Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Kẻ Phiêu Lưu

“… “Đây là một người hùng,” nhà báo nói. “Trái đất rung chuyển khi ông bước, đàn ông yêu ông và sợ ông, đàn bà run rẩy trước sức mạnh nơi bắp vế ông, người ta tìm kiếm sự chiếu cố của ông. Mà giờ không một ai ở đây để tưởng nhớ ông.” Nhà báo quay đi. “Ông nói đúng. Người chết là cô đơn.” Ông cai lại nắm tay áo ông. Nhà báo quay lại, đối diện ông ta, cảm thấy mệt mỏi rã rời. Ông mong giá mình không thấy mấy dòng thông cáo, đã không đi dưới mặt trời kinh khủng để đến nơi nẻo hãi hùng này, đến cáci thế giới không ký ức này. “Thưa ông, không”, ông cai nói nhỏ. “Tôi nhầm. Ông ta không cô đơn. Ông ta đã ở đây mà…” Câu chuyện xoay quanh cuộc đời nhân vật chính Diogenes Alejandro Xenos (hay còn gọi là Dax). Lớn lên với một tuổi thơ đầy ám ảnh về cái chết bi thảm của mẹ và người chị gái, cuộc đời Dax trải qua rất nhiều sóng gió nhưng cũng không kém phần oanh liệt. Thông qua cuộc đời nhân vật Dax, độc giả sẽ được chứng kiến nhiều sự kiện, biến động của xã hội phương Tây trong những năm trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai. Những sự kiện liên tiếp diễn ra khiến người đọc bị hấp dẫn và lôi cuốn không thể nào dừng lại được. Xung quanh nhân vật chính, tác giả cũng xây dựng nên nhiều tuyến nhân vật với đủ loại thân phận thuộc các giai tầng khác nhau, rất phong phú và đa dạng. Một xã hội phương Tây như được thu nhỏ trong mỗi trang văn của Harold Robbins. Những kẻ phiêu lưu vừa mang yếu tố hiện thực sâu sắc vừa mang tính lãng mạn với những khát khao, đam mê cháy bỏng của tình yêu. Harold Robbins (1916 – 1997) là một trong những nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại của Mỹ. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã viết hơn 25 cuốn sách, được dịch sang 32 ngôn ngữ và bán được hơn 750 triệu bản. *** Mười năm sau cuộc bạo động, trong đó anh đã chết. Thời của anh trên trái đất này đã qua. Hạn tro của anh trong chiếc hộp bé tẹo cuối cùng để ẩn náu này cùng đã hết. Giờ đây, quy trình đã được hoàn tất. Anh đã trở về với tro bụi của trái đất, là nơi anh đã sinh ra. Mặt trời xứ nhiệt đới phả những đợt sóng ẩm nóng chói chang xuống những cây thập tự sơn đen bên những bức tường sét trắng của nghĩa trang khi nhà báo Mỹ bước ra khỏi taxi bên những cánh cổng sắt hoen gỉ. Ông đưa cho người lái xe tờ năm peso rồi quay đi trước khi anh ta kịp nói lời cám ơn. Các quầy bán hoa đã tấp nập. Những người đàn bà vận đồ đen đang mua những bó hoa nhỏ. Những tấm mạng đen dầy cộp của họ như che chắn cho họ khỏi sức nóng và ngăn niềm thương đau của họ với cuộc đời. Đám ăn mày cũng ở đấy, những đứa trẻ nhỏ với những cặp mắt thẫm mầu thô lố nằm trong những quầng đen trũng, bụng chúng trương lên vì đói. Khi ông đi qua, chúng giơ những bàn tay bé nhỏ dơ dáy ra đón những đồng xu ông lơ đễnh buông xuống. Khi đã qua cổng thì chỉ còn ắng lặng. Cứ như thể có một cầu dao chính nào đó đã ngắt hẳn thế giới bên ngoài. Một người đàn ông vận đồng phục đang ngồi trong chiếc chòi để hở. Nhà báo đi về phía ông ta. "Làm ơi chỉ giùm, senior?". Và thấy một thoáng ngạc nhiên trên mặt khi người đàn ông trả lời "Phố Sáu, nhà hai mươi". Nhà báo Mỹ mỉm cười, quay đi. Hầu như trong cái chết họ vẫn bám lấy dòng đời. Những lối mòn được gọi là đường phố và nơi họ an nghỉ sau bốn bức tường được gọi là khu nhà. Rồi ông lấy làm lạ về nét ngạc nhiên trên khuôn mặt người đàn ông. Ông đã đọc thấy mấy dòng thông báo mà ông hằng tìm kiếm khi ngồi trong hành lang một khách sạn mới, lật qua các báo chí địa phương, như ông vẫn làm mỗi khi đến một thành phố mới. Đó là bốn dòng nhỏ xíu vùi giữa các trang cuối, hầu như mất hút trong mớ hỗn độn các thông cáo khác lớn hơn. Ông đang thả bộ xuôi con đường mòn với những lăng mộ cá nhân trau chuốt. Một cách trễ nải, ông quan sát các tên người: Ramirez, Santos, Oberon, Lopez... Dù dưới sức nóng mặt trời, ông vẫn thấy giá lạnh phả ra từ những tấm cẩm thạch trắng và cảm thấy mồ hôi ẩm lạnh nơi cổ áo. Giờ đây lối mòn đã rộng hơn. Phía trái ông là những bãi trống lô nhô những bia mộ nhỏ. Bé nhỏ, không được coi sóc, bị quên lãng. Đó là những nấm mồ của kẻ nghèo. Bị ném vào lòng đất trong những hộp gỗ mỏng dính và mặc cho tan biến vào thiên nhiên mà chẳng hề có sự trông nom hay tưởng nhớ. Bên phải ông là các "dãy nhà". Khu chung cư của người chết. Đó là những toà nhà lớn mái lợp ngói Tây Ban Nha đỏ và xám, cao hai mươi, rộng bốn mươi, dài tám mươi foot, gồm những khối xi măng trắng, từng cụm ba khối. Mỗi ô vuông ba foot, đều mang tên kẻ ngụ cư, một thập tự nhỏ khắc chìm vào xi măng ở bên trên tên người, còn ngày qua đời thì ở bên dưới. Ông nhìn lên toà nhà đầu tiên. Có một biển kim loại nhỏ gắn trên mái hiên. Phố 3, nhà 1. Ông còn phải đi xa. Cái nóng bắt đầu đổ xuống. Ông nới rộng cổ áo và rảo bước. Đến giờ rồi, mà ông thì không muốn trễ. Thoạt tiên ông tưởng mình đến nhầm chỗ. Không một ai ở đấy. Ngay cả những người phu đám cũng không. Ông kiểm tra tấm biển kim loại trên toà nhà, rồi kim thời gian trên chiếc đồng hồ đeo tay. Cả hai đều đúng. Ông mở tờ báo xem thử mình có nhầm ngày chăng, nhưng ngày cũng đúng. Ông thở dài nhẹ nhõm và châm điếu thuốc. Đây là Mỹ La tinh. Ở đấy thời giờ chẳng chính xác như ở nhà. Ông chậm rãi dạo quanh, đọc tên người trên các ô vuông. Cuối cùng, ông có được điều ông tìm kiếm đang ẩn trong một góc tối dưới mái hiên phía tây nam của toà nhà. Bản năng khiến ông vứt điếu thuốc đi, ngả mũ và chằm chằm nhìn lên văn bia. D.A.X 10 tháng Năm 1955 Ông nghe thấy tiếng xe ngựa lọc xọc trên đá cuội phía sau. Đấy là chiếc xe trần do con lừa mệt mỏi kéo đi, hai tai dán chặt vào đầu để phản đối việc bị cưỡng bức làm việc trong nóng bức. Xà ích mặc bộ đồ kaki đã bạc. Ngồi bên gã là người đàn ông mặc complê đen, đội mũ đen, chiếc cổ áo trắng hồ bột đã ngả vàng vì mồ hôi và bụi bặm. Đi bên xe là một gã phu với chiếc cuốc chim trên vai. Chiếc xe hộc lên rồi dừng lại. Người vận đồ đen tụt xuống, rút từ trong túi áo ra tờ giấy, liếc qua, rồi nhìn vào những bia mộ dọc theo các bức tường. Mãi tới lúc ông ta dừng lại trước mặt nhà báo Mỹ mới nhận ra rằng người ta đến để mở căn hầm mộ. Người vận đồ đen, cũng là ông cai, vẫy gã xà ích đến bên rồi nhìn chăm chăm vào căn hầm, khẽ lầu bầu gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha trong khi gã xà ích trễ nải kéo lê theo chiếc thang nhỏ chắp bằng nhiều mảnh gỗ. Gã dựng thang vào tường rồi trèo lên, nhìn sát vào khối xi măng hầm mộ. "Dax", gã nói, giọng khàn đặc. "Dax", ông cai gật đầu, nhắc lại bằng giọng thoả mãn. Gã phu mang ra cuốc chim cũng gật đầu. Có một âm hưởng thích thú trong giọng của gã. "Dax". Gã xà ích đứng trên thang đưa tay ra. "Cuốc". Rồi với một cú bổ thiện nghệ, gã choảng mạnh lưỡi cuốc vào giữa khối bê tông. Nó bắn toé chùm tia, rạch qua dòng chữ đục, toả ra tứ phía, đúng vào lúc mặt trời đi ngang góc mái hiên. Gã chửi đổng mặt trời bỗng dưng xuất hiện và kéo mũ sụp xuống che mắt, rồi lại choảng mũi cuốc chim vào xi măng. Lần này phiến đá vỡ toang, mảnh bay rào rào trên nền cuội. Nhà báo nhìn ông cai. Ông ta có vẻ đang theo dõi hai người phu, nhưng rõ ràng là chẳng quan tâm gì tới công việc họ đang làm. Ông ta như chán nản với tất cả. Đây chỉ là công việc muôn thuở mà thôi. Ông ta quay lại khi nhà báo bước tới. "Những người khác đâu cả?" Nhà báo hỏi bằng thứ tiếng Tây Ban Nha ngập ngừng của mình. Người đàn ông nhún vai. "Chẳng có ai khác nữa". "Nhưng trong báo... " Nhà báo ngừng lại. Ông hầu đã cạn vốn tiếng Tây Ban Nha "Nói tiếng Anh chứ?" Ông cai mỉm cười kiêu hãnh "Vâng, vâng". Ông ta ré lên. "Xin hầu ông". "Tôi thấy thông cáo trên báo", nhà báo nói với cảm giác nhẹ nhõm, "nên tưởng sẽ có những người khác nữa". "Không có ai cả", ông cai nói. "Nhưng ai đã đăng thông cáo? Chắc chắn phải có ai đó chứ. Ông ta là một người nổi tiếng. Rất nổi tiếng". "Văn phòng đăng thông cáo. Thời gian đã qua khá lâu để ai đó đến mà nhận thi thể. Còn bao kẻ đang chờ chỗ này. Thành phố cứ liên tục phình ra mà. Chúng tôi đã quá chật chội rồi. Ông thấy đấy". "Tôi thấy rồi" nhà báo nói, ngập ngừng. "Thế không còn ai nữa à? Gia đình. Hoặc bạn bè. Ông ta có rất nhiều bạn bè". Một nét u ám thoáng nơi cặp mắt người đàn ông. "Người chết là cô đơn". Một tiếng kêu làu bàu phát ra từ gã xà ích trên thang. Họ quay nhìn lên. Gã đã phá thủng mặt ngoài, và qua đó có thể thấy chiếc quan tài gỗ đã bị mối đã ăn luỗng và bạc màu. Giờ gã đang dùng lưỡi cuốc chim để nậy những mảnh xi măng còn lại rồi nhoai người vào trong hầm mộ kéo chiếc quan tài ra. Nhà báo quay lại ông cai. "Bây giờ sẽ làm gì tiếp?" "Ông ta sẽ được đưa lên dàn hoả". "Rồi sau đó?" Ông cai nhún vai. "Vì chẳng có ai đến nhận nên tro sẽ đổ chung với tro người khác rồi đổ vào bãi đất mà chúng tôi đang lấn ra đầm lầy". Chiếc quan tài được đặt trên dải xi măng hẹp bên toà nhà. Ông cai nhìn xuống, kiểm tra dòng chữ viết trên tấm biển kim loại nhỏ trên nắp với tờ giấy trong tay. "Đúng". Ông ta nói, rồi nhìn lên nhà báo. "Ông muốn xem bên trong quan tài?" "Không", nhà báo lắc đầu. "Vậy... khi không có gia đình để trả tiền thì những người phu được phép. Chắc ông hiểu?" Nhà báo gật đầu và quay đi khi hai người phu bắt đầu mở nắp quan tài, lắng nghe tiếng họ thì thầm khi bàn luận về những thứ mà họ tìm được, và chia chác chúng ra sao. Có một lời rủa khẽ. Rồi âm thanh đóng ván thiên. Ông cai trở lại bên nhà báo. "Hai anh phu đang thất vọng", ông ta nói "Chẳng có gì ngoài mấy chỗ hàn răng bằng vàng, và chiếc nhẫn này". Nhà báo nhìn xuống chiếc nhẫn trong tay ông ta. Một lớp bụi phủ kín nó. "Tôi lấy chiếc nhẫn" ông cai nói "còn để họ lấy mấy mối hàn. Chiếc nhẫn có giá trị, phải không?" Ông ta lấy chiếc khăn nhớp nhúa trong túi ra lau nhẫn rồi đặt nó trong lòng bàn tay. Nhà báo cúi nhìn. Đó là chiếc nhẫn vàng gắn một mặt đá đỏ thẫm. Ông cầm lên và đọc dòng chữ quen thuộc. Đó là nhẫn của trường Harvard, 1939. "Vâng" ông nói "Nó có giá trị đấy". "Mười đô la Mỹ?" ông cai hỏi. Phải mất một khoảnh khắc trước khi nhà báo nhận ra mình được mời mua chiếc nhẫn. Ông gật đầu và rút tiền ra. "Cảm ơn" ông cai nói. Nhà báo cất nhẫn vào túi. Họ quay về phía các gã phu đòn. Chiếc quan tài đã nằm trên xe. "Đi thôi. Giờ thì đến giàn hoả" ông cai nói, trèo lên xe và ra hiệu chỗ ghế bên cạnh cho nhà báo. Trời nóng hơn. Chiếc sơ mi của nhà báo ướt đẫm, thấu sang cả áo ngoài. Mất đến hai mươi phút trước khi họ đến một ngôi nhà mái bằng, xám xịt, tẻ ngắt dùng làm nơi hoả táng. Trong không khí thoáng có mùi khói khi nhà báo xuống xe đi theo hai gã phu đòn khênh chiếc quan tài vào tiền sảnh rộng. Vào trong, ông ngạc nhiên thấy nhà không có mái. Thay vào đó là bầu trời nóng bỏng trên cao. Có sáu chiếc lò hở miệng bằng đá đặt thành trời vòng tròn trong bốn bức tường của ngôi nhà. Trên mỗi miệng lò, bầu không khí chập chờn, nhảy múa với sức nóng trong lòng nó. Một người đàn ông mặc chiếc áo khoác ngoài xám phủ đầy tro bụi, tiến đến phía họ. "Đúng chứ?" Ông cai gật đầu và đưa cho ông ta mẩu giấy trắng. "Đúng". Ông ta ra hiệu cho các phu đòn. "Lò một". Hai gã phu bước đến lò đá gần nhất và lao chiếc quan tài vào. Ông cai cầm cánh tay nhà báo và họ đến bên lò. Chiếc quan tài nằm trên những thanh sắt ám khói đen, bên dưới hình như là một lưới sắt nhỏ mắt. "Lấy tro không?" Nhà báo gật đầu. Người đàn ông vận áo khoác xám đứng nhìn. Ông cai giật tay aó nhà báo. "Hắn chờ năm peso cho công việc này đấy. Lệ thế mà". Nhà báo thò tay vào túi và đưa ra tờ giấy bạc. Hai hàm răng loé trắng giữa bộ mặt ngăm đen. "Cảm ơn". Ông ta ra hiệu cho họ và, vẫn tuân theo áp lực trên cánh tay, nhà báo lùi lại cho đến khi họ cùng áp sát bức tường xa. Rồi người đàn ông vận áo khoác xám bắt đầu kéo bễ. Thoạt tiên là tiếng sôi ùng ục nhẹ trong lò, rồi chuyển nhanh thành tiếng réo ầm ầm. Cứ như thể sấm rền trong chiếc hộp nhỏ, mà vẫn không thấy ngọn lửa. Chiếc quan tài hầu như chỉ ánh lên trong những luồng khí nóng. Bỗng người đàn ông kéo cánh tay đòn và trong khoảnh khắc hầu như toàn bộ lửa của địa ngục chồm lên. Nhà báo cảm thấy luồng nóng táp vào mặt, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, rồi những ngọn lửa biến mất và chiếc quan tài như tanthành đám bụi xám, xẹp dần trong lò. Ông cai giật tay áo nhà báo. "Chúng ta ra ngoài hút thuốc đi. Trước khi hút xong, hắn sẽ mang tro đến". Ông cai nói đúng. Họ chưa hút xong điếu thuốc thì người đàn ông đã ra với chiếc bình nhỏ đựng tro hoả táng bằng sứ xám. Ông ta nhìn ông cai. "Chiếc bình năm peso đấy" ông cai thì thầm như có lỗi. Nhà báo lấy tiền trả. Người đàn ông lại gật đầu cám ơn và đưa chiếc bình cho ông cai. "Giờ chúng ta ra xe" ông cai nói, rồi cho xe quành về phía sau toà nhà. Một chiếc xe nhỏ với con lừa mắt ngái ngủ đang đỗ đấy. Xe đầy rác, bụi và ruồi bay vù vù xung quanh. "Chúng ta đổ tro vào đây". Nhà báo nhìn chiếc xe chằm chằm. Có điều gì đó bỗng kinh lợm trong ông. "Không còn chỗ nào khác à?" Ông cai nhìn ông chằmchằm, gật đầu "Có một trang trại ở bên kia đường. Chỉ năm peso là người nông dân sẽ cho chúng ta rắc tro ở đấy". "Chúng ta đến đó". Họ đi qua cánh đồng khoai, rồi qua đường. Người nông dân xuất hiện như thể từ trong lòng đất, nơi khoai đã mọc lên. Ông ta biến mất ngay khi nhận đồng năm peso. Ông cai đưa chiếc bình ra "Mời ông?" Nhà báo lắc đầu. "Ông biết ông ta chứ ạ?" ông cai hỏi. "Vâng" nhà báo nói. "Tôi biết ông ta". Ông cai mở nắp bình, rắc tro vào trong gió. Lặng lẽ, họ nhìn gió trải tro bay ngang cánh đồng. "Nhảm hết" nhà báo chợt nói "Nhảm hết". "Vì sao, thưa ông?" "Đây là một người hùng" nhà báo nói. "Trái đất rung chuyển khi ông ta bước. Đàn ông yêu ông ta và sợ ông, đàn bà run rẩy trước sức mạnh nơi bắp vế ông ta, người ta tìm kiếm sự chiếu cố của ông ta. Mà giờ không một ai ở đây để tưởng nhớ ông". Nhà báo quay đi. "Ông nói đúng. Người chết là cô đơn". Ông cai lại nắm tay áo ông. Nhà báo quay lại, đối diện ông ta, cảm thấy mệt mỏi và rã rời. Ông mong giá mình đã không thấy mấy dòng thông cáo, đã không đi dưới mặt trời kinh khủng để đến nơi nẻo hãi hùng này, đến cái thế giới không ký ức này. "Thưa ông, không" ông cai nói nhỏ. "Tôi nhầm. Ông ta không cô đơn. Ông ta đã ở đây mà". Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Phiêu Lưu của tác giả Harold Robbins.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thành Trì - Archibald Joseph Cronin
The Citadel (THÀNH TRÌ) kể về Andrew Manson – một bác sĩ trẻ vừa ra trường – háo hức với những lý tưởng tốt đẹp về nghề nghiệp lãng mạn này - và cuộc chiến chống lại hệ thống y tế bảo thủ, lạc hậu với những cung cách chữa bệnh dựa theo chủ nghĩa kinh nghiệm, nặng về lý thuyết sách vở không chỉ ở những vùng xa xôi hẻo lánh ở xứ Wales mà còn ở những bệnh viện, phòng khám ngay tại London – thủ đô nước Anh vào những năm 20, 30 của thế kỷ 20. Câu chuyện bắt đầu tại Drineffy – một thị trấn mỏ ở South Wales – nơi Andrew bắt đầu công việc với tư cách một bác sĩ đa khoa, ngay sau khi vừa ra trường, với những bệnh nhân đầu tiên; những nỗ lực và bất lực đầu tiên trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh nhân vì những kiến thức khô cứng và hạn hẹp gò trong các sách giáo khoa và dược điển mà anh đã học ở trường; những cảm xúc tinh khôi mới mẻ về tình yêu đầu tiên với cô giáo trẻ Christine Barlow và tình đồng đội với Phillip Denny – một bác sĩ ngoại khoa tài năng với một trái tim nhân hậu ẩn dưới vẻ ngoài cộc cằn và thái độ mỉa mai với hệ thống y tế cổ lỗ của nước Anh lúc đó, đầy rẫy những thầy thuốc bất tài chỉ giỏi lừa bịp bệnh nhân… Tiểu thuyết này đã từng thu hút rất nhiều độc giả Việt Nam nhiều năm về trước, không chỉ hấp dẫn về những tình tiết đi sâu vào mặt trái của nghề y và hệ thống y tế của nước Anh những năm đầu của thế kỷ 20, nó còn thu hút ở câu chuyện tình yêu nhiều bi kịch của nhân vật chính – bác sĩ Andrew Manson, ở chính lý tưởng và cả sự chao đảo về lý tưởng của anh khi phải đối mặt với những quy chuẩn giá trị của xã hội và đồng nghiệp thời đó về chính nghề nghiệp cao quý này. Hơn nữa, dù bản thảo của truyện tiểu thuyết này đã được viết ra gần 80 năm, nhưng nhiều vấn nạn về nghề y được nêu ra từ lúc đó, nay đọc lại vẫn còn thấy rất gần gũi với người đọc Việt Nam, khi so sánh với thực trạng hành nghề y ở khá nhiều vùng miền ở nước ta hiện nay. *** Tác giả Archibald Joseph Cronin là một bác sĩ trở thành nhà văn. Quãng đời bác sĩ của ông có những chặng đường giống nhân vật En- đru Men-sân. Tốt nghiệp đại học y khoa, ông về làm việc tại một vùng mỏ miền Nam xứ Uên rồi ra Luân Đôn ở hơn mười năm. Sau đó tình hình sức khỏe buộc ông phải từ bỏ nghề y. Trong những năm làm bác sĩ, Cronin đã có dịp tìm hiểu cuộc sống và lao động của những người thợ mỏ, và đồng thời nhìn thấy tường tận những mặt trái của ngành y ở nước Anh. Những cảm xúc và những điều tai nghe mắt thấy trong thời gian đó thôi thúc ông viết và chúng đã đem lại cho tác giả những trang sách vô cùng chân thực và sinh động. Tác phẩm đầu tay “Lâu Đài Người Bán Nón”, ra đời năm 1931, đã đưa ngay Cronin lên một vị trí nổi bật trên văn đàn. Tiếp đó là các cuốn “Dưới các vì sao” (1935) và “Thành trì” (1937). Các tác phẩm của Cronin đều đậm tính hiện thực, chan chứa tình cảm nhân đạo và giàu tình tiết hấp dẫn. Một nhà phê bình văn học đã gọi ông là “Charles Dickens mới của Anh" *** Vào một buổi chiều tà tháng mười năm 1921, trên con tàu vắng tanh chạy từ Xoan- đi đang nặng nề trườn mình leo dốc ngược thung lũng Pi-no- Oen, ở toa hạng ba có một người trai trẻ, quần áo xuềnh xoàng, mắt đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ. En- đru Men-sân đã đi đường suốt cả ngày hôm nay từ miền Bắc, đến Ca-lai và Sơ-ru-bơ-ri thì chuyển tàu, thế mà sang chặng đường cuối cùng của cuộc hành trình buồn tẻ đưa anh đến miền Nam xứ Uên, anh còn thấy trong lòng bồn chồn háo hức hơn khi nghĩ đến công việc anh sắp nhận tại mảnh đất xa lạ, gớm ghiếc này. Đây là việc làm đầu tiên trong đời bác sĩ của anh. Bên ngoài, trời mưa xối xả che mờ những dãy núi dựng đứng hai bên con đường sắt đơn tuyến. Ngọn núi chìm vào trong bầu trời trống rỗng nhờ nhờ xám, còn sườn núi loang lổ những miện giếng mỏ như những vết sẹo chạy dốc xuống thành một mảnh màu đen ảm đạm, thê lương, nham nhở những bãi xỉ quặng kết sù, bên trên có vài ba con cừu bẩn thỉu vơ vẩn tìm mãi không được một ngọn cỏ. Chẳng có một lùm cây, một túp cỏ nào. trong ánh sáng nhợt nhạt đang tối dần, những thân cây trông giống như những bóng ma khẳng khiu, còi cọc. Đến một chỗ ngoặt, ngọn lửa đỏ rực của một xưởng đúc loé lên chiếc sáng một đám thợ mình trần, lưng vươn dài, tay quai tay búa. Tuy cảnh ấy vụt biến đi ngay đằng sau những công trình hỗn độn trên mặt đất của mỏ, song nó vẫn để lại một cảm giác mãnh liệt, căng đầy sức sống. En- đru hít một hơi dài. Trước cảnh tượng ấy, anh bỗng thấy trong người trào lên một nguồn nghị lực, tràn ngập một cảm giác hân hoan nẩy sinh từ niềm hy vọng và hứa hẹn của tương lai. Nửa giờ sau, trời tối hẳn càng làm cho cảnh vật thêm xa lạ và hoang vắng, con tàu hổ hển vào Blây-nen-li, thị trấn tận cùng của thung lũng và cũng là ga cuối cùng của tuyến đường. Thế là cuối cùng anh cũng tới nơi. Tay xách va-li, En- đru nhảy xuống tàu, rảo bước đi hết ga, nhớn nhác xem có ai ra đón không. Ở cổng ga, dưới một ngọn đèn chao đi chao lại trước gió, có một ông lão mặt vàng ệch, đội chiếc mũ vuông cạnh và mặc chiếc áo mưa dài thườn thượt đang đứng đợi. Ông lão nhìn En- đru xoi mói, hỏi với giọng khó chịu: - Ông là phụ tá mới của bác sĩ Pây-giơ phải không? - Vâng. Tên tôi là Men-sân, En- đru Men-sân. - Hừ! Còn tôi là To-mớt. “Lão to-mớt”, ai cũng gọi như vậy, mặc xác họ. Tôi đưa xe đến kia kìa… Lên đi… trừ khi ông muốn lội nước thì không kể. En- đru quẳng va-li vào trong xe, rồi trèo lên chiếc xe ọp ẹp đóng một con ngựa đen đủi, cao lêu nghêu, gầy giơ xương. Lão To-mớt bước lên theo, cầm lấy dây cương và thét: - Đi nào, Tép-phi! Chếc xe lăn bánh qua thị trấn. En- đru cố gương mắt nhìn xem thị trấn này như thế nào, nhưng qua màn mưa chỉ thấy lờ mờ những dãy nhà thấp lè tè, xám xịt, nối đuôi nhau dưới chân dưới ngọn núi cao ngút lúc nào cũng sừng sững trước mắt. Lão xà ích già lặng thinh không nói một câu nào đến mươi phút, chỉ liếc đôi mắt gườm gườm từ dưới vành mũ lõng tõng mưa nhìn En- đrụ Trông lão không có một vẻ gì giống người đánh xe ngựa bảnh bao của một bác sĩ làm ăn khấm khá. Lão bé loắt choắt, lôi thôi lếch thếch, người lúc nào cũng xông ra một mùi khét lèn lẹt. Mãi sau lão mới nói: - Vừa mới nhận bằng xong phải không? En- đru gật đầu. - Biết mà. – Lão To-mớt nhổ nước bọt đánh toẹt một cái. Lão thấy mình đoán trúng nên ham nói chuyện hơn, giọng ồ ồ – Người phụ tá cũ vùa mới bỏ đi cách đây hai hôm. Nói chung, chẳng ai chịu ở lại. - Sao thế? – Tuy băn khoăn nhưng En- đru vẫn mỉm cười. - Một là vì quá nhiều việc, chắc thế. - Vì sao thế? - Rồi sẽ biết! Một lát sau, như một người hướng dẫn khách du lịnh giới thiệu một nhà thờ to đẹp, lão To-mớt giơ chiếc roi đánh ngựa chỉ về một phía cuối một dãy nhà, chỗ một khung cửa nhỏ có ánh đèn phả ra một đám hơi nước. - Kia kìa, thấy không? Đấy là cửa hàng khoai rán của tôi. Bà lão nhà tôi ở đấy. Mỗi tuần rán khoai hai lần. Có cả cá nữa. – Một sự thích thú ngần nào đó làm méo xệch chiếc môi trên dài của lão – Rồi thể nào ông cũng mò đến đó ngay mà. Phố chính đến đây là hết. Rẽ sang một ngách phố bên cụt lủn, gồ ghề, chiếc xe lọc cọc chạy qua một bãi đất trống rồi ngoặc vào một lối đi hẹp của một ngôi nhà đứng tách biệt với những nhà bên cạnh, đằng sau ba cây thông Nam Mỹ. Ngoài cổng treo chiếc biển đề “Brin-gao- Ơ” ... Mời các bạn đón đọc Thành Trì của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Og Mandino
Cho đến nay, “Người bán hàng vĩ đại nhất Thế giới” được dịch ra 18 thứ tiếng, đã bán ra hơn 9 triệu cuốn và trở thành cuốn sách bán chạy nhất Thế giới. Không ai có thể ngăn cản bạn làm gì, trở thành người như thế nào nếu điều đó là chính đáng, có lợi cho bạn, gia đình và xã hội. Mọi cái đều có thể nếu bạn dám ước mơ và dám hành động để biển giấc mơ đó thành hiện thực. Tuy nhiên ước mơ là một chuyện, cái khó là ở chỗ làm sao để hành động biến ước mơ thành hiện thực.  Cuốn sách này được gói gọn trong mười cuốn da dê giúp bạn trở thành một Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên nó không chỉ dạy bạn cách “bán hàng”, mà nó còn là một cuốn sách dạy bạn làm người, giúp bạn trở thành người “vĩ đại nhất” trong lĩnh vực mà mình đã chọn. Nội dung cuốn sách này được đúc rút từ những kinh nghiệm xương máu mà nhờ đó nó đã biến các ước mơ của cổ nhân thành hiện thực. Chứ không phải do một cá nhân nào đó tưởng tượng ra trong khi lại chưa được thực nghiệm kiểm chứng cả. Mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn con đường để thực hiện giấc mơ của mình tuỳ thuận với nhận thức riêng của họ. “Quyển sách này” là một trong những con đường có thể giúp bạn đạt được ước mơ của mình. HỌC + LÀM = GIÀU Con Đường Thành Công    Ngay cả lời nói của Thượng đế cũng cần phải bán được cho con người để họ có thể lắng nghe Tất cả chúng ta, ai cũng đều đang rao bán một thứ gì đó trong mọi lúc của cuộc sống. Là một tu sĩ, chúng ta đang rao bán niềm tin của chúng ta về thương đế. Là một nhà giáo, chúng ta đang rao bán kiến thức của mình về khoa học. Là một nhà chính trị, chúng ta đang rao bán chính kiến của mình về một xã hội. Và là một con người chúng ta đang rao bán tình yêu của chúng ta đối với mọi người quanh ta. Một ý nghĩ có vẻ quá thực dụng nhưng lại là một thực tế mà chúng ta thường vẫn luôn tránh né, một cách vô thức, chẳng muốn nhìn nhận. Nếu chúng ta chấp nhận bán hàng là một hành động phục vụ, chúng ta sẽ nhận ra những hàm ý thực sự cao đẹp và đáng trọng của hai từ này. Nếu chúng ta thực tâm hiểu ra và tôn trọng hai từ này, ai trong chúng cũng có thể trở thành một người bán hàng vĩ đại nhất thế giới này. “The Greatest Salesman in the World” là một cuốn sách tuyệt vời đã từng được con người viết ra. Cuốn “Người Bán hàng Vĩ đại Nhất Thế giới” này là một cuốn sách mà những thông điệp ẩn mật đáng trân trọng của nó thường bị bỏ quên bởi chính cái tên của cuốn sách. Chúng ta cần phải hiểu hai chữ bán hàng được nói ở đây có nghĩa rộng hơn nhiều chứ không chỉ là công việc bán hàng bình thường như mọi người ngầm hiểu. Og Mandino là một tác già sách ‘self help’ (tự thân cải tiến) nổi tiếng chứ không phải một tác giả sách marketing. Chính vì lý do này mà chúng ta cần phải hiểu đây không thể là một cuốn sách về một ý thức hay những phương pháp bán hàng một cách đơn thuần. Theo ý của tác giả Og Mandino thì đây là một cuốn sách mượn công việc bán hàng để nói đến một phong cách sống phục vụ sẽ đưa ta đạt đến những thành công to lớn trong cuộc sống và nếu có, thì quan trọng hơn nữa là –cảm nhận niềm hạnh phúc của việc “được sống” một cách độc lập và tự do trong giới hạn của TÌNH YÊU. *** Và rồi thật nhanh chóng, một đoàn xe được bảo vệ nghiêm ngặt rời khỏi Damascus mang theo các giấy chứng nhận chủ quyền và vàng đến cho những ai đang quản lý các cửa hàng của thương quốc Hafid. Từ Obed ở Joppa đến Reuel ở Petra, từng người quản lý một đều nhận được lời giã biệt và tặng vật của Hafid trong sự im lặng đến mức sững sờ. Cuối cùng, khi đến cửa hàng ở Autipatris, nhiệm vụ được giao của Eramus đã hoàn tất. Thương quốc mạnh mẽ và rộng lớn nhất một thời đã không còn tồn tại nữa. Trái tim nặng trĩu, Eramus báo về cho ông chủ của mình biết là các kho hàng nay đã hoàn toàn trống rỗng và các cửa hàng một thời là niềm tự hào của Hafid nay đã không còn nữa. Người đưa tin trở lại với yêu cầu của Hafid. Eramus nhanh chóng trở về và gặp lại chủ nhân của mình bên hồ nước trong lâu đài. Khi gặp lại, Hafid quan sát nét mặt của người quản lý già: “Mọi việc đã xong?” “Vâng thưa ông, đã xong.” “Đừng đau khổ, ông bạn. Hãy theo tôi.” Chỉ có tiếng bước chân của họ dội lên trong căn phòng rộng lớn, trống rỗng khi Hafid dẫn Eramus dọc theo lối đi bằng cẩm thạch xanh dẫn ra phía sau. Đôi khi bước chân của Hafid chậm lại khi đi ngang qua những bình hoa trống rỗng, cô đơn trên các chân đế bằng gỗ cam cao nghệu và ông mỉm cười khi nhìn thấy những tia nắng đang làm cho màu của thuỷ tinh chuyển từ trắng thành tím nhạt. Rồi 2 người bạn già bắt đầu leo lên những bực thang dẫn đến một căn phòng nằm ngay bên dưới mái vòm của lâu đài. Erasmus nhận thấy những người canh gác vẫn thường hiện diện ở đây trong bao năm qua nay không còn nữa. Hai người lên đến tầng giữa, họ tạm ngừng để lấy lại hơi thở đã mất vì những bậc thang quá dài, rồi lại tiếp tục leo lên tầng hai trong im lặng. Đến trước một khung cửa, Hafid lấy ra một cái chìa khoá nhỏ vẫn đeo nơi lưng quần và mở cánh cửa bằng gỗ sồi nặng trịch ra. Ông nghiêng người đẩy cánh cửa mở ra một cách khó khăn và bước vào. Erasmus chần chừ cho đến khi ông chủ của mình yêu cầu ông bước vào, Erasmus thận trọng bước vào trong căn phòng mà từ hơn 30 năm qua chưa từng một ai được cho phép bước vào. Ánh sáng mờ nhạt len vào từ những khe hở chung quanh mái vòm ở bên trên, Erasmus nắm chặt lấy tay chủ nhân của mình cho đến khi đôi mắt dần quen đi với ánh sáng tù mù trong căn phòng bí mật đó. Với một nụ cười mơ hồ, Hafid nhìn người bạn trung thành của mình đang chậm chạp nhìn quanh căn phòng trống rỗng. Chỉ có một cái rương nhỏ thấp thoáng phản chiếu ánh sáng nằm ở một góc phòng. “Bạn cảm thấy thấy thất vọng ư, Erasmus?.” “Tôi không biết nói gì, thưa ông.” “Ông không thất vọng vì mọi thứ ở đây ư, ông bạn già. Chắc chắn là những gì chứa chất trong căn phòng này là một trong những bí mật đối với mọi người đã từng làm việc với tôi. Ông không thắc mắc hay quan tâm gì đến những gì được cất giấu ở đây dưới sự canh gác cẩn mật bao lâu nay sao?” ... Mời các bạn đón đọc Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới của tác giả Og Mandino.
Đánh Cược Với Tình Yêu - Suzanne Enoch
Tác phẩm thuộc series tiểu thuyết ăn khách của Suzanne Enoch, Scandalous bride, tác giả nổi tiếng dòng văn học lãng mạn Mỹ, mới phát hành tại Việt Nam. Diane Benchley và Oliver Warren từng có một mối tình đẹp như mơ ở Vienna. Nhưng câu chuyện cổ tích đột ngột kết thúc khi Oliver bỏ đi không rõ lý do. Oliver lúc đó chỉ là một kẻ tay trắng, kiếm tiền bằng cách chơi cờ bạc bịp trên khắp các sòng bài. Anh sợ rằng, mình sẽ phải lòng người phụ nữ quyến rũ, giỏi giang này và không kiềm được ý muốn kết hôn với cô. Anh không muốn đến với cô khi chẳng có gì chắc chắn để đảm bảo cuộc sống của hai người. Nhưng anh không ý thức được rằng, nỗi khổ tâm của anh, sự ra đi đường đột của anh đã giết chết một phần con người Diane.  Oliver quay về London, xin lỗi người bác già cả cho những lầm lỡ trước kia của mình, thừa kế tước hiệu Hầu tước Haybury và quyết tâm làm lại một cuộc đời mới. Nhưng số mệnh không tuân theo sự sắp đặt của anh. Oliver ý thức được điều đó ngay từ khi nghe tin Diane Benchley trở về Anh quốc. Cảm giác day dứt và vấn vương khiến anh buộc phải đi theo tiếng gọi của trái tim mình. Haybury chấp nhận trở thành cộng sự kinh doanh của Diane, tham gia vào kế hoạch điên rồ đầy mạo hiểm của cô. Diane luôn cho rằng, bài bạc đã lấy đi nhiều thứ quý giá của mình. Và như một lời thách đố với số phận, cô quyết tâm chọn cách mở một sòng bài. Sự thành công của cô sẽ giống như một chiến thắng vẻ vang trước quá khứ chua xót luôn làm cô day dứt. Nhưng, Diane dù thông minh đến mấy cũng thiếu kinh nghiệm quản lý một sòng bạc, còn Oliver lại thừa hiểu biết về lĩnh vực này. Cô buộc phải tìm đến anh, vừa để thực hiện kế hoạch kinh doanh mình nung nấu, vừa như một cách "trêu ngươi" tình cũ - kẻ mà cô tuyên bố đã chẳng còn chút vấn vương nào. Trải qua nhiều sóng gió, Diane ngây thơ đã biết cách dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Điểm yếu duy nhất của cô, đó chính là sự lỡ nhịp của trái tim. Oliver và Diane tưởng đã mất nhau, nhưng hai người đã "đánh cược" cả trái tim vào đối phương. Nhờ đó, họ tìm được hạnh phúc viên mãn. Đánh cược với tình yêu không chỉ kể câu chuyện lãng mạn, đó còn là thông điệp về lòng vị tha trong tình yêu. *** Bộ sách Scandalous bride, gồm có: #0.5 – The Wicked One # 1 – A Beginer’s Guide to Rakes - Đánh Cược Với Tình Yêu # 2 – Taming an Imposible Rogue - Kẻ Phóng Đãng Bất Trị # 3 – Rules to Catch a Devilish Duke # 4 – The Handbook to Handling His Lordship *** Trên thế giới này có rất ít chuyện có thể khiến Oliver Warren, Hầu tước Haybury, giật mình. Thực tế là anh có thể đếm những chuyện đó trên đầu ngón tay của một bàn tay. Như tiếng tru tréo của lũ trẻ con. Tiếng cọ xát của kim loại han rỉ. Và tên của người đó. Vẫn ngồi bất động, anh ngước lên, quên béng chồng phỉnh bạc (1) giữa ngón tay mình. “Anh vừa nói gì?” James Appleton ngồi bên trái anh liền gật đầu. “Tôi đã nghĩ nhà Benchley sẽ tìm ra cách giữ lại trang viên đó, dù gì nó cũng là tài sản của gia tộc từ rất lâu rồi. Nhưng giờ bà quả phụ đó đã mở cửa lại Dinh thự Adam House cũ. Theo tin tức tôi nghe ngóng được thì cô ta chỉ vừa mới đến tối qua. Dù sao thì cũng hơn ba năm mới có người đến sống ở đó.” Oliver đặt cược lên con ba bích, tập trung vào ván bài trong lúc người chia bài lật con bốn, con chín và con Q cơ. “Hừm”, Oliver nói, anh cho rằng sự quan tâm nhạt nhẽo sẽ là phản ứng thích hợp đối với những tin đồn vô thưởng vô phạt thế này. “Phu nhân Cameron. Cô ta đã đến lục địa rồi phải không? Cô ta tên gì ấy nhỉ? Marianne à?” “Diane.” Appleton sửa lại, cuối cùng nhận ra mình đã thua khi đặt cược vào con bốn bích. “Khốn thật. Tôi nghe nói là ở Vienna (2) hay Amsterdam gì đó. Tôi đoán là hơn hai năm sau cái chết của Fredrick cô ta cảm thấy nhớ London.” “Có vẻ thế.” Hình ảnh suối tóc đen huyền và cặp mắt xanh lạ lùng xẹt qua tâm trí Oliver trước khi anh kịp gạt đi. Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt. Anh liếc sang anh chàng ngồi phía bên trái. “London hẳn là chán chết ấy Appleton”, anh giễu cợt, “nếu như tin tức hấp dẫn nhất anh nhặt nhạnh được là một quả phụ đang trở lại nhà của người chồng quá cố của cô ta.” Từ phía bên kia bàn, Bá tước Beaumont cười phá lên. “Anh đang vấp phải thời điểm chán nản của mùa vũ hội đấy, Haybury. Chẳng có tin gì thú vị đâu. Tôi nghĩ chúng ta đã không có vụ tai tiếng nào kể từ tháng Giêng, và cũng chẳng ai thèm quan tâm vì có ai ở trong thành phố để buôn chuyện đâu chứ.” Bá tước nâng ly rượu của mình. “Chuyện này mang lại hy vọng sẽ sớm có một trò tiêu khiển đẫm máu.” Oliver nâng ly vì câu nói đó. Bất cứ điều gì giúp anh không phải nghe lại cái tên Diane Benchley chết tiệt từ miệng của ai đó trong sáu tuần tiếp theo sẽ nhận được sự ủng hộ của anh. “Tối nay anh không đặt cược nữa hả Appleton?”, anh khiêu khích. “Chúng tôi có thể cung cấp cho anh một cái khung thêu nếu anh thích tiếp tục líu lo.” Gò má và cổ họng Appleton đỏ lựng. “Tôi chỉ nghĩ chuyện đó thú vị”, anh ta phản bác. “Bá tước Cameron quá cố cùng phu nhân của anh ta chạy trốn khỏi London ngay trước mũi bọn chủ nợ, và giờ cô ta trở về một mình với nửa tá xe ngựa loại lớn nhất – vào lúc nửa đêm.” “Có lẽ cô ta đã tìm cho mình một vị công tước nước Phổ nào đó.” Nhân vật thứ tư trong nhóm, Jonathan Stucliffe, Tử tước Maderlin, rốt cục cũng nhập cuộc. “Theo như tôi nhớ thì cô nàng rất xinh đẹp.” Anh ta vỗ vai Oliver. “Sau đó anh không ở lại London nhỉ? Thực sự anh chưa từng tới Vienna à?” “Đâu đó quanh đấy.” Cái liếc mắt cùng cặp lông mày nhướng cao đã thuyết phục Maderlin buông vai anh ta. “Tôi cũng trở lại trên một cỗ xe màu đen loại lớn nhất đấy Appleton. Của riêng tôi. Anh cũng xì xầm về tôi đấy chứ?” Cuối cùng Appleton cũng toét miệng cười. “Đã và sẽ tiếp tục làm thế. Gần như là liên tục.” “Hay lắm. Tôi đã làm việc rất chăm chỉ để giữ tất cả những kẻ hóm hỉnh bận rộn.” “Đúng đấy!” Ngài Beaumont ra dấu và một gã phục vụ trong bộ đồng phục câu lạc bộ tiến đến rót đầy cốc rượu của anh ta. “Vậy thì anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho sự yên ả này. Hãy cho chúng tôi một vụ tai tiếng đáng nguyền rủa đi nào, Haybury.” Oliver nghiêng đầu. “Tôi sẽ làm hết sức mình. Đúng hơn là tồi tệ nhất.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ở London. Và anh cho rằng họ sẽ sớm chạm mặt nhau ở một buổi vũ hội nào đó. Xét cho cùng thì Mayfair là một nơi nhỏ bé. Thậm chí còn nhỏ hơn cả Vienna. Anh uống cạn lượng uýt-ki còn lại trong ly và tự rót cho mình một ly khác. Tối nay tên cô ta có lẽ đã khiến anh giật mình, nhưng nếu - khi – anh mặt đối mặt với cô ta, anh sẽ không phải là người giật mình. Không một cái nhăn mặt. Hay một cái nhíu mày nào. Và tốt hơn hết cô ta nên dán kín cái miệng xinh đẹp của mình lại hoặc anh buộc lòng phải làm một việc gì đấy chướng tai gai mắt. “Anh có đặt cược không hả, Haybury?” Manderlin hỏi. “Hay anh đang khâu vá?” Gói ghém những ý nghĩ không dễ chịu lắm cho khoảng thời gian riêng tư sau này, Oliver liếc nhìn những lá bài đã được lật và đặt hai bảng lên con J. Theo kinh nghiệm của anh con J luôn thắng. “Diane, có người muốn gặp cô.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ngước lên từ đống giấy tờ trên bàn làm việc của người chồng quá cố. “Tôi không định gặp ai hết”, cô lầm bầm và tiếp tục chọn lọc các con số thập phân cùng các phép trừ ở mỗi bảng biểu có vẻ nổi bật. “Không có ngoại lệ.” “Tôi biết chứ, thưa cô”, người bạn đồng hành với cô đáp lại, vẫn không rời khỏi cửa ra vào. “Đó là ngài Cameron.” Trong tích tắc, cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Diane. Cũng trong khoảng khắc ngắn ngủi đó, mỗi bàn tay cô từng nắm, mỗi làn gió thổi qua eo biển từ Lục Địa hay mỗi tin tức sét đánh nổ ầm trong lồng ngực kể từ khi cô rời Vienna, lại nghèn nghẹn trong cuống họng. Sẽ chẳng có chuyện gì, nếu như…. Lầm rầm nguyền rủa, cô rùng mình. Frederick Benchley đã chết. Hai năm trước. Cô đã ở bên cạnh lúc anh ta trút hơi thở cuối cùng. Cô đã đứng bên phần mộ của anh ta khi hai người làm công đào hố và chôn cỗ quan tài gỗ thông rẻ tiền của anh ta xuống lòng đất. “Vì Chúa, Jenny, đừng doạ tôi chứ”, cô hô to, đặt cây bút chì sang một bên và dùng ngón tay vẫn còn run rẩy của mình để xoa xoa hai bên thái dương. Sự hoảng hốt lướt qua khuôn mặt người bạn đồng hành của cô, Genevieve Martine vội vã bước vào phòng. “Ôi, Chúa ơi. Cô biết ý tôi là Bá tước mới kia mà. Tôi chưa bao giờ nghĩ là…” “Đừng bận tâm, Jenny. Có điều cô đã làm tôi nổi gai ốc đấy. Anthony Benchley đang ở đâu?” “Trong phòng khách buổi sáng (3). Anh ta đòi gặp cô, và sau đó gọi trà.” Diane chống tay lên bàn làm việc, đứng dậy. “Ừm. Chí ít chúng ta có thể phỏng đoán tin tôi trở về London đã nhanh chóng lan xa. Tôi cho là cũng có ý nghĩa đấy chứ.” “Phải đấy, chúng ta có thể tính là một may mắn kể từ lúc trở về đây.” Jenny thở dài. “Và hai tá điều bất hạnh. Tôi nên xếp Ngài Cameron vào mục nào đây?” “Bất hạnh. Nếu có thể cô hãy đi cùng tôi. Tôi muốn dứt khoát với anh ta càng nhanh càng tốt.” “Cô nghĩ anh ta muốn gì?” Genevieve hỏi với âm hưởng Pháp thanh thoát dường như có thể nhẹ nhàng hoặc mạnh mẽ tuỳ thuộc vào tâm trạng của cô ta. ... Mời các bạn đón đọc Đánh Cược Với Tình Yêu của tác giả Suzanne Enoch.
Chồn Mật - Robert Ruark
Tại châu Phi có một loài vật khát máu, không biết sợ ai, cái gì... bao giờ, mang tên Chồn Mật. Có lẽ nó là con vật hạ đẳng nhất thế giới. Nó thích mật ong, và mọi loài lông vũ. Nó giết chóc nhiều khi không phải là vì đói, vì căm hận mà chỉ để thỏa tính hung bạo và để.... giải trí. Đặc biệt, khi tấn công con người, nó không nhắm vào cổ hay bất kỳ đâu mà chỉ nhắm vào chỗ kín. Bản chất ấy phải chăng được thấy trong một con người Mỹ hiện đại - «Alex Barr», nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết ấn tượng này. "Chồn Mật" được coi là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Robert Ruark. Đây là câu chuyện về một người đàn ông, một nhà văn tài năng, bị giằng xé giữa công việc và đàn bà. Có lẽ người đọc sẽ không khó nhận ra phần nào nguyên mẫu của chính tác giả trong đó. Nhưng "Chồn Mật" vẫn không mang dáng vẻ của một hồi ký, kể cả khi đã nhắc không ít tới các nhân vật tiếng tăm có thực với tính cách, tài năng và số phận thực của họ, như nhà báo Ernie Pyle, nhà văn Ernest Hemingway... *** Trời rất nóng và đầy hơi nước, cái nóng của New York ẩm ướt, đặc sệt lại, đè nặng lên người. Tầng áp mái nhô lên khỏi 17 tầng nhà trên khu đông Manhattan, khoe ra những cây đào trên sân thượng. Chẳng có chút gió nào lay động nổi những chiếc lá đào, còn sân thượng được phủ một lớp bồ hóng xốp mịn. Không có máy điều hòa trong căn hộ kiểu cũ xây tường dày, và thường khá mát mẻ. Alexander Barr, với bộ đồ cộc, vừa ra khỏi vòi nước lạnh, và mới chỉ đi xa buồng tắm hai bước, mồ hôi đã bắt đầu chảy ròng ròng trên người. Amelia, vợ Alexander Barr, đang ngồi trước bàn trang điểm tô lại đôi môi, có cái vẻ mát mẻ khiêu khích. Như Alex Barr cảm thấy, nàng trông giống như người vừa hiện ra từ một thế giới toàn những kẻ vô danh, tất cả bọn họ đều bị ám ảnh bởi những ý nghĩ ích kỷ nhỏ mọn. Chiếc cốc đầy tới nửa một thứ gì đó có vẻ như rượu gin pha, rịn ra khá nhiều nước ở cạnh khuỷu tay nàng. Một điếu thuốc lá có đốm lửa đỏ ở đầu, buồn bã cháy âm ỉ trong chiếc gạt tàn bóng loáng bên cạnh. Alex Barr đã uống cạn một cốc khi anh từ ngoài đường vào nhà - mặt bóng nhẫy, mồ hôi ròng ròng, chiếc áo sơmi ướt sũng dính chặt vào người - nhưng cốc rượu chỉ khiến anh nóng thêm. Anh liệng chiếc cốc ra ngoài khoảng sân đầy bồ hóng, hy vọng có một chuyển động đáng thương hại trong không khí, và khi chằm chằm nhìn qua lan can xuống đường phố tít bên dưới, anh gần như bị ức chế một cách không thể chịu đựng nổi bởi ý nghĩ cả cái quả đất chưa được thăm dò chứa đầy những con “người kiến” bé tí xíu, tất cả đều bị tù hãm một cách cuồng loạn bởi những vấn đề cá nhân. Đột nhiên toàn bộ thế giới rộng lớn túm được đầu của Alexander Barr trong bàn tay gồ ghề của nó, bóp mạnh, và ép bộ óc anh phọt ra đằng tai. Anh cảm thấy như một bên hộp sọ của mình gãy vụn, rồi nở phồng ra, và ở chỗ vốn là não bộ giờ đây chỉ là một khối bê tông cứng. Alex muốn thét lên, muốn chạy trốn, muốn núp vào một xó nhà đầy mạng nhện và xé toạc lớp vỏ bọc đang bao phủ cái hộp sọ bị đổ bê tông, Anh muốn, anh muốn, anh không biết mình muốn gì nữa. Nhưng anh biết cái anh không muốn. Anh không muốn tới chỗ Hazeltines để ăn tối. “Không,” anh kêu lên. “Không, tôi sẽ không. Chắc chắn là sẽ không!” “Sẽ không làm gì kia?” Amelia vừa hỏi bằng cái giọng trẻ con vừa quay mặt khỏi tấm gương nàng đang soi để tô mắt bằng chiếc bút lông. “Nhanh lên nào, anh yêu, đừng bực nữa. Mình sẽ bị muộn bữa tối với Hazeltines mất,” Alex Barr nhìn vợ bằng cặp mắt uể oải, vô hồn, như nhìn vào một người lạ thờ ơ. Nàng thật đẹp, anh thầm nghĩ, với chiếc áo choàng đen thật gợi cảm. Năm nay nàng để dài mớ tóc màu hạt dẻ. Nàng đẹp, Alex Barr lại nghĩ, nhưng với mớ tóc mềm dài như vậy trông nàng rất giống một chú chó con lông xù. Nàng đã chải lại tóc và sửa móng xong. Chiếc áo dài dạ tiệc màu đen thanh nhã - một chiếc Hattie xinh xắn - đã được đặt cẩn thận trên chiếc khăn trải màu đỏ tía của chiếc giường khổ lớn. Khi đánh xong đôi mắt và trang điểm nốt phần mặt còn lại, nàng chui đầu qua chiếc áo dài Hattie, cẩn thận với lớp lụa mỏng để không làm son môi dây bẩn lên áo. Sau đó nàng vuốt lại mái tóc, mím môi để son dàn đều, rồi quay người lại và nói, như Alex Barr đã biết trước: “Anh yêu, chúng ta bị muộn mất thôi, đừng đi đi lại lại nữa và hãy mặc quần áo vào. Anh biết bọn người hầu của Hazeltines giờ giấc chính xác thế nào rồi đấy. Nếu muốn có chút thời gian để uống gì đó khi đến thì anh phải nhanh lên.” “Không,” anh nhắc lại - phải chăng anh đã nói vậy, hay anh mới chỉ nghĩ là anh đã nói vậy? “Không. Anh sẽ không. Chắc chắn là anh sẽ không”. Amelia nhìn anh vẻ khó chịu. “Anh đang nói gì đấy? Chắc chắn không cái gì?” “Chắc chắn anh sẽ không đến muộn bữa tối của Hazeltines.” ... Mời các bạn đón đọc ​Chồn Mật của tác giả Robert Ruark.