Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Trẻ Cát

Tahar Ben Jelloun sinh năm 1944, nhà văn người Ma-rốc viết bằng tiếng Pháp. Đứa trẻ cát xuất bản năm 1985, được báo chí Pháp ca ngợi và độc giả đón đọc say mê ngay từ khi vừa phát hành. Đêm thiêng là phần tiếp nối và bổ sung cho đề tài Đứa trẻ cát nổi tiếng đã đưa ông đến với giải Goncourt 1987.   Chuyện xảy ra tại một khu đông dân của một thành phố Ả Rập, ông chủ lò gốm cay cú vì vợ sau bảy lần sinh chỉ toàn là con gái. Cảm thấy xấu hổ, nhục nhã vì không có con trai thừa kế, ông ta đã đi đến một quyết định thách thức với số mệnh rằng dù thế nào đi nữa, đứa con sắp ra đời dứt khoát phải là một thằng con trai. Thật oái oăm, đứa thứ tám chào đời vẫn là con gái. Thế rồi Ahmed - tên đứa trẻ sơ sinh - được trình làng và nuôi dạy như một đứa con trai. Nhưng sau bao năm tháng, cậu bé lớn lên, bối rối khám phá ra ý nghĩa đích thực của cái mà người ta vẫn che giấu cậu: giới tính.   Những di chứng quái gở của tôn giáo, sự ngu muội ở một bộ phận cộng đồng là lí do dẫn dắt ông bố đi đến một quyết định sai lầm kéo theo sau đó bao nhiêu tai họa cho gia đình, cho đứa con mà ông bất chấp mọi quy luật áp đặt nên. Và đó cũng là mục tiêu mà tác giả cũng đã tập trung phê phán trong một số tiểu thuyết khác của ông. Và không chỉ có vậy, François Nourissier, viện sĩ Viện hàn lâm Pháp, trong khi đánh giá về tiểu thuyết của Tahar Ben Jelloun, đã gọi đó là những tiểu thuyết của sự lưu đày, của trạng thái không thể hòa nhập, của sự chia rẽ của hai nền văn hóa!  ***  Tahar Ben Jelloun (Tiếng Ả Rập: الطاهر بن جلون‎) (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1944 tại thành phố Fes, Ma-rốc) là một nhà thơ, nhà văn người Ma-rốc. Mặc dù ngôn ngữ mẹ đẻ của ông là tiếng Ả rập nhưng hiện nay, các tác phẩm của ông đều được viết bằng tiếng Pháp.   Học trung học ở một trường song ngữ (tiếng Ả Rập và tiếng Pháp), sau đó Ben Jelloun học tiếp tiếng Pháp ở thành phố Tangier miền bắc Ma-rốc cho tới năm 18 tuổi. Đỗ vào trường đại học Mohamned-V ở Rabat, ông theo học ngành triết học. Trong những năm học đại học, ông đã viết nên những bài thơ đầu tiên của mình (được tập hợp trong tập thơ Hommes sous linceul de silence (1971)).   Tốt nghiệp, Ben Jelloun trở thành giáo sư dạy triết học ở Tetouan rồi sau đó ở Casablanca, Ma-rốc. Năm 1971, sau sự việc môn triết không được dạy bằng tiếng Ả Rập nữa, ông rời Ma rốc và đến Pháp để tiếp tục sự học môn triết của mình. Ở Pháp, ông bắt đầu viết nhiều hơn.   Đầu năm 1972, Ben Jelloun bắt đầu viết bài cho tờ Le Monde (Thế giới). Năm 1975, ông được công nhận học vị tiến sĩ về tâm thần học. Với những kinh nghiệm về tâm lý liệu pháp (nhờ vào những khảo cứu và lòng say mê), ông viết cuốn La Réclusion solitaire vào năm 1976.   Năm 1985, Ben Jelloun xuất bản cuốn tiểu thuyết L'enfant de sable (Đứa trẻ cát) được ca tụng rộng khắp. Ông được trao giải Goncourt năm 1987 cho tiểu thuyết La Nuit Sacrée (Đêm thiêng).   Năm 1997, cuốn Le Racisme expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) được ông cảm tác dựa trên những thực tế trong gia đình mình được xuất bản.   Ông thường xuyên được mời diễn thuyết hoặc thỉnh giảng tại các trường đại học ở Ma-rốc và trên khắp châu Âu.   Năm 2004, Ben Jelloun giành được giải thưởng văn học quốc tế IMPAC Dublin cho tác phẩm This Blinding Absence of Light (do Linda Coverdale dịch sang tiếng Pháp). Ông cũng giành được giải Prix Ulysse vào năm 2005 cho toàn bộ sự nghiệp của mình.   Tháng 9 năm 2006, Ben Jelloun giành được giải đặc biệt vì “hòa bình và tình hữu nghị giữa người với người” tại Lễ hội văn hóa Lazio between Europe and the Mediterranean Festival được tổ chức tại Rome, Lazio nước Ý.   Ngày 1/2/2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã trao cho ông Huân chương Bắc đẩu Bội tinh.   Ben Jelloun có 4 người con và hiện đang sống tại Paris.   Hai cuốn tiểu thuyết L'Enfant de sable (Đứa trẻ cát) và La Nuit sacrée (Đêm thiêng) đã được dịch ra 43 thứ tiếng. Cuốn Le racism expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) đã được dịch ra 33 thứ tiếng. Bản thân ông cũng tham gia vào việc chuyển ngữ những tác phẩm của chính mình.     Tác phẩm chính:   Harrouda (1973)  Solitaire (Cô đơn) (1976)  The Sand Child (Đứa trẻ cát) (1985)  The Sacred Night (Đêm thiêng) (1987)  Silent Day in Tangiers (Ngày yên lặng ở Tangier) (1990)  With Downcast Eyes (Mắt cúi gằm) (1991)  Corruption (Tham nhũng) (1995)  The Fruits of Hard Work (Thành quả lao động) (1996)  Praise of Friendship (Ca ngợi tình bạn) (1996)  L'Auberge des pauvres (1997)  Racism Explained to My Daughter (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) (1998)  Islam Explained (Về đạo Hồi) (2002)  This Blinding Absence of Light (2003)  La Belle au bois dormant (Người đẹp ngủ trong rừng) (2004)  The last friend (Người bạn cuối cùng) (2006)  Yemma (2007)  Leaving Tangier (Rời bỏ Tangier) (2009)  The Rising of the Ashes (Tàn tro bốc cao) (2009)   *** Ấn tượng đầu tiên là khuôn mặt ấy dài ngoẵng bởi những nếp nhăn chạy dọc, những nếp nhăn giống như những vết sẹo bị cày xới bởi những trận mất ngủ triền miên, một khuôn mặt râu cạo nham nhở, bị thời gian tàn phá. Cuộc sống - cuộc sống nào đây? Một ngoại hình kì dị được sinh ra để rồi bị lãng quên - có bổn phận ngược đãi, ngáng trở, và thậm chí phải làm cho anh ta tức tối. Người ta có thể đọc hoặc có thể đoán ra được trên gương mặt ấy nỗi đau khổ ê chề mà chỉ cần một cử chỉ vụng về của bàn tay, một ánh mắt bênh vực, một con mắt dò xét hoặc ác ý cũng đủ làm cho vết thương ấy lại tấy lên nhức buốt. Anh ta thường tránh phô bày thân hình ra giữa ánh sáng chói chang và giấu hai con mắt vào sau làn tay áo. Ánh sáng của ban ngày, của một ngọn đèn, hoặc của mặt trăng rằm, đều làm cho anh ta đau đớn: tia sáng ấy muốn lột trần thân xác anh ta, len lỏi vào từng làn da thớ thịt và khám phá ra ở đó nỗi tủi hổ xót xa và những giọt nước mắt thầm kín. Anh ta cảm thấy luồng ánh sáng đó lướt qua cơ thể như một ngọn đuốc thiêu cháy tất cả những chiếc mặt nạ của anh, như lưỡi dao lần lần lột bỏ tấm voan bằng thịt ngăn cách anh ta với những người khác. Anh ta sẽ ra sao nếu khoảng không gian bảo vệ, ngăn cách anh ta với những người khác bị xóa bỏ? Lẽ nào anh ta lại bị phơi ra trần truồng, không một phương tiện tự vệ, trong tay những kẻ luôn rượt đuổi anh chỉ vì muốn thỏa mãn thói tò mò, tính đa nghi và thậm chí chỉ vì một mối hận thù dai dẳng; bọn họ không bao giờ bằng lòng với sự im lặng và trí thông minh của một kẻ luôn gây phiền hà cho họ bằng sự hiện diện độc đoán và đầy bí ẩn.   Ánh sáng lột trần cơ thể anh ta. Tiếng ầm ĩ làm cho anh ta bấn loạn. Từ ngày giam mình trong căn phòng nhìn ra sân thượng, anh ta không còn bị cái thế giới ồn ào kia tra tấn nữa, mỗi ngày một lần, anh ấy tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua việc mở cửa cho Malika, bà giúp việc vẫn thường đưa thức ăn, đồ uống, báo chí và một bát hoa cam vào phòng cho anh. Anh ta rất quý mến bà lão vì bà đã trở thành một thành viên của gia đình. Kín đáo và dịu dàng, bà không khi nào lục vấn anh ta bất cứ điều gì, mà cả hai cứ như những kẻ tòng phạm, nhờ vậy họ rất gắn bó với nhau.   Tiếng ồn. Tiếng ồn của những giọng nói the thé hoặc nhạt nhẽo. Tiếng ồn của những tiếng cười thô lỗ, từ những tiếng hát chói tai phát ra từ chiếc radio. Tiếng ồn của những xô nước hắt ra ngoài sân. Tiếng ồn của lũ trẻ đang hành hạ một con mèo mù hay một con chó chỉ còn ba chân bị lạc vào giữa những đường phố hẹp, nơi những con vật và những người điên thường bị vướng bẫy. Tiếng ồn của những lời than vãn, nỉ non của những người ăn mày. Tiếng ồn chói tai của một chiếc loa phóng thanh, năm lần mỗi ngày, rè rè phát lời mời cầu nguyện. Đôi khi tiếng loa không còn là lời gọi mời cầu nguyện nữa mà là một cử chỉ xúi giục làm loạn. Tiếng ồn của mọi giọng nói và những tiếng la ó từ ngoài phố vọng vào và neo lại ở kia, ngay phía trên căn phòng của anh ta, đã đến lúc gió hãy cuốn chúng đi hoặc giảm bớt âm lượng của chúng.   Anh ta đã khuếch trương những dị ứng đó; cơ thể quá nhạy cảm và dễ xúc động của anh ta đón nhận mọi thứ dị ứng dù chỉ là một chấn động rất nhỏ, hấp thụ và giữ cho chúng luôn phát huy tác dụng, vì thế giấc ngủ của anh ta thật khó khăn nếu không muốn nói là không thể. Các giác quan của anh ta không hề bị rối loạn như người ta vẫn nghĩ. Mà ngược lại, chúng trở nên đặc biệt sắc sảo, năng động và không biết mệt mỏi. Chúng thực sự phát triển và chiếm lĩnh toàn bộ vị trí trong cái thân xác mà cuộc sống đã làm đảo lộn và số phận bị đổi hướng.   Khứu giác của anh ta có khả năng phân biệt được tất cả. Lỗ mũi đem đến cho anh ta mọi thứ mùi, ngay cả những thứ mùi không còn ở đó nữa. Anh ta nói rằng anh ta có khứu giác của người mù, thính giác của một xác chết đang ấm nóng và thị giác của một nhà tiên tri. Nhưng cuộc sống của anh ta không phải là cuộc sống của một vị thánh, tuy nhiên, cuộc sống ấy cũng có thể trở nên tốt đẹp như thế nếu như anh ta không có quá nhiều thứ phải làm.   Từ khi lui về ẩn dật trong căn phòng trên cao này, anh ta chẳng tiếp chuyện bất cứ ai. Anh ta cần một thời gian dài, có thể là nhiều tháng để thu nhặt các bộ phận của mình, sắp xếp lại quá khứ theo trình tự thời gian, sửa chữa cái hình ảnh bi thảm mà mọi người xung quanh đã dành cho anh ta trong thời gian gần đây, thu xếp một cái chết mà anh ta đã kí thác vào đó tất cả: cuốn nhật ký riêng tư, những điều bí mật của anh ta - có thể chỉ có cuốn sổ này là điều bí mật duy nhất - và cũng có thể đây là bản phác thảo một câu chuyện mà chỉ mình anh ta nắm giữ chìa khóa mà thôi.   Một màn sương mù dày đặc bao bọc dai dẳng xung quanh anh ta, che chắn cho anh những ánh mắt đầy ngờ vực và những lời thị phi của những người bà con và hàng xóm vẫn to nhỏ với nhau trước ngõ. Bức màn màu trắng này làm cho anh ta bình tâm trở lại, đưa anh ta vào giấc ngủ yên lành và nuôi dưỡng những giấc mơ tuyệt vời của anh.   Chuyện ẩn cư của anh ta không làm cho gia đình phải suy nghĩ nhiều. Họ đã quen với cảnh nhìn anh ta đắm chìm trong sự câm lặng ghê người, hoặc trong những cơn cáu giận bùng phát hết sức phi lí. Có cái gì đó không thể xác định được một cách minh bạch đã xen vào giữa anh ta và những người còn lại trong gia đình. Chắc hẳn là anh ta có những lí do riêng, và chỉ có mình anh ta là có thể nói ra được thôi. Anh ta quả quyết rằng thế giới của anh ta chỉ thuộc về anh ta mà thôi, và rằng cái thế giới ấy ưu việt hơn rất nhiều so với thế giới của bà mẹ và các chị của mình - nói tóm lại là rất khác nhau. Thậm chí anh ta còn nghĩ rằng mẹ và các chị không thể có một thế giới riêng nào hết. Họ bằng lòng sống ở bề ngoài sự vật, không đòi hỏi gì lớn, tuân theo quyền uy, những luật lệ và ý muốn của anh ta. Mặc dù không nói với nhau, nhưng phải chăng bà mẹ và những người chị gái đều cho rằng anh ta đã lựa chọn và chấp nhận lối sống lặng lẽ ấy, bởi lẽ anh ta không còn làm chủ được bản thân, không làm chủ được hành vi và sự biến thái trong con người mình do những cú sốc thần kinh căng thẳng tột độ lúc nào cũng chực làm anh ta mất trí? Ít lâu nay, bước chân của anh ta đã bớt đi dáng vẻ của một người đàn ông độc đoán, một chủ nhân không bị ai tranh ngôi đoạt vị trong gia đình, một người đàn ông thay cha quán xuyến mọi việc trong gia đình.   Lưng anh ta đã bắt đầu còng xuống, đôi vai buông xuôi một cách vô duyên, trở nên nhỏ hẹp và mềm nhũn, chúng k còn ý định làm chỗ dựa êm ái cho mái đầu của người tình hoặc là chỗ đặt bàn tay thân tình của bạn bè. Anh ta cảm thấy một khối nặng vô hình đè lên lưng, đến nỗi mỗi bước đi phải gắng ngẩng mặt lên và giữ cho thật cân bằng để khỏi ngã. Anh ta lết đi từng bước, nặng nhọc di chuyển thân mình, âm thầm chống chọi với những cơn đau dồn dập ập đến.   Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Cát của tác giả Tahar Ben Jelloun.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nguyện Ước Tháng Năm
Đỏ là một cây cổ thụ một trăm mười sáu tuổi và đồng thời là cây nguyện ước của khu phố nơi mọi người đến buộc điều ước của mình vào ngày mùng một tháng Năm hằng năm. Đỏ đã chứng kiến rất nhiều chuyện, đã lắng nghe rất nhiều điều ước, và năm nay, khi một gia đình người Hồi giáo chuyển tới sinh sống trong khu, Đỏ đã nhận được một điều ước đặc biệt từ cô bé Samar: cô bé ước có một người bạn. Khi Đỏ hay tin mình sắp sửa bị đốn hạ, cậu đã dùng hết khả năng của một cây cổ thụ để giúp Samar biến ước nguyện thành sự thật. *** Trò chuyện với cây cối không phải là việc dễ dàng, bởi chúng tôi hơi kiệm lời. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi không thể làm được những chuyện đáng kinh ngạc, những chuyện mà loài người có lẽ chẳng bao giờ làm. Che chở cho những nhóc cú sơ sinh. Biến thành những ngôi nhà cây chắc chắn. Và quang hợp nữa. Nhưng trò chuyện với con người ấy hả? Không nhé. Và chắc chắn không ai có thể kì vọng một cái cây kể chuyện cười cho nghe. Cây cối chỉ trò chuyện với một vài người bạn, những người chúng tôi biết là đáng tin cậy ấy mà. Chúng tôi tán gẫu với lũ sóc liều lĩnh, đám sâu chăm chỉ, những cô bướm đỏm dáng, và cả những chú ngài bẽn lẽn nữa. Đám chim như thế nào à? Lúc nào cũng vui tươi. Họ nhà ếch thì sao? Mặt mũi quàu quạu, nhưng rất tốt tính. Rắn nữa? Chuyên gia buôn chuyện đấy. Còn cây? Chà, tôi chưa gặp cái cây nào khó ưa cả. À thì, chỉ có mỗi cây đinh hương ở góc đường thôi. Í éo í éo í éo cả ngày, chính là nó đấy. Vậy cây cối có bao giờ nói chuyện với loài người không? Lên tiếng thực sự - một khả năng rất “người” ấy? Câu hỏi hay đấy. Thật ra mối quan hệ giữa cây cối và loài người rất phức tạp. Chỉ vừa ôm ấp bọn tôi xong mà ngay sau đó các bạn đã có thể biến chúng tôi thành vài cái bàn gỗ, hoặc mấy que đè lưỡi được rồi. Có thể bạn đang tự hỏi sao vụ cây biết nói này không được nhắc đến trong mấy lớp Khoa học nhỉ, mấy cái tiết gì mà “Mẹ Thiên nhiên là bạn thân của loài người” ấy? Chà, đừng vội trách móc thầy cô của bạn nhé. Chẳng qua là họ không biết cây có thể nói chuyện thôi. Hầu hết loài người đều không biết điều này. Nhưng dù sao thì, nếu một ngày đặc-biệt-may-mắn nào đó, bạn tình cờ đứng cạnh một cái cây trông đặc-biệt-thân-thiện, thì hãy thử lắng nghe xem. Cây cối không giỏi nói đùa lắm. Nhưng chúng tôi chắc chắn biết kể những câu chuyện hay. Và nếu bạn chỉ nghe được tiếng lá cây rì rào, thì cũng đừng buồn. Chỉ vì đa số cây cỏ tụi tôi đều là những kẻ rụt rè hướng nội thôi. Mời các bạn đón đọc Nguyện Ước Tháng Năm của tác giả Katherine Applegate & Hoàng My (dịch).
Người Quét Dọn Tâm Hồn
Người Quét Dọn Tâm Hồn là những ghi chép của Hiroshe Kamata, người đã có 15 năm cống hiến cho việc giữ sạch công viên giải trí Disneyland Nhật Bản. Vì điều này mà những diễn biến trong tập sách đều là câu chuyện có thật, xảy ra tại nơi được mệnh danh là vương quốc của những giấc mơ. Điểm thú vị là những nhân vật của Hiroshe Kamata đều đang ở những vị trí khá thấp. Đó là những người quét dọn, người giữ sạch Disneyland Nhật Bản, giữ cho những thứ đồ chơi trong công viên này long lanh để phục vụ du khách… Có người yêu thích, có người không yêu công việc họ đang làm. Cũng có người yêu thích, nhưng vẫn nhiều mặc cảm khi ở trong bộ đồng phục lao công, chiếc chổi trên tay... Nhưng, qua những tính cách thú vị tiềm ẩn ở mỗi nhân vật, người đọc sẽ khám phá ra ánh hào quang tỏa ra từ những con người thầm lặng, đang làm đẹp cho Disneyland. Người tạo cảm hứng để Hiroshe Kamata viết nên tập sách này là Chuck Boyajian, người được biết đến với danh hiệu "Thần quét dọn" trụ sở Disneyland ở Mỹ. Chỉ bằng biểu cảm của ông trong việc lao dọn nhà vệ sinh, ông đã giúp tác giả Người quét dọn tâm hồn tìm thấy niềm vui, niềm tự hào trong công việc. Để rồi từ đó, Hiroshe Kamata luôn cố gắng để lan tỏa tinh thần của “Thần quét dọn” đến tất cả nhân viên của mình.  Thông điệp của tập sách đơn giản nhưng lại hết sức ấn tượng: Dù bạn là ai, đang làm công việc gì, chỉ cần tìm thấy tình yêu và chân giá trị của công việc, bạn cũng sẽ tỏa sáng. Đôi nét về tác giả Hiroshe Kamata: Ông sinh năm 1950 tại Miyagi. Sau 15 năm làm việc tại Disneyland, từ vị trí giám sát bộ phận quét dọn bạn đêm đến vị trí giám sát ban ngày và cuối cùng là quản lý bộ phận giáo dục, ông quyết định rời Disneyland và thành lập một công ty cố vấn với mục tiêu truyền đạt tất cả kiến thức của ông về bồi dưỡng nguồn nhân lực đến thật nhiều doanh nghiệp. *** T rong cuộc đời mỗi người đều có những khoảnh khắc không bao giờ quên. Đến tận bây giờ, mỗi khi nhắm mắt lại, trong tâm trí tôi vẫn hiện rõ một hình ảnh sẽ theo tôi đến cuối cuộc đời. Đó là vào ngày mùa đông lạnh giá 28 năm trước, trong những cơn gió lạnh buốt, dữ dội, một điều kỳ diệu đã xảy ra tại văn phòng làm việc tạm thời ở khu vực xây dựng Disneyland Tokyo, thành phố Urayasu. Thời gian đó, tôi bị bủa vây bởi rất nhiều mối lo và áp lực. Tôi luôn tự động viên mình: “Cố lên nào! Nếu tiếp tục cố gắng, mình sẽ có được một công việc ở Disneyland”. Cuối cùng, sau 5 lần ứng tuyển, tôi cũng được nhận vào làm việc tại Disneyland. Tôi cảm thấy hạnh phúc với vị trí Night Custodial, tức “người hướng dẫn kiêm giám sát nhân viên quét dọn ca đêm”. Đó là nhiệm vụ rất đáng phấn khởi đối với những nhân viên được nhận vào vị trí này. Công việc này không trao cho tôi quyển hộ chiếu dẫn vào một tiền sảnh đầy hoa với những tiếng vỗ tay náo nhiệt hay một thế giới của những giấc mơ tuyệt đẹp, song lại đưa tôi vào một thế giới tĩnh lặng và chắc chắn không có những vị khách như chú chuột Mickey hay nàng chuột Minnie ghé thăm. Chúng tôi lặng thầm quét dọn tới, lui khu vực bãi đỗ xe trong đêm khuya tĩnh mịch. Hầu như nhân viên quét dọn không mấy ai cảm thấy vui vẻ khi nghĩ đến điều này, thậm chí nhiều người còn không muốn thừa nhận mình đang làm công việc quét dọn. Hơn nữa, vì công việc lúc trước của tôi không liên quan gì đến công việc hiện tại, nên tôi cũng chỉ là một nhân viên nghiệp dư. Trong nhóm đồng nghiệp của tôi cũng có người cảm thấy mệt mỏi và khó chịu trước cuộc sống sinh hoạt đảo lộn giữa ngày và đêm. Riêng tôi cũng có nhiều suy nghĩ lẫn lộn. Tôi nhận thấy mọi người ai ai cũng trăn trở và cảm giác như đang lầm đường lạc lối, khiến tôi luôn tự hỏi, “Tôi nỗ lực hết sức để làm công việc này để làm gì?”. Ngay thời điểm ấy, một nhân vật đã xuất hiện – một người đàn ông trung niên được mệnh danh là “Thần quét dọn” đến từ trụ sở Disney ở Mỹ. Vài ngày sau khi đến, ông tập hợp chúng tôi tại một nhà vệ sinh hôi hám trong một văn phòng tạm thời. Chúng tôi đứng quây quần ở một khoảng cách nhất định đủ để quan sát ông. Phải, chúng tôi không muốn vào trong một nhà vệ sinh mà khắp nơi chỉ toàn những vũng nước bẩn và vết dơ, vết ố mà bất kỳ ai đi ngang đều muốn nhanh chân bước qua. Không nói gì, ông chậm rãi mang găng tay cao su, lẳng lặng bước về phía nhà vệ sinh vốn không khác gì một nơi bị ma ám đó. Mọi người đều lùi lại và đưa mắt nhìn nhau. Rồi ông bắt đầu cẩn thận cọ rửa bồn cầu một cách hết sức tự nhiên, hệt như đang ôm ấp đứa con của mình. Âm thanh chà xát vang lên, đập vào tai chúng tôi theo nhịp điệu của miếng bọt biển để chà bồn. Những vết bẩn cứng đầu bám dính trong các đường rãnh trên sàn nhà hay những đường viền xung quanh bồn cầu bắt đầu biến mất. Nhờ bàn tay của ông, bồn vệ sinh đó như được tiếp thêm sinh khí và lấy lại vẻ sáng bóng vốn có. “Chuyện này là sao!?”. Những gì tôi vừa chứng kiến khác hoàn toàn với công việc quét dọn mà tôi thường nghĩ. Hình như tôi đang nhìn thấy mọi việc ở một góc độ khác. Tôi chăm chú dõi theo từng hành động của ông, và rất muốn cử động đôi tay mình theo nhịp đôi tay ông đang làm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy hứng thú với công việc dọn dẹp nhà vệ sinh như lúc này. Những đồng nghiệp của tôi cũng vậy, tất cả họ đều bắt đầu cử động cơ thể. Và sau khi toàn bộ nhà vệ sinh ngập tràn vẻ lấp lánh, sáng bóng, ông quay mặt về phía chúng tôi và mỉm cười – một nụ cười hao hao giống với nụ cười của Walt Disney, người sáng lập thế giới Disney. Lúc đó tôi cảm nhận được một sự khoan khoái không thể diễn tả thành lời. Ông không chỉ quét dọn những vết bẩn trong nhà vệ sinh, mà còn quét sạch thứ cảm giác thấp kém và sự chối bỏ công việc mà chúng tôi đang mang trong mình. Và như thế, ông đã thần kỳ biến chúng tôi từ những con người đang chán ngán công việc trở thành những nhân viên yêu thích và tự hào công việc quét dọn hơn bao giờ hết. Ông tên là Chuck Boyajian, người được ông Walt đặt trọn niềm tin, và thường được biết đến với danh hiệu “Thần quét dọn” của thế giới Disney. Lúc đó, tôi không hề biết rằng sự hiện diện của ông có ý nghĩa lớn lao đối với cuộc đời tôi đến vậy. Ông là một người thầy đáng kính đã dạy bảo tôi rất nhiều bài học quý báu. Nếu được quay trở lại khoảnh khắc đó một lần nữa, tôi vẫn muốn được chiêm ngưỡng phép thuật của ông, một thứ phép thuật thay đổi cuộc đời tôi, một thứ phép thuật mãi mãi không bao giờ biến mất. Ngay lần đầu ghé thăm Disneyland ở Anaheim, California, tôi đã bị làm cho mê mẩn. Đó là “nơi tâm hồn mọi người hòa làm một”, “nơi có thể gặp những nhân vật cổ tích có thật trong trái tim của bất cứ ai” và là nơi duy nhất không thể tìm thấy được ở đâu khác trên thế giới. Tôi đã ấp ủ ước mơ được trở thành một phần của thế giới tuyệt vời này ngay từ lúc đó. Vì vậy, nghe tin Disneyland Tokyo sắp mở cửa, tôi cảm thấy như định mệnh ưu ái sắp đặt sẵn một cánh cửa cho tôi bước gần tới ước mơ hơn. Ngay lập tức, tôi đã từ bỏ công việc cũ để nộp đơn xin vào đây mà không cần suy nghĩ. Từ lúc bước vào cánh cửa đó, tôi liên tiếp nhận được những điều kỳ diệu đến không tưởng. Vì mọi thứ quá rực rỡ, quá màu nhiệm, đôi khi tôi cứ ngỡ đây chỉ là một giấc mơ. Quyển sách này là những câu chuyện thực tế mà tôi đã trải nghiệm thời trẻ khi gắn bó với Disneyland. Từng câu chuyện tạo nên một cuốn tiểu thuyết huyền ảo, đan xen giữa mơ và thực. Có thể, bạn sẽ cảm thấy lạ lẫm và mới mẻ, vì quyển sách này không lập tức mang đến cho bạn nhiều thông tin như sách về Disney, nhưng qua những đặc điểm tính cách thú vị tiềm ẩn ở mỗi nhân vật trong từng câu chuyện, bạn sẽ tự khám phá ra “Ánh hào quang tỏa ra từ những con người làm việc tại Disneyland”, giống như trong trò chơi tìm kiếm chú chuột Mickey ẩn mình trong bãi đỗ xe vậy. Như một phép nhiệm màu, thông qua công việc quét dọn đầy giá trị trân quý ở Disneyland, tôi đã tìm ra “chân giá trị về công việc giúp bản thân và người khác hạnh phúc”. Và tôi hy vọng phép màu ấy cũng giúp bạn tự mình tìm ra niềm vui trong công việc và cuộc sống. 0 giờ, ngày 4 tháng 1 năm 1983 là ngày bắt đầu công việc của tôi – một người nhân viên quét dọn ca đêm. Kể từ đêm đó, cánh cửa dẫn đến “thế giới của giấc mơ và những cuộc phiêu lưu” đã mở ra cho bản thân tôi. Thật sự lúc ấy tôi vẫn chưa hiểu hết mọi nỗi nhọc nhằn, khó khăn, vất vả trong công việc cũng như cách nối kết những mối quan hệ nơi làm việc. Thỉnh thoảng tôi vẫn phân vân không biết liệu mình có thật sự muốn làm công việc hiện tại không. Tôi cố gắng tìm kiếm cơ hội để trải nghiệm những điều hay ho và mới mẻ. Và tôi đã tích lũy được nhiều bài học để đời quý giá qua việc quét dọn tại bãi đỗ xe trong màn đêm vắng lặng cũng như qua những gì học tập được từ Thần quét dọn. Vì vậy, qua quyển sách này, tôi muốn gửi đến cho các bạn báu vật “những bài học đáng suy ngẫm và đầy cảm động về chân giá trị của công việc”. Dưới đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Mong rằng các bạn có thể có những phút giây vui vẻ qua những trang sách. Bây giờ, xin chào mừng bạn đến với thế giới quét dọn lạ thường của thế giới Disney! Hãy cùng tôi lần giở những trang sách này thật chậm nhé! Tháng 9 năm 2011 Hiroshi Kamata   Mời các bạn đón đọc Người Quét Dọn Tâm Hồn của tác giả Hiroshi Kamata & Hạnh Phan & Nhóm Sóc Xanh (dịch).
Họp Mặt
Chín đứa con còn sống sót của nhà Hegarty họp mặt tại Dublin dự tang lễ của Liam, một người con vừa chết đuối. Veronica, người em gái, đã tới canh cái xác, bầu bạn với nó, và canh cả bí mật cô từng cùng anh chia sẻ: một chuyện đã xảy ra trong nhà bà ngoại họ mùa đông năm 1968, một bí mật tăm tối đã khiến cuộc đời họ vĩnh viễn biến hình. Trong lúc Enright lần theo những con đường của sự phản bội và cứu chuộc qua ba thế hệ, bà đã cho thấy ký ức có thể thay đổi đến đâu, và những bí mật có thể gây ra chừng nào đau đớn. Ở tác phẩm này, cũng như mọi tác phẩm khác mà Enright từng viết, trí tuệ đặc biệt của bà đã vặn xoắn thế giới một chút rồi trả lại nó cho chúng ta trong ánh sáng mới và không thể lãng quên. *** Đôi nét về tác giả Anne Enright Anne Enright sinh năm 1962 ở Dub­lin, học tiếng Anh và triết ở Trin­ity Col­lege, Dub­lin, và học tiếp lấy bằng thạc sĩ về sáng tác ở Đại học East Anglia. Bà có lúc làm nhà sản xuất chương trình truyền hình. Cuốn sách đầu tiên của bà là tập truyện The Port­able Vir­gin (Tượng Mẹ đồng trinh xách tay), ra đời năm 1991, và đoạt giải Rooney của văn học Ireland. Hai tập truyện kế đó, Tak­ing Pic­tures (Chụp hình) và Yesterday’s Weather (Thời tiết hôm qua) được xuất bản năm 2008. Các tiểu thuyết của bà là The Wig My Father Wore (1995; Mái tóc giả cha tôi đội); What Are You Like? (Trông bạn ra sao?) đoạt giải Encore Award 2001; The Pleas­ure of Eliza Lynch (2002; Niềm vui của Eliza Lynch); và The Gath­er­ing (2007; Họp mặt) đoạt giải Man Booker cho truyện năm 2007. *** Lời khen tặng dành cho Họp mặt “Trí tuệ đến liều lĩnh, khiếu hài hước hoang dại, chậm rãi trong diễn tiến, không một chút ủi an: tiểu thuyết của Enright rất tăm tối, nhưng đó cũng là điều khiến nó lấp lánh.” – New York Times Book Review “Tiết chế đến kinh ngạc và cách nhìn không tì vết.” – Los Angeles Times “Giọng kể của cuốn sách phảng phất âm hưởng nỗi đau lạnh lùng đầy giận dữ kiểu Joan Didion, nhưng lòng trắc ẩn ấm áp có lẽ gợi nhớ Người Dublin của James Joyce.” – Washington Post “Enright đã viết một tiểu thuyết nghiệt ngã mà trang nhã tuyệt vời, đưa chủ đề Ireland quen thuộc là sự bất thường trong gia đình và thói đỏng đảnh của ký ức vào vùng lãnh địa được đắp thêm thịt da bằng một sự khách quan chính xác tới mức khiến nó lại gần như tràn đầy lòng thương…” – Los Angeles Times “Một cái nhìn trực diện vào một gia đình đau thương… một tiểu thuyết rất đáng đọc và đáng hài lòng.” – Ngài Howard Davies, Chủ tịch Ban Giám khảo giải Man Booker “Mê hoặc, lạnh lùng, sâu sắc. Họp mặt là một cái nhìn ám ảnh vào một gia đình tan vỡ, bị bóp nghẹt bởi hàng thế hệ đau thương, thất vọng, vật lộn thỏa hiệp với điều không thể thay thế.” – Entertainment Weekly *** Tôi muốn ghi lại những gì đã xảy ra tại nhà bà ngoại tôi hồi mùa hè năm tôi tám chín tuổi gì đó, nhưng tôi không chắc liệu nó có thực sự xảy ra không. Tôi cần làm chứng cho một sự kiện không chắc chắn. Tôi cảm thấy nó kêu gào trong tôi - cái điều có thể đã không xảy ra này. Thậm chí tôi không biết gọi tên nó là gì. Chắc có thể gọi nó là một tội lỗi về xác thịt, nhưng xác thịt đã từ lâu tan rã và tôi không chắc nỗi đau nào có thể còn day dứt trong xương. Anh Liam của tôi thích chim và, giống như mọi cậu trai khác, anh thích xương những con thú chết. Tôi không có con trai, vì vậy khi đi ngang qua bất kỳ cái đầu lâu hay bộ xương nhỏ nào tôi cũng đều chậm bước và nghĩ về anh ấy, về chuyện anh ấy từng mê thích những nét phức tạp của chúng. Đôi cánh già nua của một con ác là thò ra khỏi mớ lông bù xù; chắc mập và nhẹ và sạch. Đó là từ chúng ta dùng cho xương: Sạch. Tôi bảo các con gái mình tránh xa cái sọ chuột trong rừng hoặc con chim sẻ chết đang trải nắng mưa cạnh bức tường khu vườn, dĩ nhiên. Tôi không chắc tại sao. Dù vậy, đôi khi chúng tôi tìm thấy, trên bãi biển, một cái mai mực trắng tinh khiết đến độ tôi phải tuồn nó vào túi áo, và tôi an ủi tay mình bằng cách mân mê cái vòm cong trắng bí mật của nó. Bạn không thể phỉ báng người chết, tôi nghĩ, bạn chỉ có thể an ủi họ. Vì vậy tôi tặng Liam bức tranh này: hai đứa con gái của tôi đang chạy trên rìa cát bãi biển lổn nhổn đá, dưới bầu trời vần vũ sà xuống thấp, vai áo khoác hất ra sau. Sau đó tôi xóa nó. Tôi nhắm mắt và buông mình lăn theo tiếng tĩnh điện ầm ĩ của biển cả. Khi tôi mở mắt ra, đó là để gọi mấy đứa con gái trở lại xe. Rebecca! Emily! Điều đó không quan trọng. Tôi không biết sự thật, hoặc tôi không biết cách kể sự thật. Tôi chỉ có những câu chuyện, những ý nghĩ về đêm, những niềm tin bất ngờ đẻ ra trong tình trạng không chắc chắn. Tôi chỉ có những lời cuồng loạn, giống vậy hơn. Bà yêu ông ấy! Tôi nói. Bà hẳn đã yêu ông ấy! Tôi chờ cái ý nghĩa mà bình minh mang đến, khi bạn không ngủ. Tôi ở lại dưới nhà trong khi cả gia đình thở đều ở phía trên và tôi viết ra điều này, tôi trải chúng ra thành những câu đẹp, tất cả những xương trắng, sạch của tôi. Mời các bạn đón đọc Họp Mặt của tác giả Anne Enright & Phạm Viêm Phương (dịch) & Huỳnh Kim Oanh (dịch).
Hiện Tại
Khi toàn bộ gia đình Malory tập trung tại Haverston để đón Giáng Sinh, một món quà bí ẩn được một người vô danh gửi đến. Món quà là một cuốn nhật ký cũ - một câu chuyện nhẹ nhàng và gay cấn về mối tình giữa vị Hầu tước thứ hai, Christopher Malory, và một người đẹp Gypsy bí ẩn tên là Anastasia, người đang tìm kiếm một mối tình với một người không phải Gypsy để cứu mình khỏi một cuộc hôn nhân sắp đặt trước với một kẻ vũ phu. Mặc dù lãnh chúa người Anh bảnh bao thấy Anastasia là một cô gái nóng bỏng và xinh đẹp lạ kỳ, Christopher cũng không bao giờ có thể đồng ý kết hôn với một phụ nữ ở tầng lớp thấp kém như vậy. Nhưng những điều kỳ diệu đã xảy ra trong hội mùa của hòa bình và sự trao gửi và yêu thương này, khi hai con người phi thường bị ngăn cách bởi tầng lớp xuất thân bắt đầu một vũ điệu cuồng nhiệt của ý chí và mưu mô. Và trong sự thăng hoa kỳ diệu của một mối tình lãng mạn huy hoàng vào dịp Giáng Sinh cách đây rất lâu, có những bài học khôn ngoan được đúc kết đầy đủ sẽ làm phong phú thêm trái tim của con cháu họ - và thực sự là của tất cả những ai đã từng mơ ước. *** Một cuốn tiểu thuyết mới từ JohannaLindsey là một món quà trong bất kỳ mùa lễ hội nào. Tuy nhiên, câu chuyện theo chủ đề ngày lễ mới của bà về một gia tộc liêm khiết - nhưng vẫn lộng lẫy đến say đắm - Gia tộc Malory, The Present, là một thứ đặc biệt không thể cưỡng lại được. Có rất nhiều kịch tính xung quanh cây thông Noel của gia đình ngay cả trước khi một gói quà bí ẩn được gửi đến, một gói quà sẽ mãi mãi thay đổi cách họ nhìn nhận về bản thân họ. The Present có những bí mật đen tối, những căng thẳng trong gia đình, tình yêu đơn phương - tất cả những yếu tố cấu thành nên một cuốn tiểu thuyết lãng mạn lịch sử khó quên. *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu Nơi Em Thuộc Về Trái Tim Hoang Dã Yêu Lầm Anh? Tình Yêu Tìm Thấy Chỉ Một Tình Yêu The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Nước Anh, 1825 Gia tộc Malory luôn dành những ngày lễ Giáng Sinh tại Haverston, dinh thự của tổ tiên ở nông thôn, nơi người lớn tuổi nhất trong số họ sinh ra và lớn lên. Jason Malory, Hầu tước Thứ Ba của Haverston và là người lớn tuổi nhất trong số các anh em trai nổi loạn, là thành viên duy nhất trong gia đình vẫn thường xuyên trú ngụ tại đây. Là chủ gia đình từ khi mới mười sáu tuổi, Jason đã nuôi nấng các em trai của mình — hai người trong số họ đã hoàn toàn gây tai tiếng trong những trò theo đuổi của họ — và một cô em gái. Hiện tại, các Malorys và con cháu họ khá đông và khó sắp xếp chỗ ở, đôi khi ngay cả đối với chính Jason. Vì vậy, một đoàn người đông đúc đã tập trung tại Haverston vào những ngày này cho mùa Giáng Sinh. Con trai và là người thừa kế duy nhất của Jason, Derek, là người đầu tiên đến, hơn một tuần trước Giáng Sinh. Cùng với câu là vợ của cậu, Kelsey, và hai đứa cháu đầu tiên tóc vàng và mắt xanh của Jason. Anthony, em trai út của ông, là người tiếp theo đến chỉ vài ngày sau Derek. Tony, như hầu hết mọi người trong gia đình đều gọi anh, thừa nhận với Jason rằng anh đã rời khỏi London sớm sau khi nghe tin rằng anh trai James của họ đang tức giận với anh. Trêu trọc James là một chuyện, và một số điều mà Anthony thường cố gắng làm, nhưng khi James tức hộc máu, thì Tony coi đó là một vấn đề hoàn toàn khác. Anthony và James là hai người em trẻ nhất của ông, nhưng họ chỉ cách nhau một tuổi. Cả hai đều là những tay đấm bốc cừ khôi, và Anthony có thể cầm cự với những tay đấm cừ nhất, nhưng James thì cao tay hơn, và nắm đấm của anh thường được ví như những viên gạch rắn chắc. Đi cùng với Anthony là vợ anh, Roslynn, và hai cô con gái của họ. Judith, đứa lớn nhất 6 tuổi, giống cả cha và mẹ, có mái tóc vàng đỏ chói lọi của mẹ và đôi mắt xanh coban của cha, một sự kết hợp nổi bật nghiêm trọng mà Anthony sợ rằng sẽ khiến cô bé trở thành người đẹp trị vì trong thời đại của mình — điều mà với tư cách một người cha và một tay phóng đãng hoàn lương anh không hề mong đợi. Nhưng cô con gái nhỏ của anh, Jaime, cũng sẽ khiến vô số trái tim tan vỡ. Cũng như tất cả các vị khách của mình, Jason là người đầu tiên nhận thấy món quà xuất hiện trong phòng khách trong khi gia đình đang ăn sáng. Thật ra, thật khó để bỏ lỡ khi nó được đặt nổi bật trên một chiếc bàn bên cạnh lò sưởi. Được bọc bằng vải vàng, thắt một dải ruy băng nhung đỏ và nơ, nó có hình dạng kỳ lạ, gần giống như kích thước của một cuốn sách dày, nhưng một phần nhô ra tròn ở trên gợi ý rằng nó không chỉ đơn giản như vậy. Chọc ngón tay vào thấy phần nhô ra có thể di chuyển, nhưng không nhiều lắm, vì ông phát hiện ra khi ông nghiêng gói quà sang một bên mà nó không thay đổi vị trí. Thật lạ lùng, nhưng lạ lùng hơn vẫn là không có dấu hiệu gì cho thấy món quà này được gửi từ ai, cũng như nó là dành cho ai. “ Hơi sớm để chuyển quà Giáng sinh, phải không?” Anthony nhận xét khi đi vào phòng nhìn thấy Jason đang cầm món quà. “Cây thông Noel thậm chí còn chưa được đưa vào.” “Đó cũng là suy nghĩ của tôi, vì tôi không đặt nó ở đây,” Jason trả lời. “ Không ư? Vậy thì là ai?” “ Tôi không biết,” Jason thừa nhận. “ Vậy thì nó dành cho ai?” Anthony hỏi, “ Bản thân tôi cũng muốn biết điều đó.” Anthony nhướng mày vào thời điểm đó. “Không có tấm thiệp nào sao?” Jason lắc đầu. “Không có. Tôi vừa thấy nó ở đây trên cái bệ này,” ông nói và đặt nó trở lại. Anthony cũng nhặt món quà lên để xem xét nó một chút. “Hmmm, ai đó chắc chắn đã bọc nó thật đẹp mắt. Em cá rằng nó sẽ thu hút bọn trẻ — ít nhất là cho đến khi chúng ta tìm ra nó là gì.” Khi nó xuất hiện, nó cũng thu hút cả người lớn. Trong những ngày tiếp theo, vì không ai trong gia đình nhận đã đặt nó ở đó, món quà đã tạo ra một cảm giác tò mò. Tất cả người lớn đều cầm lên chọc, lắc hoặc kiểm tra nó, nhưng không ai có thể tìm ra nó có thể là gì, hoặc nó dành cho ai. Những người đã đến cho đến nay đã tập trung trong phòng khách vào cái đêm khi Amy bước vào ôm một trong hai đứa con sinh đôi của cô ấy. “Đừng hỏi tại sao chúng cháu đến muộn, mọi người sẽ không tin điều đó đâu.” Cô ấy nói, thở một hơi rồi nói tiếp, “Đầu tiên bánh xe ngựa rơi ra. Sau đó, không đầy một dặm trên đường, một trong những con ngựa bị mất không phải một, mà là hai chiếc móng. Sau khi chúng cháu giải quyết xong tất cả và chúng cháu gần như đã ở đây, thì chiếc trục xe chết tiệt lại bị gãy. Cháu nghĩ chắc chắn lúc đó Warren sẽ đập tan chiếc xe ngựa tội nghiệp đó. Anh ấy đã đá nó cho hả giận. Nếu cháu không nghĩ sẽ đánh cuộc với anh ấy rằng chúng cháu sẽ đến đây hôm nay, cháu thực sự không nghĩ rằng chúng cháu sẽ đến nơi được. Nhưng mọi người biết đấy, cháu không bao giờ thua một vụ cá cược nào, vì vậy ... Nhân tiện, bác Jason, ngôi mộ không bia tội nghiệp nằm trong vùng đất trống đáng yêu ở phía đông ấy. Ngôi mộ nằm gần với con đường chạy qua khu đất của bác. Chúng cháu đã đi bộ qua con đường đó để đến đây, vì nó là con đường ngắn nhất vào thời điểm đó, chỉ cần đi qua khu đất trống đó.” Lúc đầu không ai nói một lời nào, vẫn còn buồn cười sau bài diễn văn dài đó. Nhưng sau đó Derek lên tiếng, “Nhớ lại ngôi mộ mà nãy em vừa nhắc đến, em họ. Reggie và anh đã tìm thấy nó khi bọn anh còn là những đứa trẻ đang tìm hiểu về điền trang. Đã từng luôn luôn có ý hỏi cha về nó, Cha không bao giờ nói đến nó, sau đó bọn con cũng quên nó luôn.” Lúc đó, tất cả mọi người đều đang nhìn về phía Jason, nhưng anh chỉ nhún vai. “Quỷ tha ma bắt nếu ta biết ai đã được an nghỉ ở đó. Ngôi mộ đó đã có ở đó từ trước khi ta được sinh ra. Ta đã hỏi cha ta về điều đó một lần, như ta nhớ lại, nhưng cha ta không trả lời, thực sự lúng túng và ấp úng rất nhiều. hình như ông ấy cũng không biết nên ta không hỏi lại.” “ Hãy nghĩ xem tất cả chúng ta đều đã nhìn thấy ngôi mộ đó vào lúc này hay lúc khác, ít nhất là những người trong chúng ta đã từng được nuôi dưỡng ở đây”, Anthony không nhắc đến ai cụ thể. “Một nơi kỳ lạ cho một ngôi mộ, và một ngôi mộ được chăm sóc tốt ở đó, trong khi có hai nghĩa trang gần đó, chưa kể nghĩa trang của tổ tiên ngay trên khu đất này.” Judith, người đang đứng cạnh cái bàn nhìn chằm chằm vào món quà bí ẩn, đến gần người chị họ Amy và giơ tay đỡ lấy đứa con song sinh hai tuổi khỏi tay cô. Judy cao so với tuổi của cô bé và rất thích chơi với những đứa trẻ mới biết đi. Amy chỉ ngạc nhiên là cô bé chả nói năng gì. “ Cái ôm của chị đâu, mèo con?” Khuôn mặt xinh đẹp nhìn chằm chằm vào cô một cách ương bướng. Amy nhướng mày về phía cha của cô bé. Anthony đảo mắt, nhưng vẫn giải thích, “Nó đang hờn dỗi vì Jack vẫn chưa ở đây.” Jack là con gái lớn của James và Georgina. Mọi người đều biết Jack và Judy, hai đứa chỉ cách nhau một tháng tuổi, không thể tách rời khi chúng ở cùng nhau, và chúng yêu nhau đến mức cha mẹ của chúng phải đảm bảo rằng chúng được thường xuyên ở bên nhau - đặc biệt là vì cả hai đều không hạnh phúc khi chúng cách xa nhau quá lâu. “Không phải,” Judith phủ nhận với một cái bĩu môi lầm bầm khi cô bé bước trở lại cái bàn. Jason là người duy nhất chú ý khi sự quan tâm của Amy tập trung vào món quà đang thu hút sự tò mò của mọi người. Ông sẽ không nghĩ gì, ngoại trừ biểu hiện của cô. Cái nhíu mày thoáng qua của cô khiến ông tự hỏi liệu cô có đang cảm nhận được điều đó không. Cô cháu gái này của ông có một sự may mắn phi thường, chưa bao giờ thua một cuộc cá cược nào trong đời, mà cô cho rằng đó là những “linh cảm”, như cách cô gọi chúng, mà cô có được. Jason coi những điều đó như những cảm giác quá kỳ lạ, đó là lý do tại sao ông sẽ không nhận ra nếu như cô đang có linh cảm đó ngay bây giờ. Vì vậy, ông cảm thấy nhẹ nhõm khi cái cau mày của cô dịu đi và cô dành sự quan tâm trở lại cho em trai ông. “Vậy là chú James vẫn chưa đến ạ?” Amy phỏng đoán từ phản ứng cuối cùng của Anthony. Anthony lẩm bẩm. “Chưa, và hy vọng anh ấy sẽ không đến.” “Ôi chao. Hai người lại đánh nhau ạ?” Amy lại phỏng đoán. “Chú á? Đánh nhau với anh trai thân yêu của chú à? Chú sẽ không nghĩ đến điều đó đâu,” Anthony trả lời, “Nhưng ai đó chết tiệt cũng phải nói với anh ấy rằng đây là lễ hội cho những lời chúc tốt đẹp chứ.” Derek cười khúc khích trước vẻ mặt chua ngoa của chú mình. “Nghe nói có tin đồn là chú James đang săn lùng chú. Điều gì đã khiến lần này chú ấy khó chịu thế ạ?” “ Nếu chú biết, thì chú sẽ biết cách để xoa dịu anh ấy, nhưng chú sẽ là con lừa nếu chú biết điều gì. Chú đã không gặp James trong một tuần vui vẻ, không phải từ khi chú bỏ Jack sau chuyến đi chơi mà chú dẫn các cô gái nhỏ đi cùng.” “Chà, James sẽ cho tôi biết nếu chú ấy không đến,” Jason chỉ ra. “Vì vậy, khi chú ấy đến đây, vui lòng gây lộn ở bên ngoài. Molly nghiêm túc phản đối máu làm vấy bẩn thảm.” Mời các bạn đón đọc Hiện Tại của tác giả Johanna Lindsey.