Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tư Duy Marketing Trong Thời Đại Mới

Cách mạng 4.0, đã buộc hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề phải thay đổi để có thể thích ứng – và ngành marketing cũng không phải ngoại lệ. Việc tiếp cận thị trường và tìm hiểu về khách hàng khác biệt rất nhiều so với thời gian trước kia. Trong cuốn sách này sẽ cung cấp cho bạn đọc một cách tiếp cận mới mẻ đến với cách làm kinh doanh mạnh mẽ và lâu dài hơn, bao gồm một sự thay đổi tinh tế nhưng luôn luôn mạnh mẽ trong tư duy. Không quan trọng bạn là một nhà tư vấn quản trị hay là ông chủ của một nhà hàng vơi thứ bánh quy và nước sốt ngon nhất thị trấn, khả năng để suy nghĩ như một nhà tiếp thị đem đến cho bạn lợi thế cạnh tranh, và bạn không cần một tấm bằng chuyên ngành tiếp thị để đạt được điều đó. Hãy để tư duy thanh đổi bạn, và tư duy sẽ thay đổi doanh nghiệp của bạn.   *** Bạn có phải là những người trẻ tuổi mới chập chững bước chân vào “ngành”? Hay bạn đang là chủ của một doanh nghiệp nhưng lại thiếu đi những kiến thức cơ bản về tiếp thị? Hoặc có thể bạn là một chuyên gia kinh doanh của những công ty có quy mô từ vừa và nhỏ đến những công ty được liệt vào danh sách Fortune 1000? Có lẽ bạn là một nhà tư vấn, một doanh nhân đơn độc, nhà sáng lập của một công ty nhỏ và vừa, một bác sĩ, một luật sư hay kế toán tư nhân,.... Dù làm ở lĩnh vực nào, bạn đều có những “khách hàng” của riêng mình. Trong cuốn sách Tư duy Marketing trong thời đại mới của nhà tiếp thị tài năng Kate Colbert sẽ cho các bạn những góc nhìn, những cách tư duy về tiếp thị trong thời đại ngày nay, tạo ra những cơ hội mới để thắp lên ngọn lửa tăng trưởng lợi nhuận. Bạn có thể hình dung về cuốn sách qua những đoạn trích nhỏ dưới đây để biết chắc rằng bạn cần cuốn sách này. Bạn chưa từng (chưa bao giờ) có ý định trở thành nhà tiếp thị. Bạn chỉ muốn thành công trong công việc của mình. Tôi nghĩ rằng các bạn đều như vậy. Giống như mọi nhiệm vụ quan trọng trong kinh doanh, tất cả chúng ta đều cần biết một chút về tiếp thị nếu chúng ta muốn thành công về lâu về dài.  Đôi khi có những lúc bạn cảm thấy cần một agency tiếp thị, một công ty tư vấn tiếp thị tuyệt vời và/ hoặc một nhân viên tiếp thị giỏi, nhưng điều bạn cần đầu tiên, và cần nhất là một tư duy tiếp thị đúng. Tôi dám chắc rằng điều đó có thể và sẽ thay đổi mọi thứ về doanh nghiệp của bạn. Không quan trọng bạn là một nhà tư vấn quản trị hay là ông chủ của một nhà hàng với thứ bánh quy và nước sốt ngon nhất thị trấn, khả năng để suy nghĩ như một nhà tiếp thị đem đến cho bạn lợi thế cạnh tranh, và bạn không cần một tấm bằng chuyên ngành tiếp thị để đạt được điều đó.  NGHĨ “NHƯ MỘT…” LÀM TẤT CẢ CHÚNG TA TRỞ NÊN MẠNH HƠN. Không quan trọng chúng ta giỏi như thế nào trong công việc của mình, luôn có những rủi ro cố hữu liên quan đến việc không hiểu hết được hệ sinh thái doanh nghiệp một cách đầy đủ và không đánh giá cao cách thức trao đổi và làm việc với những người ở lĩnh vực khác.  Điều hành bộ phận IT sẽ giúp bạn biết một chút về kế toán và vật liệu máy chủ được coi là nguồn vốn hay máy tính để bàn bị khấu hao theo thời gian hay tính vào trong năm tài chính hiện tại.  Việc trở thành một bác sĩ chuyên khoa ung thư sẽ giúp bạn dành thời gian với các bác sĩ phẫu thuật tại bệnh viện để hiểu được thực tiễn của việc lên phác đồ điều trị cần thời gian phục hồi cho bệnh nhân nội trú. Điều đó còn giúp bạn hiểu được trách nhiệm của các nhóm quản lý rủi ro và pháp lý vì nó liên quan đến thử nghiệm lâm sàng mà bạn muốn thực hiện Làm một kế toán giúp bạn hiểu con người, những dự án và chiến lược đằng sau những con số. Biết được vì sao đầu tư dự kiến giảm 30% chi phí dịch vụ khách hàng bởi đó là yếu tố rất quan trọng khi đặt trong tầm nhìn rộng hơn của tổ chức.  Cùng nhau, chúng ta thành công. Nhưng rất khó để thành công trong kinh doanh - dù bạn là chủ doanh nghiệp hay là nhà quản lý, giám đốc hay nhân viên - bởi vì chúng ta đều được dạy theo cách tách biệt (theo các chuyên ngành) và chúng ta hầu hết làm việc theo cấu trúc silo. Chúng ta đã dành cả sự nghiệp của mình có thêm nhiều kinh nghiệm và phát triển chuyên môn (hội thảo, giấy chứng nhận,...) trong lĩnh vực của chính mình. Chúng ta thường đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn mà không bao giờ chú trọng nâng cao bản thân. Quan điểm hạn hẹp trong ngành kinh doanh là điều thúc đẩy tôi phải đi học MBA trong độ tuổi 30. Tôi không muốn chứng chỉ MBA; tôi cần góc nhìn mà chương trình MBA có thể đem lại. Tôi cần phải “nghĩ như một…” (hãy điền một chức danh vào đây như là: chuyên gia tài chính, luật sư, quản lý vận hành, CEO, chuyên gia IT,...). Bạn thấy đấy, khi tôi vừa nhận ra rằng quan điểm hạn chế này là một điểm đi xuống của sự nghiệp, tôi đang là giám đốc truyền thông của một trường đại học y tại vùng Chicago. Không ai ở trong trường nghi ngờ về khả năng của tôi khi đánh giá một cuốn brochure hấp dẫn hay viết kịch bản cho quảng cáo radio. Họ nghĩ rằng tôi là một nhà tiếp thị giỏi. Nhưng họ không đánh giá tôi như một người đứng đầu. “NGHĨ NHƯ MỘT NHÀ TIẾP THỊ” CÓ NGHĨA LÀ GÌ? - 5 QUY TẮC HƯỚNG DẪN. Đã có hàng nghìn cuốn sách viết về khả năng lãnh đạo hiệu quả và không có cuốn sách nào, kể cả cuốn sách này có một công thức kỳ diệu cho sự thành công. Tiếp thị không phải là một hành động có thể áp dụng cho tất cả mọi thứ. Nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp khi làm việc với chủ doanh nghiệp và những người đứng đầu các cấp đã giúp tôi nhận ra một sự thật đáng được chia sẻ: Những người đứng đầu phát triển tư duy tiếp thị mà sự hiểu biết về sự cống hiến cho những giá trị của quan hệ khách hàng và thương hiệu lâu đời luôn in sâu vào suy nghĩ và quá trình đưa ra quyết định của họ - tạo ra nhiều giá trị (về tài chính và những điều khác) cho tổ chức và những bên liên quan. Họ cũng nhận được nhiều sự thỏa mãn trong công việc hơn là những đồng nghiệp không biết gì về tiếp thị. Những chuyên gia kinh tế với tư duy tiếp thị sẽ tạo nên kết quả tốt hơn. Tư duy như một nhà tiếp thị yêu cầu bạn phải: Giao tiếp để kết nối và nâng tầm ý nghĩa, không phải chỉ để thay đổi doanh số. Sống và chết với hành vi và suy nghĩ của khách hàng. Tiếp thị theo cách tin tưởng vào chiến lược và linh hoạt trong chiến thuật. Kiến tạo văn hóa và quy trình làm việc phù hợp và song song với thương hiệu. Làm mọi thứ để duy trì chu kỳ tạo ra giá trị cho khách hàng trong khi nắm bắt giá trị cho bạn.  Ví dụ hãy thử nghĩ về những người có “tư duy kinh tế học”. Mặc dù không trở thành người làm kinh doanh nhưng họ biết mọi người (bao gồm cả người tiêu dùng, nhân viên, trẻ em và những người khác) phản ứng thế nào với các ưu đãi. Họ không áp lực về việc loại bỏ các chi phí chìm. Cá nhân tôi thấy rằng “nghĩ như một nhà kinh tế” đã giúp tôi đưa ra những quyết định hiệu quả, phù hợp với tâm lý khách hàng trong kinh doanh. Nó cũng giúp tôi thoát khỏi cảm giác tội lỗi và áp lực khi tôi cần làm những điều khó nghĩ trước đây như hủy một kì nghỉ đông (không được hoàn tiền) trị giá 2.000 đô la. Sự thay đổi trong tư duy có thể thay đổi cuộc sống của bạn… Nó có thể thay đổi trò chơi. Nó có thể đem lại sự thoải mái trong tâm hồn và suy nghĩ của bạn. Vậy thì, điều gì xảy ra với nhữn người và những công ty nếu chuyên gia không bao giờ học cách nghĩ như những nhà tiếp thị? Rất nhiều, rất nhiều điều không đúng có thể xảy ra. Những doanh nghiệp đóng cửa. Sự nghiệp trì trệ. Cá nhân phải gánh chịu những hậu quả. BẠN MUỐN ĐƯỢC BIẾT ĐẾN NHƯ THẾ NÀO? NỀN TẢNG ĐỂ TRỞ THÀNH KHÁC BIỆT CÓ Ý NGHĨA.  Một số chuyên gia kinh doanh nghĩ rằng thành công trong tiếp thị là trở nên tốt hơn - có những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao hơn với giá tốt hơn. Những người khác sẽ tranh cãi về việc trở nên khác biệt - đưa ra những sản phẩm hoặc dịch vụ mà bạn không thể tìm được ở bất cứ nơi nào khác. Tôi nghĩ rằng khía cạnh “tốt hơn và khác biệt” đều đúng một phần, và chủ đề này đối với tôi rất thú vị. Tôi đã xây dựng kinh nghiệm tiếp thị của mình với lời hứa thương hiệu là Hãy trở nên khác biệt có ý nghĩa. Hãy tự hỏi mình: Liệu công ty của bạn có thật sự khác biệt có ý nghĩa? Các sản phẩm của bạn có khác biệt với các đối thủ cạnh tranh và chúng có mang lại một chức năng hay lợi ích gì có ý nghĩa đối với thị trường? Nếu câu trả lời của bạn có chút chần chừ thì đây chính là lúc cần tư duy nghiêm túc về điều có thể khiến công ty của bạn hoặc/ và sản phẩm và dịch vụ của bạn trở nên khác biệt hơn, ý nghĩa hơn hay cả hai điều trên. Đôi khi một điều chỉnh nhỏ có thể tạo ra một khác biệt lớn. AI LÀ NGƯỜI QUYẾT ĐỊNH BẠN CÓ Ý NGHĨA GÌ? Khách hàng là người quyết định. Xét cho cùng, thị trường sở hữu thương hiệu của bạn. Họ (không phải bạn) quyết định liệu bạn uy tín hay nhàm chán, liệu sản phẩm của bạn đáng giá 5 đô la hay 45 đô la (hay thời gian tư vấn của bạn đáng giá 75 đô la hay 250 đô la một giờ), và liệu những điều bạn làm cho họ là đáng giá khiến họ phải kể cho bạn bè và đồng nghiệp về nó hay không. HIỂU RÕ KHÁCH HÀNG CỦA BẠN. Sống chết với hành vi và suy nghĩ của khách hàng (Quy tắc #2 Nghĩ như một nhà tiếp thị) không chỉ có nghĩa là thu thập các kết quả khảo sát từng kỳ để hiểu rõ khách hàng của mình. Thực sự hiểu rõ khách hàng là kết quả của sự cam kết không ngừng nghỉ với việc chú trọng - đến những điều mà họ làm và nói (và ngược lại). Hãy say mê khách hàng. Hãy si đắm, yêu quý và luôn tò mò. Đừng bao giờ để đánh mất sự quan tâm của bạn về những điều mà khách hàng đang nghĩ, muốn và quan tâm đến điều gì. Dù chủng loại và mẫu mã sản phẩm hay dịch vụ của bạn không thực sự đa dạng, khách hàng luôn phức tạp và đa sắc thái hơn những gì bạn cho là đúng. Chắc chắn có nhiều hơn một “phân khúc” khách hàng để suy nghĩ. Lấy ví dụ, hãy xem bạn là một luật sư ly hôn. Đa phần đối tượng khách hàng mà bạn có chỉ là một loại - các cặp vợ chồng hợp pháp đang muốn ly hôn hoặc không biết cách để tiến hành và bảo vệ lợi ích cho riêng mình. Dù vậy trong một “phân khúc” khách hàng lớn như vậy sẽ là các phân khúc phụ - chính là khách hàng với nhu cầu, thái độ và phương thức thực hiện khác biệt. Có những cặp đôi có con và những cặp không; cặp vợ chồng muốn bảo vệ lợi ích kinh doanh của riêng mình; những người có công việc toàn hoặc bán thời gian và những người làm việc tại nhà; bên cạnh đó chúng ta có đối tượng khách hàng phân loại theo giới tính: nam, nữ, đồng tính; khách hàng luôn tức giận và chỉ muốn tìm một luật sư “đô con” để giúp họ “đánh” và khách hàng chấp nhận ly thân trong hòa bình, sẵn sàng từ bỏ quyền sở hữu tài sản và các mối hận thù tình cảm, họ chỉ cần sự trợ giúp của bạn để tiến lên phía trước. Ví dụ về luật sư ly hôn liên quan đến mọi nghề nghiệp. Dù công việc của bạn là gì, sẽ luôn có những đối tượng khách hàng không tương thích với quy trình, văn hóa và phương pháp tiếp thị đã được đưa ra. BẠN THAY ĐỔI, HỌ CŨNG VẬY. Không chỉ mỗi khách hàng đổi thay. Doanh nghiệp của bạn cũng luôn luôn ở trạng thái phát triển. Khi bạn phát triển và lớn mạnh như một công ty (và khi bạn tung ra sản phẩm và dịch vụ mới), bạn cần phải luôn luôn xác định đối tượng khách hàng của bạn, bạn biết gì về họ, họ làm thế nào để phục vụ khách hàng tốt nhất. MỘT VỊ KHÁCH HÀNG CŨNG VẪN LÀ ĐỐI TƯỢNG LẮNG NGHE. Có thể bạn làm việc với mỗi đối tượng khách hàng hoặc đối tác khác nhau trong từng khoảng thời gian. Đừng bao giờ quên rằng một khách hàng cũng vẫn là một người nghe quan trọng. Luôn luôn nỗ lực tìm cách để hiểu họ kỹ hơn, cách tiếp cận, cách liên kết nhu cầu người mua đến sản phẩm của mình và làm thế nào để giúp họ đạt được mục đích. TRong khi câu chuyện thương hiệu thì lại ổn định và đầy nội lực, sản phẩm đại diện cho doanh nghiệp, các vận chuyển, quan điểm và chiến lược cho truyền thông có thể thay đổi theo từng đối tượng khách hàng. Bạn có biết cách sửa đổi giao tiếp trên nền tảng một một? Lúc tôi thực hiện buổi chụp ảnh tại công ty luật ở Chicago thì một trong những người luật sư, với lịch trình dày đặc và rõ ràng là không muốn tham gia buổi chụp hình, từ chối lời thỉnh cầu của đồng nghiệp để chụp ảnh. Tôi được thông báo rằng ho từ bỏ việc cố gắng mời anh ấy và chấp nhận sự thiếu đi một thành viên trong gia đình. Tuy nhiên tôi lại đồng cảm cho sự kháng cự đó và không muốn từ bỏ ngay lúc đó. Tôi thay đổi cách tiếp cận để liên kết với anh ấy, đưa ra một vài giá trị đặc biệt (một vài bức ảnh chân dung mới mà nhìn như bìa sách của GQ), và thái độ cũng thay đổi. Những bức ảnh của anh ấy từ ngày hôm đó luôn là những bức mà tôi ưa thích, và anh ấy và tôi đã có một mối quan hệ chuyên nghiệp tuyệt vời từ đó. TƯƠNG LAI CỦA NHẬN THỨC KHÁCH HÀNG.  Khách hàng chính là doanh nghiệp. Không có họ, bạn không là gì cả. Đối với những công ty nắm bắt được điều này thì tương lai của họ hoặc là ảm đạm hoặc đầy ắp những cơ hội mới. Tôi đoán những chuyên gia kinh doanh - vượt qua sự cản trở của bộ phận tiếp thị - sẽ học được cách xem mọi phút giây của cuộc đối thoại (từ giới thiệu, phát biểu trên các phương tiện truyền thông như một cơ hội để kết nối với khán giả sâu sắc hơn và nhận thức được điều mà đối tượng mong muốn. Như đã gợi ý trong các chương khác, big data và nội dung audience vẫn luôn là ngành quan trọng (với nguồn vốn lớn). Cho nên, hy vọng rằng ngày càng có nhiều quản lý và điều hành cấp cao đặt từ “khách hàng” trong công việc của mình. ĐỪNG THEO ĐUỔI TẤT CẢ CHIẾN LƯỢC TIẾP THỊ.  (Rất nhiều trong số đó chỉ làm bạn lãng phí thời gian mà thôi!)  NHƯNG HÃY LUÔN RỘNG MỞ ĐÓN NHỮNG ĐIỀU MỚI Đối với nhà tiếp thị và cả những người không chuyên, xác định được chiến lược tiếp thị nào để theo đuổi và ngược lại có thể chính là khó khăn mỗi ngày mà họ đang gặp phải, nhất là khi bao nhiêu người đều hỏi đi hỏi lại chúng tôi với những câu hỏi “Bạn nên cho ra nhiều video hơn!” và “Công ty bạn có ứng dụng di động hay không?” Tôi rất tin tưởng vào việc luôn luôn phải cởi mở, nhanh nhạy và không hề hối hận khi thử nghiệm các chiến thuật tiếp thị khác nhau - nếu một trong số đó phù hợp với chiến thuật và đặc điểm của thương hiệu bạn, và bạn có đủ khả năng để chi trả cho cho việc thử nghiệm này, thì hãy làm thử. Nhưng nếu chiến thuật này không phù hợp (Hoặc bạn không thể đo lường được liệu nó có hiệu quả hay không), hãy sẵn sàng để phân bổ lại các nguồn lực để thử điều mới.  Hãy luôn sẵn sàng sản xuất các video và trang web kể cả khi nó khiến bạn hoảng sợ. Sẵn sàng tiếp nhận thử thách về việc xuất hiện trước cộng đồng và phát biểu, cho dù bạn không giỏi việc đó. Hãy thử bắt tay vào quan hệ công chúng (chẳng hạn như kể câu chuyện thương hiệu trên các tạp chí thương mại hay xuất hiện trên sóng truyền hình địa phương vào chương trình buổi sáng), kể cả khi bạn chưa bao giờ làm việc với cánh báo chí lúc trước. Và cuối cùng ngay lập tức tham gia vào nền tảng mạng xã hội không một chút đắn đo cho dù bạn không phân biệt được Instagram và Twitter. Linh hoạt trong chiến thuật là trở nên sắc sảo nhưng luôn sẵn sàng thử những điều mới và thay đổi suy nghĩ của bạn như dữ liệu bán hàng và cách nhìn của khách hàng chứng minh cái gì hiệu quả và cái gì không. Nhưng chiến thuật mà tôi muốn nói đến là gì? Trong tiếp thị, đầu tiên chúng ta nên bám vào chiến lược. Hãy tưởng tượng rằng chiến lược tiếp thị của bạn trong năm là chú trọng phần lớn năng lượng và chi phí vào khách hàng, những người chi tiêu cao hơn một mức tiền nhất định cho doanh nghiệp của bạn hàng năm (hoặc cho những người có mức mua hàng trung bình lớn hơn 30% so với mức mua hàng trung bình chung của khách hàng tại công ty bạn). Chiến lược của bạn có thể liên quan đến sự cam kết để phân bổ sự chú ý và nguồn lực đáng kể để tạo ra sự giao tiếp có ý nghĩa, cá nhân hóa, 1-1, tiếp thị trực tiếp cho những khách hàng VIP này vì bạn tin rằng nếu bạn thành công với những khách hàng này, doanh nghiệp của bạn sẽ phát triển. Sự cam kết của bạn càng liên quan đến quyết định xếp các khách hàng khác (không phải VIP) vào một danh sách tiếp thị mà họ chỉ biết đến bạn thường xuyên qua những thông điệp đại trà (không cá nhân hóa hay 1-1). Có thể những khách hàng VIP  nhận được những món quà hào nhoáng trong thư, cuộc gọi cá nhân, thư mời sự kiện và những ưu đãi đặc biệt trong khi những khách hàng còn lại của bạn được liên lạc bằng những email đại trà, được thông báo về bán hàng hay khuyến mãi, và họ bắt gặp những bài đăng thường xuyên và ý nghĩa trên các kênh mạng xã hội (nơi họ theo dõi bạn và vẫn cảm thấy kết nối mặc dù sự thật là bạn không cần dành quá nhiều sự quan tâm trong việc giao tiếp với họ).   Mời các bạn đón đọc Tư Duy Marketing Trong Thời Đại Mới của tác giả Kate Colbert.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

M&a Thông Minh - Kim Chỉ Nam Trên Trận Đồ Sáp Nhập Và Mua Lại (Scott Moeller)
M&A thông minh là cuốn sách đầu tiên mang lại cho bạn đọc cái nhìn xuyên suốt, hệ thống về một thương vụ M&A để từ đó tìm ra những giai đoạn nào trong cả quy trình cần có sự tham gia của tình báo doanh nghiệp nhằm đạt được những kết quả như mong đợi. Không chỉ bàn về các kỹ thuật, tình báo doanh nghiệp được phát triển bởi các chuyên gia hàng đầu thế giới có nhiều kinh nghiệm trong các thương vụ M&A, cuốn sách này còn chứa đựng rất nhiều tình huống thực tế trong những thương vụ mà chính các tác giả đã trải qua. Điều này không chỉ thiết thực với các thương vụ mua bán giữa những tập đoàn hàng đầu thế giới, giữa các công ty nhà nước, mà còn với các công ty tư nhân nhỏ. Ngoài ra, cuốn sách còn điểm lại hiện trạng M&A trên thế giới cũng như dự báo những xu thế trong tương lai. Cuốn sách cũng đưa ra phương cách về sự lựa chọn tốt nhất khi phải chọn lựa giữa sáp nhập hay mua lại, sự khác nhau giữa các thương vụ M&A trong các doanh nghiệp công và tư, khi nào và bằng cách nào sử dụng các chuyên gia bên ngoài một cách hiệu quả, tầm quan trọng ngày càng tăng của văn hóa và truyền thống trong việc hoạch định các thương vụ thành công, cũng như vai trò quan trọng của các nhà môi giới chứng khoán thế giới và những quỹ đầu cơ.***Đã có những lúc mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A) trở thành câu cửa miệng của giới kinh doanh quốc tế, khi mà những thương vụ đình đám diễn ra liên tiếp như một trào lưu để mở rộng hoạt động kinh doanh, thậm chí tìm kiếm lợi thế độc quyền nhóm (oligopoly). Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không dừng lại ở sản phẩm và thị trường mà còn là khả năng bành trướng, thâu tóm hoặc sáp nhập với doanh nghiệp khác. M&A đã diễn ra ở hầu hết những ngành quan trọng như dầu lửa với các vụ Exxon và Mobil (năm 1999), Conoco và Phillips (2002); hàng không với Delta Airlines và Northwest Airlines (2008); công nghệ thông tin với vụ Compaq và HP (2002); viễn thông với AT&T và BellSouth (2006); dịch vụ tài chính với Chase Manhattan và JP Morgan (2000); ngành ô tô với Daimler Benz và Chrysler (1998) v.v… Tuy nhiên, M&A không phải lúc nào cũng toàn màu hồng. Cũng giống như những cuộc hôn nhân, cuộc sống sau M&A là một chặng đường gập ghềng, khúc khuỷu và không ít vụ ly dị cũng nổi tiếng không kém so với “tiệc cưới” khi chúng diễn ra. Daimler đã phải chia tay với Chrysler vào năm 2007; Quaker Oats rời bỏ Snapple sau 3 năm chung sống; AOL và Time Warner thì đầy sóng gió kể từ khi sáp nhập… Đó là lý do tại sao M&A cần phải “thông minh”. Thông minh từ lúc tìm hiểu nhau, khi đến với nhau và cả trong quá trình sống chung sau đó. Hai tác giả Scott Moeller và Chris Brady đã lựa chọn một cái tên khá hấp dẫn cho đứa con tinh thần của mình: “M&A thông minh” để lý giải sự cần thiết của việc nghiên cứu, phân tích một cách thông minh (thông qua tình báo doanh nghiệp) trước mỗi quyết định M&A. Hơn thế nữa, sự thông minh cần phải hiện diện trong tất cả các khâu của quá trình M&A: từ xây dựng chiến lược, lựa chọn nhà tư vấn, xác định mục tiêu, phân tích, thẩm định, định giá doanh nghiệp, thương lượng… cho đến chiến lược phòng thủ (khi bị thôn tính) và hòa nhập hậu sáp nhập. Tuy khá phổ biến ở các nước phát triển, M&A còn là một thuật ngữ khá mới mẻ ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong những năm gần đây, nhiều thương vụ M&A trong nước đã được nhắc đến như Công ty bảo hiểm nhân thọ Daiichi (Nhật Bản) mua lại Bảo Minh CMG (2007); Công ty sữa ANCO mua lại Nhà máy sữa thanh trùng của Tập đoàn Nestlé (2007); NEC Solutions (Nhật Bản) và Công ty Sáng Tạo sáp nhập với nhau (2008); Hãng hàng không Quantas (Úc) mua lại Pacific Airlines và khai thác thương hiệu Jetstar (2007), hay Morgan Stanley mua lại Công ty chứng khoán Hướng Việt và đổi tên thành Morgan Stanley Gateway (2008), v.v… Tuy nhiên, đây chỉ là những bước khởi đầu của một thị trường M&A và cần thời gian để kiểm chứng sự thành công của những thương vụ trong nước. Trong khi chưa có một nghiên cứu nào đầy đủ và toàn diện về M&A tại Việt Nam thì những bài học kinh nghiệm trên thế giới mà Moeller và Brady đề cập trong “M&A thông minh” sẽ giúp cho những doanh nghiệp đang theo đuổi chiến lược M&A; các đơn vị tư vấn, kiểm toán, luật, định giá; các nhà làm luật và nhà nghiên cứu có thêm một nguồn tham khảo quan trọng và bổ ích cho hoạt động của mình. Tìm mua: M&a Thông Minh - Kim Chỉ Nam Trên Trận Đồ Sáp Nhập Và Mua Lại TiKi Lazada Shopee Trong một “rừng” ấn phẩm về M&A trên thế giới, Thái Hà Books cũng đã có một sự lựa chọn thông minh khi quyết định dịch và phát hành cuốn tài liệu này. Hy vọng bạn đọc tìm được nhiều điều lý thú với những góc nhìn đa chiều về hoạt động M&A từ những ví dụ điển hình được các tác giả thu thập, phân tích và trình bày trong cuốn sách. Chúc các bạn thành công!Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook M&a Thông Minh - Kim Chỉ Nam Trên Trận Đồ Sáp Nhập Và Mua Lại PDF của tác giả Scott Moeller nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lý Thuyết Tổng Quát Về Việc Làm, Lãi Suất Và Tiền Tệ (John Maynard Keynes)
Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (tên gốc tiếng Anh: The General Theory of Employment, Interest, and Money) là một cuốn sách của nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes (1883-1946). Tác phẩm này thường được xem là cuốn sách gối đầu giường của các nhà kinh tế học ở Anh và được cho là đã đặt nền móng cho môn kinh tế học vĩ mô hiện đại. Ngay từ lần xuất bản thứ nhất vào tháng 2 năm 1936, tác phẩm đã gây tiếng vang mạnh mẽ bởi sự mới mẻ trong tư tưởng kinh tế cũng như bởi sự quan tâm tới tính khả thi của các chính sách kinh tế và sự can thiệp vào tổng cầu. Người ta hay gọi đây là "Cuộc cách mạng của Keynes". Những tư tưởng nêu ra trong tác phẩm này trở thành hòn đá tảng trong kinh tế học Keynes. Nó phê phán kinh tế học cổ điển và tân cổ điển. Nó đưa ra các lý luận quan trọng về hàm tiêu dùng, về nguyên lý số nhân, về hiệu suất biên của vốn và về sự ưa thích tính thanh khoản.***Trong quá trình đổi mới chương trình giảng dạy các môn học kinh tế thị trường cho sinh viên các trường Đại học và Trung học chuyên nghiệp, chúng ta cần rất nhiều tài liệu tham khảo, sách giáo khoa để phục vụ cho việc biên soạn một chương trình giảng dạy thích hợp và đáp ứng nhu cầu tham khảo của các nhà hoạch định chính sách và cơ quan nghiên cứu kinh tế. Trong bối cảnh đó, việc xuất bản tác phẩm kinh điển “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (Gọi tắt là “Lý thuyết tổng quát”) của nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes là một đòi hỏi thiết thực. Đó là một trong số các cuốn sách cơ bản góp phần xây dựng lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện đại. Tìm mua: Lý Thuyết Tổng Quát Về Việc Làm, Lãi Suất Và Tiền Tệ TiKi Lazada Shopee Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1936, sau khi các nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Nhật Bản, Pháp vừa trải qua giai đoạn gọi là đại suy thoái, khi các biến số chính của kinh tế học vĩ mô như sản lượng, khối lượng việc làm, lãi suất và kéo theo là vốn đầu tư đã biến động theo chiều hướng không thể phán đoán và giải thích được. Các mô hình (lý thuyết) kinh tế đương thời không còn giải thích đầy đủ được những gì đã diễn ra tại các nước đó trong thời kỳ nói trên. Bá tước John Maynard Keynes (1883-1946) là một nhà kinh tế nổi tiếng đầu thế kỷ 20. Ông đã giảng dạy kinh tế học ở trường Tổng hợp Cambridge, làm việc ở Bộ tài chính nước Anh và là người có công lớn trong việc thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Trong tác phẩm của mình, J. M. Keynes lần đầu tiên đưa ra mô hình sản lượng và việc làm do cầu quyết định, ông đã dùng mô hình này để giải thích mức sản lượng thấp và mức thất nghiệp cao kéo dài trong những năm 1930 ở hầu hết các nước công nghiệp phương Tây. Ngày nay lý thuyết này được gọi là Lý thuyết trọng cầu. Ông lập luận rằng con số thất nghiệp cao là đặc trưng của một nền kinh tế thị trường không có điều tiết, và vì vậy, để đạt được mức hữu nghiệp cao, nhà Nước phải điều tiết mức tổng cầu thông qua chính sách tài chính và tiền tệ. Sau khi tác phẩm được xuất bản năm 1936, hầu hết các nhà kinh tế trẻ đã trở thành những người theo trường phái của Keynes. Trong các thập niên 1950 và 1960 học thuyết này gặp sự chống đối mãnh liệt từ phía những người theo phái trọng tiền mà đứng đầu là Milton Friedman, một nhà kinh tế học Hoa Kỳ. Họ thừa nhận cách phân tích của Keynes giải thích được nguyên nhân gây ra đại suy thoái, nhưng cho rằng chưa đưa ra được một cách giải thích xác đáng về lạm phát. Theo họ, lạm phát chủ yếu theo lượng tiền trong lưu thông gây ra. Hiện nay, kinh tế học vĩ mô đã hấp thụ được tinh hoa của cả hai phương pháp này, mặc dù vẫn còn những người cực đoan đứng hẳn về một phía. “Lý thuyết tổng quát” đã được tái bản nhiều lần và dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản dịch này được thực hiện theo lần xuất bản năm 1991 của nhà xuất bản Macmillan Cambridge University Press, tập VII trong các tác phẩm chọn lọc của J. M. Keynes. Chúng tôi chân thành cảm ơn Giáo sư, Tiến sĩ Lương Xuân Quí; Giáo sư Vũ Đình Bách; Phó Giáo sư, Phó tiến sĩ Nguyễn Đình Hương đã chỉ đạo việc tổ chức dịch, hiệu đính cuốn sách này. Cám ơn sự trợ giúp của tổ chức SIDA Thuỵ Điển cho việc dịch, in ấn và các chuyên gia nước ngoài đã gợi ý chọn sách, cảm ơn Nhà xuất bản Macmillan Cambridge University Press đã cho phép dịch ra tiếng Việt và xuất bản tác phẩm này tại Việt Nam. Đây là một cuốn sách rất khó hiểu cả về mặt ý nghĩa kinh tế, ngôn ngữ, cũng như cách lập luận. Để hiểu được sâu sắc hơn, có lẽ cần phải đọc thêm các tập khác của bộ sách đồ sộ này. Bởi vậy, công việc biên dịch, hiệu đính và biên tập chắc còn nhiều sai sót khó tránh được. Chúng tôi rất trân trọng mọi góp ý của bạn đọc, xin gửi về Nhà xuất bản giáo dục hoặc trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lý Thuyết Tổng Quát Về Việc Làm, Lãi Suất Và Tiền Tệ PDF của tác giả John Maynard Keynes nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lương Văn Can - Xây Dựng Đạo Kinh Doanh Cho Người Việt (Nguyễn Hồng Dung)
Cùng bạn đọc: Kiếm tiền hay phụng sự xã hội? Bộ sách mà bạn đọc đang cầm trên tay là kết quả của dự án nghiên cứu mang tên “Đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế giới” do Tổ Hợp Giáo Dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua. Chúng tôi đặt tên cho bộ sách này là “Đạo Kinh doanh Việt Nam và Thế giới” với mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là gì?”, “Doanh nhân là ai?”, “Đâu là “đạo” của nghề kinh doanh?” và “Tại sao kinh doanh là một nghề cao quý và xứng đáng được xã hội tôn vinh?”... Từ câu chuyện của những huyền thoại doanh nhân thế giới Tìm mua: Lương Văn Can - Xây Dựng Đạo Kinh Doanh Cho Người Việt TiKi Lazada Shopee Đội ngũ chuyên gia của PACE cùng các cộng sự đã nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của 25 doanh nhân huyền thoại, đến từ 25 tập đoàn kinh doanh dẫn đầu trong những bảng xếp hạng doanh nghiệp trên toàn thế giới, nhằm tìm kiếm “cái đạo”, cái triết lý cốt lõi trong kinh doanh của họ. Mục đích là để lý giải xem vì sao họ là những người kiếm tiền nhanh nhất, kiếm tiền nhiều nhất và kiếm tiền bền vững nhất thế giới, đồng thời họ lại được xã hội đặc biệt kính trọng? Phân tích từng chặng đường, từng mốc sự nghiệp, từng bước thăng trầm... của những huyền thoại doanh nhân này, chúng tôi đã đúc kết được những nét chung nhất, nói chính xác hơn, là những yếu tố khiến họ trở nên vĩ đại, trở thành những doanh nhân huyền thoại. Đó là sự khao khát, là niềm đam mê một cách mãnh liệt để sáng tạo, để đem đến thật nhiều giá trị mới cho cuộc sống và cho xã hội. Họ đã thực hiện được điều đó bằng việc cống hiến cả cuộc đời mình lẫn việc truyền đạt, dẫn đường cho hậu thế. Vì vậy mà ngày nay chúng ta đã có hàng loạt những câu chuyện về họ: Đó là câu chuyện ông chủ hãng ô tô Ford đã “đặt cả thế giới lên bốn bánh xe”, làm cho trái đất “quay” nhanh hơn khi trao cho đông đảo mọi người trong xã hội cơ hội sở hữu chiếc xe ô tô - vốn trước đó chỉ dành riêng cho giới thượng lưu và những người giàu có. Chỉ một quyết định giải quyết “nhu cầu lưu chuyển” cho xã hội, Henry Ford đã làm thay đổi cuộc sống của tất cả chúng ta. Đó là câu chuyện chàng trai Larry Page tin tưởng tuyệt đối vào sứ mệnh “tổ chức lại hệ thống thông tin thế giới” của mình, kiên trì cùng Google theo đuổi giấc mơ một ngày nào đó, Google sẽ là người dẫn đường cho mọi người tham gia vào thế giới mênh mông của tri thức, thông tin trực tuyến. Đó là câu chuyện chàng thanh niên Akio Morita bằng mọi giá phải đáp ứng nguyện vọng được nghe đài phát thanh để cập nhật thông tin cuộc sống của một nước Nhật hoang tàn sau chiến tranh, đến khát vọng “kiến tạo một nền giải trí tương lai” cho cả thế giới mà Sony đang sống và sáng tạo mỗi ngày. Đó là câu chuyện Jorma Ollila, bằng chiếc điện thoại Nokia cùng những giá trị được tạo ra trong nó, ông không những góp phần định dạng lại đất nước Phần Lan trên bản đồ toàn cầu mà còn kết nối cả thế giới này và làm cho mỗi chúng ta trở nên “gần nhau” hơn. Đó là câu chuyện khi nhắc đến máy tính IBM, có lẽ chúng ta sẽ không thể không nghĩ đến hình ảnh chữ “Think” và người khai sinh ra nó, Thomas Watson Sr. IBM trở thành “gã khổng lồ của thế giới” trong suốt gần 100 năm qua cũng chính là nhờ chữ “Think” đó, mà theo Thomas Watson Sr. thì nó nghĩa là: “Mọi rắc rối đều có thể giải quyết nếu người ta chịu khó suy nghĩ”. Suy nghĩ để phục vụ con người chính là bí quyết thành công của các thế hệ IBM... Đến những câu chuyện mà chúng tôi vẫn thường kể Lời đầu của bộ sách, chúng tôi muốn kể lại với quý vị một vài câu chuyện mà PACE luôn tự hào khi tìm thấy nó trong hành trình “Khát Vọng Doanh Trí” của mình trong suốt những năm vừa qua: Bà chủ một tiệm tạp hóa suốt ngày không vui vì buôn bán ế ẩm. Nhưng sau những ngày tháng nhìn vào “mắt” khách hàng, bà chợt nghĩ: “sao tôi không là người giải quyết vấn đề nhu yếu phẩm cho cả xóm?”. Và mọi chuyện thay đổi. Từ đó, nhiều gia đình chưa khá giả trong khu phố có thể mua một, hai gói mì tôm (mà không cần phải mua cả thùng mì), một tép bột ngọt (mà không cần phải mua cả gói bột ngọt). Bà có thể mở cửa lúc mờ sáng hay nửa đêm, khi chẳng còn nơi nào bán hàng nữa để đáp ứng nhu cầu “hết chanh đột xuất” hoặc “nhà không còn nước mắm”. Hay hơn nữa, mọi người chỉ “xẹt” một hai bước chân là có ngay những vật phẩm cần thiết nhất cho gia đình. Lại thêm chuyện giá cả của bà so với chợ và siêu thị cũng chẳng chênh lệch là bao. Ai cũng đoán ra kết quả: cửa tiệm suốt ngày người ra kẻ vào, bà thì bán hàng luôn tay và cười nói luôn miệng. Không chỉ tiền lãi thu được tăng cao, mà bà còn có “lợi nhuận” lớn nhất là sự quý mến của mọi người dành cho một người biết kinh doanh như bà. Câu chuyện thứ hai về một cơ sở sản xuất tủ sắt. Người ta thường mua tủ của cơ sở này về để đựng hồ sơ. Một cơ sở bé xíu rất đỗi bình thường thì liệu có mang trong người “sứ mệnh xã hội”? Trong một thời gian dài, cơ sở hoạt động cầm chừng, cho đến một ngày ông chủ của nó thay đổi cách nghĩ: tôi không “bán tủ sắt” nữa, mà sẽ “bán giải pháp lưu trữ hồ sơ văn phòng”. Từ đó, ông và đồng sự tiến hành nghiên cứu để tạo ra những cái tủ sao cho có thể chống được mối, mọt, chống thấm, ngăn tủ này thì có khóa kiên cố để đựng hồ sơ quan trọng, ngăn tủ khác thì không cần khóa để dễ kéo ra kéo vào... Ông cũng chịu khó đi đến các văn phòng để nghiên cứu màu sơn, thay đổi kích cỡ, kiểu dáng... Thế là sản phẩm của ông còn thêm tính năng làm đẹp cho cả văn phòng của các công ty. Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của ông đã lột xác và phát triển rất nhanh. Như vậy, doanh nghiệp lớn hay nhỏ tùy thuộc vào vấn đề xã hội mà họ giải quyết được. Bà chủ tạp hóa của khu phố nọ cùng Sam Walton (ông chủ tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart) đều giải quyết vấn đề mua sắm của xã hội thông qua việc mở cửa hàng bán lẻ. Họ chỉ khác nhau về phạm vi: xã hội của bà chủ tiệm tạp hóa là một khu phố, còn xã hội của Sam mang tầm cỡ thế giới. Điều xã hội quan tâm không phải là doanh nghiệp đó kiếm được bao nhiêu mà là họ đã mang lại gì cho cộng đồng. Chẳng hạn, trong khi tỉ phú Nhật, Toyoda (“cha đẻ” của Toyota), với tinh thần ái quốc được người Nhật xem như anh hùng dân tộc thì tỉ phú Nga, Khodorkovsky (ông chủ của Yukos), ông ta là ai trong mắt dân Nga thì chỉ người Nga mới thấu rõ. Sự khác nhau này có lẽ do cách thức kiếm tiền của họ. Nghề kinh doanh, xưa nay vẫn thường bị hiểu chỉ như là nghề “kiếm tiền”. Nhưng thực chất, không hề có nghề kiếm tiền, bởi nghề nào thì cũng kiếm tiền cả. Chẳng hạn, luật sư kiếm tiền bằng việc hành nghề luật, bác sĩ kiếm tiền bằng cách chữa bệnh cứu người... Và doanh nhân, người hành nghề kinh doanh, cũng kiếm tiền bằng cách lãnh đạo một doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp đó để giải quyết vấn đề hay đáp ứng nhu cầu nào đó của xã hội. Nhưng điều khác biệt của nghề kinh doanh là trong quá trình hành nghề của mình doanh nhân không hành động một cách đơn lẻ mà biết kiến tạo ra các chuỗi giá trị. Cụ thể hơn, họ nắm lấy một doanh nghiệp và tập hợp bên mình nhiều thành viên để cùng cộng hưởng lại nhằm hình thành một sức mạnh tổng lực, từ đó tạo ra nhiều giá trị hơn cho xã hội. Đó cũng chính là lý do mà nghề kinh doanh thường kiếm được nhiều tiền hơn so với những nghề khác và vẫn được cộng đồng xã hội ủng hộ. Nghiên cứu 25 huyền thoại doanh nhân thế giới cho thấy, dù có quá nhiều sự khác biệt nhưng họ đều có chung một tư tưởng chủ đạo: “Kinh doanh là phụng sự xã hội”. Hay nói một cách đầy đủ hơn, “Kinh doanh là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội, bằng cách dùng sản phẩm hay dịch vụ như là phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn”. Cái “đạo” kinh doanh này đã được họ quán triệt ngay từ buổi đầu khởi nghiệp đầy gian khó cho tới lúc thành công. Và sự thật này cũng chính là lý do giúp họ kiếm tiền nhanh nhất, nhiều nhất, bền nhất, còn bản thân họ thì được xã hội tôn vinh, nể trọng, và rồi họ đi vào lịch sử kinh doanh thế giới như những huyền thoại, doanh nghiệp của họ cũng vĩ đại và trường tồn. Như vậy, với một tâm thế luôn hướng về cộng đồng, luôn khát khao làm cho xã hội quanh mình (có thể nhỏ gọn trong một ngôi làng hoặc rộng lớn bằng cả một hệ mặt trời) tốt đẹp hơn, chính họ, những doanh nhân (dù lớn hay nhỏ, dù “Tây” hay “Ta”, dù “cổ” hay “kim”) luôn được xã hội tôn vinh không phải vì số của cải khổng lồ họ kiếm được, mà vì những đóng góp vô giá của họ vào sự đổi thay của thế giới này. Rồi quá trình định hình của “văn hóa doanh nhân Việt Nam” Song song với những doanh nhân lẫy lừng của thế giới, điều khác biệt ở bộ sách này là chúng tôi đã khởi sự hành trình tìm kiếm những “huyền thoại doanh nhân Việt Nam” để, như một cố gắng, “định vị” xem ông cha ta ngày xưa đã khởi sự kinh doanh như thế nào. Và thật bất ngờ, trong lịch sử Việt Nam đã từng có những Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô... với những tư tưởng kinh doanh có thể gây ngạc nhiên cho đến tận bây giờ. Gần 100 năm trước, một nhà yêu nước, một trí thức lớn và cũng là nhà kinh doanh Lương Văn Can đã khẳng định trên tờThực nghiệp Dân báo: “Đương buổi thế giới cạnh tranh này, các nước phú cường không đâu là chẳng đua tài thi sức ở trong trường thương chiến, văn minh càng tiến bộ buôn bán càng thịnh đạt, buôn bán thịnh thời trong nước giàu mạnh không biết đến đâu là cùng, buôn bán suy thời trong nước nghèo yếu không biết đâu mà kể, cứ xem cái trình độ buôn bán một nước nào cao hay thấp, rộng hay hẹp thời xét được dân nước ấy giàu hay nghèo, văn hay dã. Việc buôn bán thịnh suy có quan-hệ đến quốc-dân thịnh suy như thế, ta há nên coi thường, xem khinh được sao”. Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của Thương học phương châm, cuốn sách giáo khoa đầu tiên của thương giới Việt Nam, cụ Lương Văn Can đã chia sẻ: “Bây giờ phong khí mở rộng, hoàn cầu đi lại như một nhà, đường bộ thì có hỏa xa, đường thủy thì có hỏa thuyền, không trung thì có tàu bay, lại thêm điện báo để thông thư tín, điện thoại để thông âm ngữ, tin tức đã mau, vận tải rất tiện, người mà thông buôn bán thì làm giàu rất tiện...”. Cụ Lương Văn Can còn chỉ ra những điểm hạn chế chính của những người làm kinh doanh Việt Nam thời bấy giờ: Không có thương phẩm, không có thương đạo, không có thương học, không biết giao thiệp, không biết trọng nghề, không có kiên tâm, không có tín thực... Gần 100 năm sau, Người Việt gia nhập kỷ nguyên toàn cầu hóa, ngẫm lại, thấy thắt lòng vì những điều người xưa nói vẫn còn nguyên giá trị. Và dẫu hiện nay chúng ta đang cùng chung sống, làm ăn trong bối cảnh toàn cầu hóa thì doanh trí Việt Nam vẫn đang có một khoảng cách quá xa so với doanh trí thế giới, cả về tư duy và tầm nhìn, cả về cái tâm và cái đạo. Tuy nhiên, cũng trong việc lần giở những trang sử mà ông cha để lại, chúng ta bỗng vui mừng nhận ra những cột mốc quan trọng trên hành trình xây dựng đạo kinh doanh, định hình một nét văn hóa kinh doanh rất riêng của người Việt. Đầu tiên phải kể đến dấu ấn của thời điểm Hồ Chủ Tịch gửi thư cho các giới công thương Việt Nam, vào ngày 13 tháng 10 năm 1945. Bức thư có đoạn viết: “Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng. Vậy tôi mong giới Công Thương nỗ lực và khuyên các nhà công nghiệp và thương nghiệp mau mau gia nhập “Công Thương cứu quốc đoàn” cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân”. Đó không chỉ là một bức thư động viên để “chấn doanh khí” mà còn là sự khẳng định bản chất cơ bản, đạo lý cốt lõi trong nghề doanh thương của nước nhà, đó là: Giới doanh thương hãy hoạt động sao cho “ích quốc lợi dân”, ích nước lợi mình. Rồi một lần khác, tại hội chợ triển lãm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp 1958, báo Nhân Dân trích đăng lời Hồ Chủ Tịch: “Những người sản xuất phải cố gắng sản xuất nhanh, nhiều, tốt và rẻ. Hàng làm ra nhanh và nhiều nhưng không tốt và rẻ thì không ai mua. Đồng bào ta nồng nàn yêu nước nên rất muốn dùng hàng của ta sản xuất, nhưng trước nhất người sản xuất phải làm hàng tốt và rẻ. Người sản xuất phải thực thà sản xuất hàng tốt cho đồng bào dùng, không nên làm hàng trưng bày thì tốt mà hàng bán thì xấu. Giá cả phải chăng, không lừa dối người mua. Sản xuất phải thiết thực và đúng hướng, đảm bảo làm nhiều loại hàng tốt và rẻ cần dùng cho đông đảo nhân dân”. Và chắc có lẽ bạn đọc cũng chưa quên cái khoảnh khắc mà Luật công ty năm 1990 ra đời với quan điểm người dân chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Đến đúng 10 năm sau, Luật doanh nghiệp năm 2000 quy định lại: Người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Nghề doanh nhân đã bước sang một giai đoạn mới trong lịch sử kinh thương của nước nhà. Và thật sự, chúng ta cũng không thể quên thời khắc Thủ tướng chính phủ ra quyết định chọn ngày 13 tháng 10 hằng năm là “Ngày doanh nhân Việt Nam”; và không thể quên những hàng tin chạy dài trên trang nhất tất cả các báo: “Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X: Đảng viên được làm kinh tế tư nhân”. Chúng ta tìm thấy gì trong những mốc son ấy? Đó chính là những bước ngoặt góp phần vào sự định hình mỗi ngày một rõ nét hơn của văn hóa doanh nhân Việt Nam. Song cũng qua chính những mốc son ấy, chúng ta biết được rằng, “văn hóa doanh nhân Việt Nam” (còn gọi là “văn hóa kinh doanh Việt Nam” hay “Văn hóa của giới doanh nhân Việt Nam”) đang trong quá trình được định hình. Tuy nhiên, để có được một “văn hóa” như mong muốn thì trước hết cần phải có “tư tưởng”, đồng thời phải xác định được những “yếu tố hình thành” văn hóa cho giới doanh nhân của ta. Và bằng những nghiên cứu của mình trong thời gian qua, chúng tôi nhận thấy rằng, để giải quyết vấn đề “tư tưởng” thì ta phải xác định rõ “doanh nhân là ai?” và “kinh doanh là gì?”. Và lời đáp sâu xa của hai câu hỏi này nằm ở cái “đạo” của nghề kinh doanh, hay còn gọi là “đạo kinh doanh”. Đọc lại cuộc đời và sự nghiệp của cụ Lương Văn Can, không ít người tự hỏi: Cái “thương đạo” (hay gọi là “đạo kinh doanh”) mà cụ vẫn hay nhắc đến thực ra là gì? Phải chăng đó là chữ “tín” trong kinh doanh, là truyền thống buôn bán ngay thẳng, thật thà không gian dối mà bản thân cụ là một điển hình? Phải chăng đó là cách thức liên kết trong làm ăn mà cụ thường gọi là “thương hội” để cùng nhau tạo nên sức mạnh tổng lực đẩy nền kinh tế quốc gia tiến về phía trước? Phải chăng đó là cách đối đãi với khách hàng, đồng sự hay nhân công của mình một cách thấu tình đạt lý, tôn trọng, sẻ chia theo cách đôi bên cùng có lợi? Hay phải chăng, đó là việc cố gắng kiếm được thật nhiều tiền, rồi mang phần lớn số tiền kiếm được đó để cống hiến cho xã hội bằng việc xây trường cho trẻ nghèo, gửi tiền cho kháng chiến, cứu trợ đồng bào gặp thiên tai hay lập quỹ khuyến học, khuyến tài...? Tất nhiên, tất cả những yếu tố đó là một phần của đạo kinh doanh, của truyền thống kinh doanh cao đẹp mà Cụ đã chỉ ra, đã đề cao và kêu gọi mọi người học theo. Nhưng cái “lõi” của “thương đạo”, cái “lõi” của “văn hóa doanh nhân” của giới doanh nhân Việt Nam lại hoàn toàn khác, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn và phản ánh đúng bản chất của nghề kinh doanh hơn: “Kinh doanh, nghĩa là dùng sản phẩm hay dịch vụ của mình như là phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn”.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lương Văn Can - Xây Dựng Đạo Kinh Doanh Cho Người Việt PDF của tác giả Nguyễn Hồng Dung nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lược Sử Kinh Tế Học (Niall Kishtainy)
Bạn chỉ còn đúng năm phút để tới kịp lễ khai mạc buổi hội thảo vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp của mình trong khi vẫn đang loay hoay tìm chỗ đậu xe, và bạn chỉ có hai lựa chọn: chấp nhận bị phạt hành chính vì đỗ xe sai nơi quy định để tới hội thảo đúng giờ hay tiếp tục tìm kiếm bãi đỗ xe và đến muộn. Đây chỉ là một ví dụ trong vô số bài toán kinh tế mà mỗi chúng ta phải giải hằng ngày. Như vậy, kinh tế học hóa ra không chỉ là một lĩnh vực tri thức cao siêu, xa vời dành riêng cho những nhà kinh tế học, chính khách hay doanh nhân, nó hiện diện trong mọi quyết định lớn nhỏ của đời sống. Nhận thức được tầm quan trọng của những hiểu biết kinh tế học căn bản đối với con người trong xã hội đương đại nhiều biến động khó lường, Niall Kishtainy đã trang bị cho độc giả đại chúng một “công cụ” sắc bén, hữu ích mà lại rất dễ dàng tiếp cận. Lược sử kinh tế học chọn lọc và trình bày theo trật tự biên niên những hình thái, học thuyết, vấn đề và quy luật kinh tế then chốt trong các xã hội phương Tây suốt mấy ngàn năm qua với một góc nhìn khách quan, cách diễn giải cuốn hút và những ví dụ minh họa rất sinh động, gần gũi. Có lẽ, không ít độc giả, sau khi gấp cuốn sách này lại, sẽ không còn muốn chuyển kênh khi chương trình ti vi tường thuật một buổi tọa đàm của các chuyên gia kinh tế.***Cuốn sách thích hợp cho những người hứng thú với kinh tế học, nhưng lại cảm thấy lạc lối giữa những cuốn giáo trình kinh tế dài cả hàng nghìn trang hay đau đầu bởi những thuyết kinh tế “khô khan”. Chỉ với độ dày hơn 300 trang, “Lược sử kinh tế học” đã trình bày hầu như đầy đủ những cột mốc quan trọng trong quá trình nền kinh tế hình thành và vận hành; đề cập và giải thích những lí thuyết kinh điển, cũng như những hiện tượng kinh tế phát sinh trong đời sống hàng ngày. Kinh tế đã gắn liền với con người ngay từ khi những nền văn minh nhân loại đầu tiên được hình thành. Kinh tế cũng chính là nguyên nhân và động lực thúc đẩy các mối quan hệ xã hội phát triển. Vì thế, việc hiểu về kinh tế sẽ là lợi thế cho một cá nhân trong cuộc sống đầy biến động ngày nay. Và Niall Kishtany sẽ mang đến cho bạn những kiến thức hữu ích về kinh tế thông qua quyển sách này. Chỉ vọn vẹn 40 chương sách nhưng ông đã bao quát được toàn cảnh nền kinh tế, từ lúc nền kinh tế đơn giản khởi nguồn là vấn đề “khan hiếm”-con người chỉ lo tìm đủ thức ăn, đến khi sản xuất dư thừa và rồi vấn đề kinh tế trở nên phức tạp hơn: xuất hiện sản lượng thặng dư dẫn đến các hoạt động trao đổi mua bán. Cả một quá trình xuyên suốt lịch sử và song song với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, kinh tế học ngày nay không chỉ xoay quanh việc xem xét cách chúng ta sử dụng nguồn lực khan hiếm để thỏa mãn các nhu cầu, mà theo Niall Kishtany, kinh tế học còn “đề cập đến việc làm thế nào để giúp mọi người sống sót, khỏe mạnh và được giáo dục”. Tìm mua: Lược Sử Kinh Tế Học TiKi Lazada Shopee Những con thiên nga bay lên: các nhà kinh tế học đầu tiên là ai?Có lẽ khi nhắc đến kinh tế học, bạn sẽ nghĩ ngay đến Adam Smith-cha đẻ của kinh tế học cổ điển và nổi tiếng với tác phẩm đồ sộ “Sự giàu có của các Quốc gia”. Tuy nhiên, có bao giờ bạn tự hỏi, kinh tế học xuất hiện từ khi nào và ai là những nhà kinh tế học đầu tiên? Ắt hẳn bạn sẽ gặp khó khăn khi cố gắng tìm kiếm lời giải đáp trong những quyển sách kinh tế khác, bởi hầu hết các quyển sách kinh tế ấy đều sẽ tập trung vào một số lí thuyết kinh điển hoặc các hiện tượng kinh tế xung quanh ta. Review Lược sử kinh tế họcNhưng chương 2 của “Lược sử kinh tế học” sẽ mang đến cho bạn câu trả lời hết sức bất ngờ: những nhà kinh tế học đầu tiên là các triết gia Hy Lạp. Các triết gia Hy Lạp như Plato, Aristotle đã được ví von như “những con thiên nga bay lên” với những tư tưởng lỗi lạc, là khởi nguồn nguyên sơ của các ý tưởng về của cải, tiền, trao đổi và mua bán. Ở đâu có con người, ở đó nền kinh tế hình thành: các kiểu nền kinh tế phức tạp đầu tiên đã xuất hiện ở La Mã và Hy lạp, sau đó là vùng Lưỡng Hà trù phú. Những lí thuyết kinh điển tưởng chừng khô khan nhưng lại cuốn hút không tưởngĐến với “Lược sử kinh tế học”, bạn sẽ có cơ hội tiếp xúc với các tư tưởng và thuyết kinh tế học kinh điển! Tác giả Niall Kishtany đã kế thừa truyền thống và giá trị cốt lõi của kinh tế học thông qua việc đề cập đến cách thức hoạt động của các đối tượng trong thị trường tự do, cùng với lí thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam Smith; thuyết “Thế tiến thoái lưỡng nan của tù nhân”,…Tuy không khó để bắt gặp các thuyết này trong những quyển sách cùng thể loại, nhưng những trải nghiệm mà quyển sách này mang lại vô cùng mới mẻ, không hề “bình mới rượu cũ”. Bằng văn phong mượt mà, câu chữ gọn gàng đơn giản, tác giả đã trình bài, phân tích và giải thích rất rõ ràng xúc tích các vấn đề ấy. Bên cạnh đó, cuốn sách còn đề cập đến ứng dụng của các lí thuyết ấy trong đời sống hàng ngày để độc giả có thể tư duy sâu sắc hơn, hiểu rõ hơn bản chất thay vì tiếp thu thụ động, gò ép. Chẳng hạn: việc bạn chọn lựa giữ tiết kiệm tiền bên mình, gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng hoặc đi đầu tư sẽ ảnh lưởng như thế nào đến lợi ích của bản thân bạn và nền kinh tế xã hội? Bạn chọn Coca hay Pepsi? Và còn rất nhiều những tình huống thực tế khác đang chờ đợi bạn khám phá. Vì thế, cuốn sách sẽ là một lựa chọn hữu ích cho những ai đang có ý định tìm hiểu về kinh tế học hoặc cả những người đã có hiểu biết về nó. Tại sao bạn nên trở thành một nhà kinh tế học?Đây chính là tiêu đề chương cuối cùng của quyển sách - chương 40 và cũng là câu hỏi của Niall Kishtany. Tác giả đã nêu ra một số thực trạng khá ảm đạm của nền kinh tế học: tỉ lệ thất nghiệp tăng cao, các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,…Chính vì thế mà một số người nghi ngờ và chỉ trích vai trò của ngành khoa học kinh tế học nói chung và các nhà kinh tế học nói riêng. Nhưng khi đã đọc 39 chương trước, bạn sẽ hiểu, nền kinh tế không chỉ xoay quanh các vấn đề về thương mại, sản xuất, tiêu dùng mà nó còn ảnh hưởng đến khía cạnh đời sống xã hội, vấn đề đạo đức và môi trường. Sự nóng lên toàn cầu nguyên nhân một phần là do hoạt động sản xuất; tỉ lệ thất nghiệp gia tang do những cải tiến trong kĩ thuật công nghệ, những phúc lợi xã hội có thể bù đắp vào những tổn thất mà các doanh nghiệp gây ra cho môi trường,…Đó là những câu hỏi cấp thiết đặt ra cho chúng ta-những con người tham gia vào nền kinh tế. Và những nhà kinh tế học hiện nay đang nỗ lực tìm ra giải pháp cho sự cân bằng: làm thế nào để nên kinh tế mang lại hiệu quả cao nhất nhưng vẫn đảm bảo không gây ra các ngoại lai tiêu cực. Nếu bạn say mê kinh tế học và có những ý tưởng kinh tế tuyệt vời, biết đâu được trong tương lai, bạn sẽ trở thành một nhà kinh tế. Quyển sách kinh tế này được chia thành 40 chương với những chủ đề tuy riêng biệt nhưng lại xuyên suốt cùng nhau. Điều này giúp cho độc giả có thể thoải mái đọc theo sở thích của mình. Bạn có thể tra mục lục và tìm đọc chương mình thích, ngược lại, nếu cảm thấy chương đang đọc thật nhàm chán, bạn có thể bỏ qua nó. Một điều thú vị của quyển sách này chính là cách đặt tên từng chương rất đặc biệt. Khi đọc mục lục của sách, chắc chắn bạn sẽ phải tò mò bởi tên chương! Nó gợi cho bạn niềm hưng phấn muốn lật giở ngay từng trang sách và ngấu nghiến để xem nội dung của chương là gì. Một số tên chương rất mĩ miều như “Cái đầu lạnh và trái tim nóng”, “Tắt nắng”,” Sự phá hủy để sáng tạo”, ”Sự hòa hợp ngọt ngào”. Đọc đến đây, có lẽ bạn sẽ không khỏi kinh ngạc và khó tin: làm sao tôi có thể liên tưởng được chúng có liên quan gì đến kinh tế học chứ? Hãy tìm đọc quyển sách này, để có thể giải đáp thắc mắc ấy của bạn nhé, bạn sẽ không thất vọng đâu!***Kinh tế học không phải là chủ đề quá xa lạ với những ai đã kinh qua môi trường Đại học. Nhưng những học thuyết đồ sộ cùng cách tiếp cận có phần khô cứng và thụ động trong môi trường giáo dục (của mình) có thể đã không mang lại hiệu quả như kì vọng. Việc tìm đến những nguồn tài liệu khác, phổ quát và đại chúng hơn là nhu cầu thiết yếu đối với những người mới bắt đầu tìm hiểu về kinh tế. “Lược sử kinh tế học” của Niall Kishtainy đã làm khá tốt vai trò này. Thứ nhất, tác giả đã làm rất tốt việc diễn giải những học thuyết và tư tưởng kinh tế một cách đơn giản và dễ hiểu nhưng vẫn giữ vẹn nguyên được những điều cốt lõi. Cách kết hợp yếu tố lịch sử để nêu ra các quan điểm và tư tưởng theo từng thời kì, từng bối cảnh xã hội giúp người đọc dễ hình dung và có cái nhìn khách quan về từng học thuyết. Thứ hai, tác giả không bao giờ chỉ đưa ra các học thuyết đơn thuần mà không gắn nó với những ví dụ thực tiễn. Tất cả những khái niệm đều có thể lấy ví dụ dễ dàng trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Bạn có thể sẽ bắt gặp mình đang tư duy như một nhà kinh tế học khi đối diện với một vài vấn đề trong cuộc sống. Ví dụ khi mình nói chuyện với một người bạn về tình yêu, mình đã nghĩ đến khái niệm hiệu suất cận biên giảm dần:))) Thứ ba, cách tác giả đưa thêm những giai thoại lịch sử về các nhà tư tưởng khiến cuốn sách giữ được nhịp độ vừa phải và khơi gợi trí tò mò của người đọc. Đặc biệt, tác giả luôn biết cách giải thích, đánh giá các tư tưởng và tính liên hệ thực tế với bối cảnh hiện đại và đặt ra những câu hỏi thách thức với nhiều vấn đề còn tồn đọng trên thế giới. Tuy nhiên, việc một đôi chỗ tối nghĩa, diễn giải chưa thoát ý (có thể một phần do dịch thuật), khiến trải nghiệm đọc sách của mình chưa được trọn vẹn. Khối lượng 40 chương tương ứng với gần 40 học thuyết cũng khá đồ sộ, nếu trải nghiệm đọc liên tục sẽ dễ bị nhầm lẫn giữa các học thuyết và khó nắm bắt hệ thống. Nhìn chung, đây vẫn là một cuốn sách mà mình sẽ giới thiệu với bất kì ai mới bắt đầu tìm hiểu về kinh tế. Kinh tế học là nhàm chán, có thể. Nhưng nghiên cứu về kinh tế trên phương diện kiến thức phổ quát cũng sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những mối tương quan của con người trong xã hội. Vai trò của các nhà kinh tế học cũng rất quan trọng trong việc định hướng và dẫn dắt những bước tiến tiếp theo của xã hôi loài người. Nếu bạn đang cần những những kiến thức về kinh tế học, một cách đầy đủ mà đơn giản nhất, cuốn sách này là dành cho bạn.Mời các bạn đón đọc Lược Sử Kinh Tế Học của tác giả Niall Kishtainy & Tạ Ngọc Thạch (dịch) & Nguyễn Trọng Tuấn (dịch).Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lược Sử Kinh Tế Học PDF của tác giả Niall Kishtainy nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.