfant de sable (Đứa trẻ cát) và La Nuit sacrée (Đêm thiêng) đã được dịch ra 43 thứ tiếng. Cuốn Le racism expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) đã được dịch ra 33 thứ tiếng. Bản thân ông cũng tham gia vào việc chuyển ngữ những tác phẩm của chính mình.     Tác phẩm chính:   Harrouda (1973)  Solitaire (Cô đơn) (1976)  The Sand Child (Đứa trẻ cát) (1985)  The Sacred Night (Đêm thiêng) (1987)  Silent Day in Tangiers (Ngày yên lặng ở Tangier) (1990)  With Downcast Eyes (Mắt cúi gằm) (1991)  Corruption (Tham nhũng) (1995)  The Fruits of Hard Work (Thành quả lao động) (1996)  Praise of Friendship (Ca ngợi tình bạn) (1996)  L'Auberge des pauvres (1997)  Racism Explained to My Daughter (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) (1998)  Islam Explained (Về đạo Hồi) (2002)  This Blinding Absence of Light (2003)  La Belle au bois dormant (Người đẹp ngủ trong rừng) (2004)  The last friend (Người bạn cuối cùng) (2006)  Yemma (2007)  Leaving Tangier (Rời bỏ Tangier) (2009)  The Rising of the Ashes (Tàn tro bốc cao) (2009)   *** Ấn tượng đầu tiên là khuôn mặt ấy dài ngoẵng bởi những nếp nhăn chạy dọc, những nếp nhăn giống như những vết sẹo bị cày xới bởi những trận mất ngủ triền miên, một khuôn mặt râu cạo nham nhở, bị thời gian tàn phá. Cuộc sống - cuộc sống nào đây? Một ngoại hình kì dị được sinh ra để rồi bị lãng quên - có bổn phận ngược đãi, ngáng trở, và thậm chí phải làm cho anh ta tức tối. Người ta có thể đọc hoặc có thể đoán ra được trên gương mặt ấy nỗi đau khổ ê chề mà chỉ cần một cử chỉ vụng về của bàn tay, một ánh mắt bênh vực, một con mắt dò xét hoặc ác ý cũng đủ làm cho vết thương ấy lại tấy lên nhức buốt. Anh ta thường tránh phô bày thân hình ra giữa ánh sáng chói chang và giấu hai con mắt vào sau làn tay áo. Ánh sáng của ban ngày, của một ngọn đèn, hoặc của mặt trăng rằm, đều làm cho anh ta đau đớn: tia sáng ấy muốn lột trần thân xác anh ta, len lỏi vào từng làn da thớ thịt và khám phá ra ở đó nỗi tủi hổ xót xa và những giọt nước mắt thầm kín. Anh ta cảm thấy luồng ánh sáng đó lướt qua cơ thể như một ngọn đuốc thiêu cháy tất cả những chiếc mặt nạ của anh, như lưỡi dao lần lần lột bỏ tấm voan bằng thịt ngăn cách anh ta với những người khác. Anh ta sẽ ra sao nếu khoảng không gian bảo vệ, ngăn cách anh ta với những người khác bị xóa bỏ? Lẽ nào anh ta lại bị phơi ra trần truồng, không một phương tiện tự vệ, trong tay những kẻ luôn rượt đuổi anh chỉ vì muốn thỏa mãn thói tò mò, tính đa nghi và thậm chí chỉ vì một mối hận thù dai dẳng; bọn họ không bao giờ bằng lòng với sự im lặng và trí thông minh của một kẻ luôn gây phiền hà cho họ bằng sự hiện diện độc đoán và đầy bí ẩn.   Ánh sáng lột trần cơ thể anh ta. Tiếng ầm ĩ làm cho anh ta bấn loạn. Từ ngày giam mình trong căn phòng nhìn ra sân thượng, anh ta không còn bị cái thế giới ồn ào kia tra tấn nữa, mỗi ngày một lần, anh ấy tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua việc mở cửa cho Malika, bà giúp việc vẫn thường đưa thức ăn, đồ uống, báo chí và một bát hoa cam vào phòng cho anh. Anh ta rất quý mến bà lão vì bà đã trở thành một thành viên của gia đình. Kín đáo và dịu dàng, bà không khi nào lục vấn anh ta bất cứ điều gì, mà cả hai cứ như những kẻ tòng phạm, nhờ vậy họ rất gắn bó với nhau.   Tiếng ồn. Tiếng ồn của những giọng nói the thé hoặc nhạt nhẽo. Tiếng ồn của những tiếng cười thô lỗ, từ những tiếng hát chói tai phát ra từ chiếc radio. Tiếng ồn của những xô nước hắt ra ngoài sân. Tiếng ồn của lũ trẻ đang hành hạ một con mèo mù hay một con chó chỉ còn ba chân bị lạc vào giữa những đường phố hẹp, nơi những con vật và những người điên thường bị vướng bẫy. Tiếng ồn của những lời than vãn, nỉ non của những người ăn mày. Tiếng ồn chói tai của một chiếc loa phóng thanh, năm lần mỗi ngày, rè rè phát lời mời cầu nguyện. Đôi khi tiếng loa không còn là lời gọi mời cầu nguyện nữa mà là một cử chỉ xúi giục làm loạn. Tiếng ồn của mọi giọng nói và những tiếng la ó từ ngoài phố vọng vào và neo lại ở kia, ngay phía trên căn phòng của anh ta, đã đến lúc gió hãy cuốn chúng đi hoặc giảm bớt âm lượng của chúng.   Anh ta đã khuếch trương những dị ứng đó; cơ thể quá nhạy cảm và dễ xúc động của anh ta đón nhận mọi thứ dị ứng dù chỉ là một chấn động rất nhỏ, hấp thụ và giữ cho chúng luôn phát huy tác dụng, vì thế giấc ngủ của anh ta thật khó khăn nếu không muốn nói là không thể. Các giác quan của anh ta không hề bị rối loạn như người ta vẫn nghĩ. Mà ngược lại, chúng trở nên đặc biệt sắc sảo, năng động và không biết mệt mỏi. Chúng thực sự phát triển và chiếm lĩnh toàn bộ vị trí trong cái thân xác mà cuộc sống đã làm đảo lộn và số phận bị đổi hướng.   Khứu giác của anh ta có khả năng phân biệt được tất cả. Lỗ mũi đem đến cho anh ta mọi thứ mùi, ngay cả những thứ mùi không còn ở đó nữa. Anh ta nói rằng anh ta có khứu giác của người mù, thính giác của một xác chết đang ấm nóng và thị giác của một nhà tiên tri. Nhưng cuộc sống của anh ta không phải là cuộc sống của một vị thánh, tuy nhiên, cuộc sống ấy cũng có thể trở nên tốt đẹp như thế nếu như anh ta không có quá nhiều thứ phải làm.   Từ khi lui về ẩn dật trong căn phòng trên cao này, anh ta chẳng tiếp chuyện bất cứ ai. Anh ta cần một thời gian dài, có thể là nhiều tháng để thu nhặt các bộ phận của mình, sắp xếp lại quá khứ theo trình tự thời gian, sửa chữa cái hình ảnh bi thảm mà mọi người xung quanh đã dành cho anh ta trong thời gian gần đây, thu xếp một cái chết mà anh ta đã kí thác vào đó tất cả: cuốn nhật ký riêng tư, những điều bí mật của anh ta - có thể chỉ có cuốn sổ này là điều bí mật duy nhất - và cũng có thể đây là bản phác thảo một câu chuyện mà chỉ mình anh ta nắm giữ chìa khóa mà thôi.   Một màn sương mù dày đặc bao bọc dai dẳng xung quanh anh ta, che chắn cho anh những ánh mắt đầy ngờ vực và những lời thị phi của những người bà con và hàng xóm vẫn to nhỏ với nhau trước ngõ. Bức màn màu trắng này làm cho anh ta bình tâm trở lại, đưa anh ta vào giấc ngủ yên lành và nuôi dưỡng những giấc mơ tuyệt vời của anh.   Chuyện ẩn cư của anh ta không làm cho gia đình phải suy nghĩ nhiều. Họ đã quen với cảnh nhìn anh ta đắm chìm trong sự câm lặng ghê người, hoặc trong những cơn cáu giận bùng phát hết sức phi lí. Có cái gì đó không thể xác định được một cách minh bạch đã xen vào giữa anh ta và những người còn lại trong gia đình. Chắc hẳn là anh ta có những lí do riêng, và chỉ có mình anh ta là có thể nói ra được thôi. Anh ta quả quyết rằng thế giới của anh ta chỉ thuộc về anh ta mà thôi, và rằng cái thế giới ấy ưu việt hơn rất nhiều so với thế giới của bà mẹ và các chị của mình - nói tóm lại là rất khác nhau. Thậm chí anh ta còn nghĩ rằng mẹ và các chị không thể có một thế giới riêng nào hết. Họ bằng lòng sống ở bề ngoài sự vật, không đòi hỏi gì lớn, tuân theo quyền uy, những luật lệ và ý muốn của anh ta. Mặc dù không nói với nhau, nhưng phải chăng bà mẹ và những người chị gái đều cho rằng anh ta đã lựa chọn và chấp nhận lối sống lặng lẽ ấy, bởi lẽ anh ta không còn làm chủ được bản thân, không làm chủ được hành vi và sự biến thái trong con người mình do những cú sốc thần kinh căng thẳng tột độ lúc nào cũng chực làm anh ta mất trí? Ít lâu nay, bước chân của anh ta đã bớt đi dáng vẻ của một người đàn ông độc đoán, một chủ nhân không bị ai tranh ngôi đoạt vị trong gia đình, một người đàn ông thay cha quán xuyến mọi việc trong gia đình.   Lưng anh ta đã bắt đầu còng xuống, đôi vai buông xuôi một cách vô duyên, trở nên nhỏ hẹp và mềm nhũn, chúng k còn ý định làm chỗ dựa êm ái cho mái đầu của người tình hoặc là chỗ đặt bàn tay thân tình của bạn bè. Anh ta cảm thấy một khối nặng vô hình đè lên lưng, đến nỗi mỗi bước đi phải gắng ngẩng mặt lên và giữ cho thật cân bằng để khỏi ngã. Anh ta lết đi từng bước, nặng nhọc di chuyển thân mình, âm thầm chống chọi với những cơn đau dồn dập ập đến.   Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Cát của tác giả Tahar Ben Jelloun.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Tình Kỳ Ảo - Sherrilyn Kenyon
MONG MUỐN CỦA EM LÀ MỆNH LỆNH ĐỐI VỚI TÔI (Thay cho lời giới thiệu sách) Grace lùi lại. Tim cô đập thình thịch. Điều này không phải thật. Không thể là thật. Cô chỉ say rượu và bị ảo giác thôi. Hay cũng có thể cô bị ngã dập đầu vào thành bàn và đang nằm bất tỉnh, chảy máu đến chết. Đúng thế rồi! Thế nghe còn có lý. Ít nhất thì điều đó còn có lý hơn trái tim đang đập thình thịch dồn máu hâm nóng khắp cơ thể cô. Trái tim đang van vỉ cô hãy lao vào người đàn ông này. Và than hình anh ta mới đẹp làm sao. Khi cô gặp ảo giác, cô gái, chắc chắn do cô đã quá mệt mỏi. Thời gian gần đây chắc hẳn cô đã làm việc quá vất vả. Cô đang bắt đầu mang những giấc mơ của bệnh nhân về nhà. Anh đưa tay về phía cô và ôm đôi má cô trong đôi tay mạnh mẽ ấy. Grace không thể nhúc nhích. Tất cả những gì cô có thể làm là để mặc anh từ từ nâng khuôn mặt cô lên đến khi cô có thể nhìn sâu vào đôi mắt ấy, đôi mắt mà cô chắc chắn đang xuyên thấu tâm hồn cô. Chúng thôi miên cô như thể một con thú săn mồi nguy hiểm đang thôi mien con mồi. Cô run rẩy trong vòng tay anh. Rồi đôi môi nóng bỏng đầy ham muốn áp vào môi cô. Grace rên lên đáp lại. Cô đã nghe nói rất nhiều về những nụ hôn khiến phụ nữ xúc động đến bủn rủn, nhưng đây là lần đầu tiên cô trải nghiệm điều đó. Ôi, nhưng cô cảm thấy mùi vị của nó thật ngọt ngào, và mùi vị của anh còn tuyệt vời hơn... MỘT HUYỀN THOẠI HY LẠP CỔ Sở hữu một sức mạnh vô song và lòng dũng cảm phi thường, anh là người được các vị thần che chở, khiến những kẻ phàm trần sợ hãi và là niềm khao khát của tất cả những người phụ nữ nhìn thấy anh. Anh là người không biết đến luật lệ, không để tâm tới sự khoan dung với kẻ thù. Chiến thuật của anh trên chiến trường cùng với tài cầm quân xuất chúng có thể sánh ngang với những cái tên như Asin, Ô đi xê và Héc Quyn, lịch sử còn ghi lại rằng ngay cả Thần Chiến tranh Ares hùng mạnh cũng không thể đánh bại anh. Như thể là món quà của Thần Chiến tranh vẫn còn chưa đủ, người ta còn kể rằng ngay khi anh lọt lòng, Nữ thần Tình yêu Aphrodite đã hôn lên má anh và đảm bảo vị trí vĩnh viễn của anh trong ký ức của nhân loại. Được Aphrodite ban phước, anh đã trở thành một người đàn ông mà không một người phụ nữ nào có thể chối từ. Về Nghệ thuật Yêu thì anh không có đối thủ - không một người phàm trần nào có thể bì kịp sự dẻo dai của anh. Dục vọng trong anh nóng bỏng và hoang dã, không ai có thể thuần phục được anh hay có thể từ chối anh. Với ánh vàng của làn da và mái tóc, và ánh mắt của một chiến binh, chỉ riêng sự hiện diện của anh cũng đủ khiến phụ nữ mê mệt, một khi đã được bàn tay anh chạm vào họ sẽ trở nên mù quáng vì sung sướng. Không ai có thể cưỡng lại sức quyến rũ của anh. Và anh đã phải hứng chịu một lời nguyền xuất phát từ sự ghen tị. Lời nguyền không bao giờ có thể hóa giải. Giống như Tantalus[1] khốn khổ, lời nguyền đã bắt anh phải vĩnh viễn đi tìm kiếm sự thỏa mãn mà không bao giờ đạt được. Mong mỏi và khao khát từng cái đụng chạm của những người gọi anh đến và có nghĩa vụ phải đưa họ lên đến đỉnh cao khoái lạc. Từ ngày rằm tháng này cho đến ngày rằm tháng sau, anh phải sống với cô ta, làm tình với cô ta, cho đến khi anh lại bị biến khỏi thế giới này. Nhưng hãy cẩn thận, vì một khi đã được anh chạm vào, hình bóng anh sẽ mãi mãi được ghi dấu trong tâm trí người tình. Sẽ không một người đàn ông nào có thể làm cô ta thỏa mãn được nữa. Bởi vì không một người phàm trần nào có thể sánh được với một vẻ đẹp như thế. Sự cuồng nhiệt như thế. Sự ham muốn nhục dục mãnh liệt như thế. Người mang lời nguyền. Julian xứ Macedon[2] Hãy ôm anh vào ngực và gọi tên anh ba lần vào đúng nửa đêm trăng tròn. Anh sẽ tới với bạn và cho đến ngày trăng tròn của tháng tiếp theo, thân thể anh ta sẽ thuộc quyền điều khiển của bạn. Mục đích duy nhất của anh sẽ là làm bạn hài lòng, phục vụ bạn. Làm cho bạn mãn nguyện. Trong vòng tay của anh, bạn sẽ được biết thiên đường thực sự. [1] Tantalus là con trai Thần Dớt, phạm tội bị đày xuống địa ngục chịu hình phạt đứng trong nước mà không thể uống vì mối khi chạm vào nước sẽ biến mất, đứng dưới cây đầy quả chín mà không thể ăn vì khi đưa tay ra quả cũng sẽ biến mất (ND). [2] Macedon: Một vương quốc thời Hy Lạp cổ đại (ND). *** "Cưng à, cậu cần phải nằm nghỉ." Grace Alexander phát ngại trước giọng nói quá to của Selena khi họ ngồi trong một quán cà phê New Orlean nhỏ ăn nốt bữa trưa có cơm với đậu đỏ. Thật không may cho cô là Selena lại sở hữu một giọng nói có âm vực đáng yêu có thể nghe rõ cả trong giông bão. Và theo sau đó là sự im lặng đột ngột của cả căn phòng đông đúc. Liếc nhìn sang các bàn bên cạnh, Grace nhận thấy những người đàn ông đã dừng nói chuyện và quay sang nhìn họ chằm chằm với sự chú ý quá mức cô mong muốn. Ôi trời! Selena không bao giờ có thể nói nhỏ một chút được sao? Và tệ hơn là không biết cô ấy định làm gì tiếp theo đây? Thoát y và nhảy múa trên bàn? Vẫn thế. Đây là lần thứ một triệu kể từ khi họ quen nhau, Grace đã ao ước giá như Selena có thể cảm thấy xấu hổ. Nhưng cô bạn khoa trương và thường là quá khích của cô không hề biết đến nghĩa của từ xấu hổ. Grace lấy tay che mặt và cố gắng hết sức để có thể lờ đi những cái nhìn tò mò xung quanh. Cô những muốn chui xuống gầm bàn và hơn thế nữa là đá cho cô bạn mấy cái. "Tại sao cậu không nói to thêm chút nữa đi Lanie?" cô thì thầm. "Mình sợ rằng đàn ông bên Canada họ chưa nghe thấy cậu nói gì đâu." "Ồ, tôi cũng không biết nữa," người bồi bàn lanh lợi có mái tóc nâu nói khi dừng lại tại bàn của họ. "Họ thường quay đầu về hướng nam ngay cả khi nghe chúng tôi nói" Hơi nóng dồn lên má Grace khi cậu bồi bàn rõ ràng chỉ tầm tuổi học sinh cấp 3 nhìn cô cười tinh quái. "Tôi còn có thể giúp gì không thưa các quí cô?" cậu ta hỏi rồi nhìn chằm chằm vào Grace. "Hay chính xác hơn là tôi có thể làm gì giúp bà không thưa bà?" Có cái túi nào để tôi chui đầu vào hay cái gậy nào để nện Lanie không? "Tôi nghĩ là có đấy," Grace trả lời trong khi mặt nòng bừng. Chắc chắn cô sẽ giết chết Selena vì chuyện này. "Chúng tôi chỉ cần hoá đơn thanh toán thôi." "Vâng, có ngay," cậu ta nói rồi lôi hoá đơn thanh toán ra và viết vội vàng lên đầu trang. Cậu ta đặt nó trước mặt Grace. "Xin cứ gọi cho tôi nếu bà cần thêm bất kỳ dịch vụ nào." Sau khi cậu ta rời đi, Grace mới nhìn thấy tên và số điện thoại của cậu ta trên đầu tờ hoá đơn. Selena nhìn vào tờ hoá đơn và cất tiếng cười lớn. "Cậu cứ đợi đấy," Grace nói, cố nén cười khi cô tính toán phần của mình trông tổng hoá đơn trên chiếc máy tính Palm Pilot. "Tớ sẽ cho cậu biết tay vì chuyện này." Selena phớt lờ lời đe doạ, vừa cho tay vào cái túi hạt cườm lấy tiền cô vừa nói, "này, này cậu cứ nói đi. Nếu tớ là cậu, tớ sẽ giữ số điện thoại đó. Cậu ta là một cậu chàng xinh trai đấy chứ." "Trẻ con," Grace đính chính. "Tớ nghĩ là tớ sẽ bỏ qua thôi. Bị còng tay vì tội có quan hệ với một đứa trẻ vị thành niên là điều cuối cùng mà tớ mong muốn." Selena liếc nhìn cậu bồi bàn đang đứng tựa một bên hông vào quầy bar, nói: "Ừ, nhưng cậu chàng có vẻ ngoài giống Brad Pitt kia đáng để mạo hiểm đấy. Không biết cậu ta có anh trai không nhỉ?" "Tớ đang tự hỏi không biết Bill sẽ trả bao nhiêu để biết vợ mình đã dành toàn bộ thời gian ăn trưa hau háu nhìn một thằng bé con?" Selena vừa đặt tiền lên mặt bàn vừa khịt mũi. "Tớ không hau háu nhìn cậu ta cho bản thân mình. Tớ nhìn hộ cho cậu. Mà nói cho cùng thì cái chúng ta đang bàn đến chính là đời sống tình dục của cậu." "À, đời sống tình dục của tớ rất tuyệt và chắc chắn nó không có liên quan gì đến những người ngồi trong quán này."Quẳng tiền của mình xuống bàn, Grace vơ nốt miếng pho mát còn lại và đi thẳng ra cửa." "Đừng có cáu kỉnh thế," Selena nói và đi theo cô ra ngoài hoà lẫn vào đám đông khách du lịch và khách bộ hành đang chen chúc nhau trên quảng trường Jackson. Một nhạc công saxophone đang chơi một bản nhạc jazz trên nền tạp âm lẫn lộn của tiếng người nói, tiếng ngựa hí, tiếng động cơ ô tô tất cả đang ào lên như một đợt sóng của hơi nóng hầm hập dội vào đầu cô. Cố gắng hết sức để không để ý đến bầu không khí ngột ngạt đến mức khó thở, Grace đi len qua đám đông và những sạp hàng rong bày bán ngay cạnh hàng rào sắt vây quanh quảng trường Jackson. "Cậu hiểu điều đó mà," Selena nói khi bắt kịp cô. "Ý mình là, ôi chúa ơi, Grace, đã bao lâu rồi? Hai năm?" "Bốn năm," cô lơ đãng nói. "Nhưng ai thèm đếm cơ chứ?" "Bốn năm không làm tình?" Selena thảng thốt nhắc lại vẻ không tin. Một số người đi dạo dừng lại tò mò nhìn hết Selena lại đến Grace. Và như thường lệ sau khi thu hút sự chú ý của mọi người, Selena vẫn thản nhiên nói tiếp. "Đừng nói với mình cậu đã quên rằng bây giờ là thời đại điện tử rồi nhé? Ý mình là, thật ra thì có bệnh nhân nào của cậu biết đã bao lâu rồi cậu chưa làm tình không?" Grace nuốt miếng pho mát và ném cho Selena một cái nhìn nảy lửa. Không biết Selena có định hét lên cho tất cả mọi người và toàn thể lũ ngựa ở quận Vieux Carre này nghe thấy không? "Cậu nói nhỏ thôi," cô nói, rồi nói thêm với giọng khô khốc, "tớ thấy bệnh nhân của tớ chả có liên quan gì đến việc tớ tái sinh lại thành một trinh nữ cả. Nhân tiện nói về thời đại điện tử, tớ thực sự không muốn chuyện riêng tư của mình lại gắn với những thứ dán nhãn lưu ý nguy hiểm và lại có cả pin nữa." ... Mời các bạn đón đọc Người Tình Kỳ Ảo của tác giả Sherrilyn Kenyon.
Mười Rưỡi Đêm Hè - Marguerite Duras
Một anh chồng đã bắn chết cô vợ trẻ, tình nhân của cô ta và đang lẩn trốn trong thị trấn. Mười giờ rưỡi đêm hè ấy, Maria phát hiện ra chỗ trốn của kẻ sát nhân, rồi cứu hắn thoát khỏi vòng vây cảnh sát. Nhưng sau đó hắn lại tự sát. Tại sao Maria lại cứu hắn? Maria, Pierre, một cặp vợ chồng cùng đứa con gái nhỏ và Claire cùng đi du lịch trên chiếc xe ô tô nhỏ của riêng họ. Trên đường đi họ gặp một cơn mưa bão lớn, họ đành phải dừng nghỉ lại ở một thị trấn nhỏ. Ở đây, ngày hôm ấy xảy ra một vụ án mạng. Mười giờ rưỡi đêm, mùa hè, Pierre- chồng Maria và cô bạn Claire ôm hôn nhau say đắm trên ban công khách sạn. Cách đó vài mét là Rodrigo Paestra, kẻ bị truy nã vì vừa giết vợ hắn và người tình giữa lúc họ đang ăn nằm với nhau, đang trốn trên ống khói nóc nhà. Những cơn mưa tầm tã của đêm hè kéo đến hết đợt này sang đợt khác, như che giấu sự dan díu của cặp tình nhân, hủy hoại hình thù bất động của Rodrigo Paestra, tất cả những điều này đều diễn ra trong mắt Maria. Như sự xui khiến của số phận, Maria lẻn ra ngoài đưa Rodrigo Paestra đi trốn. Cô để lại hắn ở đồng lúa mì trên đường đi Madrid và hứa với hắn sẽ quay lại vào giữa trưa rồi trở lại khách sạn. Đêm hôm ấy, trong khách sạn, Pierre và Claire vẫn chưa đến với nhau. Maria kể lại kế hoạch cứu Rodrigo Paestra cho chồng và bạn, việc mà cô cho rằng sẽ cắt ngang chuyến nghỉ mát ở Madrid, nơi chắc sẽ diễn ra cuộc ái ân vụng trộm. Tuy nhiên, khi họ trở lại cánh đồng lúa mì, Rodrigo Paestra đã tự sát. Vậy là hành trình đến Madrid vẫn phải tiếp tục. Tại khách sạn họ dừng lại nghỉ trưa, Maria nói muốn ngủ. Claire đợi cô ngủ rồi sấn sổ ve vãn Pierre và họ ăn nằm chớp nhoáng với nhau. Maria biết điều này, cô biết họ sẽ đến với nhau và đã kiên nhẫn chờ đợi nó suốt cả chuyến đi. Trong mơ hay là thức, cô nghĩ đến Rodrigo Paestra tự sát trong đồng lúa mì, cô tưởng mình cũng đã chết giữa cánh đồng cô đơn ấy. Họ vẫn đến Madrid. Nơi thành phố đẹp rực rỡ ấy, Pierre, trong nỗi ăn năn dày vò, trong sự giãy giụa của mối tình đã chết đột nhiên thèm muốn Maria da diết. Anh gõ cửa phòng cô và điên cuồng ôm hôn cô… Marguerite Duras viết "Mười giờ rưỡi đêm hè" năm 1960, khi bà đã ở độ chín của đời người phụ nữ cũng như độ chín của sự nghiệp. Cuốn sách, vì vậy, phô diễn sự thăng hoa của một tài năng phóng khoáng và đa dạng. Chủ chương xóa nhòa các ranh giới trong văn chương, Marguerite Duras trong "Mười giờ rưỡi đêm hè" đã pha trộn tinh tế thể loại tiểu thuyết trinh thám và tiểu thuyết tâm lý tạo ra một thế giới hỗn loạn và ám gợi: vụ giết người của Rodrigo Paestra, cuộc lùng bắt kẻ sát nhân, việc Maria phát hiện kẻ tội phạm và sự dan díu giữa chồng cô với người đàn bà khác cùng lúc như một định mệnh... Tẩt cả thù hận - đam mê, tội ác - tình yêu, ý thức - vô thức xâm nhập lẫn nhau, càng cố che đậy càng bùng cháy đã dẫn dắt cốt truyện một cách khôn lường trước sự ngạc nhiên và căng thẳng chờ đợi của độc gỉa. Đặc biệt, Marguerite Duras bộc lộ khả năng đi sâu vào những ẩn ức của con người, năng lực khám phá những dòng mạch của vô thức qua tình cảm của Maria dành cho kẻ trừng phạt Rodrigo Paestra. Việc Maria mê mệt trong rượu, sắc đẹp của Claire, đôi bàn tay ve vuốt của Pierre,…là những biểu tượng của tình yêu ở tất cả sự ngọt ngào và man trá, gắn liền với vấn đề tình dục - nỗi ảm ảnh trong các tiểu thuyết hiện đại. Tác giả đã để lại nhiều khoảng trắng câm lặng ở những nơi đứt gãy mạch tâm trạng suốt tác phẩm, và cuối cùng là một kết cục dở dang cho số phận của các nhân vật làm cho tiểu thuyết đọng lại ở dư vị buồn thấm thía của bi kịch tình yêu. Cái kết để ngỏ đặt ra cho độc giả biết bao câu hỏi về sự sống, sự chết, ý nghĩa của cuộc đời, sự chung thủy và phản bội trong tình yêu, hạnh phúc và khổ đau… Một lát cắt trong cuộc đời của các nhân vật chính mà dung lượng tưởng như chỉ đủ cho một truyện ngắn, nhưng dưới ngòi bút tài tình của Marguerite Duras nó trở thành một tiểu thuyết mini với giọng văn hình sự đầy hấp dẫn. Giọng văn đặc trưng của Marguerite Duras khó chịu đến mức cuốn hút buộc người đọc phải đọc liền một hơi cho kỳ hết mới thôi. "Mười giờ rưỡi đêm hè" với những mâu thuẫn nghịch lý giữa tình yêu và tình dục đã biểu hiện tính chất phức tạp, tính hai mặt của cuộc sống con người vì thế mà thấm đượm tinh thần nhân văn của Marguerite Duras. *** - Pasestra, tên là thế. Rodrigo Paestra. - Rodrigo Paestra. - Phải. Và anh chàng bị hắn giết là Perez. - Toni Perez. Trên quảng trường, hai viên cảnh sát đi ngang dưới trời mưa. - Hắn giết Perez vào lúc mấy giờ? Người khách hàng không biết thật chính xác, khoảng quá trưa về chiều mà lúc này thì trời sắp tối. Đồng thời với Perez, Rodrigo Paestra giết luôn cả vợ mình. Hai nạn nhân được tìm thấy cách đây hai tiếng đồng hồ, mãi trong cùng một cái nhà xe, nhà để xe của Perez. Trong tiệm rượu, bóng tối đã lan dần. Tận cuối phòng, trên chiếc quầy ướt át, những cây nến được thắp lên và ánh sáng của chúng, vàng vọt, hoà lẫn với ánh sáng phơn phớt xanh của ngày tàn. Trận mưa rào bỗng tạnh đột nhiên như nó đã đột nhiên ầm ầm trút xuống. - Bao nhiêu tuổi, cô vợ của Rodrigo Paestra? – Maria hỏi. - Trẻ măng. Mười chín tuổi. Maria bĩu môi luyến tiếc. - Tôi muốn một ly rượu manzanilla nữa – chị bảo. Người khách hàng gọi cho chị một ly. Ông ta cũng uống rượu manzanilla. - Tôi băn khoăn sao họ vẫn chưa bắt được hắn ta nhỉ - chị nói tiếp – thành phố bé tí tẹo thế này. - Hắn thông thuộc thành phố còn hơn cả cảnh sát. Rodrigo, một tay cừ khôi đấy. Quầy rượu đông nghịt. Người ta bàn tán về tội giết người của Rodrigo Paestra. Ai nấy nhất trí về Perez, nhưng về cô nàng thì không. Một cô bé oắt con. Maria uống ly manzanilla. Người khách hàng ngạc nhiên nhìn chị. - Bà vẫn uống như thế này à? - Cùng tùy – chị nói – đại khái, vâng, gần gần như thế này. - Một mình? - Vâng, vào lúc này. Tiệm rượu không nhìn trực tiếp ra đường, nhưng ra một dãy nhà cầu hình vuông mà đại lộ chính của thành phố chia cắt, xuyên qua cả bên này lẫn bên kia. Dãy nhà cầu ấy có hàng lan can bằng đá vây quanh, mặt lan can đủ rộng và đủ vững chắc để chịu đựng sức nặng của bọn trẻ con nhảy lên trên hoặc nằm dài ra đấy nhìn những trận mưa rào ập đến và các cảnh sát đi qua. Trong số bọn trẻ ấy có Judith, con gái của Maria. Đứng tì tay lên một chiếc lan can cao đến ngang vai, nó nhìn ra quảng trường. Lúc này có lẽ vào khoảng sáu, bảy giờ tối. Một trận mưa rào nữa kéo đến và ngoài quảng trường chẳng còn ai. Những cây cọ lùn thành khóm, ở giữa quảng trường ấy, quằn quại trước gió. Các bông hoa, trong khóm cây, bị dập nát. Judith từ nhà cầu chạy tới và nép vào mẹ. Nhưng nỗi sợ hãi của nó đã bay biến. Những tia chớp loé liên tiếp đến nỗi chúng móc xích lại với nhau và sấm sét ầm ầm không dứt. Đôi khi chúng phá lên như tiếng gang tiếng thép, nhưng liền ngay đó lại chuyển sang tiếng ì ầm cứ nghẹt đi dần theo với trận mưa dịu ngớt. Trong nhà cầu trở nên yên lặng. Judith rời mẹ và chạy ra nhìn mưa cho gần hơn. Rồi nó nhìn quảng trường nhảy múa trong những sọc mưa rơi. - Mưa đến suốt đêm mất – người khách hàng nói. Mưa bỗng tạnh đột ngột. Người khách hàng rời quầy rượu và trỏ bầu trời xanh xẫm, nhiều vùng viền quanh bằng màu xám xịt như chì và sà xuống đến tận các mái nhà, vì trời rất thấp. Maria lại muốn uống nữa. Người khách gọi những ly manzanilla mà chẳng phê bình gì. Ông ta cũng sẽ làm thêm một ly. - Chính là chồng tôi muốn chọn Tây Ban Nha để đi nghỉ hè đấy. Chứ như tôi thì chắc đã ưng đi nơi khác hơn. - Đi đâu? - Tôi chưa nghĩ đến. Cùng một lúc đi khắp nơi. Và cả Tây Ban Nha nữa. Ông đừng để ý đến những điều tôi nói. Thực ra, tôi rất hài lòng được sang Tây Ban Nha mùa hè này. Ông ta cầm chiếc ly manzanilla của mình và đưa cho chị. Ông trả tiền cho bồi bàn. - Ông bà tới đây vào khoảng năm giờ phải không? – Người khách hàng hỏi – Hình như ông bà đi trong một chiếc Rover nhỏ màu đen, nó đã dừng lại trên quảng trường chứ gì? - Vâng – Maria nói. - Lúc ấy còn rất sáng – ông ta nói tiếp – Trời không mưa. Cả thảy có bốn người trong chiếc Rover màu đen ấy. Có ông chồng bà lái xe. Bà ngồi cạnh ông ta? Đúng không? Và phía sau có một cô bé – ông chỉ nó – cô bé này. Và một phụ nữ nữa. - Vâng. Chúng tôi gặp cơn dông từ lúc ba giờ chiều, giữa đồng không mông quạnh và con bé của tôi đâm sợ. Vì vậy, chúng tôi đã quyết định dừng lại ở đây chứ không đến Madrid tối nay. Người khách vừa nói vừa ngóng ra ngoài quảng trường, nhìn những viên cảnh sát do trời tạnh mưa, đã lại thấy đi qua đi lại và ông ta cố lắng nghe những tiếng còi rít lên từ mọi góc phố, lẫn trong tiếng sấm rì rầm. - Cô bạn tôi cũng sợ cơn dông lắm – Maria nói thêm. Phía mặt trời lặn là ở đầu đại lộ chính của thành phố. Đó là hướng đi tới khách sạn. Kể ra cũng chưa đến nỗi muộn lắm như người ta tưởng. Cơn dông đã làm rối tung cả giờ giấc, đã thúc đẩy chúng ta nhanh lên, nhưng nay mặt trời đã lại hiện ra, ửng hồng, qua bầu trời sâu thẳm. - Họ đang ở đâu? – Người khách hỏi. - Ở khách sạn Principal. Tôi phải về với họ đây. - Tôi vẫn nhớ. Một người đàn ông, chồng bà, bước một chân ra khỏi chiếc Rover màu đen và ông ấy đã hỏi tốp thanh niên là trong thành phố có bao nhiêu khách sạn. Và ông bà đã đi về hướng khách sạn Principal. - Chẳng còn phòng nào, tất nhiên. Lúc ấy cũng đã chẳng còn phòng nào. Bầu trời lại vần vũ đầy mây. Lại chuẩn bị một cơn dông nữa. Cái khối màu xanh sẫm của buổi chiều hôm ùn ùn như đại dương kia tiến lừ lừ phía trên thành phố. Nó từ phương đông kéo tới. Trời chỉ còn đủ ánh sáng lờ mờ để người ta nhìn thấy màu sắc đáng lo ngại của nó. Chắc là họ vẫn đứng ở rìa ban công. Đàng kia ở đầu đại lộ. Nhưng kìa đôi mắt em xanh, Pierre nói, lúc này là do bầu trời. - Tôi vẫn chưa thể về được. Ông nhìn mà xem, trời lại muốn đổ mưa. Lần này Judith chẳng vào nữa. Nó nhìn lũ trẻ chân đi đất chơi nghịch trong những rãnh nước ngoài quảng trường. Nước chảy nhớp nháp ở dưới chân chúng. Đó là một thứ nước màu đỏ quạch, đỏ như đá của thành phố và như đất quanh vùng. Tất cả đám thanh niên đều ở bên ngoài, trên quảng trường ấy, dưới bầu trời sấm vang chớp loé liên hồi. Người ta nghe thấy tiếng thanh niên huýt sáo du dương nổi lên giữa tiếng sấm rền. Mưa ập đến đây rồi. Đại dương trút xuống thành phố. Quảng trường biến mất. Dãy nhà cầu đầy những người. Trong tiệm rượu người ta nói to hơn để nghe cho rõ. Đôi khi người ta hét lên. Với những cái tên của Rodrigo Paestra và Perez. ... Mời các bạn đón đọc Mười Rưỡi Đêm Hè của tác giả Marguerite Duras.
Một Mảnh Trò Đời - Steve Toltz
"Một mảnh trò đời" được đánh giá là tác phẩm nặng ký của một nhà văn trẻ từng gây xôn xao văn đàn thế giới và sau đó được lọt vào danh sách shortlist của giải Man Booker 2008.  Các nhà phê bình đã từng có những lời khen tặng dành cho cuốn tiểu thuyết như: “hài hước vô biên,” "một quyển sách có thể chứa đựng bí mật cuộc đời,” “một chiếc tàu lượn nhào lộn điên loạn,” "Nghìn lẻ một đêm thời hiện đại”… Đó là những đánh giá dành cho cây bút người Úc sinh năm 1972, Steve Toltz. Chuyện sống không giống ai "Một mảnh trò đời" là câu chuyện về những nhân vật bất bình thường sở hữu những ý tưởng ngỡ như điên rồ sống một cuộc đời không giống ai. Câu chuyện diễn ra qua lời kể của hai cha con Martin Dean và Jasper Dean. Người cha Martin luôn có những suy nghĩ khác người, từng vào viện tâm thần và sau đó sống cuộc đời ẩn dật tại một căn nhà giấu trong một mê cung.  Các dự án kì lạ của ông đã giúp ông được nước Úc tung hô như anh hùng, nhưng cũng chính các dự án đó đã đẩy ông xuống vực sâu, phải trốn chạy khỏi nước Úc. Cậu con trai Jasper, chịu sự dạy dỗ khác người của bố từ bé, phải vật lộn chứng tỏ bản thân để thoát khỏi cái bóng của bố mình, chỉ để rồi sau đó nhận ra ông thật đáng thương và cậu yêu ông xiết bao.  Người gắn kết hai cha con là Terry Dean, em trai của Martin, một tên tội phạm khét tiếng của Úc, phạm tội với mục đích duy nhất là... làm trong sạch ngành thể thao! Cuốn sách đưa người đọc vào một chuyến phiêu lưu trên một phạm vi rộng lớn, và nhiều hoàn cảnh lạ lùng. Từ một vùng đất hoang xơ của xứ sở chuột túi đến thủ đô Paris phóng túng, tới những cánh rừng tại đất nước Thái Lan, đặt chân tới một mê cung kỳ quái, nhà thương điên, thâm nhập vào hang ổ tội phạm, cho tới chuyến vượt biên khủng khiếp lênh đênh trên biển...  Toàn bộ tạo ra một cơn lốc xoáy của các sự kiện, người đọc bị hút sâu vào một thế giới đầy rẫy những điều lập dị, kỳ quái. Gia đình nhà Dean bị cười chê bởi họ không suy nghĩ như đám đông, không hành động như đám đông.  Các nhân vật rất khác với số đông. Song có vẻ như chính cái số đông cho mình là bình thường mới là những kẻ đầu óc có vấn đề. Đó là số đông mù quáng khi tung hô những tên tội phạm lên thành anh hùng.  Đó là số đông vô cảm hau háu trước các tin tức giật gân, được đáp ứng bằng một bộ phận truyền thông sẵn sàng vào cuộc moi móc chuyện đời tư của người khác. Và khi giá trị giải trí không còn, số đông đó sẽ không ngần ngại tống những kẻ suy nghĩ ngược lại với họ vào tù, hoặc nhà thương điên. Truyện đặt ra nhiều câu hỏi như xã hội có thể chấp nhận sự khác biệt của các cá thể trong nó đến mức độ nào? Và mỗi con người có cần gò mình vào khuôn khổ để được chấp nhận, nếu không muốn đứng ngoài cuộc chơi? Câu hỏi đó đeo đẳng hai cha con Martin và Jasper suốt cuộc đời.  Những triết lý thấm thía Trong khi người bố quyết định sẽ làm kẻ khác người đến phút chót, thì cậu con trai, trước khi bước vào cuộc phiêu lưu của đời mình, lại lưỡng lự: “…khi bạn là đứa trẻ, để ngăn bạn làm theo số đông, bạn sẽ bị phủ đầu với câu: “Nếu mọi người nhảy khỏi cầu, con cũng làm thế ư?” nhưng khi bạn là người lớn và sự khác người bỗng dưng trở thành một cái tội, thì người ta hình như hay nói: “Này. Mọi người đang nhảy khỏi cầu. Sao cậu không làm đi?”” Tác giả Steve Toltz đã đặt những vấn đề đó vào một tác phẩm có thể ví như bữa tiệc thịnh soạn của ý tưởng và ngôn từ. Viết về những điều khác thường, người viết phải có một trí tưởng tượng cực kì phong phú.  Những ý tưởng sáng tạo và cách kể chuyện hài hước khiến câu chuyện lôi cuốn ngay từ đầu. Toltz gây tò mò với những sáng kiến kì dị: lập ra liên minh dân chủ tội ác, xuất bản cẩm nang tội ác cho tội phạm, xây nhà trong mê cung, biến tất cả những người Úc thành triệu phú…  Những suy nghĩ quái chiêu sẽ làm bạn đọc không nhịn được cười: “Anh sẽ ngạc nhiên khi biết nhiều tên trộm đã cởi găng tay ra để ngoáy mũi. Tôi muốn nhấn thật mạnh điều này: Đừng để dấu vân tay lại bất kì đâu! Ngay cả trong mũi của anh!” "Một mảnh trò đời" mang đầy hài hước, tốc độ ngôn từ nhanh khiến cho người tiếp nhận trước nhiều điều lạ lẫm ngày từ những gì ngỡ bình thường và thấy không thể tưởng tượng được mình đã buồn cười thế nào. Dịch giả Thi Trúc là dịch giả của hai tác phẩm văn học nổi tiếng là "Cọp trắng" (Aravind Adiga – giải Man Booker 2008) và "Bà Mụ" (Chris Bohjalian) chia sẻ rằng chị đã cố gắng chuyển thể tác phẩm thật sát với cách thể hiện trong nguyên tác với hy vọng bạn đọc cảm nhận được văn phong của tác giả và sự thú vị trong lối hành văn độc đáo. *** Cuốn tiểu thuyết từng lọt vào chung khảo giải Man Booker của nhà văn Úc Steve Toltz. Một ký ức tuổi thơ khác thường đầy chấn động của Jasper Dean. Ở đó, có sự thất bại triền miên của người cha, sự vắng mặt bí ẩn của người mẹ và người chú là kẻ phạm tội khét tiếng. Một tiểu thuyết nhiều cung bậc, tràn trề trải nghiệm, từ các xó xỉnh tận cùng đến những đỉnh cao thăng hoa, từ bần cùng tuyệt vọng đến sự thanh thoát cao cả. Tất cả trộn lẫn trong một giọng văn hài hước đến chua chát. Gia đình tỉnh táo nào cũng giống nhau - nhưng mỗi gia đình điên rồ lại điên rồ theo một cách khác nhau. Khi hồi tưởng những sự kiện bất thường dẫn đến cái chết ngoạn mục của người bố tên Martin, Jasper Dean đã kể lại chính tuổi thơ đầy rẫy những kế hoạch điên khùng và phát hiện chấn động - về ông chú tội phạm đầy tai tiếng Terry Dean, người mẹ vắng mặt một cách bí ẩn của anh ta, và thất bại triền miên của Martin trong nỗ lực để lại dấu ấn trên cõi đời. Từ rừng rú nước Úc đến Paris phóng túng, từ những cánh rừng của Thái Lan đến các mê cung, nhà thương điên, và hang ổ tội phạm, và từ đỉnh cao của mối tình đầu đến vực sâu của tham vọng bất thành, “Một mảnh trò đời” là một cuộc phiêu lưu khó quên. *** Steve Toltz là một tiểu thuyết gia người Úc. Anh sinh năm 1972 ở Sydney. Tiểu thuyết đầu tay của Toltz là A fraction of the whole (xuất bản ở Việt Nam dưới tên Một mảnh trò đời) đã đoạt giải Man Booker năm 2008. Toltz đã từng học tại trường Knox Grammar School, Killara High School và tốt nghiệp trường đại học Newcastle, ở New South Wales vào năm 1994. Vì sự nghiệp văn chương của mình, anh đã từng chuyển đến sống ở Montreal, Vancouver, New York, Barcelona và Paris, với nhiều công việc khác nhau như: quay phim, tiếp thị viễn thông, bảo vệ, thám tử tư, giáo viên tiếng Anh và biên kịch phim. Toltz đã cưới nữ họa sĩ đầy triển vọng mang trong mình hai dòng máu Pháp-Úc Marie Peter Toltz vào năm 2005. Họ sinh được một người con trai vào năm 2012. Trong một lần trả lời phỏng vấn cho trang The Book Depository, Toltz cho biết với anh, việc khó khăn nhất trong quá trình viết một cuốn sách chính là: chờ đợi cho đến khi khả năng bản thân bắt kịp được tham vọng của mình. Anh đã mất 5 năm để viết tiểu thuyết đầu tay A fraction of the whole. Khi sáng tác, Steve viết tay liên tục trong hai tiếng đồng hồ và mục tiêu của anh là cố gắng hết mức để mỗi ngày có thể viết càng nhiều những lần hai tiếng càng tốt. Vào buổi tối, nếu như có tinh thần kỉ luật, Toltz sẽ đánh máy lại tất cả những gì mình đã viết vào buổi sáng. Nếu như không có được tinh thần tự giác kỉ luật ấy, mà tình trạng này thường xuyên xảy ra nhiều hơn là có, những bản viết tay sẽ chất chồng, sau đó Toltz phải dành toàn bộ những ngày riêng rẽ chỉ để chuyển thứ mình đã viết lên máy tính. Thường thì chữ viết tay của anh rất khó đọc và anh phải cố gắng để đoán xem mình đã viết gì. Những lúc không viết, sở thích của Toltz khi rảnh rỗi là: đọc sách, chơi guitar, đi bộ, xem phim… Những tác giả mà anh yêu thích là: Knut Hamsun, Dostoyevsky, E.M. Cioran, Henry Miller, Raymond Chandler, Roberto Bolano, Celine, Thomas Bernhard. Những tác phẩm mà anh yêu thích phần lớn cũng là những tác phẩm do các tác giả kể trên viết. Tuy nhiên, có một số tác phẩm khác anh yêu thích như: Winsberg, Ohio của Sherwood Anderson; A hero of our time của Lermontov; Revolutionary Road của Richard Yates; Moravagine của Blaise Cendrars.   Mời các bạn đón đọc Một Mảnh Trò Đời của tác giả Steve Toltz.
Đêm Trắng - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Đêm Trắng là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (một cây đại thụ trong văn học Nga thế kỷ thứ 19) viết về một mối tình lãng mạn cao thượng và trong trắng đến nao lòng, diễn ra trong những đêm trắng thơ mộng bên bờ sông Neva ở thành phố Sankt Peterburg. Đêm Trắng kể về sự gặp gỡ giữa một người đàn ông 26 tuổi, là người mơ mộng và cô gái Naxtenca 17 tuổi mộng mơ hơn hẳn người mơ mộng kia. Họ vô tình gặp nhau và cùng nhau thoát ra khỏi những vỏ bọc, thế giới cô độc của riêng mình, cùng được chia sẻ và thương yêu. Lần đầu tiên người đàn ông nhìn thấy Naxtenca là khi cô đang đứng bên đường và khóc một mình vì nỗi buồn nào đó khi trời đã về khuya. Có điều gì đó đặc biệt ở cô gái này khiến ông rất tò mò. Ông giải thoát cô khỏi một kẻ quấy rối. Họ quen nhau và cùng chuyện trò trong 4 đêm trắng... *** Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (thường phiên âm là "Đốt-xtôi-ép-xki") là nhà văn nổi tiếng người Nga, sinh ngày 11 tháng 11, 1821 và mất ngày 9 tháng 2 (lịch cũ: 28 tháng 1), 1881. Cùng với Lev Tolstoy, Dostoevsky được xem là một trong hai nhà văn Nga vĩ đại thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông, như Anh em nhà Karamazov hay Tội ác và hình phạt đã khai thác tâm lý con người trong bối cảnh chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỷ 19. Ông được giới phê bình đánh giá rất cao, phần lớn xem ông là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20, chẳng hạn, Walter Kaufman xem Bút ký dưới hầm là "tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh tuyệt vời nhất từng được viết". Tuy nhiên ở Liên Xô, sau Cách mạng tháng Mười, người ta hầu như phủ nhận toàn bộ các sáng tác của Dostoevsky. Từ 1972, tác phẩm của Dostoevsky mới được nhìn nhận lại và đánh giá đúng mức ở quê hương của mình. Tại Việt nam, các tác phẩm của ông được xuất bản với tên Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, một số như: Tội Ác Và Sự Trừng Phạt Đêm Trắng Là Bóng hay Là Hình Bút Ký Dưới Hầm Anh em nhà Karamazov Lũ Người Quỷ Ám Gã Khờ ... *** Đó là một đêm kì diệu, một đêm mà có lẽ chỉ có thể có được khi chúng ta còn trẻ, hỡi bạn đọc thân mến. Bầu trời đầy sao, một bầu trời lộng lẫy đến mức ngước nhìn lên nó ta phải bất giác tự hỏi mình: chẳng lẽ những con người cau có, trái tính trái nết đủ loại lại có thể sống dưới một bầu trời như thế? Đây cũng là một câu hỏi của tuổi trẻ, hỡi bạn đọc thân mến, một câu hỏi rất trẻ, nhưng cầu xin Đức Chúa Trời ban cho bạn thường xuyên hơn câu hỏi ấy!.. Còn nói về những quý ngài trái tính trái nết và cau có đủ loại thì tôi không thể không nhớ lại cách xử sự hợp lẽ của tôi trong cả ngày hôm đó. Ngay từ sáng sớm tôi đã bị một nỗi buồn kì lạ hành hạ. Tôi bỗng nhiên có cảm giác rằng tôi, một kẻ cô đơn, đang bị tất cả bỏ rơi, xa lánh. Tất nhiên, bất kì ai cũng có quyền hỏi: tất cả là ai? Bởi vì tôi sống ở Peterburg 1 đã tám năm nay mà hầu như chưa hề làm quen được với một người nào. Nhưng tôi phải làm quen để làm gì? Không có việc đó thì cả thành phố Peterburg cũng đã quen thuộc với tôi rồi; mà chính vì thế nên tôi mới cảm thấy tất cả đều bỏ rơi tôi khi toàn bộ thành Peterburg bỗng đột ngột kéo nhau ra các nhà nghỉ ngoại thành. Ở lại một mình tôi rất sợ, và suốt ba ngày dài tôi lang thang khắp thành phố trong nỗi buồn nặng nề và tuyệt nhiên không hiểu cái gì đang xẩy ra với mình. Dù xuôi đại lộ Nevxki, dù vào công viên hay lang thang dọc con đường bờ sông - không một khuôn mặt nào tôi vẫn quen gặp ở những nơi đó vào một giờ nhất định trong suốt cả năm qua. Tất nhiên mọi người không biết tôi, nhưng thôi lại biết họ. Tôi biết họ khá rõ; tôi gần như đã nghiên cứu từng khuôn mặt họ - tôi thích thú ngắm nhìn họ khi họ vui vẻ, và tôi buồn khi họ rầu rĩ u ám. Tôi gần như đã kết bạn với một ông mà tôi vẫn gặp hàng ngày vào một giờ nhất định ở Đài Phun Nước. Ông ta có vẻ mặt trang trọng, trầm tư, lúc nào cũng lẩm bẩm nói chuyện một mình và vung vẩy tay trái, còn trong tay phải là cây gậy dài có nhiều mấu, tay cầm bịt vàng. Ông ta thậm chí đã nhận ra tôi và tỏ vẻ thân thiện đối với tôi. Nếu như vào cái giờ nhất định đó mà tôi không có mặt ở cạnh Đài Phun Nước thì chắc là ông ta cảm thấy buồn. Chính vì vậy mà có khi chúng tôi đã gần như nghiêng người chào nhau, nhất là vào những hôm cả hai thấy trong lòng sảng khoái. Một lần cách đây không lâu, suốt hai ngày chúng tôi không gặp nhau, đến ngày thứ ba vừa trông thấy nhau chúng tôi đã suýt túm lấy vành mũ, nhưng kịp nhớ lại và hạ tay xuống, đi ngang qua nhau với mối đồng cảm trong lòng. Cả những ngôi nhà cũng quen biết tôi. Khi tôi đi ngang qua, chúng dường như chạy ra đón gặp, nhìn tôi bằng tất cả các cửa sổ và hình như nói với tôi: "Chào anh, sức khoẻ anh thế nào? Còn tôi, nhờ trời vẫn khoẻ, đến tháng Năm này tôi sẽ có thêm một tầng nữa". Hay là: "Anh có khoẻ không? Còn tôi ngày mai sẽ được sửa chữa". Hoặc: "Hôm rồi tôi suýt cháy rụi, làm tôi sợ quá", và vân vân... Trong số đó có những ngôi nhà tôi yêu thích, có những ngôi nhà là bạn thân thiết của tôi; có một ngôi nhà mùa hạ này sẽ nhờ kiến trúc sư chạy chữa. Tôi sẽ cố hàng ngày ghé qua thăm để người ta, cầu chúa ban ơn, chạy chữa cho nó đến nơi đến chốn... Và không bao giờ tôi quên câu chuyện xảy ra với ngôi nhà nhỏ màu hồng tươi cực xinh xắn. Đó là một ngôi nhà bằng đá dễ thương, đối với tôi hết sức niềm nở và nhìn những hàng xóm xấu xí của mình kiêu hãnh đến mức mỗi khi đi qua nó tôi thấy tim mình rộn lên vui sướng. Bỗng nhiên tuần trước khi đi trên phố, vừa nhìn thấy người bạn quen thì tôi chợt nghe một tiếng kêu não ruột: "Mà người ta sắp quét sơn vàng lên tôi đấy!" Quân độc ác! Lũ người man rợ! Họ không thương tiếc một cái gì hết: cả những dãy cột tròn, cả những mái đua, và người bạn của tôi vàng ệch ra như một con chim hoàng yến. Tôi suýt lộn ruột lên vì chuyện ấy và đến giờ không dám đến nhìn lại mặt người bạn đáng thương dị dạng của tôi đã bị trét lên cái màu của các hoàng đế Trung Hoa. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Trắng của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.