Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xibiri

XIBIRI Tác giả: Ghêorghi Markốp (Georgy Mokeyevich Markov) Quyển sách này không nói về chiến tranh mà nói về cuộc trốn chạy của một tù nhân chính trị bị đày đi Xibiri. Ivan, là một sinh viên, là cháu của một nhà bác học người Nga chuyên nghiên cứu về khoáng sản, địa chất, đặc biệt là vùng Xibiri. Anh bị bắt vì tham gia đấu tranh chống lại Nga Hoàng.Đồng đội đã tổ chức cho anh vượt ngục thông qua sự giúp đỡ của người dân địa phương. Sau khi trốn thoát, anh có nhiệm vụ sang Thụy Điển để giúp ông bác của anh lưu giữ những tài liệu về vùng đất Xibiri mà bọn Tư bản nước ngoài rất thèm muốn và rắp tâm đoạt lấy. Cái thu hút của tác phẩm không năm ở những cảnh rượt đuổi, chạy trốn mà trong tác phẩm này, Ghêorghi Markốp đã miêu tả thiên nhiên và con người ở Xibiri, cách họ chống chọi với khắc nghiệt của thời tiết, cách họ săn thú, đánh bắt cá, cách ngủ đêm, sưởi ấm trên tuyết. Ngoài ra, tính chính trị trong tác phẩm là rất rõ ràng nhưng dễ chịu, dễ tiếp nhận, ngay cả tình yêu giữa Ivan và Ca-chi-a cũng rất nhẹ nhàng nhưng đầy bất ngờ. Một tác phẩm đáng đọc dành do những ai thích phiêu lưu và thích thiên thiên. *** TIỂU THUYẾT HAI TẬP Nhà xuất bản Cầu vồng Mátxcơva 1984 In theo bản dịch của Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội Người dịch: Chu Nga và Thúy Toàn Người hiệu đính: Trần Phú Thuyết Георгий Марков СИБИРЬ На вьетнамском языке © “Известия”, 1976 © Bản dịch tiếng Việt, Nhà xuất bản Cầu vồng, 1984 In tại Liên Xô​ Ghêorghi Markốp (sinh năm: 1911) - nhà văn Liên Xô trứ danh, nhà hoạt động xã hội, Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa: (1974), người đoạt giải thưởng Lênin (1976), tác giả các tiểu thuyết nổi tiếng về Xibiri: “Gia đình Strôgốp”, “Muối của đất”, “Cha và con”. Xibiri là quê hương của nhà văn thời thơ ấu và tuổi thanh xuân. Cùng với cha đẻ, một người chuyên đi săn gấu, ông đã đi dọc ngang khắp rừng taiga và các sông lớn nhất ở Xibiri. “Môi rường thợ săn, lao động kiếm kế sinh nhai, trại của những người đi săn và đống lửa trong rừng taiga là trường học mở đầu của đời tôi”,- Markốp kể như vậy. Tất cả mọi tác phẩm của nhà văn bắt nguồn từ đấy. Tiểu thuyết “Xibiri” (1969 - 1973) của ông cũng đâm rễ ăn sâu vào đây. Mở ra trước mắt người đọc tiểu thuyết này là những bức tranh cuộc sống hào phóng của Xibiri đầu thế kỷ XX: những cánh rừng taiga và thảo nguyên mênh mông, những con sông hùng vĩ; những đầm lầy chứa khí đốt mà ngay cả những lúc băng giá dữ tợn cũng không đóng băng; những ao hồ đầy cá, nhiều thành phố và làng mạc. Cũng như ở khắp nước Nga, tư tưởng cách mạng đã bùng lên tại đây, ngày càng tăng thêm ý chí và khả năng sẵn sàng lật đổ chế độ chuyên quyền, đem mọi tài nguyên của vùng này phục vụ nhân dân. Chủ đề lịch sử cách mạng trong tác phẩm là dựa trên các sự kiện và số phận của những con người cụ thể. “Tất cả những gì đã xảy ra, - Ghêorghi Markốp viết, - đều đan quyện chặt chẽ với hư cấu cả trên cơ sở sự kiện của cốt chuyện, cả về tính cách của các nhân vật”. *** Êpiphan Crivôrucốp, chủ nhân ông đầu tiên ở làng Gôlêsikhinô, đang tổ chức đám cưới cho đứa con trai của y là Nhikipho. Dạo ấy là vào khoảng giữa tháng mười. Gió lạnh từ sông Ôbi từng cơn từng cơn thổi về, cuốn theo những bông tuyết làm mù mịt cả không trung. Trên bãi cát đã óng ánh một lớp băng, trên cánh đồng, trong tầm mắt của ta, những đám cỏ và những thửa ruộng vừa gặt cũng ánh lên qua màng băng mỏng. Mùa đông đang phóng tới, chỉ có những cánh rừng bá hương vây quanh làng Gôlêsikhinô cây mọc sát vào nhau là kìm bớt được phần nào cuộc tấn công ào ạt ấy. Bầu trời trắng đục và những đám mây đen lững lờ trôi trên làng xóm bất cứ lúc nào cũng có thể rắc tuyết xuống phủ kín khắp mọi nơi. Họ hàng đông con nhiều cháu nhà Crivôrucốp làm náo động cả một vùng. Suốt ngày đêm trong ngôi nhà của Êpiphan không ngớt tiếng hát và tiếng phong cầm đệm, tiếng chân dậm của đám người nhảy múa, tiếng hò hét, đùa rỡn của bọn bạn thằng Nhikipho. Những người làm thuê cho nhà Crivôrucốp, người phi ngựa kẻ chạy bộ, tỏa đi khắp nơi lo kiếm nào cá tươi từ sông Ôbi, nào chim đa đa và gà lôi từ rừng taiga, nào những hộp mật và hộp nhựa bạch dương từ cánh rừng trên khu đất vỡ hoang của nhà Crivôrucốp đưa về làm món ăn cho bữa tiệc cưới. Những con chó làng Gôlêsikhinô hoảng sợ trước sự náo động bao trùm khắp làng xóm ấy, đã sủa lên ầm ĩ, liên hồi, sủa đến đứt cả hơi. Vào ngày thứ ba, khi đám cưới đang ở độ náo nhiệt nhất, thì một chiếc thuyền chở viên cảnh sát trưởng của vùng Parabên và năm người vệ binh ghé vào bờ sông, phía làng Gôlêsikhinô. Viên cảnh sát trưởng đẩy cửa xông vào nhà Crivôrucốp và hét lớn, át cả tiếng ầm ĩ làm rung động nhà cửa: - Tôi ra lệnh, tất cả phải im ngay!.. Một tên tội phạm quốc gia quan trọng vào bậc nhất giam ở Narưm vừa trốn khỏi nhà tù! Lệnh xuống là phải tìm bắt cho bằng được tên này, bắt sống hay giết chết đem xác về cũng được! Ai bắt được y sẽ được trọng thưởng! Tất cả hãy lập tức mặc ấm vào - cả đàn ông lẫn đàn bà - không phân biệt! Đám người trong nhà Crivôrucốp đứng ngẩn ra một lúc. Từ lúc cha sinh mẹ đẻ họ chưa từng chứng kiến một sự kiện nào tương tự: hãy dẹp đồ nhắm với rượu lại mà ba chân bốn cẳng chạy đuổi theo một tên tù vừa trốn khỏi nhà giam, chẳng ma nào biết hắn là ai, cứ như thể mình không còn phải là con người nữa mà, lạy trời, là một thứ ngựa cái chết tiệt nào vậy. Mấy cậu thanh niên vừa định phản đối, nhưng viên cảnh sát trưởng đã len được vào tận chỗ Êpiphan ngồi dưới chân bức tượng thánh và thầm thì vào tai y, cái tai sứt đeo khuyên, một điều gì đó. Và người ta nghe tiếng ông chủ nhà quát lớn: - Các bạn trẻ, cấm không ai được nói gì! Vị đại diện cho đức vua đã ra lệnh! Có nghĩa là - hãy gác lại cuộc chơi! Tất cả những người có mặt tại đây hãy ra sân, rồi vào rừng, quãng bờ sông ấy! Tên tù thế nào cũng còn đang loanh quanh ở đấy, nó chưa thể trốn đi đâu được! - Thật là khủng khiếp quá chừng! Ngày xưa người ta săn đuổi thú rừng, bây giờ thì người ta lại bắt đầu săn đuổi cả con người nữa, - sau ba ngày, lần đầu tiên cô dâu dám mạnh dạn cất lời. Nhưng những lời cô nói bị chìm đi trong tiếng hét hò ầm ầm căng thẳng. Tưởng như chỉ thêm một giây lát nữa - thì những bức tường bằng gỗ thông, rất chắc chắn của ngôi nhà hai tầng nhà Crivôrucốp sẽ bật tung ra vì không chịu đựng nổi sự ầm ĩ ấy. - Này Nhikipho, Nhikipho đâu! - ông chủ của ngôi nhà gào tên gọi đứa con trai. - Con hãy rót rượu ra mời các ngài đại diện cho đức vua đi. Rượu vào, mắt sẽ tinh hơn, Nhikipho làm theo lệnh bố. Viên cảnh sát trưởng và đội vệ binh vừa đứng vừa uống rượu và dùng thức nhắm, mỗi người vớ lấy những thứ gần mình nhất: người miếng thịt hươu, kẻ chiếc bánh bột rán với khúc cá chiên, có người lại vớ được chú gà đồng rán tẩm kem chua. Nửa giờ sau, cái đám người hỗn độn ấy, vừa hò hét vừa la lối, chạy tản ra khắp bờ sông. Có nhiều người trong số đàn ông mang theo rìu, xiên, xẻng, thuổng, còn bọn bạn bè thân cận của thằng Nhikipho cũng như bản thân nó thì lại mang theo súng. Ở nhà Crivôrucốp thì các loại vũ khí ấy thiếu gì: nào súng hai cò, nào súng một nòng, súng đạn ria, súng tự chế nòng rèn để giết những loại thú lớn. Các bà líu ríu chạy theo đám đàn ông; những tay say nhất và những đứa hỗn hào nhất thì vừa khua những chiếc thuổng, những que quấy cám vừa gào tướng lên những lời tục tĩu. Một tốp chừng hai chục người đàn ông lực lưỡng theo viên cảnh sát trưởng xuống thuyền, bơi sang bờ bên kia của con sông nhánh. Trong số đó có cả thằng Nhikipho và bọn bạn du đãng của nó. Mọi người đều cảm thấy rằng: nếu như tên tù còn chưa kịp đi khỏi nơi này thì hắn không thể có chỗ nào lẩn trốn tốt hơn là cánh rừng gần bờ sông phía bên kia. Trong cánh rừng rậm rạp và gai góc ấy chẳng chỉ con người mà ngay cả đến ngựa cũng có thể tìm được nơi ẩn náu. Còn ở bờ sông phía bên này, giáp làng, thì đất đai trơ trụi, trâu bò và các loại gia súc vẫn thường được thả rong trên cánh đồng cỏ, ở đây người qua kẻ lại luôn luôn: kẻ ra đồng cỏ, người đi lễ ở nhà thờ Parabên, có người lại mang nào hạt dẻ, nào lông thú và cả những con thú mà họ săn được đến nhà kho của tên lái buôn Grêbênsicốp ở bến sông. Lát sau, những người đàn ông vừa bơi thuyền sang bờ bên kia đã sắp thành một hàng dài và mất hút vào cánh rừng. Bờ bên này cũng được tổ chức chu đáo: đi dọc theo sát mép bờ sông là hai tên vệ binh, ngay bên cạnh chúng là các gã đàn ông và xa một chút nữa là cánh đàn bà. Họ đi một cách trật tự như vậy được khoảng chừng một vecxta[1] không hơn. Sau đó thì hàng ngũ dần dần xộc xệch, nhiều người bắt đầu chậm bước. Bởi sau mấy ngày tiệc rượu lu bù thì không dễ gì mà sai khiến nổi đôi chân của chính bản thân mình. Một số ông già bà lão hơi sức cũng chẳng được là bao. Cuộc săn đuổi tên tù vượt ngục đối với họ rõ ràng là một việc làm quá sức. Bọn con gái mới lấy chồng cũng không hứng thú gì với cái việc phải lội vào đám bùn lầy khi chân họ đang đi những đôi giầy đẹp đẽ, những đôi giày mà họ chỉ xỏ chân vào cả thẩy một vài lần: trong ngày lễ cưới, khi đến nhà thờ vào ngày lễ Thánh và đôi khi đi chơi bời thăm thú bạn bè. Nhưng những tên vệ binh, nhất là chính bản thân Êpiphan Crivôrucốp, thì lại luôn luôn thúc dục mọi người, chốc chốc lại ý ới gọi với sang hàng người dàn ngang ở bờ bên kia, trong cánh rừng. - Này! Này! - bờ phía bên kia gọi vọng sang. - Có đây! Chúng tôi vẫn đang lùng sục, đang lùng sục đây! - Êpiphan lớn tiếng trả lời thay tất cả. Làng xóm, với những chiếc ống khói lò sưởi, với mùi vị của sự no nê, với tiếng bò rống, tiếng chó sủa, đã không còn trông thấy nữa. «Này! Này» - tiếng gọi từ bờ phía bên kia vọng lại mỗi lúc một thưa dần và một khó nghe hơn. Mà ngay cả Êpiphan, mặc dầu lão vẫn tiếp tục đi, cũng đáp lại những lời trao đổi ấy mỗi lúc một ít hứng thú hơn: chắc là lão đã khản cổ rồi. Một tên vệ binh bị sát toạc chân, ngồi bệt xuống mép bờ sông và từ từ cởi vải bọc chân. Thái độ ấy chứng tỏ anh ta không phải là kẻ hăng hái cho lắm với phận sự của mình. Cánh đàn bà lập tức nhận ra ngay thái độ uể oải ấy, và họ cũng không ngu ngốc gì, nên cũng đứng lại theo, giả bộ như mình cũng có việc cần thiết phải dừng chân: để thắt lại giải khăn vuông, để sắn váy, để buộc lại dây giày. Hàng người đi men theo bờ sông đã thưa thớt hẳn, chỉ còn độ mươi người. Đi sát mép bờ sông nhất là Êpiphan cùng với tên vệ binh thứ hai, đi xa mép bờ sông nhất là Pôlia - người vợ vừa cưới của Nhikipho, cô con dâu mới của nhà Êpiphan. Pôlia bước đi, vẻ rất thích thú. Ba ngày liền ngồi sau chiếc bàn chất đầy những đồ ăn thức uống, tiếng ồn ào và sự tấp nập đã làm cho cô vô cùng mệt mỏi. Những đêm đầu tiên của cuộc sống vợ chồng lại càng mệt hơn. Ở đây, giữa mênh mông trời đất, cô cảm thấy mình dễ chịu làm sao! Gió lạnh thổi như quất vào mặt làm nguội đi cái hơi nóng đang rừng rực bốc lên đầy mặt cô, xua tan cơn mệt mỏi, làm cho cô thấy sảng khoái trong người. Pôlia cứ muốn đi xa mãi, xa mãi chỉ để không bao giờ còn phải quay trở lại cái ngôi nhà của nhà Crivôrucốp ngột ngạt, nặng mùi mồ hôi, mùi thuốc lá, mùi của đám người say khướt, mùi rượu mạnh làm cho trí não u mê. Nhưng kìa, dưới chân cô bắt đầu hiện ra những mô đất mọc đầy lau sậy, và trước mặt cô, sau những bụi cây, ánh lên khúc sông cụt chạy vòng theo hình móng ngựa. Có lẽ cuộc săn đuổi sẽ kết thúc ở chỗ này thôi. Chắc ít ai lại còn muốn đi vòng hoặc lội qua cái khúc sông lầy bẩn ấy. Êpiphan đầu cúi xuống lặng lẽ theo sau tên vệ binh, còn mấy mụ đàn bà thì túm tụm lại bàn bạc điều gì rất sôi nổi. Ánh nước như tăng thêm sức lực cho Pôlia. Cô lướt nhanh từ bụi cây này sang bụi cây khác, mong sao chóng tới nơi long lanh kia để vớt nước lên mà rửa mặt. Gần đến bờ sông, cô lao vào chỗ này, rồi lại lao sang chỗ khác, nhưng chỗ nào cũng gặp phải bùn lầy, không sao qua được. Quãng bờ sông cách cô khoảng chừng trăm bước bỗng cao vượt hẳn lên, dốc đứng như vực. Mép bờ sát mặt nước của đoạn sông này luôn luôn được ngọn sóng chồm lên gội rửa nên rắn lại và bên trên được phủ một lớp cát đỏ khá dày. Pôlia bước vội, cô cho rằng con đường nhỏ cỏ mọc xanh um kia nhất định sẽ dẫn tới lối xuống sông. Và quả là như vậy. Con đường nhỏ chạy ngoằn ngoèo uốn theo những gốc dương đen to sụ khoảng chừng ba trăm bước thì bắt đầu lao xuống dốc. Khi chỉ còn chừng ba bước nữa thì tới mặt nước Pôlia bỗng nhìn thấy một người ngồi trong chiếc thuyền nhỏ đậu nép sát vào thành vực, dưới vòm lá um tùm của cây thùy liễu. Cô gái giật nẩy mình vì hoảng sợ, cô không biết nên xử sự thế nào: hô hoán lên cho mọi người bổ tới hay bỏ chạy cho nhanh. Mời các bạn đón đọc Xibiri của tác giả Georgy Mokeyevich Markov (Ghêorghi Markốp).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bông Hồng Mất Tích
Câu chuyện kể về Diana, một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp mười bảy tuổi khát khao nhận được sự tán dương từ người khác. Chính điều này đã khiến cô từ bỏ giấc mơ trở thành nhà văn và từ bỏ cả những giá trị của chính mình. Trong giây phút lâm chung, mẹ của Diana đã thú nhận rằng Diana còn một người em song sinh nữa - một người khát khao được gặp mẹ, dám chống đối lại những người khác để thực hiện nguyện ước của cô là đi tìm mẹ. Lời mẹ khẩn cầu Diana hãy đi tìm gặp em gái đã thôi thúc Diana thực hiện một cuộc hành trình bí ẩn. Cuộc hành trình dẫn cô đến khu vườn hoa hồng kỳ lạ ở Istanbul, và chính nơi đó, cô đã trò chuyện được với những bông hồng... Serdar Ozkan sẽ đưa chúng ta đến với cuộc hành trình tìm kiếm điều gì đó tưởng như vô cùng đơn giản - HẠNH PHÚC. Nhưng, để có được hạnh phúc chẳng đơn giản chút nào. Để rồi khi chạm tới điểm cuối của hành trình, chúng ta chợt nhận ra rằng, hạnh phúc, nó tựa như một món đồ ta để quên trong ngăn kéo kí ức hóc khóa và chờ đợi bàn tay tỉ mẩn, kiên trì của một ai đó tìm lại mà thôi. *** Ephesus! Thành phố của sự đối ngẫu Là nơi có cả đền thờ nữ thần Artemis lẫn tòa thánh thờ Đức mẹ Maria. Nơi đây là hiện thân của cái tôi bản ngã lẫn chiều sâu tâm hồn. Đây cũng là hình ảnh thu nhỏ của những thứ cao khiết hư ảo lẫn những điều trần tục thấp hèn, là nơi kết hợp cả chế độ nô dịch lẫn sự tự do, phóng khoáng. Ephesus – Là sự hòa quyện của những điều đối lập. Bản thân thành phố ấy cũng có tâm hồn như mỗi con người chúng ta. Một buổi chiều muộn tháng Mười, có hai người ngồi bên cạnh con suối Meles gần thành phố cổ Ephesus. Mặt trời đang khuất dạng dần sau ngọn núi Buldul, nhuộm hồng cả một góc trời. Với những ai am hiểu ngôn ngữ của bầu trời thì chắc hẳn sẽ sớm hân hoan đón chào cơn mưa. “Thánh Paul đang giảng đạo cho mọi người về Mẹ Maria đấy”, cô gái trẻ nói. “Anh có nghe thấy đám đông phẫn nộ đang gào thét, phản đối và nguyền rủa ông ấy không? Hàng nghìn người nổi loạn chống lại tôn giáo mới - thứ tôn giáo ngăn cấm họ thờ nữ thần của mình. Hãy nghe tiếng những bước chân đang giậm trên nền đất và tiếng họ la hét kìa, ‘Chúng tôi không muốn Maria! Chúng tôi tôn thờ nữ thần Artamis!’ “Artemis ư?” Chàng trai trẻ hỏi lại. “Mội nữ thần sao? Nữ thần Diana của La Mã?” “Đừng quan tâm đến bà ấy làm gì”, cô gái trẻ đáp lời, “Bà ấy chẳng là gì ngoài một ảo tưởng đã được hình hài hóa và được người ta tôn thờ.” “Em có vẻ biết nhiều về bà ấy nhỉ?” “Em hiểu rõ bà ấy như chính bản thân mình ấy chứ.” “Được rồi, vậy sao em không kể cho anh nghe về bà ấy nhỉ?” “Bà ấy là nữ thần săn bắn,” cô gái bắt đầu kể. “Đó là một nữ thợ săn thực thụ - người dùng cung tên của mình để đem đến cho kẻ thù một cái chết đột ngột và ngọt ngào. Đó là một tâm hồn tự do bị cầ tmù, một người phụ thuộc nhưng rất đỗi kiêu hãnh. Nhờ có cây oliu mà mẹ bà – bà Leto đã sinh ra bà cùng với…” Sau khi đã hít một hơi sâu, cô gái nói thêm “người em song sinh của bà…” Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Mất Tích của tác giả Serdar Ozkan.
A
“A.” - Một câu chuyện tình... Hẳn là như vậy, bởi theo tác giả Kira Tenisheva, cuốn sách này chính là “câu chuyện về tình yêu, trong hình dung của tôi…” nhưng tại sao lại là “trong hình dung của tôi” – một lời nói mang tính nước đôi như vậy? Đây có lẽ là một “bí mật” khác mà cuốn sách dành riêng cho từng người đọc (!). Còn bây giờ xin mời bạn trở lại câu chuyện của “A.”. Cuốn sách nhỏ nhắn với số trang rất khiêm tốn, chỉ lấy duy nhất một chữ “A.” làm tựa, có lẽ cũng khơi dậy trong bạn đọc một chút ham muốn được khám phá. “A.” hoàn toàn không phải là một cuốn sách dễ đọc, nó “đánh đố” chúng ta ngay từ cái tựa. “A.” là ai? Là “chiếc khăn tay từ lâu đã phai mùi nước hoa của em có chữ “A.” thêu nổi ở góc? Hay “A.” chính là tên gọi của nữ thần sắc đẹp và tình yêu trong thần thoại Hy Lạp: Aphorodite? Cũng có thể “A.” chính là cô gái hoang dã Amazon?… Hình như đấy không phải là một con người cụ thể mà là biểu tượng của tình yêu đẹp mà chàng trai đi tìm. Một chuyến đi mãi mãi, bỏ lại sau lưng thành phố quen thuộc, địa vị và sự nổi danh nhất định. Chàng trai đi tìm ánh rực rỡ của tình yêu ở quảng trường, trên bãi biển, trên những con đường lộng gió. Chàng mãi đi tìm người ấy, cho dù người ấy đã già hoặc chết đi trong một làng ở vùng miền núi Alpes hẻo lánh, thậm chí đấy là một con người chưa bao giờ tồn tại (!)… Nếu so với những cuốn tiểu thuyết Trung Quốc đang “làm mưa, làm gió” trên thị trường sách Việt Nam hiện nay, có lẽ “A.” không phải là cuốn sách được ưa chuộng, bởi nó không có những “chuyện ầm ĩ” để bàn, để tán. “A.” là câu chuyện phi thời gian, vượt thoát không gian cụ thể; đấy cũng chẳng phải là câu chuyện của quá khứ hay tương lai. Song, nếu nói rằng “A.” là câu chuyện thời hiện tại thì cũng không phải. Tóm lại, điều mà “A.” muốn đề cập chính là sự vĩnh hằng với những mẫu sống, tình yêu huyền thoại luôn lưu chuyển âm thầm trong vũ trụ. Những nhân vật gần như không có thật, những cảnh trí không có trong đời thường, những thành phố vĩ đại nhưng không có tên, được đánh dấu bằng các chữ cái… Và, có một chút gì đó của văn học hậu hiện đại, khi tên của các nhân vật nổi tiếng, những niên đại, các biểu tượng… được “cài đặt” đây đó trong tác phẩm, bắt buộc người đọc phải vận dụng “trí học” của mình. Tuy nhiên, nếu bạn không phải là người “chịu khó” thì cũng không sao bởi “A.” là một câu chuyện tình yêu giản dị! Hãy dành vài giờ nhẹ nhõm, tạm quên những vấn đề của bản thân để dành cho cuốn sách này – đấy là lời gợi ý mà Kira Tenisheva gửi đến bạn đọc Việt Nam. Tôi đã làm theo cách ấy và tôi đã có được sự nhẹ nhõm kéo dài, để hiểu thêm những vấn đề của bản thân mình cùng cuộc sống mà mình đang tham dự… “A.” – tác giả: KIRA TENISHEVA; bản dịch: KIỀU VÂN, NXB HỘI NHÀ VĂN – TRUNG TÂM VĂN HÓA – NGÔN NGỮ ĐÔNG TÂY ấn hành năm 2005. TRẦN NHÃ THỤY *** Lời tác giả Gửi bạn đọc Việt Nam ! Một lần cầm bút lên, tôi hiểu mình không muốn viết về những chuyện đang xảy ra hàng ngày. Khi xung quanh có quá nhiều vấn đề, khi trên các trang sách vẫn là những máu me, nhơ nhớp, bạo lực, là sự vô liêm sỉ và tăm tối như những gì vẫn phô bày ra trên màn ảnh truyền hình, có cảm giác chỉ muốn bứt mình khỏi cái vòng đó và dù không lâu, được thoát ra ngoài thời gian và không gian này. Không phải quá khứ, cũng chẳng phải tương lai khiến tôi quan tâm, điều cuốn hút tôi là cái phi thời gian. Cái Vĩnh hằng. Ví dụ như tình yêu - điều đã luôn khiến cảm động và sẽ mãi làm cảm động nhân loại. Mà thực ra, đâu có gì đáng ngạc nhiên trong chuyện một phụ nữ quyết định viết về tình yêu? Nhưng việc viết cuốn sách này, một cách nghịch lý, đối với tôi hóa ra lại không là sự rời bỏ hiện thực, mà là tiếp cận nó từ một hướng khác. Không là sự lìa bỏ đời sống, mà hoàn toàn ngược lại, chính là sự quay về nơi đó xuyên qua một vùng huyền thoại vẫn còn lưu dấu trong mình nguyên mẫu của thế giới. Điều mô tả trong cuốn truyện không mấy gợi nhắc đến đời thường. Những cảnh trí quá rực rỡ, những nhân vật quá rực rỡ, có phần được cách điệu hóa, giống các nhân vật đeo mặt nạ trên sân khấu; họ không có tên và du hành qua những thành phố vĩ đại, nhưng không được gọi tên, chỉ được đánh dấu bằng các chữ cái như những ẩn số trong phương trình. Sự bí ẩn đó để làm gì ư? Đơn giản chỉ vì không gian diễn ra câu chuyện và không gian mà các nhân vật thuộc về không chỉ là châu Âu của thế kỷ 20, mà là một không gian ước lệ nào đó của cõi huyền thoại tình yêu. Mà trước tình yêu thì tất cả mọi người đều ngang nhau, và vô số những nhân vật vô danh của nó - những người khổng lồ hay nhỏ bé, những con người xinh đẹp hay quặt quẹo, quý tộc hoặc là thường dân - đời này sang đời khác, nhân danh tình yêu đang lặp lại cùng một những chiến công hay điều tội lỗi như nhau. Nhưng nếu như vậy, nếu chúng ta, những con người đã quần tụ lại bởi dù ta có là ai và ở đâu đi nữa, tất cả chúng ta đều yêu, đau khổ và hướng đến hạnh phúc, thì những tên người và địa danh ở đây đã chẳng còn có ý nghĩa quan trọng gì. Nói tóm lại, A là câu chuyện về tình yêu. Trong hình dung của tôi là vậy, nhưng bạn đọc hoàn toàn có thể nhìn thấy trong nó một điều gì đó không giống vậy. Còn về khuynh hướng văn chương, tôi cảm thấy thật khó xác định. Tôi không quy bản thân thuộc về một trào lưu văn học hiện đại nào cả, mà nếu cần bằng một cách nào đó làm sáng tỏ sự lựa chọn của tôi, thì tôi xin nói: điều quan trọng nhất đối với tôi là ngôn ngữ, phong cách, và với tư cách một người đọc tôi rất yêu sáng tác của các bậc thầy ngôn ngữ như Boris Pasternak và Vladimir Nabokov. Còn phải nói thêm điều gì nữa nhỉ? Tôi ước giá như có ai đó trong số các bạn sẽ dành ra vài giờ đồng hồ nhẹ nhõm để đọc cuốn sách này, tạm quên đi những vấn đề của bản thân. Và cùng với tôi thán phục vẻ đẹp của thế giới chúng ta đang sống. Tôi hạnh phúc với cuộc gặp gỡ này cùng bạn đọc Việt Nam và vui vì có dịp chúc cho dân tộc yêu lao động, dũng cảm và thiện tâm của các bạn được hạnh phúc và bình yên. Xin gửi tới các bạn lời chào thân ái! Kira Tenisheva Mời các bạn đón đọc A của tác giả Kira Tenisheva.
Dòng Sông Thơ Ấu
Hai Quang bị xã hội cũ đẩy vào tầng lớp lưu manh, làm dân anh chị ở bến xe rồi bị tù.Tuy nhiên bản chất là người lương thiện nên những hành động anh chị của Hai Quang đều có nét hào hiệp. Được cách mạng giác ngộ, anh trở thành một chiến sĩ kiên cường. Ông Tư Ghe vốn là học trò thầy giáo cách mạng Châu Văn Liêm, ông đã từng dẫn đầu các đoàn biểu tình và phanh ngực ra trước mũi giặc: “Cái ngực đồng của tau đây nè, bắn đi!”. Thế mà khi cách mạng thoái trào, anh em bị khủng bố thì ông theo Hòa Hảo, hãnh tiến và cuồng tín trong “sứ mệnh” truyền đạo của mình. Hai nhân vật chính của thiên tiểu thuyết, với những mâu thuẫn về quan điểm sống và chịu tác động của dòng đời đưa đẩy, là hai số phận điển hình trong thời Kháng chiến. Từ góc nhìn của nhân vật, tác giả đã khéo trình bày những sự kiện lịch sử và những đấu tranh trong lòng người thay đổi theo thời gian, như con sông khi trôi khi đục, chảy đi mang theo tất cả. "Bức tranh quê hương trong tiểu thuyết Dòng Sông Thơ Ấu sở dĩ sinh động vì đều là những hồi ức có thật. Tui theo kháng chiến 30 năm, mỗi khi nghe trên thế giới có dòng sông cạn thì tui lại nghĩ không biết dòng sông bên nhà mình ra sao. Dòng sông thời nhỏ của tui trải qua hai cuộc chiến tranh vẫn tràn trề sức sống. Ban đầu, tui viết dòng sông đó trong Đất lửa, Nguyễn Tuân chê "hiền quá". Sau ngày miền Nam giải phóng, tui đưa Nguyễn Tuân về ngồi nhậu trước nhà tui ngó ra dòng sông. Chỉ nghe loáng thoáng vài câu chuyện sông nước thôi, Nguyễn Tuân đã nhắc: 'Dòng sông là nguồn cảm hứng của văn chương Nam Bộ đấy, viết tiếp đi!' Năm 1980 tui viết những chữ mở đầu Dòng Sông Thơ Ấu..." - nhà văn Nguyễn Quang Sáng *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Dòng Sông Thơ Ấu của tác giả Nguyễn Quang Sáng.
Mùa Gió Chướng
Tác phẩm Mùa Gió Chướng này được ông viết vào năm 1975. Cuốn sách mô tả tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam chống lại sự đàn áp, ý đồ dời dân lập ấp của kẻ địch. Cuộc đấu tranh đó đã trải qua nhiều gian nan, thử thách, biết bao hy sinh mất mát. Tiểu thuyết Mùa gió chướng đã từng được dịch sang tiếng Nga. Tác phẩm này cũng được đạo diễn Hồng Sến dựng thành phim. *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Mùa Gió Chướng của tác giả Nguyễn Quang Sáng.