Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cáp Treo Tình Yêu

Tác phẩm mới nhất đến từ nhà văn trinh thám hàng đầu Nhật Bản Keigo Higashino. Trong tuần đầu tiên xuất bản (01/11/2016), Cáp treo tình yêu đã nắm giữ vị trí đầu trong bảng doanh số hàng tuần. Và tiếp tục ở trong top 10 nhiều tuần sau đó. Một nữ nhân viên văn phòng bị hôn phu phản bội... Một chàng trai ôm mộng tìm được tình yêu đích thực sau năm lần bảy lượt thất bại tình trường... Một cô gái trẻ gặp phải gã đàn ông dối trá... Một cặp đôi mới cưới vướng vào rắc rối với bố mẹ vợ... Mỗi người họ đều ôm trong lòng nỗi phiền muộn riêng. Những cuộc đời tưởng chừng như không có điểm giao thoa ấy lại được gắn kết với nhau tại một khu trượt tuyết lạ kỳ, nơi có khả năng phơi bày sự thật và những điều thầm kín dù chúng ta có được con người ta che đậy kỹ càng tới đâu. Vậy, sự thật liệu có luôn là điều mà con người ta muốn biết? Đứng trước tình yêu, con người sẽ trở nên thảm hại, ích kỷ, hoặc nhiều dũng khí đến thế nào? Những tình tiết bất ngờ trong Cáp treo tình yêu sẽ khiến bạn phải bật cười và tự hỏi điều gì tiếp theo có thể xảy ra. --- Một số thành tích nổi bật: - Đứng đầu bảng xếp hạng tổng doanh số của các nhà sách Kinokuniya - Đứng đầu bảng xếp hạng tổng doanh số theo tuần của Nippan tháng 2 năm 2018, tác phẩm được mua bản quyền và xuất bản sang tiếng Hàn. Lập tức lọt top những tác phẩm bán chạy nhất Hàn Quốc. Cùng trong top 10 đó là tác phẩm “Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya” . - Được mua bản quyền dịch bởi Trung Quốc đại lục, Đài Loan và Hàn Quốc. *** Cáp treo tình yêu (Koi no gondora) cuốn tiểu thuyết như một thử nghiệm mới mẻ của Higashino Keigo trên mọi phương diện từ chủ đề, đề tài, kết cấu tác phẩm, xây dựng nhân vật, trong bối cảnh tên tuổi ông  đã quá nổi danh, đồng thời những đỉnh cao trong sự nghiệp của Keigo-sensei, phần lớn đã tập trung trong những năm cuối 9x, đầu 2000. Những thể nghiệm mới của Higashino Keigo ở cuốn sách xuất bản năm 2016. Trước hết, cần phải nói rằng, Koi no gondora – Cáp treo tình yêu, đúng như tựa đề, cuốn sách chỉ là những mẩu chuyện tình yêu đầy màu sắc, muôn hình muôn vẻ: hạnh phúc, trọn vẹn, viên mãn có; đau đớn, khổ đau, nghiệt ngã cũng có. Nhưng tuyệt nhiên, tác phẩm ấy không dính dáng chút gì đến thể loại trinh thám, điều tra, phá án. Vì thế, nếu bạn kiếm tìm ở Cáp treo tình yêu một câu chuyện chứa những cú twist liên tục, khiến bạn đi từ hết bất ngờ này tới bất ngờ khác như Phía sau nghi can X, Ác ý; hay một câu chuyện tạo nên bầu không khí đặc quánh đêm đen như Bạch dạ hành hay chứa đựng day dứt ám ảnh như Thư; hoặc ẩn chứa vấn đề vĩ mô như Thánh giá rỗng, Phương trình hạ chí… thì chắc chắn một điều, bạn sẽ phải thất vọng. Nói như thế để thấy, tiếp cận Cáp treo tình yêu, độc giả trước tiên cần giữ một thái độ không mang định kiến, trung lập hết sức và hãy tạm thời quên đi, cái danh mà trước nay vẫn thường gán cho Keigo tiên sinh: “tác giả viết truyện trinh thám”. Để thấy rằng, ở sáng tác này, Higashino Keigo đã có những thể nghiệm để làm mới bản thân trên hầu khắp mọi khía cạnh: từ chủ đề, đề tài đến cách thể hiện chủ đề, đề tài đó, cách tạo dựng nhân vật tới cách đặt điểm nhìn trần thuật của tác phẩm. Về đề tài, thật sự, rất hiếm thấy hay có thể nói là gần như không có một tác phẩm của Keigo-sensei lại chỉ gói gọn trong đề tài tình yêu như Koi no gondora. Đó là những câu chuyện tình yêu cá nhân hết sức vụn vặt, nhỏ nhặt gắn liền với một khu trượt tuyết: vùng núi suối nước nóng Satozawa; gắn liền với những chiếc cáp treo chuyên chở tình cảm, và cũng chở cả bao bí mật của những người đang yêu. Đó có thể là câu chuyện về tình cảm gia đình gắn liền với niềm yêu thích một bộ môn thể thao. Đó có thể là sự đơn phương của một chàng trai tốt bụng nhưng lại như luôn vô duyên với phụ nữ. Đó có thể là những phản bôi, tan vỡ, tái hợp của một cặp đôi khi người đàn ông đã từng phản bội người phụ nữ. Hay đó cũng có thể là sự tác hợp của bạn bè đến với cặp đôi khác, vẫn dùng dằng chưa quyết… Vẫn với kết cấu quen thuộc trong sáng tác của Higashino Keigo: kết cấu truyện lồng truyện, tạo cho tác phẩm một cấu trúc vòng cung, trùng điệp, đầu cuối tương ứng: hình ảnh cáp treo xuyên suốt tác phẩm, mở ra không gian sáng tác và cũng khép lại những câu chuyện nhỏ vụn vặt. Nhưng ở Cáp treo tình yêu, độc giả thấy được một Higashino Keigo, đang trên đường đổi mới chính mình. Ở đây, tác giả đã cố gắng tập trung vào một đề tài thường nhật hết mực. Không gian truyện gần như gói gọn ở một địa điểm; thời gian truyện, dẫu có nhắc tới quá khứ cũng là một quá khứ gần của nhân vật chứ không kéo dài quá xa. Nên có thể nói, chí ít, Cáp treo tình yêu vừa mang tới những cảm xúc khác nhau qua từng chương, từng câu chuyện của một nhân vật; song cũng vừa mang tới nét lạ lẫm về một Higashino Keigo đã gần gũi, đời thường trong một áng văn nhẹ dịu, ít bất ngờ đến thế. Chính vì đề tài, cách triển khai cốt truyện như vậy mà hệ thống nhân vật trong Cáp treo tình yêu cũng được thu hẹp lại. Và ở đó, đều là những cá nhân hết sức đời thường. Họ không gắn với bất kỳ một vụ án nào, họ chẳng phải nghi can, chẳng phải hung thủ hay nạn nhân của một án mạng nào đấy cần phải tìm lời giải đáp. Họ sống một cuộc sống đời thực, yêu ghét, hận thù, đơn phương, tin tưởng, hi vọng rồi thất vọng. Vì thế, mỗi cá nhân, mỗi con người xuất hiện trên trang văn của Higashino Keigo trong Cáp treo tình yêu, như trở nên gần gũi, đời thực hơn. Bởi một sự thật, con người chúng ta, trong nhịp chảy đời sống thường nhật, đâu dễ dàng để liên đới trực tiếp tới một vụ án mạng nào đấy. Cho nên, với truyện vụ án, ta có thể đồng cảm với nhân vật, cuốn hút theo hành trình truy tìm sự thật của một vụ án song lại rất khó để đặt bản thân vào vị trí một người trong cuộc. Nhưng ở Cáp treo tình yêu thì khác. Người đọc có thể rất dễ nhìn thấy bóng hình người cũ phụ bạc trong hình ảnh Kota, một người đàn ông “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” trong hình ảnh Mizuki, một anh chàng ngờ nghệch trên mọi phương diện tình trường như Hida… Vì vậy, có thể không có một nhân vật đặc biệt nổi trội hẳn lên như các tác phẩm trước đấy, nhưng với Cáp treo tình yêu, Higashino Keigo đã ngày càng tiệm cận trong việc đi gần hơn tới đời sống cùng muôn mặt con người. Đổi mới không có nghĩa là hoàn toàn thành công. Thông thường, khi độc giả đã quá quen với phong cách sáng tác của một tác giả, hoặc khi mặc nhiên gắn tên tuổi tác giả đó với một thể loại riêng biệt, thì sẽ rất khó để dễ dàng tiếp nhận một tác phẩm mới, trái ngược hoàn toàn với phong cách trước giờ của con người ấy. Và chính bản thân tác giả đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, cũng chẳng thể đảm bảo sẽ tạo ra một tác phẩm hoàn thiện, thành công trên mọi phương diện. Trường hợp của Koi no gondora – Cáp treo tình yêu cũng như vậy. Để rồi, chúng ta – những độc giả khi đã giữ thái độ trung dung nhất đón đọc cuốn sách sẽ đủ khoan dung mà không phủ nhận sạch trơn mọi cố gắng, nỗ lực của Keigo-sensei trong việc đổi mới bản thân; song cũng vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra những thiếu sót ở tác phẩm gần 300 này. Một điều dễ nhận thấy, Cáp treo tình yêu, dẫu đã kéo đề tài về gần với đời sống cùng tâm lý thực của con người nhất, thì đây vẫn như một dạng bình mới rượu cũ trong kho tàng sáng tác đồ sộ mang tên Higashino Keigo. Nói như thế không có nghĩa mâu thuẫn với những gì đã viết ở phía trên; bởi dẫu đã cố gắng đổi mới thì một cây viết gạo cội như Keigo-sensei hẳn từ lâu đã hình thành một phong cách sáng tác cố định cũng như một lối mòn ở tư duy nghệ thuật. Chính vì thế, ở Cáp treo tình yêu dù đề tài, không gian tác phẩm được thu hẹp lại thì vẫn có nét tương đồng rất lớn với những sáng tác khác của Higashino Keigo, đặc biệt là Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya. Vẫn là kết cấu: mỗi chương là một câu chuyện riêng biệt song mọi liên hệ cuối cùng lại quy về một địa điểm như mối cơ duyên tiền định của tạo hóa. Tuy nhiên, Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya sử dụng cách trần thuật như vậy và thành công, bởi Keigo-sensei đã xây dựng lên đủ muôn mặt kiếp người với những số phận khác nhau, trong những chiều không gian, thời gian khác nhau mà hình ảnh tiệm tạp hóa Namiya hiện lên chỉ mang ý nghĩa một địa điểm trung chuyển hiện tại – quá khứ – tương lai. Còn với trường hợp của Cáp treo tình yêu, Keigo-sensei sử dụng cách kể như thế với đề tài, không gian hẹp vô hình chung khiên cốt truyện bị xé nhỏ. Thêm việc tác giả vẫn giữ lối viết vừa muốn đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, vừa muốn tạo khoảng trắng bất ngờ để độc giả liên tưởng lại càng làm cho tình tiết truyện tủn mủn, nát vụn. Đặc biệt, nếu chỉ viết riêng về tình yêu, không mở rộng đề tài, không gắn liền cốt truyện với một vụ án nào đấy; quả thực, bút lực của Higashino Keigo có phần khá yếu. Người đọc vẫn thấy trên trang sách những chi tiết mang đậm đặc trưng cảnh sắc, văn hóa, con người Nhật Bản. Song tình tiết truyện lại có phần nghèo nàn, cách triển khai tâm lý, tình cảm nhân vật có phần non nớt, muốn đào sâu vào nội tâm con người mà chẳng thể đi được tới tận đáy sâu những xúc cảm của một cô gái đang yêu, một anh chàng cục mịch nhút nhát, một anh chàng đào hoa hay xúc cảm một người phụ nữ bị phụ bạc… Có lẽ, đây chính là tác phẩm dễ khiến độc giả cảm thấy thất vọng nhất về cách Higashino Keigo khai thác, miêu tả tâm lý nhân vật. *** Sau khi trượt tuyết được một hiệp, Kota quay trở lại trạm lên cáp treo. Ở đây, người ta đang xếp thành một hàng dài, hơn cả những gì anh tưởng tượng. Vừa tháo đai trượt tuyết khỏi giày, Kota vừa tặc lưỡi. “Sao mà đột nhiên đông người thế không biết?” “Không phải bây giờ là lúc xe buýt chở khách du lịch đi theo đoàn đến sao?” Momomi đã tháo xong giày và đang ngồi trên tuyết. Cô ôm ván trượt, từ từ đứng dậy. Cô mặc một chiếc áo jacket kẻ trắng, hồng kết hợp cùng quần màu xanh lá cây. Theo như lời Momomi thì bộ quần áo này gợi cho ta liên tưởng tới một cây đào. “À, cũng có thể. Chẹp, đen quá. Đúng lúc anh lại đang có hứng.” “Anh vội gì chứ? Em thấy có sao đâu nhỉ. Ta cứ thong thả mà trượt thôi.” Kể ra thì Momomi nói cũng đúng. Bởi vì mục đích chuyến du lịch lần này của Kota không phải là việc tận hưởng những cú bay người tuyệt đẹp trên tuyết bột hay cú rẽ cắt ngang bề mặt lớp tuyết phủ dày bằng mép ván, mà quan trọng nhất vẫn là việc được trải qua quãng thời gian vui vẻ cùng với Momomi. “Anh có vội gì đâu. Nhưng anh không nghĩ Momomi lại trượt giỏi đến thế này nên anh đang thấy rất phấn khích.” “Ôi, cũng bình thường thôi mà. Anh Kota mới siêu ấy. Ban nãy, anh vừa trượt xoay ngược ván phải không? Cả xoay ván một trăm tám mươi độ nữa.” Kota phổng mũi vì những lời khen ngợi của Momomi. Hình như Momomi đã rất chăm chú dõi theo màn biểu diễn trổ tài kỹ thuật trượt ván của anh. “Mấy thứ đó có là gì đâu em.” “Ôi, vậy ư? Em thì lại nghĩ nó điêu luyện tới mức người thường không thể làm được đâu.” “Em cứ nói quá. Ai mà chẳng làm được. Ngay cả Momomi, chỉ cần luyện tập một chút cũng sẽ trượt được ngay thôi.” “Có thật thế không?” “Anh đã nói được là được. Lần tới, Momomi thử sức xem sao.” “Ối, em không làm được đâu.” “Không làm được là thế nào? Em nên biết thách thức bản thân mình. Ta sẽ không nghỉ cho tới khi thực hiện được nó.” “Ôi, chiến binh quả cảm!” Momomi nói với vẻ thích thú. Đương nhiên, Kota cũng thấy thú vị không kém. Hai người họ cùng ôm ván trượt và đứng xếp vào cuối hàng. Ngay lập tức, có một nhóm những cô gái từ đâu đến đứng nối ngay sau Kota và Momomi. Đám người đó khá là ồn ào nhưng nó khiến cho bầu không khí xung quanh trở nên sôi nổi hơn. Nghe nói hằng năm số lượng khách tới trượt tuyết ngày càng giảm đi, vậy mà riêng hôm nay có vẻ khu trượt tuyết lại náo nhiệt hơn thường lệ. Mặc dù khách đứng xếp hàng rất đông, nhưng mọi người vẫn tiến về phía trước, từng chút một. “Dù sao thì chúng ta cũng đã thật may mắn vì điều kiện khá thuận lợi.” Momomi nói. Kota nhìn thấy được nụ cười dịu nhẹ của Momomi hiện ra giữa kính trượt tuyết và lớp khăn quàng cổ giữ ấm rất dày. “Đúng thế nhỉ. Anh không nghĩ tuyết lại đẹp đến vậy. Thật tốt biết bao khi điều mà dự báo thời tiết nói đã không xảy ra, tại vì anh đã nghe người ta bảo là có thể có cả mưa nữa.” “Trời mưa sẽ chán lắm anh nhỉ?” “Thế thì thật khủng khiếp. Gì chứ đừng có mưa vì lần này, từ đầu đến chân anh toàn đồ mới hết.” “A, đúng rồi.” “Thực sự chúng ta quá may mắn.” Kota mặc chiếc áo jacket màu xanh thẫm và chiếc quần màu xám. Nói thật thì anh đã mua chúng để dành riêng cho ngày hôm nay, buổi hẹn hò trượt tuyết lần đầu tiên với Momomi. À, đâu chỉ có thế. Cả ván trượt, giày trượt, thậm chí đến cả chiếc mũ len màu vàng, anh cũng mua nó vì hôm nay. Dòng người vẫn chậm rãi tiến về phía trước. Cuối cùng họ cũng tới được chỗ có mấy bậc thang. Mọi người vừa phải để ý chân nhau, vừa tiến lên từng bậc. “Anh này, ở đây có tiệm mì tantanmen1 rất nổi tiếng phải không?” Momomi nói. “Chuẩn đó em. Có cả rau Nozawana2 trong bát mì nữa. Ngon khỏi phải nói. Lần nào anh cũng phải ăn một bát đó.” “Vậy ư? Em muốn ăn thử!” “OK. Vậy trưa nay chúng ta ăn ở đó nhé. Tiệm mì nằm ngay phía dưới của khu nghỉ dưỡng trượt tuyết Hinata.” “Anh giỏi quá. Anh Kota chắc rành về khu trượt tuyết này lắm nhỉ?” “Thì bởi vì năm nào anh cũng tới đây mà.” “Anh giỏi ghê!” Momomi nhắc lại thêm một lần nữa. “Tuyệt vời thật.” Kota nhâm nhi niềm sung sướng vì anh được tới đây để trượt tuyết - sở thích lớn nhất của mình, và được tận hưởng giây phút cùng với cô gái mình yêu trong không gian chỉ có hai người. Kể từ hôm nay, anh và Momomi sẽ ở bên nhau suốt hai ngày liền. Nơi nghỉ ngơi là một khách sạn nằm ngay cạnh khu trượt tuyết. Không biết mình và Momomi sẽ cùng nhau trải qua một đêm nồng cháy như thế nào đây? Trí tưởng tượng của Kota cứ bung nở không giới hạn. Chỉ có điều, nếu cứ thổi phồng lên những ý nghĩ đó thì chẳng còn gì là cái thú khi đi trượt tuyết nữa, thành thử Kota sẽ cố kìm nó lại. Cuối cùng, bọn họ cũng leo lên hết các bậc thang. Kota với tay ra lấy hai chiếc túi đựng ván trượt đã được để sẵn trong giỏ, một chiếc anh đưa cho Momomi và giúp cô cho chiếc ván vào túi đựng vì Momomi đang phải vất vả với nó. Mỗi lần leo lên cáp treo ở bất kỳ khu trượt tuyết nào, Kota vẫn luôn trăn trở rằng tại sao mấy chiếc túi đựng ván trượt lại khó dùng đến thế? Rằng người ta chẳng thể cải tiến để nó tốt hơn lên hay sao? Họ sắp đến được gần trạm lên cáp treo. “Xin lỗi, đề nghị quý khách ngồi ghép với các đoàn khác.” Cô nhân viên với tông giọng cao vút thông báo. Đó là tình huống chẳng mấy thú vị đối với Kota, người đang nung nấu ý định sẽ được ngồi riêng với Momomi trong một cabin cáp treo. Nhưng hành khách đông đến mức này thì anh cũng chẳng thể buông được lời phàn nàn nào cả, bởi vì cabin cáp treo ở đây thuộc loại to, chứa được tối đa mười hai người. Đã tới lượt của Kota và Momomi. Chiếc cabin trống từ từ tiến lại gần. Anh để Momomi lên trước rồi mới leo lên sau. Kota chọn vị trí đối diện với Momomi đang ngồi ở góc trong cùng. Và đương nhiên là nhóm những người họ không quen biết cũng lần lượt leo lên theo sau. Họ là một nhóm gồm bốn người phụ nữ, mặc dù vẫn chưa ổn định được chỗ ngồi nhưng đã bắt đầu mở miệng nói về những chuyện gì đó mà Kota chẳng thể hiểu nổi. Từ lúc đứng xếp hàng để đợi lên cáp treo, đám người đó đã nói liên hồi. Vẫn biết đây là chuyện ngoài ý muốn và vì thời gian ngồi trong cabin cũng chỉ hơn chục phút nên Kota chỉ còn cách bấm bụng chịu đựng cho qua. Cửa cabin đóng lại, cáp treo dần dần tăng tốc. Nhìn ra bên ngoài, Kota thấy quang cảnh trước mắt là một vùng tuyết trắng trải rộng mênh mông. Những vị khách tới đây để trượt tuyết, trượt ván được bao bọc bởi lớp quần áo dày, nhiều màu sắc. Khắp mọi nơi, tất cả bọn họ đều đang trình diễn những cú trượt ngập tràn cảm xúc tự do và ngẫu hứng. ”Chà, tớ thấy phấn khích quá, cũng lâu lắm rồi chứ ít đâu.” Một trong số bốn người phụ nữ hào hứng lên tiếng. Đó là người phụ nữ ngồi ngay cạnh bên trái Kota. “Chắc từ hồi sinh viên tới giờ tớ không trượt ván rồi. Ừm... cũng phải bảy năm rồi ấy.” “Erika, cậu biết trượt ván cơ à? Tớ thì hoàn toàn không có chút tự tin nào hết ấy.” Người mặc chiếc áo khoác màu xanh lá cây, ngồi phía đối diện chếch bên tay trái của Kota lên tiếng. Hình như người ngồi bên cạnh Kota tên là Erika. “Kiểu gì chẳng trượt được. Với lại bảy năm trước, nói thẳng ra thì lúc đó chẳng ai biết cậu có biết trượt ván hay không, nên kể cả bây giờ cậu có trượt kém hơn ngày ấy đi chăng nữa thì tớ nghĩ vẫn được gọi là biết trượt thôi.” Dứt lời, người phụ nữ ấy cười phá lên. Kota lẩm nhẩm tính trong đầu. Bảy năm rồi mới trượt kể từ thời sinh viên ư? Vậy lần cuối người này đi trượt tuyết hồi còn là sinh viên năm thứ mấy? Nếu là sinh viên năm nhất thì bây giờ người này hai mươi lăm tuổi. Không, với cách nói chuyện và thần thái thế này thì không thể có chuyện đó được, Kota đoán. Vậy nếu lần cuối trượt tuyết là thời điểm trước khi tốt nghiệp, tức là hồi hai mươi hai tuổi thì bây giờ người này hai mươi chín. Phải, chắc khoảng tầm đó thì chính xác hơn, Kota tự đưa ra câu trả lời của mình. “Vốn dĩ việc bốn người chúng ta cùng nhau đi du lịch như thế này cũng là cơ hội hiếm thấy mà.” Một người phụ nữ khác nói với giọng trầm tĩnh hơn. Từ hướng giọng nói phát ra, Kota đoán người này ngồi cách anh hai ghế. “Xin lỗi vì bắt các cậu phải cất công tới tận đây.” “Ơ hay, tại sao cậu lại phải xin lỗi? Nói thật thì tớ thấy chuyến đi này cực kỳ thú vị mà.” Người phụ nữ ban nãy ngồi cạnh Kota, người được gọi bằng cái tên Erika lên tiếng. “Phải đấy. Lâu lắm rồi chúng ta mới được đi chơi cùng nhau như thế này, cho nên Chiharu cũng phải tận hưởng đi.” Người mặc áo khoác xanh nói. Hình như người ngồi cách Kota hai ghế tên là Chiharu. “Nhưng mà thời tiết không lạnh như chúng ta đã nghĩ nhỉ? Tớ tưởng còn phải lạnh hơn ấy chứ.” Erika nói. “Ừ. Có khi chỉ nên mặc ba lớp áo trong thôi thì vừa.” Bất giác, Kota hướng mắt nhìn về phía người phụ nữ mặc áo khoác xanh. Mặc ba lớp thì vừa ư? Vậy lúc này cô ta đang mặc mấy lớp nhỉ? Chính là lúc đó. Người phụ nữ còn lại đang ngồi cạnh người mặc áo khoác xanh, im lặng mãi từ đầu cho đến tận lúc này mới lên tiếng: “Hình như tớ cũng mặc nhiều quá. Bộ quần áo trượt tuyết này ấm hơn tớ nghĩ.” Nói rồi, người đó nắm lấy tay chiếc áo khoác màu đỏ mình đang mặc. Kota thấy bất ngờ trước giọng nói ấy. Là bởi vì nó cực kỳ giống với giọng nói của một người mà anh biết rất rõ. Anh liếc nhìn sang ngang. Kính và khẩu trang che kín khiến Kota không thể nhận ra khuôn mặt đó là ai. “Cậu đã nói mua bộ quần áo này vì chuyến đi nhỉ?” Erika chỉ tay về phía người phụ nữ mặc áo đỏ. “Đúng thế. Tại bộ trước của tớ dùng cũng khá lâu rồi. Đúng lúc tớ cũng đang muốn mua một bộ mới.” Quả nhiên là giống. Ngữ điệu nói cũng giống y chang. Một dự cảm không mấy vui vẻ bỗng dâng lên trong lồng ngực của Kota. Nhìn vào ván trượt tuyết, Kota đoán hình như nó là đồ đi thuê. “Cậu đã mua cả bộ đấy à?” Người có tên Chiharu hỏi. “Tớ mua bộ quần áo và găng tay. Nhưng mà đúng ra nên mua thêm cả kính nữa. Kính này mau bị mờ lắm.” Dứt lời, người mặc áo đỏ đưa tay gỡ cặp kính. Chiếc khẩu trang trượt xuống trong sự hồi hộp của Kota, rồi gương mặt ấy dần hé lộ. Tim của Kota suýt chút nữa thì bắn ra ngoài. Người mặc bộ đồ trượt tuyết màu đỏ là Miyuki. Và Miyuki lại chính là người hiện đang chung sống với Kota. Mời các bạn đón đọc Cáp Treo Tình Yêu của tác giả Higashino Keigo & Nguyễn Hải Hà (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson
Cuộc phiêu lưu ly kỳ, tiểu sử lôi cuốn và nghiên cứu đáng ngạc nhiên về nhân vật xứ Scotland, Kidnapped (Bắt cóc) của Robert Louis Stevenson năm 1886 chưa bao giờ mất đi vị thế của nó.  Kidnapped là “tiểu thuyết cho các chàng trai” và được xuất bản lần đầu tiên dưới dạng từng kỳ trên tạp chí Young Folks từ tháng Năm tới tháng Bảy 1886. Cuốn tiểu thuyết được in thành sách lần đầu tiên bởi Cassel and Company tháng Bảy 1886. Trong Tuyển tập Stevenson, tác phẩm sở hữu cái tên dài nhất và công phu nhất trong lịch sử văn học Anh: “Hồi ký về hành trình của David Balfour năm 1751; Anh đã bị lạc như thế nào; Sống sót trên đảo hoang; Chuyến đi đến Highlands hoang dã; Làm quen với Alan Breck Stewart và những chàng Jacobite khét tiếng xứ Highlands; Mọi thứ khổ ải dưới bàn tay người chú, Ebenezer Balfour của rừng sâu giả dối. Do chính anh viết và được Robert Louis Stevenson thuật lại với lời dẫn bởi bà Stevenson”. Kidnapped được đón nhận khi xuất bản và đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà văn từ Henry James, người đã khen ngợi sức mạnh kể chuyện của tác phẩm, Jorge Luis Borges và Seamus Heaney, cùng nhiều người khác. Phần sau không tốt bằng, Catriona, được xuất bản năm 1893. Kidnapped là kiệt tác của ông, một tiểu thuyết hành động không thể nào quên đã truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn từ Joseph Conrad, John Buchan, Graham Greene đến Muriel Spark. Đây cũng là một sự trù tính hoàn hảo cho sự phức tạp của nhân vật người Scotland, nửa Celt, nửa Saxon. Giống như trong Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde, ông cũng bị ám ảnh bởi một phần nhân cách của mình, và vào năm bỏ phiếu độc lập, Kidnapped vẫn được xem là tác phẩm thiết yếu cần đọc. Tôi chọn tác phẩm này để thể hiện tính đặc Scotland của Stevenson cũng như tài năng văn chương của ông. Cuốn tiểu thuyết đơn giản đến khó tin. Mặc dù miêu tả câu chuyện của những chàng trai, với nguồn gốc từ sự thật lịch sử, nhưng tác phẩm đồng thời thể hiện nghệ thuật khéo léo của Stevenson. Quả thực Kidnapped đã hoàn thành đồng thời ba sứ mệnh đó. Thứ nhất, đó là chuyến phiêu lưu hành động đáng kinh ngạc, nơi giọng kể của Stevenson, thứ văn xuôi vô cùng súc tích, có sức mạnh mê hoặc lòng người. Ông khiến cho độc giả phải ngạt thở trong phấn khích và ngưỡng mộ. Henry James không ngờ lại là một người hâm mộ cuồng nhiệt của chuỗi chương “The Flight in the Heather” (Cuộc chiến dưới cây thạch nam). Lật đến chương X, “The Siege of the Round House” (Sự vây hãm của ngôi nhà vòng tròn) sẽ tìm thấy văn hứng của tác giả. Thứ nhì, Kidnapped lấy gốc từ một sự thật lịch sử, vụ ám sát ở Appin, Scotland tháng Năm 1752, cái chết của “con cáo đỏ”, biến đổi thành một câu chuyện phổ biến cho phần lớn độc giả lần đầu bắt gặp trên tạp chí Young Folks. Và Stevenson tiếp tục khai thác thể loại ông đang viết. Kidnapped, giống như Đảo giấu vàng, đi kèm với một tấm bản đồ, để thuyết minh rõ hơn cho câu chuyện; tựa đề các chương cũng được thiết kế để nói lên hành trình của ông: “I Run a Great Danger in the House of Shaws” (Tôi gặp nguy ở ngôi nhà trong rừng); “The Man with the Belt of Gold” (Người đàn ông với chiếc thắt lưng bằng vàng); và “The House of Fear” (Ngôi nhà sợ hãi). Cuối cùng, Kidnapped là một nghiên cứu đầy sức thuyết phục và khó quên về hai tính cách của nhân vật người Scotland. David Balfour, thuộc đảng Whig, là một chàng trai xứ Lowland Scotland dòng Presbyterian, bị bắt cóc khi bắt đầu hành trình giành quyền thừa kế từ tay người chú xấu xa Ebenezer. Alan Breck (Stewart), được Balfour mô tả là “một kẻ nổi loạn đáng kết tội, một kẻ đào ngũ, và là tay sai cho vua Pháp”, đại diện cho niềm tự hào của người Highlands sau cuộc nổi loạn Jacobite năm 1745, nóng tính, khinh suất, lãng mạn và bất hạnh, với những khúc thoại đáng nhớ. Cặp nhân vật này cùng hành động, cãi nhau, cùng nổi loạn (với Stevenson) với phong cách rất Scotland. Như bánh trái của một quốc gia giàu có, Kidnapped đơm hoa với vô số phương ngữ, “ain” (một), “bairn” (đứa trẻ), “blae” (ủ rũ), “chield” (gã bạn), “drammach” (bột yến mạch), “fash” (phiền), “muckle” (to lớn), “siller” (tiền), “unco” (vô cùng) , “wheesht!” (suỵt!), và hàng tá nữa. Tiếng vùng Scotland bằng cách nào đó giúp Kidnapped có một sức mạnh không bao giờ mệt mỏi, nhưng bên trong lại ảm đạm. Stevenson, qua giọng Balfour, bày tỏ điều này khi anh thoát khỏi “phần tăm tối nhất của cuộc hành trình… Ransom ở bên dưới, Shaun chết trên sàn nhà, hay Colin Campbell (con cáo đỏ) túm lấy ngực áo khoác của hắn…” Tất nhiên Balfour đã sống sót, nhưng tất cả mọi người khác đều có số phận phải chết. Còn Stevenson đột ngột ra đi bởi một cơn đột quỵ trên biển Samoa ngày 3/12/1894, năm 44 tuổi. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Tác phẩm: Bắt Cóc Mũi Tên Đen Đảo Giấu Vàng Bác sĩ Jekyll và ông Hyde ... *** Mời các bạn đón đọc Bắt Cóc của tác giả Robert Louis Stevenson.
Người tình Hoa Bắc - Marguerite Duras
7 năm sau thành công với “Người tình”, Marguerite Duras một lần nữa trở lại với câu chuyện tình yêu ám ảnh giữa cô bé người Pháp mới lớn và chàng thanh niên Trung Hoa. Tiểu thuyết “Người tình Hoa Bắc” của bà vừa được xuất bản bằng tiếng Việt. Mở đầu cuốn Người tình Hoa Bắc, Duras viết: “Tôi được biết anh ấy đã qua đời. Đó là vào tháng 5/1990, cách đây một năm. Tôi chưa bao giờ từng nghĩ đến sự ra đi của anh ấy. Người ta còn nói với tôi rằng anh được an táng tại Sa Đéc, rằng ngôi nhà màu xanh vẫn luôn ở chỗ đó, nơi gia đình và con cái anh cư ngụ”. Cuốn sách ra đời năm 1991 - một năm sau khi ông Huỳnh Thủy Lê - nguyên mẫu người tình của nhà văn mất. Cái chết của ông dường như đã làm sống dậy những ký ức đã trôi qua hơn nửa thế kỷ trong tâm hồn cô bé da trắng. Một lần nữa khai thác lại mối tình cũ, nhưng theo dịch giả Lê Hồng Sâm, Người tình Hoa Bắc thể hiện những cảm nhận khác biệt về nhân vật, về lối viết. Theo bà, nhân vật người tình trong cuốn tiểu thuyết thứ hai của Duras “táo bạo hơn, cường tráng hơn, tuấn tú hơn”. Nếu như trong cuốn Người tình, nhà văn trao nhiều quyền chủ động chèo lái chuyện yêu cho cô gái 15 tuổi thì ở tác phẩm mới này, người tình Trung Hoa đã bớt rụt rè, bớt mặc cảm chủng tộc hơn. Bà Lê Hồng Sâm tỏ ra ngạc nhiên khi mà Người tình Hoa Bắc - được viết 60 năm sau khi Duras rời khỏi Việt Nam - vẫn tái hiện được những ký ức đầy sống động về xứ sở Đông Dương trong vẻ đẹp của những đêm mùa khô, của những cơn mưa gió mùa, của mênh mang đồng ruộng, của xóm ghe thuyền, của bầy trẻ đánh xe trâu, của màu chiếc quần lụa đã nhợt nhạt. Người tình Hoa Bắc khác biệt với Người tình còn ở tính chất kép của tác phẩm. Nhà văn xác định: “Đây là một cuốn sách. Đây là một bộ phim”. Chuyên gia văn học Trần Hinh cũng phát hiện ra tính chất lai tạo giữa văn học và điện ảnh trong tác phẩm của Marguerite Duras. Ông cho rằng, Duras phải chăng không hài lòng với các nhà làm phim Người tình chăng nên với Người tình Hoa Bắc, bà muốn tạo nên một cuốn tiểu thuyết có khả năng đọc như một kịch bản phim? ***     Marguerite Duras (1914 - 1996) tên thật là Marguerite Donnadieu. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Ga-ronne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. Bà sinh tại Gia Định, Đông Dương (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha là giáo sư toán mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm Marguerite mới lên bốn tuổi. Mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Escole de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trương Vương ngày nay). Mẹ bà ở vậy nuôi bà người con trong cảnh khốn khó. bà có một người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. Trải qua tuổi thơ và thời thiếu niên ở Việt Nam, nhưng kỷ niệm nơi đây đã gợi nhiều cảm hứng và in đậm trong các tác phẩm của bà. Năm mười tám tuổi, Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luận và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ năm 1935 tới năm 1941. Năm 1950, Duras được biết tới lần đầu tiên với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau này của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với người tinh (l’ Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nông nàn và lãng nạm giữa bà với điền chủ gốc hao giàu có, Huỳnh Thủy Lê, tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và được dựng thành phim năm 1992. Tác phẩm của Duras bao gồm khoảng bốn mưới tiểu thuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les- enfants. Cuộc đời của bà giống như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết vê những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và cả sự im lặng... Những tác phẩm đầu tay của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã từng bị nhà văn Raymond Quene-au chỉ trích), nhưng kể từ Monderato Cantabile, bà đã thử những lỗi viết mới, đặc biệt là cắt bổ những đoạn văn dài nhằm làm tăng tầm quan trọng của những gì không được viết ra. bà được xếp vào phong trào tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, nhưng không phải để kể lại mà để ám chỉ những chuyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở paris, được chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. BachvietBooks Mời các bạn đón đọc Người tình Hoa Bắc của tác giả Marguerite Duras.
Thời Thơ Ngây - Edith Wharton
Thời thơ ngây (tên gốc là The Age of Innocence) là tiểu thuyết thứ mười hai của bà. Tác phẩm đạt giải Pulitzer năm 1921, giúp Edith Wharton trở thành nhà văn nữ đầu tiên giành giải thưởng này. Cuốn sách kể về câu chuyện của một cặp đôi thuộc tầng lớp thượng lưu xã hội Mỹ đang chuẩn bị kết hôn. Newland Archer, một luật sư hào hoa và là người thừa kế của một trong những gia đình có danh tiếng bậc nhất ở New York lúc bấy giờ, đang háo hức chuẩn bị cho đám cưới mơ ước của mình với tiểu thư May Welland xinh đẹp. Đúng vào thời điểm ấy, nữ Bá tước Ellen Olenska, cô chị họ xinh đẹp của May trở về từ châu Âu sau tin đồn ly hôn với một Bá tước người Ba Lan. Ban đầu, Archer lo lắng vì tai tiếng của cô có thể ảnh hưởng đến May Welland nhưng dần dần anh lại bị Ellen- người coi thường những quy định hà khắc của xã hội New York thu hút. Tình cảm anh dành cho nữ Bá tước ngày càng sâu đậm và điều đó có thể làm hủy hoại đám cưới của anh và May. Điều gì sẽ xảy ra? Liệu Ellen có dành tình cảm cho anh? Đứng giữa cô dâu tương lai và tình yêu định mệnh của cuộc đời, anh sẽ lựa chọn như thế nào? Bằng giọng văn châm biếm và hài hước, Edith Wharton đã tái hiện lại xã hội New York vào những năm 70 của thế kỉ XIX với những lề thói cổ hủ, lạc hậu, cái xã hội khiến con người ta không thể sống thật với bản chất, tình cảm của mình. Đồng thời, người đọc cũng cảm nhận được tài năng của bà qua cách bà miêu tả mối tình lặng lẽ của Ellen và Archer. *** Edith Wharton sinh ngày 24-1-1862 tại số nhà 14, Đường Hai mươi ba Tây, Thành phố New York. Bà là con gái duy nhất trong một gia đình có quá đông con trai thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có, từng được bà miêu tả vào năm 1933 như một “trung tâm quý tộc thu nhỏ… một xã hội mà tất cả những người buôn bán đều bị loại ra như một điều đương nhiên” (Hồi ký, 1.3). Bà là nữ tiểu thuyết gia đầu tiên đạt giải Pulitzer. Ngoài ra, bà cũng viết truyện ngắn và là một nhà thiết kế. Bà từng được đề cử giải Nobel Văn học năm 1927,1928 và năm 1930. Wharton kết nối quan điểm của bà về các tầng lớp đặc quyền trong xã hội Mỹ với trí thông minh bản năng xuất sắc để tạo nên những tiểu thuyết và truyện ngắn hài hước, sâu cay về vấn đề xã hội và tâm lý. Bà cũng quen biết nhiều cây bút văn chương cũng như những chính trị gia thời đó, trong đó có cả Tổng thống Theodore Roosevelt. Hồi còn nhỏ, bà đã phản đối những chuẩn mực về ăn mặc và lễ nghi dành cho con gái lúc bấy giờ. Bà cho rằng những yêu cầu đó là cứng nhắc và thiển cận. Edith muốn nhận được nhiều hơn từ nền giáo dục, bởi vậy bà đọc sách từ thư viện của bố và những người bạn của ông. Mẹ của bà ngăn cấm bà đọc tiểu thuyết cho đến khi kết hôn và Edith đã tuân theo. Edith bắt đầu làm thơ và viết tiểu thuyết từ khi còn nhỏ. Bà thử viết tiểu thuyết từ khi mười một tuổi. Tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà là bản dịch từ một bài thơ bằng tiếng Đức có tên “What the Stones tell” của Heinrich Karl Brugsch và bà kiếm được 50 đô la. Lúc đó, bà mới mười lăm tuổi. Gia đình bà không muốn tên của bà xuất hiện ngoài công chúng bởi vì tên của phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu chỉ xuất hiện trên mặt báo để thông báo về sự ra đời, kết hôn hay từ trần. Do vậy, bài thơ được phát hành dưới tên một người bạn của bố bà, E. A. Washburn. Ông đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực tự học của bà, và ông đã khuyến khích bà theo đuổi nghiệp viết chuyên nghiệp. Ngoài viết tiểu thuyết, Wharton đã sáng tác hơn 85 truyện ngắn. Bà cũng là một nhà thiết kế và bà cũng viết nhiều sách về thiết kế, bao gồm tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà. Bà mất ngày 11-8-1937 sau một cơn đột quỵ tại Pháp.   Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ngây của tác giả Edith Wharton.
Ông Hoàng Xứ Kahel - Tierno Monénembo
“Qua những cuộc phiêu lưu của một nhà tiên phong Pháp, tiểu thuyết gia gốc Guinée đã lần ngược lại những biến cố và đổ nát của vương triều Peul ở Fouta-Djalon. Tác phẩm được viết dưới một tài năng tuyệt vời về viễn tưởng và hư cấu mạch lạc giữa Lịch sử và Danh phận, lịch sử của một Phi châu hiện đại có thể nhìn về quá khứ của mình mà không rơi vào thuyết máy móc phân biệt giữa Da Trắng và Da Đen.  *** Qua những trang hơi khó đọc của phần đầu tác phẩm, thì bạn đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi biên độ trí tưởng tượng sử thi, kết hợp giữa các trò cười của cuộc sống và linh cảm bất thường đáng lo ngại của cuộc chiến tranh giữa các nền văn minh trong chế độ thuộc địa.” • Đài RFI “Với cuốn tiểu thuyết pha trộn giữa cuộc sống và những tìm hiểu sâu rộng về tư liệu, Tierno Monénembo đã miêu tả chặng đường đi tìm và thiết lập vương quốc của một con người kỳ tại, lập dị nhưng rất đáng mến của thế kỷ XIX.” • Tạp chí Văn Học “Một tác phẩm dữ dội đề cập đến thảm cảnh và những thăng trầm của lịch sử châu Phi…” • Tạp chí Nouvel Observateur “Đấng Tối cao đã sinh ra họ màu đen để cho những cú bị đánh không bị nhìn thấy được.” • Olivier De Sanderval *** Tierno Monénembo, tên thật là Thierno Saïdou Diallo, sinh ngày 21-7-1947, ở Porédaka ở Guinée. Ông là một nhà văn thuộc khối Pháp ngữ. Năm 1969 ông đã bỏ trốn khỏi chế độ độc tài Sékou Touré. Ông đã chạy bộ gần 150 kilomet để đến Sénégal. Ông theo học Y khoa tại Dakar, rồi sau đó đến Bờ Biển Ngà (Côte d’Ivoire) và tại đây, ông bắt đầu theo học ngành Sinh Hóa và tiếp tục ngành này tại Pháp vào năm 1973, ông bảo vệ thành công luận án tiến sỹ tại trường đại học Lyon. Ông đến Algérie và Maroc giảng dạy một thời gian. Từ năm 2007, ông là giáo sư danh dự của Middlebury College tại vùng Vermont, Hoa Kỳ. Có thể nói lang thang viễn xứ là trọng tâm cuộc đời và tác phẩm của người con tộc Peul này. Ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên Những chú cóc-trảng bụi năm 1979. Bảy năm sau, ông cho ra đời tác phẩm Những chiếc vẩy tê tê của bầu trời và đoạt giải Grand Prix của châu lục Đen. Năm 1991, cuốn Giấc mơ hữu ích cũng ra đời dưới ngòi bút của ông. Đến nay, ông đã hoàn thành mười cuốn tiểu thuyết. Và cuốn Ông hoàng xứ Kahel đã vinh dự được trao giải Renaudot, một phần thưởng danh giá trong làng văn học Pháp.   Mời các bạn đón đọc Ông Hoàng Xứ Kahel của tác giả Tierno Monénembo.