Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phố Academy

Một bé con. Một tình nhân. Và một người mẹ.  Đời nàng mở ra mặc khải “ký ức tình yêu giúp làm vơi nhẹ.” Cuộc đời một con người được tái dựng trong chưa đầy 200 trang sách. Điều đó xem chừng là bất khả cho tới khi ta đọc một tác phẩm như Phố Academy: Màn thứ nhất - cô bé Tess mồ côi mẹ; màn thứ hai - nàng Tess yêu khờ dại; và màn cuối - bà Tess bất hạnh. Cuốn tiểu thuyết không mới mẻ trên bình diện khắc họa một đời người, nhưng chính sự “không mới mẻ” này lại khiến nó tạo nên những cảm xúc rất thực. Rồi chúng ta sẽ nhớ thắt lòng hình ảnh cô bé Tess thảng thốt, ngác ngơ trước chiếc quan tài mẹ: “Mẹ đã đi mất. Mẹ của Tess đi xa rồi. (...) Bé cảm thấy mặt đất dưới chân sụp xuống – thảm cỏ, cánh đồng và gò đất đang trượt ra xa, đến khi bé bị bỏ mặc bơ vơ nơi đỉnh gò trơ trụi. (...) Bé hầu như không thở nổi. Tess ngoảnh về phía vầng mặt trời đã xuống thấp, nhắm mặt và chờ đợi. Xin hãy rủ lòng thương. Bé chờ khuôn mặt mẹ hiện lên, chờ một cánh tay chìa ra. Toàn bộ cơ thể Tess nhướn lên, khao khát được mặt trời chạm vào, được gió nâng lên, bầu trời mở ra và cõi Thiên Đường kéo bé vào.” Niềm nhớ mẹ của Tess làm chúng ta cũng giật mình muốn gọi: “Mẹ, mẹ ơi!”  Chính mất mát vào tuổi ấu thơ ấy đã khiến nhân vật Tess cuống quýt kiếm tìm yên ấm, mãi mãi về sau. Tess thèm được có ai đó cho riêng nàng. Đâu phải chú Mike bởi lời chú hứa cưới nàng chỉ là trò bông đùa hồn hậu; cũng đâu phải chị Claire vì chị rời đi Mỹ - miền đất hứa rồi. Tâm trí Tess chịu ám ảnh về một mối quan hệ lấp đầy sự trống rỗng hoang hoải nơi nàng, và nàng gặp David. Anh càng dửng dưng thì Tess càng khao khát, anh càng xa cách thì cô gái càng muốn lại gần: để dựa đầu lên vai anh, hôn anh, để cùng anh “hòa nhập”. Cuộc hoan ái với chàng trai chỉ diễn ra một đêm song đã kéo dài miên viễn trong đời Tess - kéo dài nỗi thảng thốt lại bị bỏ rơi, kéo dài bất hạnh: “David bỏ đi thật rồi. Hết thảy thanh danh, hết thảy hạnh phúc, đã theo anh đi mất và nàng bị bỏ lại giữa tình cảnh ngặt nghèo.” Một lần nữa, những cảm xúc mãnh liệt của nhân vật cuốn chúng ta theo, khiến ta ngả nghiêng rất thực: “Tess bò vào giường. Trong bóng tối làn môi nàng tự nhiên chu lại như đang hôn, thêm một nụ hôn nữa, cặp môi máy động như hớp lấy không khí. Những thứ, trước đây tơ tưởng là thiếu đoan trang, giờ không còn vậy nữa: tay chân anh, làn da anh, bàn tay anh đặt trên bụng nàng. Hãy trở lại với em.”  Đời Tess không chan chứa gì ngoài mất mát, ngay cả đứa con trai những tưởng sẽ làm tròn đầy đời bà sau cuối cũng lìa xa mẹ - ngay trong cõi sống và sau đó, bằng cái chết. Lấy bối cảnh phố Academy, nước Mỹ và Mary Costello viết về số phận một phụ nữ gốc Ireland. Với người nhập cư, xứ sở cờ hoa trao gửi giấc mơ nao? Mộng lành - “cuộc đời nơi đây là đáng sống, là lý tưởng” hay mộng dữ - lũ chim ác đâm ngang tòa tháp?  Lời chị Evelyn than xiết: “Cô biết sao không? Trước giờ những gì nước Mỹ mang tới cho gia đình này chỉ toàn là bất hạnh” cơ hồ đẩy người đọc vào ngả chông chênh trước tín điều về giấc mơ Mỹ lấp lánh. Lựa chọn khắc họa cái bất hạnh song may thay Mary đã “làm điều này khúc chiết, chân thật không ủy mị”. Tuổi ấu thơ mơ mộng Thiên Đường, ngày xế bóng sực ngẫm ra “đã không có vườn Địa Đàng, sẽ không có vườn Địa Đàng” nhưng Tess không gây cho ta thứ cảm giác bi lụy lê thê. Dẫu gợi ngậm ngùi, dẫu khơi nuối tiếc, nhân vật vẫn chứng tỏ một đời sống can trường “những ngày như mọi ngày bà sẽ đặt bàn chân này lên trước bàn chân kia để bước đi”, một “mặc khải” rằng “ký ức tình yêu giúp làm vơi nhẹ”: Tess đã yêu mẹ, yêu một người đàn ông và yêu con trai tới tận cùng tế bào mình. Có thể nói rằng, trong không gian phố Academy nhỏ bé, Mary Costello đã khắc họa một số phận dễ chìm khuất giữa đám đông “nhu thuận và mờ nhạt” tuy không viện đến những thủ pháp văn chương đột phá nhưng vẫn đủ sức lay động tâm can tới tột cùng. *** Bắt đầu bằng một cái chết và kết thúc cũng bởi một cái chết, cuốn sách mỏng mảnh tinh tế này gói gọn cuộc đời của một con người với những bi kịch cố hữu của nó, không tô vẽ hay có chút gì màu mè giả tạo, “Phố Academy” khiến người đọc lay động với sự chân thực giản dị dù có lẽ cuốn sách sẽ khiến những ai mong chờ một câu chuyện giật gân hay đón đợi một cuộc đời với nhiều biến cố rợn ngợp phải thất vọng. Bảy tuổi, cô bé Tess mất đi người mẹ của mình và từ đó người cha của cô rơi vào sự cộc cằn, xa cách, đặc biệt là khi cô bé bị mất giọng nói khi chứng kiến một đứa trẻ vô gia cư qua đời, cô bé trở nên sợ hãi cha mình và ngày càng tạo khoảng cách với cha dù đôi lúc cô bé vẫn cảm nhận được tình yêu mà ông dành cho bé. Mất mẹ, không được cha quan tâm nên dần dần Tess rơi vào trạng thái cô độc dù còn rất nhỏ, những nỗi nhớ, khao khát về mẹ chỉ có thể được em giữ kín trong lòng: “Vậy là ký ức và vết tích về mẹ quyết còn vương khắp nhà – trong phòng, sảnh, cầu thang. Vết lõm chân mẹ in trên thảm, Trên cái ly nước có dấu tay mẹ. Em thầm hỏi liệu trong những đêm ấm áp, lúc toàn bộ ngôi nhà say ngủ, người mẹ dịu dàng của em, hay các hồi ức về bà có trở lại, mang an ủi cùng hứa hẹn đến cho mọi thứ, bù đắp những nhẫn nại đợi chờ. Cả ngoài kia nữa, khoảng sân, chuồng vịt, có nhớ mẹ chăng?” Nỗi đau mất mẹ dần dà cũng nguôi ngoai thế nhưng vết tích về nó vẫn hằn sau trong cuộc đời của Tess dù rằng em vẫn được yêu thương bởi những người anh chị em trong gia đình. Rời Ireland để di cư sang Mỹ và trở thành y tá trong một bệnh viện nhỏ, Tess bén rễ ở phố Academy và ngày càng lún sâu vào cuộc đời cô độc, buồn bã và không chắc chắn. Ta sẽ theo chân Tess từ khi là một cô gái với những nỗi nhớ khắc khoải về quê hương khi phải tự lập trên một mảnh đất xa lạ, những rung động khát khao của cô với chàng trai mình yêu thương, những nỗi đau đớn khi tình yêu không được đáp lại, niềm hạnh phúc khi được làm mẹ dù có những lúc cô bối rối vì nghĩ rằng một mình cô không thể nuôi được đứa con trai nên người, sự trưởng thành, sự tha thứ, những nỗi buồn và những giọt nước mắt. Mary Costelo khiến người đọc đồng cảm và sống cùng với cuộc đời của Tess, dõi theo từng bước chân của cô với sự rung động đôi lúc khiến trái tim đau nhói, ta cảm thấy một lúc nào đó trong cuộc đời, ta cũng sẽ hoang mang và cảm thấy cuộc sống thật vô định, khó khăn biết bao, đôi lúc ta không thể nào biết rõ ta đang sống hay đang tồn tại, những ngày trôi qua nặng nề như thể ta phải chịu đựng nó, thế nhưng rốt cuộc thì ta vẫn phải tiếp tục bước tiếp và nhìn quanh bên cạnh ta chẳng có ai, ta chỉ có thể một mình quyết định được điều gì sẽ xảy đến với chính bản thân mình. Cuốn sách nói về cuộc đời một con người bình thường nhưng sao mà buồn thăm thẳm, thật ra cái ý nghĩa đích thực của việc sống trên đời này là gì? Một câu chuyện rất chân thực, không hề có những bất ngờ hay biến cố, nỗi buồn trong cuốn sách không lớn lao hay xa lạ, nó khiến ta nhận ra có những giây phút hoài nghi về cuộc đời của chính mình. Đến một lúc nào đó, cũng như Tess, ta sẽ cảm thấy mệt mỏi với việc đấu tranh với cuộc đời, và những ước ao, dự định, hoài bão ta từng ôm ấp thời trẻ đều không thể trở thành hiện thực. Cuộc đời trước mặt không có gì đáng để ta mong đợi những cũng chẳng thể làm ta sợ hãi, ta sẽ chấp nhận nó như đúng bản chất thật sự của nó với những niềm vui và nỗi buồn, nụ cười và nước mắt, hạnh phúc và đau khổ. Mary Costelo xoáy sâu vào sự bình thường trong cuộc đời của mỗi con người, không có phát minh vĩ đại hay bước nhảy vọt lớn lao, chỉ có nỗi buồn và sự cô đơn ngự trị. Tình yêu gia đình và sự gắn bó với mảnh đất quê hương cũng là một điểm sáng trong “Phố Academy”, dù không luôn bên cạnh nhưng gia đình và vùng quê Ireland luôn có một vai trò đặc biệt trong cuộc đời của Tess, trong những lúc cô đơn nhất cô nhận ra vẫn có một thành viên trong gia đình ở đâu đó trên cùng đất nước này, và điều đó khiến cô và cả người đọc được ai ủi. Nỗi nhớ khắc khoải về quê hương khiến cô luôn ghi nhớ từng bậc thanh, từng bụi cỏ, nơi đó còn lưu giữ bao kỷ niệm ấu thơ để khiến cô không quên đi gốc rễ của mình và kết nối cô với những thành viên khác trong gia đình. Mary Costelo quả thật rất tinh tế trong việc miêu tả những nối kết ấy một cách đẹp đẽ, vững chắc và khó quên. Và đó có phải là khả năng đặc biệt của văn chương, không chỉ kết nối các nhân vật của mình với nhau và còn có thể kết nối bạn đọc với những nhân vật xa lạ ở những vùng đất xa lạ và nền văn hóa xa lạ. Dù có thể, trong cuộc đời những phút giây hạnh phúc thật ít ỏi so với nỗi buồn nhưng đó là những điều mà ta luôn nhớ về, những ký ức sẽ sưởi ấm tim ta vào đêm giá lạnh như khi Tess đứng dưới đường nhìn lên căn hộ cũ của mình đang sáng đèn ở phố Academy và nhớ lại những kỷ niệm về đứa con trai, và đối với cô, cuộc đời chỉ cần như thế là đủ, và cô cảm thấy hạnh phúc. *** Review Meowth: Lại là một cuốn sách không hợp với mình. Có vẻ năm nay mình không có duyên đọc sách lắm, trong 5 cuốn đã đọc thì chỉ thích có 2 cuốn thôi. Phố Academy là câu chuyện về Tess từ khi còn là một bé gái đến khi trở thành cô gái, mẹ rồi bà. Cuộc đời của một người phụ nữ gói gọn trong 200 trang sách. Cuốn sách được viết dưới ngôi thứ ba, những bi kịch của Tess được thuật lại mà không có thêm bất kì cảm xúc nào của người kể, giống như lời thuyết trình của một bộ phim tài liệu vậy. Bởi thế dù qua những con chữ mình thấy được mọi thứ của Tess từ niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn lạc lõng đến nỗi đau song nó vẫn không gợi lên chút gì trong mình. Giọng văn của cuốn sách rất nhẹ nhàng, lúc nào cũng đều đều làm mình cảm thấy nó giống như một câu chuyện không có tình tiết. Nếu vẫn câu chuyện về cuộc đời Tess nhưng được viết bởi một cách khác chắc chắn mình sẽ thích hơn. Cuốn này khiến mình liên tưởng đến "một chỗ trong đời", mình thấy hai cuốn gần như có cùng cách kể truyện. Chắc mình không hợp với nó lắm. Cuốn sách đề cập đến tất cả những vấn đề xoay quanh mỗi gia đình như mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em trong nhà với nhau; chạm đến nhiều vấn đề của cuộc sống với đại diện là một người phụ nữ. Bắt đầu bởi một đám tang, kết thúc cũng bởi một đám tang và xuyên suốt cuốn sách là những cái chết khác bên cạnh Tess. Một người phụ nữ mờ nhạt mà ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu ngoài kia, việc đưa cuộc đời đó lên giấy với mình là thành công lớn nhất của tác giả. Nhưng mình có lẽ sẽ không đọc thêm cuốn nào khác của bà. Đánh giá: 5.5/10 Mời các bạn đón đọc Phố Academy của tác giả Mary Costello.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu - William Somerset Maugham
MẶT TRĂNG VÀ ĐỒNG SÁU XU mượn một phần tiểu sử của danh họa người Pháp Paul Gauguin, một trong những họa sĩ tiên phong, một tên tuổi rất lớn và đầy sáng tạo của hội họa hiện đại, xuất hiện gần như đồng thời với sự ra đời lừng lẫy của các họa sĩ trường phái Ấn tượng. S. Maugham đã mượn câu chuyện nửa thực nửa hư về cuộc đời của nhà danh họa để trình bày những ý nghĩ của mình về Nghệ thuật, Tình yêu và Con người. Chắc hẳn ông có dựa vào quyển hồi ký của chính nhà danh họa, nhưng ở nhiều chỗ ông đã hư cấu với thủ pháp quen thuộc của mình. Ở đây chúng ta gặp lại Maugham với những chủ đề ta đã từng gặp trong hai tác phẩm kia: con người, dục vọng, nghệ thuật… Có thể nói trong cả ba tác phẩm nổi bật nhất này của mình, Maugham đều viết về sự ràng buộc mà cái bản năng lớn nhất của con người là Dục vọng (và dĩ nhiên theo nó là Tình Yêu) tác động lên nhân vật chính của tác phẩm, là những người đàn ông. Ở Of Human Bondage đó là sự ràng buộc, của dục vọng - tình yêu, trên một người bình thường. Ở The Radzor’s Edge là ràng buộc trên một người đi tìm sự giải thoát và ở The Moon and Sixpence là ràng buộc trên một nghệ sĩ thiên tài. Câu chuyện của 3 tác phẩm nói chung là mô tả cách những người đàn ông đó đã phản ứng lại sự ràng buộc kia… Khoảng năm 1972 - 1973 ở Sài gòn xuất hiện bản dịch The Moon and Sixpence dưới cái tên “Đời nghệ sĩ” (nxb Ca dao). Một nhà phê bình khó tính đã than trời về bản dịch này. Tôi tình cờ kiếm được nguyên tác ở chợ sách son trên hè phố Sài Gòn và đã kiểm chứng được lời than phiền này. Quả là một bản dịch quá tệ, tôi thử so vài trang để sửa và kết quả là mỗi trang của bản dịch được tôi sửa chi chít đen kịt, đó chỉ là với khả năng của một người có vỏn vẹn ít năm học tiếng Anh ở trường trung học. Tình cờ ít năm sau đó cũng trên hè phố bán son, tôi lại “vớ” được quyển nhật ký của Paul Gauguin dịch ra tiếng Anh với cái nhan đề The Intimate Journal. Kể cũng là duyên phận. Sách in lại nhiều bức tranh của Gauguin để minh họa. *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu(The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: (Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925),Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’s Notebook)(1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958),… W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913). Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa. Trong Mặt trăng và đồng sáu xu, tác giả kể lại cuộc đời một nhà buôn cổ phần chứng khoán trở thanh họa sĩ thiên tài mà người đương thời chưa đánh giá đúng giá trị tác phẩm cho tới khi ông qua đời một cách thê thảm ở nơi đất khách quê người. Kinh doanh thành đạt, sống sung túc, được vợ con hết lòng yêu mến, Charles Strickland bất thình lình bỏ gia đình ra đi, không còn quan hệ với cái xã hội ông đã từng sống, quyết tâm hiến cả đời mình cho hội họa. Ông sống gian khổ trong nhiều năm phấn đấu không thành công ở Paris. Hoàn cảnh xui khiến, ông đi tìm môi trường sáng tác mới ở một nơi xa xôi ở cái tuổi gần năm mươi. Trên đảo Tahiti, trong một gian nhà nhỏ ở một vùng hẻo lánh, được chăm sóc bởi người vợ trẻ, ông miệt mài vẽ cho đến ngày chết vì bệnh hủi, mù cả hai mắt. Tác phẩm cuối cùng của ông là những bức tranh vẽ trên vách và trần nhà mà người được may mắn nhìn thấy đánh giá là kiệt xuất. Với tính khí khác thường vốn có, ông yêu cầu vợ đốt căn nhà, nhưng những bức tranh vẽ trên vải không đóng khung vứt lung tung trong nhà đủ cho những ai hiểu biết hội họa coi ông là một thiên tài. Mời các bạn đón đọc Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu của tác giả William Somerset Maugham.
Gánh Hàng Hoa
Tác phẩm miêu tả cuộc sống của tầng lớp trí thức nghèo tại Hà Nội trong những năm 30 của thế kỷ 19. Chàng thư sinh tên Minh có vợ là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng, người làng Ngọc Hà, làm nghề trồng hoa và bán hoa. Cuộc sống vợ chồng tuy vất vả nhưng vui vẻ và hạnh phúc. Vợ Minh, Liên, là bạn của anh từ thuở nhỏ, vô cùng yêu chồng, hết lòng kiếm tiền nuôi chồng ăn học để mong chồng đỗ đạt. Nhưng rồi Minh vì tính đa nghi ghen tuông lại nghĩ sai về tình cảm tốt đẹp của người bạn học với mình, anh Văn và Liên. Từ sau cuộc nhậu ở nhà Văn, Minh ngã bị thương vào mắt và tạm thời không thấy ánh sáng trong một khoảng thời gian, anh sinh ra tiêu cực, chán nản, càng đa nghi. Tuy vậy, chính Minh sau khi khỏi mắt cũng bị sắc đẹp của người con gái khác làm cho xao lòng, bỏ nhà ra đi.. *** Gánh Hàng Hoa gồm có: Hy Vọng Hạnh Phúc Sau Ngày Vui Hương Và Sắc Sáng Và Tối Hy Sinh Viết Báo Trong Vườn Bách Thảo Ánh Sáng Khủng Hoảng Hai Cảnh Mộng Con Đường Cũ Đời Vẫn Vui, Vẫn Đẹp Mời các bạn đón đọc Gánh Hàng Hoa của hai tác giả Khái Hưng & Nhất Linh.
Bông Huệ Đỏ - Anatole France
“Một trong những tác phẩm viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Pháp”. Sự đánh giá ấy đối với cuốn tiểu thuyết Bông huệ đỏ đã có từ lâu, và gần như được công nhận hoàn toàn trong đông đảo người đọc, cũng như trong giới phê bình Pháp.   Hay nhất, không phải vì nội dung tác phẩm, số phận nhân vật và tình yêu của họ đã vượt ra ngoài tầm cỡ con người bình thường, mà trái lại, là một bước dấn sâu hơn vào thế giới nội tâm phong phú phức tạp của những con người bình thường. Ba người ấy, nàng Thérèse diễm lệ và đa tình, chàng Le Ménil, rồi chàng Decharre, hoàn toàn không phải là những “siêu nhân”. Họ trần tục như hết thảy những người trần tục nhất. Họ đến với nhau, hòa quyện vào nhau, thiêu đốt nhau trong ngọn lửa đắm say cực kỳ mãnh liệt, để rồi cùng chính lúc ấy, họ gieo mầm khổ ải cho nhau bởi sự ham hố bất tận, tính ích kỷ và sự ghen tuông. Tình yêu là hạnh phúc, nhưng tình yêu cũng là khổ đau? Hạnh phúc trong khổ đau? Hay khổ đau trong hạnh phúc? Con người không phải không luôn luôn tự đặt ra những câu hỏi như vậy. Nhưng kết cục con người vẫn không thoát khỏi nỗi đam mê mà tấm lưới tình yêu đã giăng sẵn để đón chờ họ.   Bông huệ đỏ được viết sau hàng loạt các tác phẩm lừng danh của Anatole France, ghi nhận một bước chuyển khá quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của ông. Nếu như trong các tiểu thuyết Ðảo chim cụt, Thiên thần nổi loạn, Thais, v. v.., nhân vật của ông là những trí thức khép kín, mang nỗi đau khổ âm thầm của thời đại, thì trái lại, trong Bông huệ đỏ, Thérèse, Le Ménil, Decharre… đều bình thường, gần gũi. Có người cho rằng đó là sự phản ánh một phần tâm trạng thực của tác giả qua mối tình “hạnh phúc và đau khổ” của ông với bà Caillavel, người phụ nữ trí thức nổi tiếng thời bấy giờ.   NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ  ***   Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. *** Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.  - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.  - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.  - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:   + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)  + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)  + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)  + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)  - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.    Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972  - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.  - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.  - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.  - Thais- Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.  - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987.   Mời các bạn đón đọc Bông Huệ Đỏ của tác giả Anatole France.
Người Đưa Đường Thọt Chân - Bùi Việt Sỹ
Câu chuyên của cuốn sách dài 300 trang chỉ xoay quanh bản kê khai hải quan và chỉ diễn ra trong mấy giờ kiểm tra hàng hoá của một du học sinh Việt Nam sẽ gửi theo đường biển về nước. Thắng, vị tiến sĩ tân khoa là tuýp người điển hình cho cái thời gian khó ấy: Anh tháo vát, lanh lợi, chấp nhận hành xử hèn hèn để mưu cầu sự đổi đời cho mình và vợ con. Nhưng dù hoàn cảnh đã "uốn nắn" tính cách Thắng mềm đi đến mấy, Thắng vẫn còn hạt nhân lương tri và nó khiến anh day dứt khôn nguôi. Thắng khác hầu hết các nhân vật cùng loại, những chàng trọc phú hớn hở hợm hĩnh với mấy ngàn Dmak bồi thường không cả cần biết tới tương lai vô nghề nghiệp từng xuất hiện trên văn đàn thời đầu thập kỷ trước. Tiểu thuyết hấp dẫn chính nhờ tính cách hèn hèn nhưng vẫn đầy khát vọng cao sang của Thắng. Thắng mang hoa hồng đến làm thân với bà thiếu tá Hải quan Nga, chứ không mang tiền. Khi trả lời bà thiếu tá, đôi khi Thắng cũng nói dối cho qua chuyện, chẳng hạn với câu hỏi Mục đích đến Liên Xô, anh nghĩ rằng để đổi đời nhưng lại trả lời rằng để học tập; còn về cơ bản anh trả lời bằng các câu chuyện để qua nó làm mềm lòng người đàn bà thép với các câu hỏi tờ khai lạnh lùng. Để trả lời câu Từ đâu đến nước Nga và đã đến như thế nào? Thắng đã qua câu nói nổi tiếng của vợ một viên tướng trong phim Moscow không tin những giọt nước mắt: "Muốn có một vị tướng à? Thế thì trước hết hãy lấy một viên trung uý mới ra trường và theo hắn 15 năm hết các vùng biên cương này đến hải đảo xa xôi kia, cuối cùng còn phải chờ xem số phận có mỉm cười với mình không..." để kể lại hơn mười năm phấn đấu từ một học sinh xuất sắc, anh phải tham gia phục vụ chiến đấu trên mặt trận giao thông, lập nhiều công tích nhưng rồi vẫn phải hèn hèn làm thân với vợ chồng ông Viện trưởng, rồi lại phải mưu mẹo vượt qua các trò ma lanh khác để kiếm một suất sang đây. Để trả lời câu Mày làm gì ra mà nhiều tiền để mua nhiều hàng như thế, Thắng đã không đến nỗi nói rằng tôi sống bằng nước lã, nhưng anh cũng không dám nói toàn bộ sự thật về cuộc buôn bán chợ đen như một nền kinh tế thực sự hoạt động dưới cái vỏ của nó là nền kinh tế in giá cả lên hàng hoá nhưng mua xong bán lại thì vẫn kiếm lời từ chính nền kinh tế ấy. Những trang Thắng hồi tưởng về việc sản xuất áo lông thú giả cổ, việc bán nó và có thể đã bị lừa mất trắng, việc mua tủ đá chỉ dành bán cho những người có công huân... đã lột tả thật thê thảm hình ảnh một tiến sĩ học ở Liên Xô mà chỉ có hơn 70 từ tiếng Nga làm vốn và trả thi bằng những trò láu lỉnh được cho qua trong tinh thần hữu nghị, chiếu cố vì đất nước có chiến tranh... *** Chào một ngày tốt lành! Bà thiếu tá Hải quan Natalia vừa ngồi vào bàn, chuẩn bị cho một ngày làm việc mới, nghe thấy tiếng chào vội ngước mắt lên. Trước mắt bà là Thắng cùng với chàng thanh niên hôm ấy. Thắng vẫn ăn vận com lê lịch sự và trên tay vẫn có một bó hồng nhung đỏ tím, loại hoa quý và đắt tiền ở xứ lạnh. - Chào một ngày tốt lành! - Bà đáp lại và vội vã đứng lên. Đại uý Ivan, như lần trước, khoanh hay tay trước ngực, đứng tựa lưng vào cạnh bàn đối diện. - Thế nào, anh bạn trẻ thân mến của tôi! - Sau một chút xúc động, bà lấy lại được vẻ tự chủ và cất tiếng hỏi. - Cảm ơn bà! Mọi việc đều bình thường - Thắng mỉm cười, đáp vui vẻ tự tin. - Bình thường ư? - Bà hơi kéo dài giọng, cố ý nhấn mạnh câu trả lời của Thắng. Lạy chúa tôi. - Bà nói tiếp mà không làm dấu thánh. Còn về phần tôi thì thế này. Bà cân nhắc từng từ để nói tiếp. Tất cả hàng hoá của anh, tôi đã cho niêm phong và để vào góc kho. Đồng thời tôi cũng đã làm tờ trình, thỉnh thị ý kiến giải quyết của trên. Đó là tờ trình đầu tiên, sau hai mươi nhăm năm trong nghề của tôi. - ồ cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của bà! Giọng Thắng vẫn giữ được vẻ bình thản mà lịch sự. - Và tôi đã nhận được tờ phúc đáp như sau. Bà cúi xuống lục tìm trong một cặp hồ sơ. Và một phút sau, bà rút ra một tờ giấy cứng như một tờ bìa mầu trắng, trên đó có đánh máy các điều cần thực hiện. Rồi bà chậm rãi đọc: A. Chiếc Viđiô Sanyo người gửi hàng có thể đưa đến cửa hàng đồ cũ, ký gửi, sau đó mua lại. Khi đã có hoá đơn mua tại cửa hàng, khách gửi sẽ được làm thủ tục xuất theo luật lệ hiện hành. B. Về chiếc đàn Pianô của Italia, khách gửi phải làm đơn đưa lên Sở Văn hoá thành phố, Sở sẽ lập Hội đồng giám định xét duyệt xem có được cho xuất hay không? Chiểu theo quyết định đó, Hải quan cửa khẩu biển sẽ thi hành. ... Mời các bạn đón đọc Người Đưa Đường Thọt Chân của tác giả Bùi Việt Sỹ.