Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hải Thượng Lãn Ông

Hải Thượng Lãn Ông

Lê Hữu Trác vốn có tên cúng cơm là Huân, biểu tự Cận Như, bút hiệu Quế Hiên, Thảo Am, Lãn Ông, biệt hiệu cậu Chiêu Bảy, cuộc đời ông phần nhiề gắn bó với ở quê mẹ thôn Bàu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An. Ông là con thứ bảy của tiến sĩ Lê Hữu Mưu và phu nhân Bùi Thị Thưởng.

Dòng tộc ông vốn có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư (năm Kỷ Mùi 1739). Khi ấy, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân. Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, “nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình” (Tựa “Tâm lĩnh”). Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và mang bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt. Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự “bẻ tên cởi giáp” theo đuổi chí hướng mới.

Nội dung bao gồm y lí, chẩn trị, phương dược, trình bày có hệ thống, kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích chứng minh rõ ràng, như bàn về Thủy Hỏa thì có cuốn Huyền Tẩn Phát Vi, bàn về khí huyết có cuốn Khôn Hóa Thái Chân, trị các bệnh ngoại cảm thì có Ngoại Cảm Thông Trị, biện biệt tạp chứng thì có Bách Bệnh Cơ Yếu, chẩn đoán thì có Y Gia Quan Miện, biện luận thì có Đạo Lưu Dư Vận, vận khí có Vận Khí Bí Điển … cho đến các loại phụ khoa (Phụ Đạo Xán Nhiên), nhi khoa (Ấu Ấu Tu Tri) đều viết một cách tinh thông, giầu kinh nghiệm.

Tuy chịu ảnh hưởng của y học Trung Hoa nhất là Phùng Thị nhưng Lãn Ông đã có óc sáng tạo vận dụng y lí hợp với hoàn cảnh khí hậu và thể chất của người Việt Nam và đã sử dụng thuốc Nam để chữa bệnh, như ở các cuốn Lĩnh Nam Bản Thảo, Bách Gia Trân Tàng và Hành Giản Trân Nhu. Nhận định về Lĩnh Nam không có thương hàn, Lãn Ông đã lập ra nhiều phương thang mới ghi ở cuốn Ngoại Cảm Thông Trị. Đặc biệt trong 2 cuốn Dương Án và Âm Án, ghi lại những y án và phân tích về những bệnh đã chữa khỏi hoặc không chữa được. Cuốn Châu Ngọc Cách Ngôn để lại cho chúng ta những điều căn dặn rất bổ ích về chẩn đoán trị liệu và những sai lầm tai hại cần tránh.

Thân thế và sự nghiệp của Lãn Ông đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với giới Đông y Việt Nam cả về mặt đạo đức và chuyên môn.

Nguồn: sachhaymienphi.com

Đọc Sách

Nam Nữ ái tình
              Công dụng về sự đọc sách này: - Phàm những cha mẹ có con trai con gái đã lớn, dạy bảo không tiện thì nên mua cuốn sách này cho con cái đọc - Những con trai con gái chưa kết hôn và những trai gái đã kết hôn, nên đọc sách này để biết phép vệ sinh - Những vợ chồng hay bất hòa, nên đọc sách này để cầu tự - Những trai gái nhiều tật bệnh, nên đọc sách này để tránh khỏi bệnh tật và cầu thọ - Những trai gái túng dục đa tình, nên đọc sách này để biết sợ mà tỉnh ngộ. Công dụng về sự đọc sách này:- Phàm những cha mẹ có con trai con gái đã lớn, dạy bảo không tiện thì nên mua cuốn sách này cho con cái đọc- Những con trai con gái chưa kết hôn và những trai gái đã kết hôn, nên đọc sách này để biết phép vệ sinh- Những vợ chồng hay bất hòa, nên đọc sách này để cầu tự- Những trai gái nhiều tật bệnh, nên đọc sách này để tránh khỏi bệnh tật và cầu thọ- Những trai gái túng dục đa tình, nên đọc sách này để biết sợ mà tỉnh ngộ.
Châm cứu Giáp Ất kinh (2 tập)
"Châm cứu giáp ất kinh" nói nôm na là "Châm cứu ABC", "Châm cứu bước đầu" là bộ sách thuộc loại kinh điển đã đóng góp thêm vào việc thúc đẩy ngành châm cứu học phát triển tiếp sau “Nội kinh" do nhà châm cứu học Hoàng Phủ Mật hồi thế kỷ thứ 3 biên soạn. Đây là một bộ sách chuyên ngành đầu tiên viết về môn châm cứu học có hệ thống thời xưa truyền lại đến ngày nay. Hoàng Phú Mật sinh năm 215, mất năm 282, người Triều Nã, An Định (nay ở vùng phía Tây Nam huyện Linh Đài, tỉnh Cam Túc. Trung Quốc) thời Ngụy - Tấn. Trong thời kỳ ông còn sống, các thế lực phong kiến cát cú đánh nhau liên miên, hàng triệu nhân dân bị chết chóc, những người được sống sót thì lưu lạc bơ vơ, nghèo đói lầm than; các nơi bệnh hoạn và ôn dịch lan tràn, nhân dân sa vàn cảnh nước sôi lửa bỏng. Do phương pháp điều trị bằng châm cứu giản tiện, ít tốn kém, nên đã được lưu hành rộng rãi trong dân gian. Hoàng Phú Mật sinh năm 215, mất năm 282, người Triều Nã, An Định (nay ở vùng phía Tây Nam huyện Linh Đài, tỉnh Cam Túc. Trung Quốc) thời Ngụy - Tấn. Trong thời kỳ ông còn sống, các thế lực phong kiến cát cú đánh nhau liên miên, hàng triệu nhân dân bị chết chóc, những người được sống sót thì lưu lạc bơ vơ, nghèo đói lầm than; các nơi bệnh hoạn và ôn dịch lan tràn, nhân dân sa vàn cảnh nước sôi lửa bỏng. Do phương pháp điều trị bằng châm cứu giản tiện, ít tốn kém, nên đã được lưu hành rộng rãi trong dân gian.
Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 3 - Hoàng Văn Hòe
Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 3 Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 3Trong cảnh hưu nhàn, tôi thường quan tâm đến người đời bây giờ, có rất nhiều chứng bệnh khó tìm được thuốc chữa thì một lão hữu Đình Thụ Hoàng văn Hòe Tiên sinh, có nhã ý đưa cho coi một bản dịch, do liên sinh đã dịch bộ sách « Hải Thượng Y Tôn » bằng chữ Hán ra Việt văn. Tôi' mừng rỡ như là được thần tiên cho một phương thuốc trường sinh. Trong cảnh hưu nhàn, tôi thường quan tâm đến người đời bây giờ, có rất nhiều chứng bệnh khó tìm được thuốc chữa thì một lão hữu Đình Thụ Hoàng văn Hòe Tiên sinh, có nhã ý đưa cho coi một bản dịch, do liên sinh đã dịch bộ sách « Hải Thượng Y Tôn » bằng chữ Hán ra Việt văn. Tôi' mừng rỡ như là được thần tiên cho một phương thuốc trường sinh. Tôi đã xem kỹ bản dịch, thấy ý nghĩa đúng với nguyên văn, lời vặn lưu loát. Cách xếp đặt có khoa học, lời giải thích rất rõ ràng, khiến cho ai đã đọc qua, dù không phải là người đã có tập nghiệm, hay có gia truyền, cũng đều hiểu được khá nhiều về y lý. Thực là: « Công trình kê biết mấy mươi»!Tôi cũng như phần nhiều người khác, khi có bệnh phải dùng thuốc, và đã có dùng nhiều thuốc Bắc. Những khi đó, các vị Đông-Y-Sĩ chuẩn trị cho tôi, vị thì chữa theo Cảnh-Nhạc, vị thì chữa theo Phùng-Thị, vị thì thiên về ôn, bổ, vị thì thiên về hàn, lương. Riêng tôi thì nằm lẩm bẩm mấy câu sách thuốc: "Người có bệnh khổ vì không biết thuốc. Người làm thuốc khổ vì không biết bệnh". (Bệnh gia khổ ư bất tri y. Y gia khổ ư bất tri bệnh). Rồi kết cục cũng không ngoài 4 chữ: "Phúc chủ lộc thầy".Vì các lẽ đó, nên từ trước đến nay, tôi vẫn khâm phục Lê Hữu Trác tiên sinh, biệt hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, đã có sáng kiến và công phu soạn ra bộ "Hải Thượng Y-Tôn", là một pho sách thuốc duy nhất của người Việt, để dạy người Việt chữa bệnh cho người Việt. Tuy bộ sách ấy không phải là không tham khảo các sách thuốc của Trung Hoa, nhất là bộ Cẩm-Nang, những cũng không phải là lệ thuộc vào tác phẩm ngoại lai. Đặc biệt là phương pháp điều trị, thích hợp vởi thủy thổ, khí hậu của địa phương, thể chất bẩm sinh của thời địa cho nên về thời trước, Tiên sinh đã được sắc phong là Việt Nam Y Thánh.
Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 2 - Hoàng Văn Hòe
Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 2 Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh Quyển 2Trong cảnh hưu nhàn, tôi thường quan tâm đến người đời bây giờ, có rất nhiều chứng bệnh khó tìm được thuốc chữa thì một lão hữu Đình Thụ Hoàng văn Hòe Tiên sinh, có nhã ý đưa cho coi một bản dịch, do liên sinh đã dịch bộ sách « Hải Thượng Y Tôn » bằng chữ Hán ra Việt văn. Tôi' mừng rỡ như là được thần tiên cho một phương thuốc trường sinh. Trong cảnh hưu nhàn, tôi thường quan tâm đến người đời bây giờ, có rất nhiều chứng bệnh khó tìm được thuốc chữa thì một lão hữu Đình Thụ Hoàng văn Hòe Tiên sinh, có nhã ý đưa cho coi một bản dịch, do liên sinh đã dịch bộ sách « Hải Thượng Y Tôn » bằng chữ Hán ra Việt văn. Tôi' mừng rỡ như là được thần tiên cho một phương thuốc trường sinh. Tôi đã xem kỹ bản dịch, thấy ý nghĩa đúng với nguyên văn, lời vặn lưu loát. Cách xếp đặt có khoa học, lời giải thích rất rõ ràng, khiến cho ai đã đọc qua, dù không phải là người đã có tập nghiệm, hay có gia truyền, cũng đều hiểu được khá nhiều về y lý. Thực là: « Công trình kê biết mấy mươi»!Tôi cũng như phần nhiều người khác, khi có bệnh phải dùng thuốc, và đã có dùng nhiều thuốc Bắc. Những khi đó, các vị Đông-Y-Sĩ chuẩn trị cho tôi, vị thì chữa theo Cảnh-Nhạc, vị thì chữa theo Phùng-Thị, vị thì thiên về ôn, bổ, vị thì thiên về hàn, lương. Riêng tôi thì nằm lẩm bẩm mấy câu sách thuốc: "Người có bệnh khổ vì không biết thuốc. Người làm thuốc khổ vì không biết bệnh". (Bệnh gia khổ ư bất tri y. Y gia khổ ư bất tri bệnh). Rồi kết cục cũng không ngoài 4 chữ: "Phúc chủ lộc thầy".Vì các lẽ đó, nên từ trước đến nay, tôi vẫn khâm phục Lê Hữu Trác tiên sinh, biệt hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, đã có sáng kiến và công phu soạn ra bộ "Hải Thượng Y-Tôn", là một pho sách thuốc duy nhất của người Việt, để dạy người Việt chữa bệnh cho người Việt. Tuy bộ sách ấy không phải là không tham khảo các sách thuốc của Trung Hoa, nhất là bộ Cẩm-Nang, những cũng không phải là lệ thuộc vào tác phẩm ngoại lai. Đặc biệt là phương pháp điều trị, thích hợp vởi thủy thổ, khí hậu của địa phương, thể chất bẩm sinh của thời địa cho nên về thời trước, Tiên sinh đã được sắc phong là Việt Nam Y Thánh.