Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lợi Thế Cạnh Tranh - Michael E. Porter

Xuất bản lần đầu năm 1985, cuốn sách này là sự bổ sung chính yếu cho tác phẩm Chiến lược cạnh tranh (Competitive Strategy). Nếu Chiến lược cạnh tranh tập trung vào các ngành kinh doanh, thì Lợi thế cạnh tranh lại chủ yếu nói về các công ty và doanh nghiệp. Mục tiêu của tôi là khái niệm hóa một công ty, với những nguồn gốc cơ bản của lợi thế cạnh tranh và tính bền vững của lợi thế đó.   Trọng tâm của tác phẩm này là một lý thuyết dựa trên hoạt động (activity-based theory) của công ty. Để cạnh tranh trong bất kỳ ngành nào, các công ty phải thực hiện một loạt những hoạt động riêng rẽ như thực hiện đơn hàng, tiếp xúc khách hàng, lắp ráp sản phẩm, đào tạo nhân viên v.v… Chính các hoạt động này, vốn ở tầm nhỏ hẹp hơn các chức năng như marketing hay R&D, mới là nơi phát sinh chi phí và tạo ra giá trị cho người mua. Chính chúng mới là các đơn vị cơ bản (basic units) của lợi thế cạnh tranh [1] . Lợi thế cạnh tranh đưa ra khái niệm về Chuỗi giá trị (value chain) – là khung mẫu cơ sở để tư duy một cách chiến lược về các hoạt động trong doanh nghiệp; đồng thời đánh giá chi phí và vai trò tương đối của chúng trong việc khác biệt hóa. Khác biệt giữa giá trị (mức mà người mua sẵn sàng thanh toán cho một sản phẩm hay dịch vụ) với chi phí thực hiện các hoạt động cần thiết để tạo ra sản phẩm/dịch vụ ấy sẽ quyết định mức lợi nhuận. Chuỗi giá trị giúp ta hiểu rõ các nguồn gốc của giá trị cho người mua (buyer value) đảm bảo một mức giá cao hơn cho sản phẩm, cũng như lý do tại sao sản phẩm này có thể thay thế sản phẩm khác. Chiến lược là một cách sắp xếp và kết hợp nội tại các hoạt động một cách nhất quán, cách thức này phân biệt rõ ràng doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.   Cũng chính cái nhìn dựa trên hoạt động này cho ta cơ sở để suy nghĩ về chiến lược tại các doanh nghiệp đa ngành. Lợi thế cạnh tranh đi sâu khám phá vai trò của sản phẩm /dịch vụ thay thế trong cạnh tranh, cũng như phân tích lợi thế cạnh tranh trong một số ngành cụ thể [2] . Các hoạt động cũng là công cụ cơ bản để kiểm tra lợi thế hay bất lợi của việc đa dạng hóa. Khả năng tạo ra giá trị gia tăng thông qua cạnh tranh ở các doanh nghiệp đa ngành có thể được lý giải qua việc chia sẻ các hoạt động hoặc chuyển các kỹ năng độc nhất giữa các hoạt động khác nhau trong doanh nghiệp. Điều đó cho phép khái niệm “tổng lực” (synergy) trở nên rõ ràng và nhất quán. Lợi thế cạnh tranh nghiên cứu những vấn đề này, cũng như những thách thức về mặt tổ chức của sự cộng tác giữa các chức năng kinh doanh (cross-business collaboration) [3] . Với làn sóng mới của sự sáp nhập, các giá trị cạnh tranh bị đặt dấu hỏi, thì các vấn đề này tiếp tục gây ra nhiều sự quan tâm mới.   Cuối cùng, cách nhìn doanh nghiệp dựa trên các hoạt động của nó cũng tạo điều kiện cho việc đánh giá các chiến lược quốc tế, hay nói cách khác, cho sự cạnh tranh giữa những địa phương và quốc gia khác nhau. Khi tham gia cạnh tranh quốc tế, một doanh nghiệp có thể “trải rộng” các hoạt động của nó lên nhiều địa điểm, quốc gia khác nhau (tôi đặt tên cho khái niệm này là configuration – cấu hình, cấu trúc của doanh nghiệp), nhưng vẫn hoàn toàn có thể đạt được lợi thế cạnh tranh bằng việc phối kết hợp các hoạt động này. Tuy nhiên, do Lợi thế cạnh tranh đã quá dày và phức tạp, tôi quyết định sẽ phát triển các vấn đề “quốc tế” này ở trong một cuốn sách khác [4] . Tiếp đó, một cách tự nhiên, tôi lại nghiên cứu vai trò riêng của địa điểm đối với lợi thế cạnh tranh. Đó chính là chủ đề của cuốn sách thứ ba trong bộ sách này, mang tên Lợi thế cạnh tranh quốc gia [5] .   13 năm sau khi Lợi thế cạnh tranh được xuất bản lần đầu tiên, hồi tưởng lại, tôi cảm thấy hạnh phúc nhất khi các khái niệm chính yếu của nó được sự chấp nhận của mọi người. Những cụm từ như lợi thế cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh bền vững giờ đây đã trở nên phổ biến. Khái niệm “hoạt động” không chỉ phổ biến trong khi nói về cạnh tranh và chiến lược, mà còn quan trọng trong việc nghiên cứu các vấn đề về chức năng như quản trị dịch vụ, hay vai trò của công nghệ thông tin trong cạnh tranh. Tính toán chi phí dựa trên hoạt động trở thành một tiêu chuẩn mới trong kế toán quản trị, ngay cả khi đây chưa thể là một công cụ chiến lược.   Ngoài ra, khi hồi tưởng lại, Lợi thế cạnh tranh còn là một sự hài lòng đặc biệt cho cá nhân tôi với tư cách một học giả. Trong khi Chiến lược cạnh tranh là sự phát triển các lý thuyết trong kinh tế học công nghiệp, Lợi thế cạnh tranh dường như là tác phẩm mang tính khai phá trong lĩnh vực này, cả trong quản trị học và kinh tế học. Thực ra, tác phẩm này là kết quả của sự nỗ lực giải một câu đố của tôi. Câu đố như sau: bằng cách nào chúng ta có thể tìm ra một cách thức có hệ thống để kiểm tra nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh, gắn liền với chi phí và khác biệt hóa, đồng thời vạch ra sự khác biệt căn bản giữa các công ty? Hiện nay tôi hoàn toàn tin rằng chính các hoạt động đã cho chúng ta công cụ cần thiết đó. Càng nghiên cứu, tôi càng thấy khái niệm này được chứng minh rõ ràng và hùng hồn hơn nhiều so với dự tính ban đầu.   Tại sao vậy? Bởi cuốn sách này đưa ra phương pháp vượt ra ngoài những kiểu mô tả đặc điểm một chiều hoặc đơn nhất của lợi thế cạnh tranh. Đa số các công trình nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực này gắn lợi thế với quy mô và thị phần, và điều này thực ra đã quá đơn giản hóa vấn đề. Một là, tại một số bộ phận của doanh nghiệp, quy mô và thị phần quan trọng hơn nhiều so với chi phí và khác biệt hóa. Hai là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường hoạt động tốt hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn trong nhiều ngành kinh doanh. Cuối cùng, ngay cả khi quy mô và thị phần gắn liền với hiệu quả của sản xuất kinh doanh, thì chúng thường chỉ là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của lợi thế cạnh tranh.   Một số nỗ lực khác nhằm giải thích lợi thế cạnh tranh - chẳng hạn như điểm mạnh và điểm yếu, các yếu tố thành công, hay các khả năng riêng biệt - đều đúng khi thừa nhận rằng một doanh nghiệp là đa dạng và có nhiều sự tương tác. Song những nỗ lực ấy lại thất bại trong việc giải thích nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh một cách có hệ thống và sâu sắc, cũng như không gắn chúng với khả năng sinh lời. Cuốn sách Lợi thế cạnh tranh bắt đầu với tiền đề rằng lợi thế cạnh tranh xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau; sau đó đưa ra cách thức gắn lợi thế cạnh tranh với những hoạt động cụ thể cũng như cách liên kết các hoạt động ấy với nhau và với hoạt động của nhà cung cấp, khách hàng. Cuốn sách này cũng nghiên cứu những nguyên nhân tiềm tàng của lợi thế trong một hoạt động cụ thể: lý do tại sao một doanh nghiệp đạt chi phí thấp hơn, bằng cách nào mà các hoạt động tạo ra giá trị hữu hình cho người mua. Nó nhấn mạnh rằng đa số vị thế cạnh tranh tốt bắt nguồn từ các hoạt động khác nhau. Lợi thế dựa trên một số ít các hoạt động dễ bị phát hiện và bắt chước bởi các đối thủ cạnh tranh. Sau hết, hoạt động và chuỗi giá trị cho ta cái nhìn về doanh nghiệp như là một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau (interdependent system), trong đó các bộ phận riêng lẻ phải mang tính nhất quán về nội tại.   Nói rộng hơn, Lợi thế cạnh tranh giúp chiến lược trở nên vững chắc hơn, khả thi hơn. Các hoạt động - tức những gì một doanh nghiệp làm – nói chung là hữu hình, quan sát được, và do đó, có thể quản lý được. Khi đó, chiến lược không chỉ là một tầm nhìn chung chung, nó đã trở thành một sự kết hợp các hoạt động riêng lẻ mà doanh nghiệp lựa chọn, trong sự so sánh với các đối thủ của mình. Chiến lược theo đuổi chi phí thấp, chẳng hạn, sẽ gồm một bộ các lựa chọn về hoạt động không giống với chiến lược khác biệt hóa. Các hoạt động chính là cây cầu nối giữa chiến lược và việc triển khai. Khi chiến lược được định nghĩa trên những khái niệm chung về định vị, thì sự phân biệt rõ ràng giữa chiến lược với cấu trúc là có ý nghĩa và cần thiết. “Là cái gì” và “bằng cách nào” là hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, khi ý thức rằng doanh nghiệp là một tập hợp nhiều hoạt động khác nhau, dường như những phân định trước kia giữa chiến lược, chiến thuật và tổ chức trở nên lu mờ. Chiến lược giờ đây là một loạt các hoạt động nhất định, nhắm đến việc cung cấp một loạt giá trị cho những khách hàng cụ thể nào đó. Đặc điểm của mỗi hoạt động thể hiện cách thức thực hiện hoạt động đó, bao gồm cả nhân lực và vật lực, cũng như các sắp xếp về tổ chức liên quan. Do đó, các khả năng cùng năng lực làm việc trở thành bộ phận của các hoạt động cụ thể, hơn là mang tính trừu tượng, xa rời chi phí và giá trị tạo ra cho người mua.   Các chức năng mà nhiều người cho là mang tính tổ chức (như hệ thống bồi hoàn, đào tạo, quy trình ra quyết định .v.v…) cũng chỉ là những hoạt động. Tôi gọi chúng là những hoạt động hỗ trợ, phân biệt với những hoạt động trực tiếp liên quan tới việc sản xuất, phân phối, marketing sản phẩm, dịch vụ. Ngay các hoạt động hỗ trợ cũng có thể là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh. Việc kết hợp các hoạt động để cạnh tranh theo một cách thức nhất định cũng góp phần hình thành quan hệ trong hợp đồng với nhân viên và các doanh nghiệp khác. Các hoạt động cũng tạo ra một khung mẫu trong việc xác định các biên giới tổ chức.   Các hoạt động cũng làm cho chiến lược trở nên mang tính thực hành. Nói cách khác, coi doanh nghiệp như là tập hợp các hoạt động khác nhau chính là coi mỗi cá nhân là một phần của chiến lược. Điều này cũng giải thích tại sao các nhân viên phải hiểu về chiến lược, sao cho lý lẽ trong các hoạt động của họ cũng như cách thức chúng liên hệ với những hoạt động khác là rõ ràng. Các ý tưởng trong Lợi thế cạnh tranh khi triển khai mang tính thách thức nhiều hơn so với các ý tưởng trong Chiến lược cạnh tranh , vì chúng đòi hỏi một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn đến mọi công việc của doanh nghiệp. Trong một thế giới nơi các nhà quản trị có xu hướng thiên về những chỉ thị đơn giản, việc phân tích hoạt động một cách chi tiết đã và đang mang tính thách thức cao. Việc cố gắng tìm ra những ví dụ để minh họa chuỗi giá trị trong công việc cũng gặp phải những hạn chế thực tế. Tính phức tạp của một doanh nghiệp khiến không thể chỉ đưa ra những ví dụ ngắn; song muốn nghiên cứu tình huống một cách sâu hơn thì lại gặp khó khăn về tiết lộ thông tin. Đa số các công ty thành công đều xem cấu hình hoạt động của họ là thứ gì đó bí mật, độc quyền. Thực ra mà nói, chính sự khó khăn để hiểu được cấu hình hoạt động từ bên ngoài là một lý do quan trọng giải thích tại sao lợi thế cạnh tranh lại trở nên bền vững.   Ngày nay, hơn một thập kỷ sau lần xuất bản đầu tiên của Lợi thế cạnh tranh , các ý tưởng của nó vẫn đang tiếp tục lan tỏa. Trong lĩnh vực cạnh tranh và chiến lược, nơi có xu hướng phân biệt rõ ràng giữa các yếu tố bên ngoài (cấu trúc ngành và định vị) và bên trong (các năng lực cốt lõi, các nguồn lực chủ yếu), một số ý kiến cho rằng yếu tố bên trong là quan trọng hơn. Việc đối lập chiến lược cạnh tranh với các năng lực cốt lõi / các nguồn lực chủ yếu thực chất là đã đi lạc đề, tạo ra một sự phân biệt giả tạo.   Thật quá đơn giản khi suy nghĩ rằng các vị thế cạnh tranh và những kỹ năng bên trong, uy tín, hay năng lực tổ chức, có thể được tách biệt nhau. Thực tế thì các hoạt động kết nối chúng lại với nhau. Rõ ràng doanh nghiệp vừa là một tập hợp các hoạt động, vừa là một tập hợp các nguồn lực và năng lực. Nhưng hoạt động là những gì một doanh nghiệp làm, chúng xác định các nguồn lực và năng lực nào là liên quan. Các hoạt động cung cấp sự liên kết giữa vị thế sản phẩm và vị thế thị trường sản phẩm. Có thể quan sát và thực hiện các hoạt động, chúng liên quan trực tiếp đến chi phí và sự khác biệt. Một chiến lược cụ thể sẽ làm cho đa số nguồn lực và năng lực trở nên có giá trị, trong khi một chiến lược khác lại làm giảm thiểu giá trị của chúng. Nếu các nguồn lực và năng lực bị tách rời khỏi hoạt động, chiến lược và ngành kinh doanh, các doanh nghiệp trở nên có xu hướng hướng nội. Có nhiều điều cần nghiên cứu về tài sản của một doanh nghiệp, song không phải nghiên cứu một cách riêng rẽ.   Lợi thế cạnh tranh tạo cơ sở nền móng cho việc mô tả và đánh giá chiến lược, liên kết nó với hành vi doanh nghiệp, giúp hiểu được nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh. Đồng thời cuốn sách này cũng tạo cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn. Khi nhìn lại, rõ ràng Lợi thế cạnh tranh đã dẫn dắt tôi đến các chủ đề trong những nghiên cứu gần đây của mình: Tại sao những khác biệt về hoạt động đem lại những vị thế cạnh tranh khác nhau lại có thể xảy ra? Khi nào thì diễn ra sự đánh đổi giữa những vị thế? Điều gì khiến cho các hoạt động là khó bắt chước? Bằng cách nào các hoạt động trở nên ăn khớp với nhau? Các vị thế độc nhất đã được hình thành và phát triển như thế nào?   Tất nhiên, một điều rõ ràng nữa là việc cần nghiên cứu tại sao doanh nghiệp này lại hoạt động tốt hơn doanh nghiệp kia. Và cũng còn nhiều việc phải tìm hiểu về quy trình theo đó các doanh nghiệp tìm ra một chiến lược duy nhất, triển khai nó, thay đổi nó khi điều kiện thay đổi. Câu trả lời cho những vấn đề trên đương nhiên là không đơn giản, đòi hỏi những suy nghĩ và nghiên cứu sâu sắc, toàn diện.   Michael E. Porter Brookline, Massachusetts 01/1998       [1] 1 - Các sách về tái cấu trúc (re-engineering) doanh nghiệp sử dụng khái niệm quá trình (process). Đôi khi khái niệm này cũng có thể hiểu là các hoạt động (activities), hoặc một loạt hoạt động xuyên suốt qua nhiều phòng ban chức năng trong một tổ chức. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào thì khái niệm cơ bản vẫn là như nhau – các vấn đề về chiến lược cũng như vận hành đều được hiểu rõ nhất ở tầm mức hoạt động (activity level).   [2] - Các tác giả Adam Brandenburger và Barry Nalebuff trong cuốn sách Co-opetition (NXB Currency/Doubleday, New York, 1996) đã trình bày rất sâu sắc và sống động về vai trò của sản phẩm thay thế.   [3] - Các khái niệm này được phát triển tiếp tục trong bài báo “Từ lợi thế cạnh tranh đến Chiến lược cạnh tranh” của M.E.Porter trên tạp chí Harvard Business Review, số tháng 5&6, 1987.   [4] - M.E.Porter “Competition in Global Industries - Cạnh tranh trong các ngành kinh doanh toàn cầu”, Harvard Business School Press, Boston, 1986.   [5] - M.E.Porter “The competition Advantage of Nations - Lợi thế cạnh tranh quốc gia”, The Free Press, New York, 1990. *** Tủ Sách Doanh Trí gồm có: Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào? 23 Vấn Đề Họ Không Nói Với Bạn Về Chủ Nghĩa Tư Bản Cách Nghĩ Để Thành Công Nói Vậy Mà Không Phải Vậy  Quảng Cáo Và Tâm Trí Người Tiêu Dùng Thay Đổi Tư Duy - Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và người khác Vận Hành Toàn Cầu Hóa Đặt Tên Cho Thương Hiệu! Nguyên Lý Thứ Năm: Nghệ Thuật Và Thực Hành Tổ Chức Học Tập Nhìn Về Toàn Cầu Hóa Yukichi Fukuzawa - Tinh Thần Doanh Nghiệp Của Nước Nhật Hiện Đại 10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh Lãnh Đạo Chuyển Hóa Đạo của Warren Buffett Châu Á Thần Kỳ - Thiên Sử Thi Về Hành Trình Tìm Kiếm Sự Thịnh Vượng Của Châu Á Học làm Lãnh đạo Thế giới cong Rơi Tự Do Quản Trị Dựa Vào Tri Thức Hơn Cả Tiền Tương Lai Của Nghề Quản Trị Nhân Sự Phương Thức Dẫn Đầu Thị Trường Nhà Quản Lý Tài Giỏi Lợi Thế Cạnh tranh Khi Bong Bóng Vỡ Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia ...   Mời các bạn đón đọc Lợi Thế Cạnh Tranh của tác giả Michael E. Porter.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điểm Mù - Max H. Bazerman & Ann E.Tenbrunsel
Chúng tôi đã dành hai mươi năm cho việc chiêm nghiệm và hoàn thiện cuốn sách này – một khoảng thời gian khá dài mà chính chúng tôi cũng không nhận ra. Năm 1991, Ann bắt đầu khóa học tiến sĩ tại Trường quản lý Kellogg của Đại học Northwestern và dành hầu hết thời gian của mình để thực hiện một số nghiên cứu bước đầu mang tâm lý học vào lĩnh vực đạo đức kinh doanh. Trọng tâm của nghiên cứu này là sự hợp tác giữa Ann và David Messick - một Giáo sư lỗi lạc của chương trình Kaplan về Đạo đức học tại trường Kellogg. Công trình nghiên cứu của họ khảo sát sự suy giảm đạo đức, tức là xu hướng những người có đạo đức đưa ra những quyết định thiếu đạo đức vì những yếu tố đạo đức đã dần không còn đóng vai trò quan trọng trong quyết định của họ. Max có liên hệ với Ann và Dave trong một vài phần của nghiên cứu nhưng phần lớn ông đóng vai trò người quan sát và cổ vũ cho công trình này. Năm 2000, Max tham gia cùng với một nhóm sinh viên của Đại học Harvard và bắt đầu thực hiện nghiên cứu với những người đồng sự mới là Mahzarin Banaji và Dolly Chugh về đạo đức giới hạn (bounded ethicality), hay nói cách khác là cách con người thực hiện một cách có hệ thống những hành vi thiếu đạo đức trong vô thức. Ý tưởng rút ra từ nghiên cứu này cùng với những nghiên cứu của Dave và Ann sẽ được diễn giải trong quyển sách này. Cùng khoảng thời gian này, tập đoàn năng lượng Enron sụp đổ, các tổ chức và các trường dạy kinh doanh bắt đầu bị thúc ép phải có hành động cụ thể để giải quyết sự suy thoái đạo đức đang xảy ra trong xã hội. Vì vậy, lĩnh vực đạo đức kinh doanh bắt đầu có những chuyển biến mà chúng tôi sẽ miêu tả trong quyển sách. Một trong những chuyển đổi quan trọng là sự phát triển của lĩnh vực đạo đức hành vi – tập trung vào việc tâm lý con người sẽ hoạt động như thế nào trong những tình huống đạo đức. Sự quan tâm về đạo đức hành vi đã tăng theo cấp số nhân trong khoảng 10 năm trở lại đây và sự bùng nổ này đã khơi nguồn cho chúng tôi tập hợp những quan điểm về đạo đức hành vi của mình vào cuốn sách. Các nghiên cứu về đạo đức này chịu ảnh hưởng từ những mối quan hệ và hợp tác của chúng tôi với rất nhiều học giả. Trong số đó có Modupe Akinola, Mahzarin Banaji, Iris Bohnet, Art Brief, Day- lian Cain, Eugene Caruso, Suzanne Chan-Serafin, Dolly Chugh, Luke Coffman, John Darley, David de Cremer, Tina Diekmann, Nick Epley, Francesca Gino, Josh Greene, Jennifer Jordan, Ka- rim Kassam, Rod Kramer, Marijke Leliveld, George Loewenstein, Kathleen McGinn, David Messick, Katy Milkman, Celia Moore, Don Moore, Charles Naquin, Maggie Neale, Greg Northcraft, Nee- ru Paharia, Madan Pillutla, Todd Rogers, Lisa Shu, Kristin Smith- Crowe, Phil Tetlock, Chia-Jung Tsay, Elizabeth Umphress, Erik van Dijk, Kimberly Wade-Benzoni cùng với những đồng tác giả và bạn bè khác mà chúng tôi sẽ đề cập đến sau đây. Trong suốt quá trình viết sách, Art Brief, Dolly Chugh, Kristina Diekmann, Francesca Gino, Josh Greene, Dave Messick, Madan Pillutla, Todd Rogers và Kristin Smith-Crowe đã đọc và cung cấp cho chúng tôi những ý kiến phản hồi thẳng thắn đóng góp cho nội dung và việc trình bày các ý tưởng trong tác phẩm này. Chúng tôi cũng đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình trong mảng biên tập. Katie Shonk, trợ lý nghiên cứu lâu năm của Max, đồng tác giả và là biên tập viên đã chỉnh sửa câu chữ để cuốn sách trở nên đặc sắc hơn, (nếu bạn thích viết lách, hãy tìm đọc tiểu thuyết mới của Ka- tie tên là Happy Now?)sự giúp đỡ của cô ấy là vô giá. Sarah Oliver Johnson đã đem đến những hình minh họa tuyệt vời cho trường hợp chiếc xe đẩy và cây cầu vượt trong cuốn sách. Ranjan Ahuja đã đọc lại, sửa lỗi sai và hiệu chỉnh toàn bộ cuốn sách. Những biên tập viên của chúng tôi tại Nhà xuất bản Đại học Princeton là Eric Schwar , Beth Clevenger và Janie Chan đã cung cấp những chỉ dẫn tổng thể tuyệt vời và rất có giá trị. Cuối cùng, chúng tôi muốn gửi lời cám ơn đến gia đình mình, là Marla - vợ của Max; Dante - chồng của Ann; những người con của cô ấy- Dante, Lina, và Michel cùng cha của cô ấy – bác Don vì sự ủng hộ của họ trong khi chúng tôi viết quyển sách này. *** Hai tác giả Max Bazerman và Ann Tenbrunsel mang đến một cuốn sách không hề nhẹ nhàng nhưng vẫn đầy thú vị về những vụ bê bối và đạo đức kinh doanh trong quá khứ và hiện tại. Trong cuốn sách Điểm mù (Tựa tiếng Anh: Blind Spots), những nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực đạo đức kinh doanh Max Bazerman và Ann Tenbrunsel đã nghiên cứu cách thức chúng ta đánh giá quá cao năng lực để làm những gì chúng ta cho là đúng đắn và chúng ta đã hành xử thiếu đạo đức thế nào dù không có chủ ý.   Sách phơi lộ và phân tích những vụ bê bối về đạo đức kinh doanh trong quá khứ và hiện tại. Những bê bối trong kinh doanh từ sụp đổ thị trường tài chính đến thảm họa vụ nổ tàu vũ trụ Challenger (1986) được trình bày trong Điểm mù. Độc giả sẽ thấy được đằng sau vụ sụp đổ của Enron - một tập đoàn năng lượng hùng mạnh luôn có tên trong danh sách các công ty phát triển nhất nước Mỹ. Vụ bê bối bối này cho thấy Enron vốn ngay từ đầu chỉ là “vỏ” chứ không phải “ruột” như tập đoàn này hướng tới và tiếp thị bằng nhiều hình thức kinh doanh thiếu đạo đức. Bên cạnh đó, những nghiên cứu về sự thiếu sót và thất bại của công ty Ford Moto cho dòng xe Ford Pinto cũng hứa hẹn sẽ là câu chuyện hấp dẫn. Hai tác giả đã điều tra ra bản chất của những vụ bê bối kiểm soát đạo đức trong thế giới kinh doanh và nhiều hơn thế nữa, tác giả khám phá ra những lý do mà các cách tiếp cận đạo đức truyền thống đều không phát huy tác dụng. Điểm mù không phải là những trang viết lóng lánh nhưng rất sạch sẽ và đầy tính thuyết phục. Sách cũng khai thác đến vấn đề tâm lý của cá nhân khi đối mặt với những tình thế khó khăn về đạo đức. *** Chúng tôi không biết bạn đang phải đối mặt với những thách thức đạo đức nào trong cuộc sống hay các giá trị đạo đức của bạn là gì. Chúng tôi chỉ biết được rằng có rất nhiều người không thể đạt được những tiêu chuẩn đạo đức của họ. Thông qua lăng kính biểu hiện đạo đức, chúng tôi đã cố xác định những cách thức giúp bạn và các nhóm bạn đang tham gia thấy được phần đạo đức trong các hành động của mình nhằm đưa ra những quyết định phù hợp với những tiêu chí các bạn đặt ra. Ở mức độ cá nhân, bạn sẽ có vị trí tốt nhất để với tới các tiêu chuẩn đạo đức mà bạn dựa vào với nhận thức bản thân. Ở mức độ tổ chức, các nhà lãnh đạo ngày nay cần phải hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng của các quyết định họ đưa ra lên đạo đức của các đồng nghiệp. Ở mức độ xã hội, những sáng kiến này giúp cho chính phủ gây ảnh hưởng mạnh mẽ lên các hành vi đạo đức của người dân để xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Cuối cùng, chúng tôi hy vọng mình đã thể hiện rằng mỗi chúng ta, với cách thức của riêng mình, có thể đóng góp để tạo nên một thế giới có đạo đức hơn. ... Mời các bạn đón đọc Điểm Mù của tác giả Max H. Bazerman & Ann E.Tenbrunsel.
Kiếm Tiền Trên Mạng - Joe Vitale & Jo Han Mok
Kiếm Tiền Trên Mạng - Các Doanh Nhân Thành Công Tiết Lộ 40 Bí Quyết Kiếm Tiền Hiệu Quả Và Nhanh Chóng Nhờ Internet Và Email Bí quyết kinh doanh trên mạng (E-code) mở khóa cánh cửa đi đến sự giàu có. Nắm bí quyết kinh doanh thương mại điện tử là cách duy nhất để những kẻ chiếm thị phần nhỏ trên mạng có cơ hội trở nên giàu có. Có thể hiểu Bí quyết kinh doanh trên mạng (E-code) là: một bức thông điệp dành cho một nhóm đối tượng phù hợp trên mạng, vào một thời điểm thích hợp, thông qua thư điện tử. Đây không phải là nguyên lý mới mẻ. Đó chỉ là một ứng dụng hết sức logic của nguyên lý marketing trực tiếp trên thị trường. Làm thế nào tôi khám phá ra bí quyết này? Tôi đã vô tình tìm ra nó khi đăng nhập vào trang web Những thông tin hữu dụng (News you can use) của Joe Vitale tại địa chỉ www.MrFire.com. Tất cả những gì tôi làm là chăm chú quan sát và nghiên cứu cách thức Joe thực hiện việc quảng cáo. Và chính tại đây, bí quyết kinh doanh thương mại điện tử được ứng dụng vào thực tế. Nếu bạn nằm trong danh sách của Joe, bạn cũng sẽ khó mà không mua một món nào trong số những hàng hóa do Joe gợi ý. Tại sao vậy? Đó chính là tác dụng của bí quyết kinh doanh thương mại điện tử. Nó có sức tác động thật mạnh mẽ. Tuy nhiên, Joe không phải là người duy nhất áp dụng Bí quyết kinh doanh trên mạng. Nhiều người khác cũng đang áp dụng nó và kết quả thu được cũng hết sức đa dạng. Bạn hoài nghi chăng? Hãy thử đăng ký để nhận được Bản tin lớn (Big Newsletter) của Armand Morin tại trang web www.Generator.com. Tôi đố bạn không mua một mặt hàng nào ông ấy rao bán! Bạn có thể gắng kiềm chế, nhưng vô ích thôi, bạn không dừng được đâu. Tại sao ư? Đó chính là tác dụng của Bí quyết kinh doanh trên mạng. Nhiều kẻ gặp thất bại do họ đã tiêu tốn tất cả tiền của vào các đối tượng vô ích với những bức thư vô nghĩa. Người chiếm thị phần nhỏ, với nguồn lực và tài chính hạn chế, buộc phải khôn ngoan hơn - thực hiện việc xác định và phân loại nguồn khách hàng một cách khéo léo trong việc tiếp thị của mình. Điều này có nghĩa là bạn phải tập trung gửi thông tin tiếp thị nhắm vào các nhóm khách hàng được chọn lựa kỹ càng hứa hẹn nhiều tiềm năng. Vì thế, mặt hàng đắt giá nhất trên mạng không phải là trang web của bạn hay bất cứ thứ gì tương tự, mà là danh sách địa chỉ thư điện tử khách hàng của bạn. Bất kể với loại sản phẩm hay dịch vụ nào được rao bán thì mọi doanh nghiệp cũng nên nhạy bén trong việc giành khách hàng. Nếu bạn đọc cuốn Cánh đồng kim cương (Acres of Diamond) của Russell Conwell, bạn sẽ nhận thấy một điều là hầu hết chúng ta hay tìm kiếm cơ hội, tìm kiếm hạnh phúc và những điều khác nữa ở khắp mọi nơi trừ mảnh đất ngay dưới chân mình, nơi chúng ta rất có thể sẽ tìm thấy những gì mình muốn. Jay Abraham làm giàu bằng cách tiếp xúc với những doanh nghiệp lâu đời và giúp họ khám phá ra mỏ vàng của công ty mình: khách hàng của chính họ, những người vốn bị đánh giá thấp giá trị và gần như chẳng được lưu tâm. Địa chỉ email của khách hàng chính là những món trang sức đắt giá mà bạn phải lau chùi cho đến khi chúng lóe sáng lấp lánh! *** - Joe Vitale là Chủ tịch của công ty tư vấn tiếp thị Hypnotic Marketing, Inc. Ông được xem là "Phật Thích Ca của Internet" vì sự nhạy bén với Tiếp thị của mình. Ông là tác giả của rất nhiều cuốn sách nổi tiếng thế giới về Tiếp thị trong đó có cuốn The Attractor Factor. - Jo Han Mok là Chủ tịch của công ty SureFire Marketing và là một chuyên gia tiếp thị trên mạng rất thành công tại Singapore. Ông là một khách mời danh dự và là diễn giả được đánh giá cao trong các chương trình đào tạo và các hội thảo về chủ đề tiếp thị trên mạng. ***   Mời các bạn đón đọc Kiếm Tiền Trên Mạng của tác giả Joe Vitale  & Jo Han Mok .
Marketing Du Kích Trong 30 Ngày - Jay Conrad Levinson
Chưa bao giờ Việt Nam lại có số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ nhiều như hiện nay. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp khi thành lập đều phải đương đầu với bài toán: Làm thế nào để bán được hàng, triển khai các chương trình marketing hiệu quả, xây dựng thương hiệu mạnh với chi phí vừa phải?Giống như trên chiến trường, cách đánh khôn ngoan nhất trong trường hợp này phải là marketing du kích. Marketing du kích trong 30 ngày là một trong những sách marketing hay tập hợp rất nhiều thông tin hữu ích về mọi vấn đề trong lĩnh vực marketing. Nó đưa ra những chỉ dẫn cụ thể như cách xây dựng kế hoạch marketing, lập kế hoạch marketing qua thư trực tiếp, và lựa chọn thời điểm thích hợp để sử dụng PR thay cho marketing truyền thống. Levinson và Lautenslager là những chuyên gia nghiên cứu hàng đầu về marketing du kích. Trong cuốn sách Marketing du kích trong 30 ngày, họ đã tổng kết những kinh nghiệm của mình thành một cuốn sách đơn giản, dễ áp dụng cho 30 ngày. Cuốn sách được chia thành 30 bài giảng ngắn, rõ ràng, rất cơ bản, giúp độc giả có thể hiểu và tự áp dụng cho từng ngày. 1. Mục đích marketing 2. Marketing du kích trong 30 ngày 3. Tư duy marketing du kích 4. Cạnh tranh và nghiên cứu 5. Thị trường mục tiêu 6. Định vị thị trường 7. Marketing trọng điểm 8. Kế hoạch và chiến lược marketing 9. Lợi thế cạnh tranh và lợi ích 10. Đặc tính và thương hiệu 11. Truyền thông marketing và lập kế hoạch sáng tạo 12. Kế hoạch quảng cáo và truyền thông 13. Mạng lưới kinh doanh 14. Các liên minh chiến lược và marketing liên kết 15. Bán hàng trực tiếp 16. Bán hàng qua điện thoại và marketing 17. Công cụ hỗ trợ dạng in ấn, brochure và bảng thông tin bán hàng 18. Gửi thư trực tiếp 19. Đài phát thanh/ Truyền hình/ Truyền hình cáp 20. Mồi câu trong marketing 21. Quan hệ công chúng 22. Lịch marketing 23. Các hình thức marketing khác: Trò chuyện, phiếu mua hàng giảm giá và các cuộc thi 24. Marketing trực tuyến, Phần I 25. Marketing trực tuyến, Phần II 26. Các hội chợ và triển lãm 27. Bản tin điện tử 28. Ngân sách marketing 29. Thực hiện kế hoạch 30. Mở rộng/Thị trường mới/Nguồn thu nhập mới/Sản phẩm mới 31. Kế hoạch mới 30 ngày tiếp theo và sau đó *** Jay Conrad Levinson là tác giả và đồng tác giả của hơn 30 cuốn sách trong một loạt đầu sách về tiếp thị lớn nhất trong lịch sử. Sách của ông được dịch ra 60 thứ tiếng và là tài liệu tham khảo trong một số chương trình MBA trên toàn thế giới. Jay giảng dạy về nghệ thuật Tiếp thị Du kích trong mười năm tại phân khoa mở rộng của trường Đại học California ở Berkeley. Ông là một nhà thực nghiệm về Tiếp thị Du kích tại Mỹ, trên cương vị Phó Chủ tịch cấp cao của J. Walter Thompsons, kiêm Giám đốc Sáng tạo tại Công ty Quảng cáo Leo Burnett ở châu Âu. Ông thường viết bài cho tạp chí Entrepreneur & Inc., cũng như các chuyên mục báo trực tuyến hàng tháng trên trang web của Microsoft và GTE. Jay đã làm việc tại Microsoft Small Business Council và Ban cố vấn 3Com Small Business. Ngoài viết sách, ông còn sản xuất băng video, đĩa CD-ROM, phát hành bản tin định kỳ và thành lập công ty tư vấn. Tác phẩm đã xuất bản ở Việt Nam Nghệ thuật săn việc 2.0, viết chung với David E.Perry, Nxb Trẻ & First News, 2011 Marketing du kích trong 30 ngày, Nxb Lao động Xã hội & Alphabooks, 2013   *** Có bao giờ bạn tự hỏi rằng tại sao bạn lại không thu hút được tất cả khách hàng mình cần? Trong nhiều trường hợp, lý do là bởi vì bạn không thể quyết định được nên bắt đầu tiến hành marketing từ đâu cũng như không chắc chắn về cách phối hợp các phương pháp khác nhau để lập bản chiến lược marketing hoàn chỉnh, hay bạn không thể duy trì được sự tập trung và động cơ thúc đẩy bạn làm việc. Bạn có khả năng thực hiện rất nhiều điều cần thiết đối với một chiến lược marketing nhưng câu hỏi thực sự đặt ra ở đây là dù vậy, bạn có thể lập kế hoạch hiệu quả không?  Cuốn sách này trả lời cho câu hỏi trên và câu trả lời là “Có”. Lý do ư? Đó là bởi vì đến lúc này trong tay bạn có một cuốn sách mà dần dần, từng bước từng bước nó sẽ giúp bạn biến những ước mơ trở thành sự thật. Từ trước tới nay, có rất nhiều cuốn sách viết về marketing du kích. Và nội dung chủ yếu của cuốn sách này là hành động. Hành động chính là nội dung của toàn bộ triết lý marketing du kích. Nhưng bạn nên bắt đầu từ đâu? Câu trả lời là từ việc thiết lập một chuỗi các công việc đơn giản nhưng hiệu quả và được thực hiện thống nhất, có thể giúp bạn đối phó lại với những thách thức của marketing và bán hàng hiện đại. Marketing du kích trong 30 ngày sẽ giúp bạn làm được điều đó. Khi tiếp cận với marketing, mắt xích thường bị bỏ qua chính là khâu thực hiện hiệu quả. Có nhiều doanh nghiệp đầu tư quá nhiều thời gian để tới được ví trị đệm cho một vị trí khác. Phương châm của Nike là ví dụ hoàn hảo nhất cho cách nghĩ này: “Just do it” (Hãy hành động ngay). Thu hút và giữ khách hàng là kết quả của một chiến lược marketing hiệu quả. Nó là chìa khóa giúp công việc kinh doanh của bạn tồn tại, phát triển và thành công. Lúc này, bạn đã sẵn sàng bắt đầu cuộc hành trình kéo dài 30 ngày. Marketing du kích trong 30 ngày có thể giúp ích gì cho bạn? Nó chỉ cho bạn điểm bắt đầu của chiến lược marketing. Nó đưa ra các kiến thức thấu đáo về những công cụ và phương pháp cần thiết để thành công. Marketing du kích trong 30 ngày còn mang đến những lời khuyên, lời chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu giúp chiến lược marketing của bạn phát triển lên một tầm cao mới. Bạn sẽ thấy marketing rất dễ kiểm soát khi được hướng dẫn từng bước một. Chúng ta thấy rằng một số người cần động cơ thúc đẩy bắt đầu thực hiện marketing trong khi các nhà marketing ngày nay lại cần một biện pháp giữ động lực marketing của họ trên một tầm cao mới. Marketing trong 30 ngày tập hợp các ý tưởng marketing du kích đã được áp dụng thành công trong thực tế. Tất cả mọi người đều có thể sử dụng các ý tưởng này để tăng lợi nhuận cho chính mình. Bạn có thể trông chờ vào điều gì khi cuộc hành trình trong 30 ngày kết thúc? Kế hoạch marketing của bạn sẽ hoàn toàn ăn khớp với nhau và bạn không nhất thiết phải đọc Marketing du kích trong 30 ngày? Hệ thống đơn giản, dễ hiểu này có thể giúp bất kỳ ai từ không có kiến thức marketing sang có kiến thức uyên thâm. Không nhất thiết bạn phải là một chuyên gia mới có thể hiểu được cuốn sách này. Các khái niệm, các vấn đề cốt yếu về marketing du kích được viết rất rõ ràng, đơn giản, tiện theo dõi. Jay Levinson và Al Lautenslager đã trích dẫn từ nhiều cuốn sách marketing du kích và đặt tất cả trong một kế hoạch từng bước có thể giúp bất kỳ ai có niềm đam mê và long tận tụy đạt được thành công khi thu lợi nhuận.  Nếu có thể, bạn nên dành ra hơn một ngày cho mỗi vấn đề chính của từng chương trong cuốn sách này. Mục đích của cuốn sách vỡ lòng này là xây dựng một chương trình hành động giúp bạn có thể thực hành dễ dàng nhất. Xem xét hiện tại và cải tiến liên tục là hai chiến lược du kích bao trùm cuốn sách, chúng sẽ giúp bạn trong suốt 30 ngày của cuộc hành trình. Các thông tin được truyền tải một cách nhanh chóng sẽ giúp bạn đọc dễ dàng, nắm bắt trọn vẹn các nội dung cốt lõi. Tất cả các bài tập, các ví dụ đều rất hữu dụng và đã được kiểm nghiệm thực tế. Chúng được sắp xếp một cách khoa học, vì thế có thể giúp bạn duy trì sự tập trung. Rồi, bạn sẽ nhận thấy Marketing du kích trong 30 ngày sẽ đồng thời giảm thiểu các nỗ lực vô ích, thiếu hiệu quả.   Mời các bạn đón đọc Marketing Du Kích Trong 30 Ngày của tác giả Jay Conrad Levinson.
Bí Quyết Làm Giàu Vĩ Đại Nhất Trong Lịch Sử - Joe Vitale
Nếu bạn muốn có tiền, bạn chỉ cần làm đúng một điều. Những người giàu nhất trên thế giới này đều đã và đang làm điều đó. Từ cổ chí kim, người ta cũng đã tốn biết bao giấy mực để viết về điều đó. Chính nó là yếu tố sẽ tạo ra tiền bạc, của cải cho tất cả những người dám thực hiện nó, nhưng đồng thời phần lớn người ta lại cũng ngại làm điều đó. Đó là điều gì? John D.Rockerfeller đã làm điều đó khi ông còn là một đứa bé. Và ông đã trở thành tỉ phú. Andrew Carnegie cũng đã làm điều đó. Và ông trở thành một nhà tài phiệt giàu nhất trong lịch sử nước Mỹ. Vậy bí quyết làm ra tiền vĩ đại nhất lịch sử là gì vậy? Điều gì chứng tỏ nó thực sự có hiệu quả với bất kì ai? Bí quyết đó chính là: Hãy cho đi! Đúng vậy. Hãy đem tiền của bạn giúp đỡ những người khác. *** Joe Vitale sinh ngày 29 tháng 12 năm 1953 tại Niles, Ohio, Hoa Kỳ. Ông là Chủ tịch của công ty tư vấn tiếp thị Hypnotic Marketing, Inc. Ông được xem là "Phật Thích Ca của Internet" vì sự nhạy bén với Tiếp thị của mình. Ông là tác giả của rất nhiều cuốn sách nổi tiếng thế giới về Tiếp thị trong đó có cuốn The Attractor Factor.     Mời các bạn đón đọc Bí Quyết Làm Giàu Vĩ Đại Nhất Trong Lịch Sử của tác giả Joe Vitale.