Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lai Lịch

Câu chuyện về một lần biến mất để tự tìm lại chính mình. Les Echos. Một bầu không khí bao trùm ngay từ trang đầu tiên, và vẫn còn bao bọc ta sau khi đã gấp sách lại rất lâu. Chatelaine. Một văn phong riêng biệt mà Modiano sử dụng để nhắc chúng ta nhớ rằng ông sẽ luôn trung thành với chính mình. La Presse. "Tôi viết những dòng này giống như người ta soạn một biên bản hoặc một bản lý lịch trích ngang, để làm tài liệu tham khảo, và hẳn là để dứt khoát với một quãng đời không phải của tôi. Những sự kiện mà tôi nhắc đến, từ thuở ấu thơ cho đến năm hai mươi mốt tuổi, tôi đã trải qua như trong một vở diễn, khi mà người ta cho các khung cảnh lướt đi ở đằng sau còn các diễn viên vẫn bất động trên sân khấu. Tôi muốn diễn tả cái cảm giác mà nhiều người đã từng cảm nhận trước tôi: mọi thứ cứ thế trôi qua, mà tôi vẫn chưa thể sống cuộc sống của chính mình." Cuốn sách giống như lời độc thoại của tác giả, thấm đẫm những hoài niệm u buồn, không rõ rệt. Vẫn là văn phong riêng biệt, với những câu ngắn, ít động từ và không có câu chữ chuyển tiếp, tưởng như ta đang cùng Patrick Modiano lật giở từng tấm thẻ ghi chép để tìm lại những ký ức gắn liền với chúng. Những dòng văn đầy cảm xúc mà dè dặt đưa độc giả đến với những tâm sự thầm kín của một con người đau đáu tìm về cội rễ của chính mình. Một tác phẩm nhẹ nhàng mà khiến ta lay động cả tâm can. TÁC GIẢ: Patrick Modiano, sinh năm 1945 tại Pháp, có cha là người Ý gốc Do Thái, mẹ là nghệ sĩ người Bỉ. Patrick Modiano được coi là một trong những nhà văn tài năng nhất thế hệ của ông. Là nhà thám hiểm quá khứ, ông biết cách khơi gợi lên một cách vô cùng chính xác và chi tiết bầu không khí của những địa điểm hay những thời đại đã qua, ví dụ như Paris thời bị Đức chiếm đóng. Ngoài tiểu thuyết, Patrick Modiano còn viết kịch bản, lời bài hát. Ông đã giành được rất nhiều giải thưởng danh giá, trong đó phải kể đến Giải Goncourt năm 1978 và Giải Nobel văn chương năm 2014. Các tác phẩm cùng tác giả:  Phố những cửa hiệu u tối Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối Từ thăm thẳm lãng quên Để em khỏi lạc trong khu phố Quảng trường Ngôi sao Catherine cô bé đeo mắt kính Một gánh xiếc qua Những đại lộ ngoại vi *** Modiano vẫn thế và mãi như thế, vẫn là một cơn dấn thân vào trong ký ức để truy tìm bản thân là ai. Được xếp cùng hàng với Quảng trường ngôi sao và Một gánh xiếc qua – những cuốn sách khó đọc nhất của ông, Lai lịchlà bản tường trình của những tiếng nói vọng về từ xa, của một Modiano từ lúc trưởng thành đến khi 21 tuổi, ở quãng thời gian mà con ngựa bất kham bắt đầu lồng lên phá vỡ kìm tỏa bên trong mình. Tiếp nối câu chuyện về băng đảng phố Lancaster trong tác phẩm trước – Kho đựng nỗi đau, Lai lịch là dấu gạch nối giữa những ngày đầu của sự mất mát và việc bị bỏ mặc với sự trả thù trong “trường đoạn đau đớn ở ga tàu điện ngầm George IV”của Những đại lộ vành đai. Lai lịch rõ ràng không chứa những dấu ấn riêng của Modiano với cái bảng lảng, phủ mờ của Paris phồn hoa hay sự hoài nhớ lại những miền xa; mà thay vào đó, cuốn tiểu thuyết này độc chua chát và mãi đớn đau, mà như chính Modiano từng thừa nhận trong những trang viết, đó là một sự chán nản khi nêu ra hàng loạt những cái tên có phần dính líu hay từng can dự vào câu chuyện đời ông. Hình tượng người cha, hơn bao giờ hết, hiển hình trong Lai lịch thật sự đủ đầy và không còn chỉ thoắt ẩn thoắt hiện trong các trước tác khác. Nếu Những đại lộ vành đai cho ta góc nhìn về người đàn ông mỏi mệt trước những biến cố lịch sử, thì Lai lịch sâu sắc hơn thế, là cái nhìn thẳng vào một xã hội bên lề với trò bịp bợm đến mức thượng thặng của người đàn ông tìm mọi cách ngắt kết nối với con trai mình ở trường nội trú, ở vùng Bordeaux, ở trạm cảnh sát hay trong quân đội. Với cuốn tiểu thuyết lạ lẫm mà cũng xót xa một cách đớn đau này, Patrick Modiano lần nữa tìm về đêm lạnh lãng quên, để đến với những trại lính trống trơn, với những hành khách mờ ảo bước qua sân ga hoang vắng của nhừng thân tín từ trong quá khứ. Ở đó, bóng tối ám mùi da thuộc mãi luôn tồn tại, loáng thoáng và giày vò mãi nơi con người ấy. Một cuốn tiểu thuyết đầy tạp âm trắng của những câm lặng. *** Tôi sanh ngày 30 tháng Bảy năm 1945, ở Boulogne-Billancourt, số 11 hẻm Marguerite, có cha gốc Do Thái và mẹ người Flamande quen nhau tại Paris dưới thời Đức chiếm đóng. Tôi viết “Do Thái” vậy chớ không thực sự biết từ đó có ý nghĩa như thế nào đối với cha tôi và chỉ bởi vì thời đó tôi có thấy nó xuất hiện trên mấy tấm thẻ căn cước. Biến loạn cực độ thường gây ra những cuộc gặp gỡ tình cờ, với hậu quả là chưa bao giờ tôi cảm thấy mình giống một đứa con trong giá thú, lại càng không phải một kẻ thừa kế của cha mẹ. Mẹ tôi sanh năm 1918 ở Antwerp. Buổi ấu thơ của bà trải qua ở ngoại thành, đâu đó giữa Kiel và Hoboken. Cha bà là lao công, sau làm phụ tá chuyên viên trắc địa. Ông ngoại bà, Louis Bogaerts, làm bốc xếp ngoài bến cảng. Ông được lấy làm hình mẫu cho bức tượng công nhân bốc xếp, do Constantin Meunier tạc, đặt trước Tòa Thị chính Antwerp. Tôi còn giữ quyển loonboek[1] năm 1913, trong đó ông ghi chú tất cả những con tàu ông từng xếp dỡ: Michigan, Elisabethville, Santa Anna… Ông tử nạn vì ngã trong khi làm việc, năm ấy ông chừng sáu mươi lăm tuổi. Thuở nhỏ, mẹ tôi theo đội thiếu niên Chim cắt Đỏ[2]. Bà làm việc trong Công ty Hơi đốt. Buổi tối, bà theo học các lớp kịch nghệ. Năm 1938, bà được nhà sản xuất kiêm đạo diễn điện ảnh Jan Vanderheyden tuyển mộ cho những tuồng phim hài tiếng flamand[3]. Tổng cộng bốn cuốn đã được thâu hình trong những năm từ 1938 tới 1941. Bà làm vũ nữ trình diễn trong các màn ca vũ tạp kỹ ở Antwerp và Brussels, và trong số vũ sư, nghệ sĩ, có rất đông người tỵ nạn từ Đức chạy sang. Ở Antwerp, bà sống trong một căn nhà nhỏ đường Horenstraat cùng với hai người bạn: một vũ sư, Joppie Van Allen, và Leon Lemmens, người gần như là thư ký kiêm cò dắt mối cho một tay đồng tính giàu có, Nam tước Jean L., người về sau thiệt mạng trong một trận oanh tạc ở Ostende, tháng Năm năm 1940. Một người bạn tốt của bà là Lon Landau làm nghề trang trí sân khấu, rồi bà sẽ gặp lại ở Brussels năm 1942 khi ông ta bị bắt đeo phù hiệu sao vàng[4]. Tôi cố thuật chuyện theo trình tự thời gian, vì không có dấu mốc nào khác. Năm 1940, sau khi Đức chiếm Bỉ, bà sống ở Brussels. Bà hứa hôn với một chàng tên Georges Niels, viên giám đốc hai mươi tuổi của khách sạn Canterbury. Nhà hàng trong khách sạn nầy bị các viên chức Propaganda-Staffel[5] trưng dụng một phần. Mẹ tôi trú tại Canterbury, nhờ đó gặp đủ mọi hạng người. Tôi không biết gì về những người đó. Bà làm việc cho chương trình tiếng flamand của đài phát thanh. Bà được nhận vào làm ở Hí viện Ghent. Tháng Sáu năm 1941, bà tham gia chuyến đi vòng quanh các hải cảng bên bờ Đại Tây Dương và eo biển Manche để trình diễn trước thợ thuyền người Flamande của Tổ chức Todt hoặc phục vụ phi công Đức ở Hazebrouck, xa hơn về phía Bắc. Hồi đó mẹ tôi còn là thiếu nữ, đẹp và lạnh lùng. Hôn phu tặng bà một con chó sư-tử-xù[6] nhưng bà không săn sóc nó mà đem gởi hết người nầy tới người nọ, y như bà đối với tôi sau nầy. Con chó rồi sẽ nhảy qua cửa sổ tự tử. Con sư-tử-xù có xuất hiện trong hai hay ba tấm ảnh và phải thú nhận rằng tôi thương và cảm thấy thân thiết với nó vô cùng. Cha mẹ của Georges Niels là chủ khách sạn giàu có ở Brussels, không muốn mẹ tôi cưới con trai họ. Bà quyết định rời Bỉ. Người Đức có ý định cử bà đi học trường điện ảnh ở Berlin nhưng một sĩ quan trẻ của Propaganda-Staffel, quen mẹ tôi ở khách sạn Canterbury, đã gỡ bà ra khỏi một ngã rẽ tồi tệ bằng cách gởi bà sang Paris, đến hãng phim Continental đương dưới quyền điều khiển của Alfred Greven. Bà tới Paris vào tháng Sáu năm 1942. Greven cho mẹ tôi thử diễn xuất ở trường quay Billancourt nhưng chưa chính thức thâu nhận. Bà làm trong bộ phận lồng tiếng của Continental, chuyên viết phụ đề tiếng Hòa Lan cho các phim Pháp do hãng nầy sản xuất. Bà thành tình nhân của Aurel Bischoff, một trong mấy viên phụ tá cho Greven. Ở Paris, bà trọ một phòng tại số 15 bến Conti, trong căn chung cư mướn lại của một tay buôn đồ cổ từ Brussels cùng cậu bạn của anh ta, Jean de B., mà tôi tưởng còn chưa đủ tuổi thành niên, có mẹ và các chị em gái sống trong lâu đài dưới miệt Poitou, lén lút viết cho Cocteau những bức thư nồng nhiệt. Qua trung gian của Jean de B., mẹ tôi gặp tên Đức trẻ Klaus Valentiner, đang ẩn mình cầu an trong một sở công vụ hành chánh. Y sống trong nhà xưởng trên bến Voltaire, có giờ rảnh thì đọc những quyển tiểu thuyết mới nhất của Evelyn Waugh. Sau, y bị đẩy ra tiền tuyến chống Nga rồi tử trận. Khách thăm viếng căn chung cư bến Conti còn có: một thanh niên Nga, Georges d’Ismaïloff, mắc bịnh lao nhưng ra đường không chịu khoác măng tô giữa trời đông giá của những năm Đức chiếm đóng. Gã Hy Lạp tên Christos Bellos, bị lỡ chuyến tàu chót đi Mỹ mà theo lẽ gã sẽ được đoàn tụ với một người bạn ở đó. Một cô nàng cỡ tuổi mẹ tôi, Geneviève Vaudoyer. Những người nầy giờ chỉ còn cái tên lưu lại. Gia đình Pháp khá giả đầu tiên đón tiếp mẹ tôi: gia đình của Geneviève Vaudoyer và cha cô, ông Jean-Louis Vaudoyer. Geneviève Vaudoyer giới thiệu mẹ tôi với Arletty, cũng ngụ tại bến Conti trong tòa nhà kế cận số 15. Arletty nhận che chở cho mẹ tôi. Bạn đọc thứ lỗi cho tôi về những cái tên đã và sẽ liệt kê tiếp sau đây. Tôi là con chó cứ làm bộ như mình thuộc giống thuần có sổ lai lịch. Cha và mẹ tôi không hề gắn bó với môi trường nào cố định. Họ vất vưởng, bất định đến nỗi tôi buộc phải nỗ lực tìm lấy một vài dấu vết, một vài cọc tiêu giữa cái bãi cát lún ấy, giống như người ta cố gắng điền tờ giấy hộ tịch hoặc phiếu điều tra hành chánh bằng những con chữ lờ mờ, nửa còn nửa mất. Cha tôi sanh năm 1912 tại Paris, hẻm Square Pétrelle, giáp ranh giữa quận 9 và quận 10. Cha ông gốc người Thessaloniki, xuất thân từ một dòng họ Do Thái xưa ở vùng Tuscany dọn tới định cư trong lãnh thổ của Đế chế Ottoman. Ông có các anh chị em họ ở Luân Đôn, Alexandria, Milan và Budapest. Bốn người anh chị em họ của cha tôi, Carlo, Grazia, Giacomo và vợ ông ta Mary, sau sẽ bị lực lượng SS sát hại bên Ý, thị xã Arona, hồ Maggiore vào tháng Chín năm 1943. Ông nội tôi bỏ Thessaloniki đi sang Alexandria lúc hãy còn nhỏ. Nhưng chỉ sau vài năm ông lại sang Venezuela. Tôi nghĩ là ông đã cắt đứt mọi liên hệ với quê hương và gia đình. Thoạt tiên, ông hứng thú với nghề buôn ngọc trai trên đảo Margarita, kế đó lại trông coi một vựa ve chai ở Caracas. Rời Venezuela, ông đến Paris sinh sống vào năm 1903. Ông mở tiệm đồ cổ số 5 đường Châteaudun chuyên bán đồ mỹ nghệ Trung Hoa và Nhật Bản. Ông có sổ thông hành Tây Ban Nha và, cho tới cuối đời, vẫn xin để tên trong sổ bộ của tòa lãnh sự Tây Ban Nha tại Paris, mặc dầu tổ tiên ông đã từng sống trong vùng bảo hộ của các lãnh sự Pháp, Anh, Áo dưới danh nghĩa “thuộc dân Tuscany”. Tôi đã cất giữ nhiều quyển sổ thông hành của ông, trong đó có một quyển do tòa lãnh sự Tây Ban Nha ở Alexandria cấp phát. Và một giấy, lập năm 1894 tại Caracas, xác nhận ông là hội viên của Hội Bảo vệ động vật. Bà nội tôi sanh ở Pas-de-Calais. Cha bà, vào năm 1916, sống trong một khu ngoại thành Nottingham. Thế nhưng, bà cũng sẽ chọn quốc tịch Tây Ban Nha sau khi lấy chồng. Cha tôi mất cha năm lên bốn. Tuổi ấu thơ sống trong con hẻm Cité d’Hauteville, quận 10 Paris. Học nội trú tại trung học Chaptal, ở lại trường cả thứ Bảy và Chủ nhật, theo lời ông kể tôi nghe. Từ phòng ngủ cư xá, ông bị nghe đủ loại nhạc hội chợ tổ chức trên dải đất trống phân cách giữa đại lộ Batignolles. Ông rớt tú tài. Ông cô độc suốt thời niên thiếu và tuổi xanh. Mới mười sáu tuổi, ông với đám bạn đã thường lui tới khách sạn Bohy-Lafayette[7], mấy quán bar trên đường faubourg Montmartre, đường Cadet, khu Luna Park[8]. Ông tên Alberto nhưng người ta cứ gọi Aldo. Mười tám tuổi, ông làm chuyển vận xăng lậu từ ngoài vào Paris, trốn các thứ thuế nhập thị[9] do Đô thành đặt ra. Mười chín tuổi, ông thỉnh cầu một viên giám đốc nhà băng Saint-Phalle hậu thuẫn ông thực hiện các nghiệp vụ “tài chánh”, và bằng lời lẽ thuyết phục thế nào đó mà người nầy ưng thuận. Nhưng rồi vụ làm ăn thất bại vì cha tôi còn vị thành niên, tư pháp can thiệp. Hai mươi tư tuổi, ông mướn một căn phòng số 33 đại lộ Montaigne và, theo tài liệu tôi còn giữ, ông thường xuyên đi Luân Đôn để dự phần vào việc thành lập công ty Bravisco Ltd. Mẹ ông qua đời năm 1937 trong một nhà trọ bình dân trên đường Roquépine nơi ông từng lưu trú một thời gian với em trai ông là Ralph. Kế đó, ông thuê buồng trong khách sạn Terminus gần nhà ga xe lửa Saint-Lazare, rồi bỏ đi mà không trả tiền trọ. Ngay trước khi nổ ra cuộc can qua, ông coi sóc một tiệm bán quần vớ phụ nữ và nước hoa, số 71 đại lộ Malesherbes. Thời kỳ nầy, ông sống trên đường Frédéric-Bastiat (quận 8). Chiến tranh xảy đến khi cha tôi chưa tạo dựng được một cơ sở dù nhỏ nhưng ông đã kịp biết cách xoay xở mà sống. Năm 1940, ông nhờ gởi thư về khách sạn Victor-Emmanuel III, số 24 đường Ponthieu. Trong thư đề năm 1940 gởi cho em trai Ralph từ Angoulême nơi ông bị động viên vào một trung đoàn pháo binh, ông có nhắc tới một chiếc đèn chùm bị họ đem đi cầm ngoài tiệm cầm đồ. Một lá thư khác, ông yêu cầu gởi tới Angoulême cho ông tờ tuần san Courrier des pétroles[10]. Trước đó, những năm 1937-1939, ông từng chạy “áp-phe” xăng dầu cùng một nhân vật tên Enriquez: Công ty Royalieu, xăng dầu Romania. Sự kiện nước Pháp thất thủ tháng Sáu năm 1940 thình lình trói chân ông trong trại lính Angoulême. Ông không bị bắt tù binh vì Đức tặc chỉ tới Angoulême sau ký kết thỏa thuận đình chiến. Ông tị nạn tại Sables-d’Olonne cho tới tháng Chín. Ở đó, ông gặp lại ông bạn Henri Lagroua và hai cô bạn chung của họ, một cô là Suzanne gì đó, cô còn lại là Gysèle Hollerich, vũ sư của tiệm nhảy Tabarin. Trở về Paris, ông không khai mình là người Do Thái. Ông sống cùng chú Ralph tôi, đương ở đậu nhà cô đào của chú nầy, người đảo Mauritius có sổ thông hành Anh quốc. Căn chung cư ngụ tại số 5 đường Saussaies, ngay sát bên Gestapo[11]. Cũng bởi cuốn sổ thông hành ăng-lê mà cô nàng phải lên ty cảnh sát trình diện mỗi tuần. Rồi nàng sẽ phải trải qua nhiều tháng lưu trú cưỡng bách tại Besançon và Vittel vì là “người Anh”. Cha tôi có bạn gái, Hela H., người Do Thái Đức, trước là hôn thê của Billy Wilder[12] hồi ở Berlin. Họ bị tóm vào một đêm tháng Hai năm 1942 tại một quán ăn trên đường Marignan, trong một cuộc kiểm tra căn cước, người ta kiểm tra rất ngặt vào tháng đó, vì có sắc lệnh mới được ban hành cấm người Do Thái lai vãng ngoài đường và các nơi công cộng sau tám giờ tối. Cha tôi và cô bạn gái lại không mang theo bất cứ giấy tờ tùy thân nào. Hai người bọn họ liền bị mấy thẩm sát viên tống lên cần xé xà-lách[13] chở tới đường Greffulhe để “xác minh”, gặp ông cò tên là Schweblin gì đó. Cha tôi phải chối tên tuổi thật của mình. Bị cảnh sát tách ra khỏi cô bạn gái, ông lợi dụng đúng lúc đèn hẹn giờ phụt tắt, trốn thoát ngay khi người ta sửa soạn đưa ông qua trại tạm giam. Hela H. được phóng thích ngày hôm sau, chắc hẳn là nhờ có sự can thiệp từ một người bạn của cha tôi. Là ai? Tôi thắc mắc suốt. Sau cuộc đào tẩu, cha tôi núp dưới gầm cầu thang một tòa nhà trên đường Mathurins, cố gắng tránh đánh động người gác-dan. Ông qua đêm ở đây vì mắc kẹt giờ giới nghiêm. Sớm hôm sau, ông về đường Saussaies. Rồi ông cuốn gói đi với chú Ralph và cô nàng đảo Mauritius, tạm lánh trong một khách điếm, T Alcyon de Breteuil, do mẹ một người bạn của họ làm chủ. Sau khoảng thời gian nầy, ông với Hela H. mướn một căn phòng cho thuê sẵn đồ đạc nằm trong hẻm Square Villaret-de-Joyeuse, rồi tiếp theo dọn qua khách sạn Les Marronniers, đường Chazelles. Trong số những người giao du với cha tôi thời gian đó, tôi lục ra được Henri Lagroua, Sacha Gordine, Freddie McEvoy, nhà vô địch môn xe trượt lòng máng đồng thời là một tay đua xe hơi, người Úc Đại Lợi, mở chung một “hiệu buôn” với cha tôi trên đại lộ Champs-Élysées ngay sau 1945 mà tôi không rõ tên là gì; một Jean Koporindé nào đó (189 đường Pompe), Geza Pellmont, Toddie Werner (thường gọi là “Bà Sahuque”) và bạn của cô ta là Hessien (Liselotte), Kissa Kouprine, người Nga, con gái của nhà văn Kouprine. Nàng từng quay vài cuốn phim và đóng một vở kịch của Roger Vitrac, Những thiếu nữ trùng dương[14]. Flory Francken, tức Nardus, cha tôi gọi tắt là “Flo”, con gái của một họa sĩ Hòa Lan, lớn lên ở Tunisia. Sau, nàng dọn đến Paris và năng lui tới khu Montparnasse. Năm 1938, nàng vướng vào một vụ lôi thôi phải nhận trát ra hầu tòa tiểu hình và năm 1940, nàng kết hôn với tài tử xứ Phù Tang Sessue Hayakawa. Thời Đức chiếm đóng, nàng kết thân với cô đào màn bạc Dita Parlo, từng thủ vai nữ anh hùng trong cuốn phim L’Atalante, và người tình của cô ta là bác sĩ Fuchs, một trong những người cầm đầu dịch vụ “Otto”, đầu nậu số một thị trường chợ đen, số 6 đường Adolphe-Yvon, quận 16. Đó đại khái là cái thế giới nơi cha tôi đã sống. Xã hội bên lề? Bịp bợm thượng thặng?[15] Tôi trích thêm ra đây một cô nàng người Nga khác, trước khi cô chìm vào đêm lạnh của lãng quên[16], Galina, tự là “Gay” Orloff, một người bạn gái của cha tôi thuở đó. Cô nầy di cư sang Mỹ từ lúc rất trẻ. Hai mươi tuổi, cô nhảy cho một hí trường ở Florida, tại đó cô gặp gỡ và trở thành nhân tình của một người đàn ông thấp lùn, tóc nâu, rất mẫn cảm và rất lịch thiệp tên Lucky Luciano. Dọn đến Paris, cô hành nghề người mẫu rồi kết hôn để lấy Pháp tịch. Đầu thời Chiếm đóng, cô sống với một người Chi Lê, Pedro Eyzaguirre, “Bí thư Công sứ”, rồi lại sống một mình ở khách sạn Chateaubriand, đường Cirque, cha tôi thường đến đây gặp cô. Cô có tặng một con gấu bông hồi tôi được mấy tháng tuổi và tôi giữ nó rất lâu như một thứ bùa hộ mạng, như kỷ niệm duy nhất từ một người mẹ quá cố. Cô kết liễu đời mình ngày 12 tháng Hai năm 1948, hưởng dương ba mươi bốn tuổi. An táng tại Sainte-Geneviève-des-Bois. Dàn danh sách những cái tên này ra càng dài và cho điểm danh lần lượt như trong một trại lính trống trơn, tôi càng thấy đầu mình quay cuồng, hơi thở hổn hển. Những con người lạ lùng. Ở thời buổi bất thường, tranh tối tranh sáng. Cha mẹ tôi gặp nhau trong bối cảnh như thế, giữa những con người cũng giống y như họ. Hai cánh bướm lạc loài, vô tri giữa một thành phố không-ánh-nhìn. Die Stadt ohne Blick[17]. Tôi có thể làm gì được, đó là thứ đất thịt - hay đất mùn bón phân - để từ đó cái cây là thằng tôi mọc lên. Những mẩu vụn thông tin mà tôi gom góp lại từ cuộc đời họ, tôi có được chủ yếu từ phía mẹ tôi. Cái hỗn độn, mờ đục của thế giới ngầm, của hoạt động chợ đen mà cha tôi đã kinh qua vì không-có-lựa-chọn, che khuất rất nhiều chi tiết đời tư của ông. Thành thử mẹ tôi cũng không biết được bao nhiêu. Tới hồi chung cuộc, ông đem theo những bí mật đó xuống tuyền đài. Cha mẹ tôi quen biết nhau vào một buổi tối tháng Mười năm 1942, ở nhà Toddie Werner, tức “Bà Sahuque”, số 28 đường Scheffer, quận 16. Cha tôi lúc đó dùng tấm thẻ căn cước mang tên ông bạn Henri Lagroua. Hồi nhỏ, tôi nhớ vẫn thấy cái tên “Henri Lagroua” trong tờ danh sách trú khách, có từ thời Đức chiếm đóng, dán trên cửa kiếng phòng ông gác-dan nhà số 15 bến Conti, nằm đối diện dòng chữ “lầu 4”. Tôi hỏi bác gác-dan “Henri Lagroua” nầy là ai. Ông đáp: ông già cậu. Căn cước kép của cha làm tôi sửng sốt. Mãi sau nầy tôi mới biết, giai đoạn đó, ông còn mang những cái tên khác mà một thời gian sau chiến tranh, chúng vẫn gợi nhớ tới khuôn mặt ông trong ký ức của nhiều người. Rồi những cái tên đến cuối cùng cũng phải tách lìa khỏi linh hồn tội nghiệp cưu mang chúng, và chúng lấp lánh trong trí tưởng - hình dung của chúng ta như những vì sao xa. Mẹ giới thiệu cha tôi với Jean de B. và vài người bạn. Họ cảm thấy cha tôi có “dáng dấp lạ đời của dân Nam Mỹ” và nhẹ nhàng khuyên mẹ tôi nên “dè chừng”. Mẹ thuật lại chuyện đó cho cha nghe, ông cười rằng lần sau sẽ ra bộ “kỳ cục hơn nữa” và sẽ “dọa cho họ sợ khiếp”. Ông không phải dân Nam Mỹ nhưng tồn tại không giấy tờ hợp lệ và sống nhờ chợ đen. Có nhiều thang máy chạy dọc theo hành lang thương xá Arcades du Lido[18] dẫn lên lầu, mẹ tôi đến tìm cha ở một trong những cửa tiệm trên đó. Lần nào cũng có nhiều người ở đó xung quanh cha tôi mà tôi không rõ tên tuổi. Ông giữ liên hệ đặc biệt với “hiệu buôn” số 53 đại lộ Hoche do hai anh em người Armenia đứng trông coi, mà ông có dịp quen biết họ từ trước chiến tranh: Alexandre và Ivan S. Ông giao cho anh em họ nhiều món hàng, trong số đó nhiều xe vận tải nguyên chuyến chỉ chở bạc đạn cũ tồn kho của hãng SKF, quá hạn, gỉ sét và không còn sử dụng được, chất đống trong kho cảng Saint-Ouen. Lục lọi tình cờ, tôi phát hiện ra tên những người làm việc cho số 53 đại lộ Hoche: Nam tước Wolff, Dante Vannuchi, bác sĩ Patt, “Alberto”, rồi thắc mắc liệu đây chỉ là những bí danh mà cha tôi sử dụng chăng. Tại hiệu buôn đại lộ Hoche, cha tôi đã gặp André Gabison, chủ của sản nghiệp, là người mà ông thường nhắc trong câu chuyện với mẹ tôi. Trên tay tôi lại có một tờ danh sách nhân viên mật vụ Đức đề năm 1945, trong đó xuất hiện một ghi chú dành riêng cho nhân vật nầy: Gabison (André). Quốc tịch Ý, sinh năm 1907. Tiểu thương gia. Sổ thông hành số 13755 cấp phát tại Paris ngày 18/11/42 cho biết y là thương nhân Tunisia. Từ năm 1940, là hội viên góp vốn của công ty Richir (hiệu buôn 53 đại lộ Hoche). Năm 1942, phái viên của Richir ở San Sebastian. Tháng Tư năm 1944, hoạt động dưới quyền một nhân viên SD[19] tên Rados, đi lại thường xuyên giữa Hendaye và Paris. Tháng Tám năm 1944, bị chỉ điểm là đội viên phân đội 6 sở SD Madrid, dưới quyền chỉ huy của Martin Maywald. Địa chỉ: phố Jorge Juan 17, Madrid (điện thoại: 50.222). Các mối quan hệ khác của cha tôi thời Chiếm đóng, ít ra là những người mà tôi nhận biết, gồm: nhà ngân hàng Ý Đại Lợi, Georges Giorgini-Schiff và bạn gái Simone, cô nầy về sau cưới ông chủ của Moulin-Rouge là Pierre Foucret. Văn phòng của Giorgini-Schiff nằm ở số 4 đường Penthièvre. Cha tôi mua của ông ta viên kim cương lớn màu hường để rồi sau chiến tranh, gặp lúc túng tiền, đã định bán lại cho ông ta. Giorgini-Schiff bị Đức bắt tháng Chín năm 1943[20], sau cuộc đình chiến ký kết giữa Ý và phe Đồng minh. Thời Chiếm đóng, ông ta có giới thiệu cha mẹ tôi với tiến sĩ Carl Gerstner, là cố vấn kinh tế Tòa Đại sứ Đức, có bạn gái, Sybil, gốc Do Thái; sang thời hậu chiến, trở thành nhân vật “quan trọng” ở Đông Berlin. Annet Badel: cựu luật sư, giám đốc rạp Vieux-Colombier năm 1944. Cha tôi làm ăn chui với ông ta và con rể là Georges Vikar. Badel gởi cho mẹ tôi một bản sao kịch bản Xử kín[21] của Sartre mà ông ta sẽ dàn dựng vào tháng Năm năm 1944 ở Vieux-Colombier, nhan đề ban đầu là “Tha nhân”[22]. Bản đánh máy “Tha nhân” đó còn lưu lại phòng tôi trên lầu năm bến Conti, sâu trong hộc tủ âm tường, cho tới năm tôi mười lăm tuổi. Badel tưởng rằng mẹ tôi vẫn giữ liên lạc với người Đức, thông qua hãng phim Continental, và do đó, nhờ sự trung gian của bà mà ông ta có thể sớm xin được giấy phép kiểm duyệt cho vở kịch. Những người thân cận khác của cha tôi: André Camoine, bán đồ cổ, bến Voltaire. Maria Tchernychev, con gái của một dòng quý tộc Nga đã “sa sút”, cùng với cha tôi dự phần vào các vụ làm ăn lậu lớn; những vụ khiêm tốn hơn, cha tôi bắt tay với một “Ông Fouquet”. Ông Fouquet nầy có cửa tiệm trên đường Rennes và có nhà là biệt thự ngoại thành Paris. Tôi nhắm mắt lại và thấy cái dáng đi bệ vệ của Lucien P. từ sâu thẳm tận cùng trong quá khứ bước tới. Tôi nghĩ nghề của ông ta là đứng trung gian đưa người nọ đến với người kia. Ông ta mập bự khủng khiếp, nên hồi tôi nhỏ, mỗi lần thấy ông ta ngồi xuống ghế là tôi cứ sợ nó sẽ bẹp gí dưới sức nặng của ông ta. Hồi cha tôi và ông ta còn trẻ, Lucien P. là kẻ si tình sướt mướt của cô đào Simone Simon, lẽo đẽo theo cô từng bước như con chó bông bự. Ông ta cũng làm bạn với Sylviane Quimfe, nhà mạo hiểm kiêm quán quân môn bi-a, là bà Hầu tước d’Abrantès[23] thời Đức chiếm đóng, và là nhân tình của một đại ca băng đảng đường Lauriston. Những nhân vật hầu như tôi không thể dừng lại xem xét quá kỹ. Họ như những hành khách mờ ám lướt qua sảnh nhà ga, và tôi không bao giờ biết họ đi về đâu, giả thử họ có một cái đích để về. Kết thúc danh sách ma nầy, tôi thấy phải đề cập tới hai anh em Ivan và Alexandre S. mà tôi ngờ rằng họ song sinh. Alexandre có bạn gái tên Inka, vũ sư Phần Lan. Anh em họ có lẽ đã là những ông trùm chợ đen có số, bởi vì, trong thời kỳ Chiếm đóng, họ đã ăn mừng “bạc tỷ đầu tiên” kiếm được, tại căn chung cư của Ivan S. trong tòa nhà đồ sộ ở số 1 đại lộ Paul-Doumer. Y tháo chạy sang Tây Ban Nha vào ngày Giải phóng, giống trường hợp André Gabison. Còn Alexandre S. ra sao? Tôi thắc mắc. Nhưng mà, có cần thiết đặt câu hỏi cho mình không? Tôi, trái tim tôi đập cho những người có gương mặt xuất hiện trên khắp các “Bích chương đỏ”[24]. Jean de B. cùng nhà buôn đồ cổ Brussels rời căn chung cư bến Conti đầu năm 1943 và cha mẹ tôi thu xếp cư ngụ ở đó, cả hai người. Trước khi làm bạn đọc chán ngấy hoàn toàn và tôi thì mất hết can đảm cũng như hơi sức để tiếp tục, xin hãy xem thêm vài mẩu vụn cuộc đời cha mẹ tôi và cái thời đại xa xăm họ từng sống, giờ đã nhạt nhòa[25]. Họ có lần đi lánh nạn ở Ablis trong lâu đài Bréau, với Henri Lagroua và bạn gái là Denise. Lâu đài Bréau bị bỏ hoang. Chủ lâu đài người Mỹ, rời Pháp để tránh chiến tranh, nên giao lại chìa khóa cho bọn họ. Ở đồng quê, mẹ tôi chơi mô tô cùng Lagroua trên chiếc BSA 500 phân khối của anh ta. Bà ở cùng cha tôi tháng Bảy và tháng Tám năm 1943 tại quán trọ Le Petit Ritz, thị xã Varenne-Saint-Hilaire. Giorgini-Schiff, Simone, Gerstner và bạn gái Sybil cũng đến đó hội ngộ với cha mẹ tôi. Tắm trên dòng sông Marne. Quán trọ nầy là chỗ trú của vài kẻ vô lại với “vợ” của họ, trong số đó có một gã “Didi” và ghệ của y là “Bà Didi”. Buổi sáng, đám đàn ông lái xe đi lo những thứ việc mờ ám và từ Paris quay về thật muộn. Có đêm, cha mẹ tôi nghe tiếng tranh cãi trên đầu phòng mình. Người đàn bà chửi ông nhân ngãi là “đồ cớm thúi” rồi liệng qua cửa sổ từng nùi giấy bạc, trách ông ta vì đã mang đống tiền đó về. Cảnh sát giả dạng? Tay sai của Gestapo? Toddie Werner, tức “Bà Sahuque”, tại nhà cô ta mà cha mẹ tôi quen biết nhau, trốn thoát một cuộc bố ráp đầu năm 1943. Cô bị thương sau khi nhảy qua cửa sổ chung cư. Người ta tróc nã Sacha Gordine, một trong những người bạn lâu năm nhất của cha tôi, theo xác nhận từ một lá thư của Nha Quy chế Nhân thân thuộc Phủ Tổng ủy Vấn đề Do Thái[26] gởi cho viên trưởng một “Ty Điều tra Kiểm soát”: “Ngày 6 tháng Tư năm 1944. Trong công văn dẫn chiếu dưới đây, tôi đã yêu cầu quý Ty tiến hành bắt giữ khẩn cấp đối với tên Do Thái Gordine Sacha vì lỗi vi phạm luật 2 tháng Sáu năm 1941. Quý Ty có thông tri cho tôi hay rằng đương sự đã rời khỏi nơi cư trú không để lại địa chỉ mới. Thế mà, có người đã nhìn thấy đương sự những ngày gần đây đi xe đạp trên đường phố Paris. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu quý Ty một lần nữa cho khám nhà đương sự hầu có thể đáp ứng công văn ngày 25 tháng Giêng vừa qua của tôi.” Tôi nhớ lần duy nhất trong đời cha tôi gọi lại giai đoạn nầy, đó là buổi tối khi hai cha con đương trên đại lộ Champs-Élysées. Ông chỉ tôi cuối con đường Marignan, đoạn ông bị hốt vào tháng Hai 1942. Rồi ông kể tôi nghe cuộc bắt bớ lần nhì, mùa đông năm 1943, sau khi bị “ai đó” chỉ điểm. Ông bị đưa tới Trại tạm giam rồi lại được “ai đó” cho lệnh thả. Tối hôm ấy, tôi cảm giác rằng ông muốn thổ lộ với tôi một chuyện gì nhưng không nói thành lòi. Rốt cuộc, ông chỉ thuật ngắn gọn là chiếc xe bít bùng đánh vòng các đồn cảnh sát rồi mới chịu ghé Trại tạm giam. Trong mấy lần dừng đó, có một đứa con gái leo lên ngồi đối diện ông, sau này, tôi đã thử nhiều lần, vô ích, tìm lại dấu vết cô ta, mà không biết đích xác buổi tối đó là năm 1942 hay 1943. Mùa xuân năm 1944, cha tôi nhận được nhiều cú điện thoại nặc danh, bến Conti. Giọng nói trong ống nghe gọi cha tôi bằng đúng tên thật của ông. Chiều nọ, lúc cha tôi vắng nhà, hai thẩm sát viên cảnh sát Pháp nhận chuông cửa và đòi “Ông Modiano”. Mẹ tôi khai rằng bà chỉ là một cô gái Bỉ làm việc cho Continental, hãng của Đức. Bà cho một người tên Henri Lagroua mướn lại buồng trong căn chung cư nầy và không nắm thông tin gì hơn để cung cấp. Họ bảo sẽ trở lại. Cha tôi, muốn tránh họ, bèn bỏ đi khỏi bến Conti. Tôi nghĩ đó không còn là Cảnh sát đặc trách Vấn đề Do Thái của Schweblin[27] nữa mà là người của Ty Điều tra Kiểm soát - như trường hợp Sacha Gordine. Hoặc người của ông quận trưởng[28]Permilleux trên Lỵ sở[29]. Về sau, tôi những muốn nhận diện những người nầy, nhưng họ nhất định trốn trong cái bóng tối ám mùi da thuộc bị mục của mình. Cha mẹ tôi quyết trốn khỏi Paris càng sớm càng tốt. Christos Bellos, gã Hy Lạp mà mẹ tôi quen ở nhà B., có cô bạn gái sống trong đồn điền gần Chinon. Thế là cả ba người xuống đó tạm dung thân. Mẹ tôi đem theo cả y phục thể thao mùa đông phòng khi lại phải cao bay xa chạy. Họ tiếp tục trú ẩn trong căn nhà vùng Touraine đó cho tới ngày Giải phóng rồi sẽ trở lại Paris bằng xe đạp giữa tràn ngập các đoàn quân Hoa Kỳ. Đầu tháng Chín năm 1944, ở Paris, cha tôi không muốn ngay lập tức quay về bến Conti, lần nầy không phải do sợ cảnh sát bắt lên giải trình mà là vì những mối làm ăn ngoài luồng phi pháp. Cha mẹ tôi ở khách sạn ngay góc ngã tư đại lộ Breteuil và đại lộ Duquesne, chính là Alcyon de Breteuil, nơi cha tôi từng đến trốn tránh vào năm 1942. Cha gởi mẹ tôi về bến Conti thám thính tình hình. Bà bị cảnh sát triệu tập và trải qua cuộc thẩm vấn dài. Bà là ngoại nhân nên họ muốn biết chính xác lý do gì bà đến Paris năm 1942 dưới sự bảo trợ của người Đức. Bà trình bày rằng mình là hôn thê của một người Do Thái, sống chung với nhau hai năm nay. Các cảnh sát viên thẩm vấn mẹ tôi có lẽ là đồng nghiệp của những người muốn bắt cha tôi, dưới tên thật Modiano, mấy tháng trước đây. Hoặc chính là cùng một bọn. Nay thì họ phải tìm ông trong hồ sơ với cái tên đi mượn Lagroua, và vô phương nhận dạng. Mẹ tôi được thả. Buổi tối ở khách sạn, dưới cửa sổ phòng cha mẹ tôi, dọc theo dải đất giữa đại lộ Breteuil, nhiều phụ nữ đi dạo cùng lính Mỹ và một trong số họ cố gắng diễn tả cho người Mỹ hiểu rằng người ta ở đây chờ người Mỹ đến từ bao nhiêu tháng nay. Cô nàng xòe bàn tay đếm “One, two…”. Thế mà chàng lính Mỹ không hiểu nên bắt chước xòe bàn tay đếm theo:“One, two, three, four…”. Cứ vậy không dừng. Sau vài tuần, cha tôi rời Alcyon de Breteuil. Về lại bến Conti, cha tôi khám phá ra rằng chiếc xe Ford mà ông giấu trong một gara ở Neuilly đã bị Milice[30] trưng dụng hồi tháng Sáu. Và rằng Georges Mandel[31] đã bị ám sát trong chiếc Ford đó, thùng xe có nhiều lỗ đạn, nên xe bị cảnh sát giữ lại phục vụ điều tra. Mời các bạn đón đọc Lai Lịch của tác giả Patrick Modiano & Thiệu-Nam (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghĩa Địa Praha
Sau Tên của đóa hồng và Con lắc Foucault, độc giả văn chương thế giới đã rất sốt ruột chờ đợi một đại tác phẩm nữa của Umberto Eco. Và rốt cuộc, Eco đã xuất bản Nghĩa địa Praha, một tác phẩm không phụ lòng trông đợi của bất kỳ ai say mê những cuốn tiểu thuyết hòa trộn lịch sử với văn chương theo một cách thức độc đáo vô cùng. Simone Simonini là người Ý sinh ra ở Turin, nhưng hoạt động rộng khắp châu Âu vào nửa sau thế kỷ 19. Simone can dự vào hầu hết vụ việc chính trị quan trọng một thời: Những cuộc hành quân của Garibaldi, vụ án Dreyfus, những cuộc thanh trừng thầy tu dòng Tên và thành viên Hội Tam Điểm… lúc nào Simone cũng ở trong bóng tối, là nhân vật mà cơ quan mật vụ tất cả các nước châu Âu đều thèm muốn. Nhưng “sứ mệnh” quan trọng nhất của Simone Simonini là đối đầu với người Do Thái. Suốt đời mình, Simone đã thực hiện công việc này một cách không mệt mỏi, có lúc còn sát cánh bên Edouard Drumont, lãnh tụ phong trào bài Do Thái của châu Âu. Với Nghĩa địa Praha, Umberto Eco đã đưa ra một cách lý giải độc đáo, thậm chí thiên tài, về tai họa bài trừ người Do Thái ở châu Âu, mà hậu quả tất yếu là nạn diệt chủng trong Thế chiến thứ hai. Nghĩa địa Praha là cuốn tiểu thuyết thứ 6 của nhà văn Umberto Eco ra mắt ngày 29 tháng Mười năm 2010 tại nhà xuất bản Bompiani (Ý). Ngay khi vừa xuất hiện, cuốn sách đã bán được 450.000 bản trong vòng chưa đầy hai tuần lễ. Tính tới thời điểm hiện tại, Nghĩa địa Praha đã được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới. Nhận định “Umberto Eco đã đánh dấu Nghĩa địa Praha là tác phẩm “quỷ ám” nhất của mình, một bức chân dung xen lẫn giữa hận thù và tài diễn tấu của mình.” (L'Express) *** Tôi đến với “Nghĩa địa Praha” vì quá mê mẩn chất Umberto Eco qua “Tên của đóa hồng”. Thế nhưng vì vốn từ hạn hẹp không đủ để diễn đạt được cảm xúc của tôi với “Tên của đóa hồng” nên đành dùng thời gian để bày tỏ về một tác phẩm khiến tôi khá ngổn ngang. Tất nhiên đây hoàn toàn là cảm nhận cá nhân, tôi xin phép chia sẻ vài dòng coi như tâm sự hơn là đánh giá, nhận xét về một tác phẩm vĩ mô. Bối cảnh trong “Nghĩa địa Praha” rộng hơn “Tên của đóa hồng” rất nhiều. Điều đó là một lợi thế vì nó đẩy nhanh nhịp truyện hơn, tạo nhiều tình huống bất ngờ và cao trào được đưa lên mạnh nhất có thể. Một phần khác vì yếu tố nội dung là cuộc hành trình bài Do Thái của Simone Simonini nên cốt truyện cũng gấp khúc và hạn chế hẳn sự tám chuyện đặc trưng của các tác giả Ý. Thế nhưng chính điều đó, với tôi, cũng là điểm yếu chết người cho tác phẩm này. Tất nhiên là vì cảm xúc cá nhân thôi nhưng do bối cảnh rộng (nếu không phải quá rộng), Umberto khó lòng kiểm soát toàn bộ hệ thống nhân vật, sự kiện, chi tiết nên dẫn tới sự thiếu thống nhất, nhất là ở nhân vật Simone. Ban đầu anh chàng là một gã Ý, như bao gã Ý khác, lãng tử, tự do, cố chấp, điên rồ nhưng rồi có lẽ chuyến hành trình dài đằng đẵng cộng thêm thứ định kiến kiên định đến mức ám ảnh khiến cái chất đẹp đẽ đó, thứ dòng máu chảy trong anh chàng ta thui chột. Cuối cùng chàng ta là ai tôi cũng chẳng biết nữa, thật ngỡ ngàng làm sao! Đó không phải là sự tha hóa dần, một chuyển biến rõ ràng của tính cách, hành xử, quan niệm cũng không phải là cái hình tượng đa nhân cách (tự nói chuyện với chính mình) hay hoang tưởng đến tột cùng, nếu là thế tôi đã chấp nhận con người của anh ta. Ở đây, Umberto ở đây quẳng một Simone này, ở kia quẳng một Simone nọ, như những nhân vật khác nhau bị gán cho cùng một cái tên, và tôi cứ ngỡ đang xem một cuốn tiểu thuyết gộp lại từ các câu chuyện ngắn với các nhân vật chính khác nhau. Tính thống nhất, liên kết từ đó bị vỡ vụn, nhất là khi nó dày đặc những sự kiện lịch sử mà chỉ cần lơi là một tí là chẳng thể hiểu nổi vì sao Umberto đặt chúng cạnh nhau. So với “Tên của đóa hồng” thì đỡ lan man hơn, nhưng thiếu bí ẩn, gay cấy hơn nhưng loãng đi. Umberto chọn lấy nhân vật làm tâm, tất cả xoay vần bên người đó, và còn gì buồn hơn khi bản thân nhân vật ấy đã là tổng hợp những gì vỡ vụn. Điều tiếp theo là về văn phong, điều này tôi không biết là do người dịch hay do bản thân Umberto. Hồi trước tôi đã từng cãi nhau với một người vì người đó bảo, bỏ đi tình tiết, cốt truyện và lượng tri thức phong phú thì Umberto viết chẳng có gì hay, lan man, dài dòng và quá tỉ mỉ. Tôi thì cho rằng như bao kẻ không hiểu được dòng văn học Ý, người đó không thể hiểu cái việc các bác thích dàn trải một đống chi tiết, lan man tận trời cuối đất, đọc vừa chán vừa ứ liên quan nhưng một khi vào guồng, những thứ tưởng chừng không là gì lại liên kết chặt chẽ với nội dung, hòa hợp đến mức sững sờ. Umberto là một người thích viết câu dài và may thay ông ấy không tiết kiệm dấu phẩy, nhưng thay vì liên miên, mềm mại thì những câu dài của ông ấy lại tạo một ấn tượng ngược lại, nó rắn rỏi, mạnh mẽ và phóng khoáng, như gió trên thảo nguyên bạt ngàn vậy. Nhưng lần này, vẫn là những câu dài miên man nhưng nó cụt quá, kiểu cố ghép thành câu dài, ngắt quãng liên tục và “góp phần” không nhỏ khiến nội dung đã vỡ vụn thêm chấp vá. Đọc, thật sự rất nản và vì lí do không đọc được hàng gốc nên tôi cũng không rõ là do ông hay do dịch giả. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, “Nghĩa địa Praha” phá rõ cái định kiến Umberto Eco thì chỉ có thể viết về Trung cổ và nhấn mạnh thêm Umberto Eco là một tiểu thuyết gia sử học tài ba đến cỡ nào với lượng tri thức hùng vĩ và bạt ngàn, không gò bó mà thổi vào đó những cách nhìn mới và logic. Những sự kiện lịch sử Châu Âu được nối kết tuyệt vời, khó tìm được lỗ hỏng, cộng thêm nói về những bước tiến của nghiên cứu tâm lý và khởi đầu của phân tâm học. Một cuốn sách hay nếu bạn hứng thú với thời kì thế kỉ XIX của Châu Âu. Tôi hơi hối tiếc khi đọc “Nghĩa địa Praha” sau “Tên của đóa hồng”, nó là một sự hụt hẫng không hề nhẹ với một đứa lỡ lòng tương tư cái bức tranh tranh tối tranh sáng của thánh địa tri thức, tôn giáo và của một William với đầy rẫy mâu thuẫn. Một điều nhận xét đặc biệt là nhân vật của Umberto luôn kiên địch với tư tưởng đến mức nó trở thành một sự ám ảnh điên rồ, với William thì là thông tuệ đến mức lênh đênh giữa sáng tối còn với Simone thì là một bể sâu hoắm, nặng nề. ***   UMBERTO ECO Sinh ngày 5 tháng 1 năm 1932 tại Alessandria, Ý, hiện sống ở Milan. Thiên hướng đã thôi thúc ông làm trái ý cha, từ bỏ khoa Luật, chuyển sang nghiên cứu triết học và văn học Trung cổ tại Đại học Turin. Trong thời gian này UMBERTO ECO trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin, trở thành người vô thần và từ bỏ Giáo hội Công giáo. Năm 1954, ông bảo vệ luận văn về Thomas xứ Aquino (Nhà thần học Công giáo nổi tiếng nhất thời Trung cổ), đạt học vị tiến sĩ triết học. UMBERTO ECO là nhà văn, nhà lý luận, triết gia, nhà ký hiệu học lừng danh - người từng là biên tập viên các chương trình văn hóa của Đài truyền hình quốc gia Ý (RAI), là người viết bình luận của tờ báo lớn nhất nước Ý L’Espresso, là giáo sư ký hiệu học của Đại học Bologne, dạy mỹ học và văn hóa học tại các trường đại học Milan, Florence, Turin, tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học nước ngoài. Tờ Los Angeles Times đánh giá ông là “một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất trong thời đại của chúng ta.” Những tiểu thuyết đã vinh danh cho tên tuổi của ông: Tên của đóa hồng (Il nome della rosa -1980); Con lắc của Foucault (Il pendolo di Foucault - 1988); Hòn đảo ngày xưa (L’isola del giorno prima - 1994); Baudolino (2000); Ngọn lửa bí ẩn của nữ hoàng Loana (La misteriosa fiamma della regina Loana - 2004); NGHĨA ĐỊA PRAHA (Il cimitero di Praga - 2010). *** Truyện: Người Kể chuyện bắt đầu theo dõi cuốn nhật ký của Simonini (Đây là phần “Một vài giải thích không cần thiết” cho từng chương ở cuối sách. Người làm eBook đã đưa vào làm thành chú thích, để các bạn tiện theo dõi câu chuyện). Người bộ hành trong buổi sáng âm u đó của tháng Ba năm 1897 hẳn sẽ phải mạo hiểm đi qua quảng trường Maubert, hay còn gọi là quảng trường Maub như cách nói của những kẻ đầu đường xó chợ (nơi đây từng là trung tâm của cuộc sống đại học thời Trung cổ, khi nó còn đón tiếp đám sinh viên đông đúc của Trường Nghệ thuật nằm tại Vicus Stramineus, chính là phố Fouarre ngày nay, và sau đó trở thành nơi hành quyết những vị tông đồ theo tư tưởng tự do như Étienne Dolet). Vị lữ khách sẽ tới một trong số ít các xó xỉnh Paris tránh được những nhát mổ xẻ của nam tước Haussmann*, nằm tại điểm giao thoa chằng chịt những phố xá hôi hám được chia thành hai khu bởi con sông Bièvre đổ ra từ trong lòng thành phố nơi nó vẫn bị kè bờ để rồi ném mình hổn hển, nóng rực sốt ký sinh trùng vào dòng Seine kề cận. Từ quảng trường Maubert, nay đã bị rạch chằng chịt bởi đại lộ Saint- Germain, còn tỏa ra một mạng nhện tạo bởi những con đường nho nhỏ như đường Maître-Albert, đường Saint-Séverin, đường Galande, đường Bûcherie, đường Saint-Julien-le-Pauvre, cho tới tận đường Huchette, các khách sạn bẩn thỉu do đám người vùng Auvergne cai quản nằm rải rác: những tay quản lý khách sạn nổi tiếng tham lam, đòi một franc cho đêm trọ đầu tiên và bốn mươi xu cho những ngày tiếp sau (cộng thêm hai mươi xu nếu muốn có ga trải giường). Georges-Eugène Haussmann (1809-1891) là tỉnh trưởng tỉnh Seine, người quy hoạch lại Paris vào những năm sáu mươi của thế kỷ 19. (các chú thích trong sách đều của người dịch) Nếu sau đó rẽ vào đường Sauton (thời ấy còn gọi là đường Amboise) hẳn anh ta sẽ thấy, nằm giữa một nhà thổ cải trang thành quán bia và một lữ quán nơi người ta lấy hai xu một bữa chính với chút rượu tồi tệ (từ thời ấy như thế cũng chẳng đắt đỏ gì, nhưng những sinh viên trường Sorbonne cũng chỉ cho phép mình chi tiêu đến thế thôi), là một ngõ cụt, thuở ấy được gọi Maubert, nhưng trước năm 1865 mang tên cul-de-sac d’Amboise. Tại ngõ cụt ấy, những năm trước đó nữa, có một tapis-franc (trong ngôn ngữ đường phố nó chỉ loại nhà trọ tồi tàn, loại hàng ăn hạ đẳng, thường được một cựu tù nhân trông coi và chỉ những kẻ tù khổ sai chân ướt chân ráo vừa bước ra khỏi vũng lầy tù tội mới hay lai vãng đến đây). Ngõ cụt này trở nên nổi tiếng theo một cách đáng buồn vào thế kỷ 18 khi tại đây mọc lên một phòng thí nghiệm của ba nữ pha chế độc dược lừng danh, một hôm họ được tìm thấy đã chết ngạt vì khí của các chất độc đang chưng cất trên mấy cái lò. Tận cùng ngõ hẻm này, hầu như rất khó nhận thấy một cửa hiệu có tấm biển đã bợt màu ghi Brocantage de Qualité (Tiệm đồ cổ chất lượng cao) của một tay chuyên mua bán đồ cũ. Phía ngoài cửa hiệu đã mờ đi vì lớp bụi dày phủ kín mấy tấm kính vốn đã chẳng cho ta thấy rõ hàng hóa bên trong cửa hiệu bởi chúng chỉ dài rộng hai mươi xăng ti mét mỗi cạnh, được gắn với nhau bằng một khung gỗ. Bên cạnh cửa kính, người ta có thể nhìn thấy một cánh cửa luôn đóng, và cạnh dây kéo chiếc chuông cửa là tấm biển báo chủ nhân đang đi vắng. Nếu cánh cửa này mở (điều rất hiếm khi xảy ra), thì ai vào sẽ có thể thấy được, trong ánh sáng rất lờ mờ, một đống lộn xộn những thứ mà mới nhìn qua thì có vẻ ngon nghẻ, nhưng xem kỹ hơn sẽ nhận ra toàn những đồ hoàn toàn không phù hợp với một cuộc trao đổi kinh doanh thành thực, ngay cả nếu như chúng được mời gọi với cái giá giẻ rách tương xứng, được bày biện trên một vài cái giá lung lay và vài chiếc bàn cũng chung chiêng không kém. Ví như vài thanh gác củi sẽ làm hổ thẹn bất cứ cái lò sưởi nào, một cái đồng hồ mạ xanh đã tróc sơn, những chiếc gối dựa ngày trước có lẽ đã được thêu màu sặc sỡ, những chiếc bình gốm cao cổ trang trí bởi những thiên thần bằng sứ nay đã bong tróc vài mảng, những chiếc bàn con lung lay không rõ được thiết kế theo trường phái nào, một chiếc giỏ đựng thư từ đủ loại bằng sắt han gỉ, những chiếc hộp chạm trổ hoa văn không rõ ràng, những chiếc quạt đáng ghê tởm làm bằng ốc xà cừ trang trí với những hình vẽ theo lối Trung Hoa, một chiếc vòng cổ màu hổ phách, hai chiếc giày nhỏ nhắn bằng len trắng, khóa giày gắn những viên đá giả kim tí xíu Ailen, một bức tượng bán thân Napoléon đã sứt mẻ, những con bươm bướm dưới tấm kính đã rạn, hoa quả bằng đá cẩm thạch nhiều màu dưới cái chuông hẳn một thời trong suốt, những quả dừa khô, album ảnh cũ kỹ chứa tranh vẽ hoa bằng chút màu nước khiêm tốn, vài tấm hình in tráng được đóng khung (thời ấy chúng không hề mang vẻ cổ xưa chút nào). Thế cho nên kẻ nào mà say mê cuồng dại một trong những thứ đồ đáng xấu hổ còn sót lại sau những vụ tịch biên tài sản để thế nợ của những gia đình bị lầm vào cảnh bất hạnh này, sẽ thấy mình đứng trước gã chủ tiệm đáng ngờ, sẽ hỏi giá cả và sẽ bị yêu cầu một con số khiến ngay cả kẻ máu mê nhất trong số những gã sưu tầm dị vật cũng phải chùn bước. Nếu như người khách, nhờ có tấm giấy thông hành nào đó, được bước qua cánh cửa thứ hai ngăn gian trong cửa hàng với các tầng trên của tòa nhà, và trèo lên bậc thang của một trong những cầu thang chung chiêng hình xoáy ốc đặc trưng của những ngôi nhà Paris có mặt tiền rộng ngang bằng cửa ra vào (nơi chúng đứng dựa xiêu vẹo vào nhau), anh ta sẽ tới một căn phòng rộng nơi không trưng bày những thứ đồ tầm phào như ở dưới tầng trệt mà là một bộ sưu tập những món đồ chủng loại hoàn toàn khác: một chiếc bàn nhỏ theo phong cách hoàng đế, ba chân trang trí hình đầu đại bàng, một chiếc bàn chân quỳ được đỡ bởi quái vật Sphinx có cánh, một chiếc từ thế kỷ 17, một chiếc tủ sách bằng gỗ dái ngựa đựng hàng trăm cuốn đóng bìa da dê, một chiếc bàn làm việc theo lối Hoa Kỳ, với nhiều ngăn kéo đóng mở theo ray trượt giống như một cái bàn viết thực thụ. Nếu tiếp tục bước qua căn phòng liền kề, anh ta sẽ thấy một chiếc giường treo màn trướng xa hoa, một chiếc giá kiểu điền viên đựng đồ sứ Sèvres, một ống điếu Thổ Nhĩ Kỳ, một chiếc cốc bằng thạch cao tuyết hoa, một chiếc bình pha lê, và trên bức tường cuối phòng là những tấm tranh to bản với những điển tích thần thoại, hai bức vẽ nữ thần Lịch sử và nữ thần Hài kịch, vài chiếc áo trùm Ả Rập treo trên tường và vài bộ quần áo phương Đông bằng sợi casơmia, một chiếc hũ cổ kiểu của dân hành hương; tiếp đó là một chiếc kệ chất đầy các vật dụng trong buồng tắm bằng chất liệu quý - tóm lại là một đống đồ vật kỳ cục, cầu kỳ và tốn kém, có lẽ không phải là nhân chứng cho khiếu thẩm mỹ đồng nhất và tinh tế, mà hẳn là lòng mong mỏi được khoe mẽ của cải. Quay trở lại phòng khách gần lối vào, người khách sẽ nhận ra một cụ già trong bộ đồ ở nhà ngồi bên chiếc bàn đối diện cánh cửa sổ duy nhất mà từ đó nguồn ánh sáng ít ỏi chiếu sáng ngõ cụt len lỏi vào đây. Cụ già đó, nếu người khách có thể nhìn thoáng qua vai, đang viết những điều mà chúng ta sắp sửa đọc đến, và đôi khi Người Kể chuyện cũng sẽ tóm tắt lại để không gây mệt mỏi cho Độc giả. Mời các bạn đón đọc Nghĩa Địa Praha của tác giả Umberto Eco.
Thành Phố Đứng Đầu Gió
Bộ tiểu thuyết “Bay qua cõi chết” lúc đầu dự định có 4 tập: Học phí trả bằng máu – Thành phố đứng đầu gió – Đêm trước mùa Mậu Thân – Màu da trên xác chết, nhưng vì một sự cố mà chưa một nhà văn nào trên đất nước này gặp phải, Tác giả chỉ đi được một nửa chặng đường của mình. Trong bộ tiểu thuyết này, ta sẽ bắt gặp số phận của bao con người trên mảnh đất miền Trung bị lôi cuốn vào cơn bão tố của cuộc chiến tàn khốc, dai dẳng vào bậc nhất trong lịch sử đất nước này. Ai trong số họ cũng phải trả “Học Phí Bằng Máu” cho mỗi quyết định, lựa chọn của mình… *** Tác giả Nguyễn Khắc Phục * Tên khai sinh: Nguyễn Khắc Phục, sinh ngày 24.8.1947 tại Nhang Cát, Nam Ninh, tỉnh Nam Định. Nơi ở hiện nay: 2A Thủy Xưởng, thành phố Nha Trang. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Học hết phổ thông trung học. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1975). * Nguyễn Khắc Phục đã tham gia nhiều công việc như đi trên biển, làm công tác tuyên huấn, hiện nay ông là biên kịch điện ảnh. * Tác phẩm đã xuất bản: Vườn thầy Năm (kịch, 1972); Trường ca ăn cốm giữa sân (1973); Thành phố không bị chiếm (kịch, 1975); Học phí trả bằng máu (tập 1, tiểu thuyết, 1984); Thành phố đứng đầu gió (tập 2, tiểu thuyết, 1986-1989); Khát vọng (tiểu thuyết, 1986); Điệp khúc hy vọng (tiểu thuyết, 1978); Giọt nước mắt cuối cùng (tiểu thuyết, 1989); Cuối xuân (tiểu thuyết, 2 tập); cùng hàng chục kịch bản phim, sân khấu đã được dàn dựng. - Giải thưởng văn học: Giải thưởng báo Văn nghệ 1967 và tạp chí Văn nghệ Quân đội 1969 về truyện ngắn.   Mời các bạn đón đọc Thành Phố Đứng Đầu Gió của tác giả Nguyễn Khắc Phục.
Hẹn Em Ngày Nắng
Hẹn em ngày nắng là một câu chuyện tình ấm áp và đầy xúc cảm giữa Tuấn - chàng họa sĩ với những quay quắt về mối tình đầu và Linh - cô gái trẻ với trái tim đã một lần xước xát. Họ gặp nhau từ khi còn là những cô bé, cậu bé để rồi lưu giữ mãi những ký ức về nhau, về ngôi nhà nhỏ với vườn cây xương rồng và tiếng sáo của cụ già đầu ngõ cho đến ngày gặp lại. Cùng đưa nhau qua những hoài niệm, những dè dặt, những hoài nghi của sự tan vỡ, Tuấn và Linh cuối cùng cũng nhận ra tình yêu tận sâu thẳm mà họ dành cho nhau. Một số trích dẫn: "Đừng nên cố kiếm tìm thứ gì hoàn mỹ mà hãy học cách dùng đôi mắt hoàn mỹ để nhìn và thưởng thức mọi thứ xung quanh." "Trong tình yêu đâu cần tính toán so đo thiệt hơn làm gì, ai gọi trước ai gọi sau cũng vậy cả thôi. Cứ ngày ngày thấp thỏm đứng ngồi không yên, thì chi bằng gọi điện cho cô ấy, để cả hai cùng được vui vẻ thoải mái." "Em là vệt nắng chiếu qua cuộc đời tăm tối của anh, làm thay đổi mọi thứ trong anh, và làm bừng sáng cả trái tim anh nữa." "Anh sẽ ghi lại ký ức trong em ở những nơi cũ. Để mỗi lần đi qua, em sẽ chỉ nhớ đến thời gian anh cùng em đến đó." *** Cho dù trái tim bạn có xước xát đến thế nào đi chăng nữa, thì rồi, cũng sẽ có người đến và chữa lành những vết xước ấy. Bởi vì, đó là lời hẹn của tình yêu. Nhà văn Kiệm đã từng viết trong Câu chuyện bên nồi lẩu một đôi dòng thế này: “Trước đây, tôi hay nghĩ mình có thể một mình vượt qua những khó khăn của cuộc đời, một cách đơn giản và thầm lặng. Điều đó thực ra không khó, vì ai cũng sẽ phải thế, nhưng không vui, vì ai cũng làm được hơn thế”. Điều đó thật đúng, nhưng với nhiều người, lại chẳng dễ dàng gì. Bởi rất nhiều khi, người ta đóng cửa tim mình, không dám đón nhận những niềm vui mới chỉ vì một vết thương lòng đã cũ. Nhất là với những người trẻ - những trái tim non chỉ biết hân hoan và cuồng nhiệt mà chẳng một lần đắn đo, để rồi rơi vào hẫng hụt tột độ khi tình yêu trót tan vỡ. Hiểu được những nỗi lòng ấy, tác giả Mai Mei đã dùng những chất liệu bình dị và thân thuộc trong cuộc sống của những người trẻ để viết Hẹn em ngày nắng ắp đầy cảm xúc và sự lạc quan, như những tia nắng sưởi ấm cho trái tim đã một lần xước xát. Hẹn em ngày nắng là một câu chuyện tình ấm áp và đầy xúc cảm giữa Tuấn - chàng họa sĩ với những quay quắt về mối tình đầu và Linh - cô gái trẻ với trái tim đã một lần biết đau. Họ gặp nhau từ khi còn là những cô bé, cậu bé để rồi lưu giữ mãi những ký ức về nhau, về ngôi nhà nhỏ với vườn cây xương rồng và tiếng sáo của cụ già đầu ngõ cho đến ngày gặp lại. Linh khi ấy, đã có một khoảng thời gian dài tách biệt với thế giới xung quanh bởi những vết thương lòng từ sự phản bội của người yêu cũ. Tuấn biết vậy, nhưng vẫn kiên trì dùng sự ấm áp của mình để dẫn  trái tim cô đi qua những hoài niệm, những dè dặt, những hoài nghi của sự tan vỡ. Cuối cùng, sau những hiểu lầm tưởng đã tách họ ra khỏi đời nhau mãi mãi, Tuấn và Linh cũng nhận ra tình yêu tận sâu thẳm mà họ dành cho nhau. Nhẹ nhàng mà sâu sắc, cuốn sách ru người đọc vào một thế giới đầy lãng mạn, khao khát của tình yêu đôi lứa nhưng cũng gay gắt, đầy đấu tranh với chính bản thân, để rồi chợt nhận ra: Đôi lúc, ta bướng bỉnh quá! Cứ ôm ghì nỗi đau mà không chịu đặt nó vào một chỗ, đứng dậy và bước tiếp. Nhưng may thay, cuộc sống một lúc nào đó, sẽ tặng lại cho ta một người yêu ta chân thành. Sự chân thành ấy đủ để những dè dặt, những hoài nghi từ vết thương kia dần tan biến. “Chân thành cho ta thêm kiên định, nhờ kiên định, đường dù gian nan mấy, ta vẫn có thể vượt qua. Trái tim, dù cho xước xát đến thế nào, rồi cũng sẽ có ngày lành lặn.” Không những thế, dõi theo câu chuyện tình đẹp của Linh và Tuấn, người đọc còn thấy một Hà Nội mùa thu đẹp đến ngỡ ngàng. Hồ Gươm lung linh, Tháp Rùa cổ kính, vườn cây xanh mướt, con ngõ nhỏ với tiếng sáo ngân nga của cụ già, rồi nắng vàng, gió hiu hiu, ngay cả những đóa sen hồ Tây đã vào mùa thôi nở vẫn cứ đẹp một vẻ đẹp rất riêng… Tất cả những điều gần gũi, thân thuộc ấy lại bỗng như chất xúc tác cho tình yêu giữa hai người trẻ, để khơi dậy những xúc cảm mà họ đã gắng giấu kín trong tim. Một sự hòa trộn tuyệt vời giữa những khung cảnh thân thuộc được khoác lên màu nắng ươm vàng với câu chuyện tình nhẹ nhàng mà đầy lạc quan và ý nghĩa. *** Đặt chân xuống sân bay Nội Bài, tôi kịp đón nhận chút nắng ấm hiếm hoi của một ngày chiều đông nơi đất mẹ. Lòng lâng lâng tựa như đang ở trong một giấc mơ, tôi cũng thật không ngờ chỉ qua mấy tiếng đồng hồ mà mình đã có mặt tại Việt Nam để hít hà bầu không khí se se lạnh đặc trưng của miền Bắc. Tôi vội vã đi thật nhanh về phía dành cho người nhà ở bên ngoài, ngó nghiêng xem ai sẽ là người đến đón mình đây. Kia rồi, từ xa tôi đã nhận ra dáng Lan, cô em họ con cô chú tôi, người vẫn luôn cung cấp cho tôi mọi thông tin về người con gái mà tôi thầm thương trộm nhớ. Vừa thấy tôi, Lan vui mừng, len qua dòng người đông đúc chạy lại khoác vai bá cổ anh. Đã lâu lắm rồi không gặp con bé, chúng tôi chỉ nhìn thấy nhau qua điện thoại và mạng Internet nên tôi không ngờ Lan lại cao đến thế. Ở ngoài, trông con bé người lớn và già dặn hơn nhiều, nhưng cũng không thiếu phần tinh nghịch và lanh lợi. Lan cứ nhìn tôi chằm chằm, hết nhìn xuống dưới rồi lại ngó lên trên, như thể đang thám thính và đánh giá con mồi vậy, sau đó đưa ra câu nhận xét, “Oa, ông anh tôi trông như soái ca ấy nhỉ, áo quần thẳng thớm, sạch sẽ thơm tho. Đúng là mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao! Mà sao em cứ thấy cái gì không đúng ở đây?”. Tôi bèn hỏi lại, “Cái gì không đúng?”. Lan lại đi vòng vòng quanh tôi, nhìn chăm chú rồi đưa tay sờ sờ vào túi đựng dụng cụ vẽ của tôi, nhăn mày nhăn mặt đánh giá, “Chẳng phải người ta cứ bảo nghệ sĩ lúc nào cũng luộm thuộm, tóc tai rối bời sao? Mà anh còn là họa sĩ nổi tiếng nữa, nhưng em thấy anh đâu có giống thế?”. Tôi phì cười, cứ tưởng con bé đưa ra ý gì khủng khiếp lắm. Tôi cúi xuống nhìn lại mình lần nữa, quần đen, áo len cổ lọ bó sát, áo khoác dài đến gối, thêm chiếc khăn buông lơi bên vai. Có gì mà bảnh bao hay không bảnh bao chứ. Tôi bèn cốc đầu con bé thay cho lời chào. Con bé cười cười ôm lấy tay tôi, rồi nhanh nhẹn muốn cầm đồ giúp tôi. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi cũng không muốn cự tuyệt lòng tốt của nó nhưng cũng chẳng nỡ để nó cầm thứ gì nặng, bèn đưa cho nó đám dụng cụ vẽ mà tôi để riêng trong một chiếc túi, còn mình thì kéo cái va ly to đùng phía sau. Chúng tôi bắt taxi về nhà. Ngồi trên xe, Lan tò mò mở túi đồ của tôi ra xem, rồi ra chiều thất vọng vì chẳng tìm được thứ gì hay ho, mặt ỉu xìu, sau đó lại ríu rít kể mọi thứ chuyện cho tôi nghe, chuyện học hành của nó, chuyện bạn bè nó và cả chuyện của em. Con bé bảo cô chú đang ở nhà chuẩn bị bữa cơm tẩy trần cho anh, đề nghị hai anh em nhanh chóng về nhà. Nhưng tôi đúng là thằng cháu không có hiếu chút nào. Từ khi còn ngồi trên máy bay, tâm tư tôi đã chẳng yên, cứ thấp tha thấp thỏm nhớ đến một nơi, và muốn ngay lập tức về lại đó. Đó chính là ngôi nhà thân yêu của tôi. Thế là tôi nhất quyết đòi Lan dẫn về nhà mình trước. Không sao từ chối được, Lan đành chiều theo ý tôi. Bao nhiêu năm đi xa, quê hương tôi giờ đã khác xưa rất nhiều, nhiều nhà cao tầng hơn, nhiều khu vui chơi giải trí hơn, và thậm chí là nhiều cây to hơn. Còn nhớ ngày nào, hàng cây bằng lăng hai bên đường mới được trồng còn nhỏ xíu, ánh nắng tha hồ chiếu thẳng xuống mặt đất, vậy mà giờ cây nào cây nấy cao to sừng sững, xòe tán rộng vươn ra bốn phía. Tôi thầm nghĩ nếu như là vào ngày hè, khi đám cây này ra hoa, hẳn là con phố sẽ đẹp lắm, thơ mộng lắm. Màu tím của sự thủy chung và thơ mộng sẽ lấn át màu xanh và bao trùm khắp nơi, khiến lòng người đi trên đường sẽ không thôi rạo rực những xúc cảm, vô cùng lãng mạn. Bất giác tôi nhớ đến nét chữ mềm mại dễ nhìn của cô bé miền Trung với bím tóc xinh. “Anh biết không, trên con đường về nhà em mới trồng rất nhiều cây hoa bằng lăng. Khi nào nó lớn, nó sẽ nở ra những bông hoa rất đẹp, lúc đó anh hãy hái xuống rồi kết thành vòng nguyệt quế cho em nhé”. Khi ấy tôi đã quyết tâm như thế nào, rằng nhất định sẽ phải kết cho em những vòng nguyệt quế thật đẹp, để em đội lên mái tóc dài mượt mà chẳng khác nào thiên thần ấy. Tôi thầm hỏi, không biết bây giờ tôi còn cơ hội thực hiện điều đó hay không? Lạ thay, mặc dù khung cảnh giờ đã thay đổi và mang diện mạo mới nhưng đôi chân tôi cứ bước đi thoăn thoắt như chẳng chút gì lạ lẫm. Từng con đường, từng ngã rẽ vẫn in đậm trong tiềm thức tôi như ngày nào. Vì chưa phải là giờ tan tầm nên con đường rất vắng vẻ, lưa thưa một vài người qua kẻ lại. Tôi lại càng có dịp để bước thong dong, để thả hồn mình quay trở lại với thời thơ ấu. Đây là con đường ngày ngày tôi vẫn đến trường, đây là ngã rẽ thân thương vòng vào nhà tôi, đây là con ngõ nhỏ rợp bóng cây đi qua lối nhà em… Bàn chân tôi cứ bước, chẳng mấy chốc là về đến nhà. Càng tới gần căn nhà, tim tôi lại càng đập loạn. Cảm giác hồi hộp cứ lớn dần lên trong tôi. Vậy là tôi sắp được về lại nơi chan chứa bao kỷ niệm ấu thơ, nói đúng hơn là nơi tôi đã từng có những nỗi buồn, đồng thời cũng chính là nơi ánh sáng ấm áp chiếu tới cuộc đời tôi. “Nhanh lên anh, anh có nhận ra quê hương mình nữa không?”, giọng cô em họ vang lên lanh lảnh, tôi mới giật mình nhớ ra bên cạnh còn một người nữa. “Phố nhà mình giờ phát triển quá, anh chẳng còn nhận ra được nữa. Bao nhiêu năm xa quê rồi, nhưng hình như anh vẫn nhớ đường về nhà mình đó”, tôi cười trả lời Lan mà trống ngực cứ không ngừng đập liên hồi, “Anh muốn về đây lâu rồi nhưng chưa sắp xếp được công việc, nhân dịp cuộc triển lãm tranh của anh thành công tốt đẹp, anh bèn thưởng cho mình chuyến về thăm quê đấy”. Nghe tôi nói vậy, con bé không tin, liếc mắt nhìn tôi lém lỉnh, “Thôi đi anh, em còn lạ gì anh nữa, em biết tỏng anh rồi, anh về quê chỉ vì...”. “Nhóc con thì biết gì”, tôi cười xòa cốc đầu con bé học sinh lớp Mười hai trước mặt. Con bé nháy mắt với tôi, cười cười ra chiều rất hiểu chuyện. Đi thêm một đoạn, cánh cổng quen thuộc hiện ra trước mắt tôi. Chân tôi bất giác run rẩy, con tim xao xuyến bồi hồi, phải cố gắng lắm tôi mới giữ được cho mình thật bình tĩnh. Đã nhiều năm trôi qua nhưng trông nó chẳng giống như bị bỏ hoang, không gỉ sét, không bong tróc, nó đã được sơn lại đàng hoàng, như thể bao nhiêu năm vẫn luôn có người sống vậy. Thấy cánh cổng không hề khóa, Lan bỗng quay lại nhìn tôi nháy mắt như phát hiện ra điều gì đó hay ho lắm, rồi nhanh chân chạy lên trước, dáng hình bé nhỏ vừa khuất sau cánh cổng đã nghe thấy tiếng, “Chị yêu ơi, chị có ở đây không?”. Tôi khựng lại giây lát, có người đang ở trong nhà tôi sao? Thoáng ngạc nhiên qua đi, tôi lại thấy tò mò muốn biết ai đang ở trong nhà mình, bèn sải những bước dài tới đó. Một lúc sau, tôi nghe thấy giọng nói nhẹ nhàng của một người con gái vọng tới từ sau vườn, “Có, chị ở trong này, có chuyện gì thế em?”. “Chị lại đang ngồi chăm sóc cho mấy chậu xương rồng đấy à? Chị mau ra đây đi, có chuyện lớn rồi đây.” Nghe thấy Lan nói vậy, cô gái tên Linh tất tả chạy ra, nét mặt sợ hãi, vội hỏi, “Sao thế, ai cháy nhà hay gì mà em cuống cuồng lên vậy?”. Mời các bạn đón đọc Hẹn Em Ngày Nắng của tác giả Mai Mei.
Lỡ Yêu Gracie
Cô theo anh khắp nơi, để ý từng hành động của anh, biến cuộc sống của anh thành địa ngục trần gian suốt hai năm trời... và cô bỏ đi. Bây giờ cô trở lại. Anh nên vừa hét vừa chạy theo hướng ngược với cô, đúng không? Vậy tại sao anh ở lại để... lỡ yêu Gracie? *** "Gracie? Gracie Landon? Phải cô đó không?" Bị bắt gặp, đứng ngay giữa bãi cỏ trước nhà mẹ của cô, 1 tay cầm báo, 1 tay cầm li cà phê, Gracie Landon nhìn về phía lối thoát là cánh cửa trước của ngôi nhà với vẻ khao khát. Về lý thuyết, thì cô có thể vụt chạy thoát đi, nhưng như vậy sẽ là bất lịch sự với bà Eunice Baxter, người hàng xóm lớn tuổi. Và Gracie Landon đã được dạy dỗ đàng hoàng. Cô vén mớ tóc đã dán chặt vào mặt sau giấc ngủ qua 1 bên, lê bước đến cái hàng rào thấp bằng gỗ ngăn cách nhà Landon và nhà bà Eunice Baxter trong đôi dép Tweetie Bird của em gái cô. "Chào buổi sáng, bà Baxter," cô nói, hi vọng là giọng cô nghe vui vẻ chứ không gượng ép. "Đúng, là cháu, Gracie nè." "Trời thần, vậy là đúng rồi. Tôi không gặp cô nhiều năm rồi nhưng tôi thề là tôi có thể nhận ra cô ở bất cứ đâu. Bao lâu rồi nhỉ?" "14 năm rồi." Nửa cuộc đời cô. Cô đã rất mong là mọi người đã quên cô đi. "Chà, phải nói chứ... trông cô đẹp hẳn ra. Khi cô bỏ đi, tôi nói vầy là có ý tế nhị lắm rồi đó, cô là 1 đứa bé xấu thấy sợ luôn. Thậm chí bà má tội nghiệp của cô cứ phải lo lắng suốt là cô sẽ không trổ mã xinh đẹp ra, nhưng mà cô đã làm được. Bây giờ trông cô rạng rỡ, xinh xắn như người mẫu bìa tạp chí ấy." Gracie không thực sự muốn nhớ lại thời kỳ "vịt con xấu xí" của cô - 1 giai đoạn đã kéo dài gần sáu năm. "Cám ơn," cô nói, chân nhích dần về phía hiên nhà. Eunice vun cho phồng mái tóc với những lọn xoăn tít của bà, tay gõ gõ vào cằm." Cô biết không, tôi mới nói chuyện với bà bạn Wilma của tôi về cô. Chúng tôi đã nói rằng giới trẻ ngày nay không biết yêu là gì. Không giống như trong phim hay như cách cô đã yêu Riley Whitefield."  Ôi Trời ơi, Trời ơi. Trời ơi. Đừng nhắc chuyện Riley. Bất cứ chuyện gì trừ chuyện đó. Sau từng ấy thời gian, cái tiếng xấu cô là 1 kẻ bám đuôi ngây thơ, cuồng dại vẫn không thể ngủ yên ư? "Cháu không hẳn đã yêu anh ấy," Gracie nói, tự hỏi tại sao cô lại đồng ý trở về nhà sau từng ấy thời gian. Ồ phải. Đám cưới của em gái cô. "Cô là một minh chứng cho tình yêu chân thật," Eunice bảo cô. "Cô nên tự hào. Cô đã yêu thích cậu ta với tất cả trái tim của cô và cô không sợ thể hiện điều đó ra. Phải đặc biệt can đảm mới làm thế được."  Hoặc bị tâm thần, cô nghĩ và mỉm cười yếu ớt. Tội nghiệp Riley. Cô đã làm cho cuộc sống của anh thành một địa ngục trần gian. "Và anh bạn phóng viên đó đã viết về cô trên tờ báo địa phương để mọi người biết câu chuyện của cô," Eunice nói thêm. "Cô đã được nổi tiếng."  "Tai tiếng thì đúng hơn," Gracie lẩm bẩm, nhớ lại cảm giác xấu hổ khi đọc bài báo về tình cảm thầm kín của cô dành cho Riley trong lúc ăn sáng. "Wilma thích nhất đoạn cô đã đóng đinh giữ chặt cửa sổ và cửa chính nhà bạn gái cậu ta để cô ta không thể đi đến chỗ hẹn hò được. Vụ đó hay, nhưng tôi lại thích lần cô nằm lăn ra trước mũi xe của cậu ta ngay tại đó." Eunice chỉ phần  đường trước nhà mình.  "Tôi đã chứng kiến hết. Cô đã nói với cậu ta là cô đã yêu cậu ta quá nhiều nên không thể để cho cậu ta kết hôn với Pam và nếu cậu ta nhất quyết đính hôn, cậu ta cứ việc cán qua cô để giải thoát cô khỏi đau khổ."  Gracie cố kềm tiếng thở dài. "Phải, vụ đó hay thật."  Tại sao mọi người trên thế giới được phép quên đi sự xấu hổ của thời thơ ấu của họ, nhưng tất cả mọi người đều muốn nói về sự xấu hổ của cô?  "Cháu nghĩ có lẽ cháu còn nợ Riley một lời xin lỗi."  "Cậu ta đã quay lại thị trấn này," Eunice hớn hở nói. "Cô có biết không?"  Khi mà hầu hết mọi người cô gặp trong mấy ngày vừa qua đã cố nói cho cô hay, tất nhiên là cô biết. "Thật không?"  Bà cụ nháy mắt. "Cậu ta lại độc thân rồi. Còn cô, Gracie? Có ai đặc biệt chưa?"  “Chưa, nhưng lúc này cháu đang rất bận rộn với công việc của cháu và ..."  Eunice gật đầu ra vẻ hiểu biết. "Duyên phận đó. Đúng là duyên phận. Hai người đã được đưa về lại với nhau và được cho một cơ hội thứ hai."  Gracie biết cô thà bị treo trần truồng trên một đống kiến lửa hơn là có bất cứ điều gì dính líu với Riley Whitefield một lần nữa. Cô không muốn có thêm sự xấu hổ nào khi chuyện có liên quan đến Riley. Và ai mà biết là anh ta sẽ sẵn sàng chịu đựng những cực hình gì để tránh mấy người như cô?  "Thế thì hay quá, nhưng cháu không nghĩ rằng cháu -"  "Có thể là cậu ta vẫn thích cô,” Eunice nói.  Gracie phì cười. "Bà Baxter này, anh ta sợ cháu phát khiếp ấy chứ. Nếu bây giờ anh ta nhìn thấy cháu, anh ta vừa la hét vừa chạy theo hướng đối diện ngay." Thành thật mà nói, ai mà trách anh ấy được?  "Đôi khi đàn ông cần được nhẹ nhàng thúc đẩy."  "Đôi khi đàn ông cần được để yên một mình."  Và đó chính là dự định của cô. Không bám đuôi Riley nữa. Thực tế thì cô định sẽ tránh xa tất cả các nơi Riley có thể có mặt. Và nếu họ có tình cờ chạm mặt, cô sẽ bình thản, lịch sự và giữ kẽ. Có thể cô sẽ thậm chí không nhận ra anh ta. Bất kỳ tình cảm gì cô từng dành cho Riley trước đây đã phôi phai. Đã chết và chôn sâu. Cô đã quên hẳn anh ta rồi.  Ngoài ra, bây giờ cô đã là một người khác rồi. Duyên dáng. Trưởng thành.  Không còn là con nhỏ bám đuôi nữa. "Ai thế?" Vivian hỏi khi Gracie đi vào nhà bếp của gia đình Landon. "Bà Baxter túm chị lại nói chuyện với bà ấy hả?"  "Ừ." Gracie đặt tờ báo lên trên bàn bếp và uống một ngụm cà phê lớn. "Chị thề, cứ như là chị mới bỏ xứ mà đi vào tuần trước chứ không phải là 14 năm trước."  "Người già cảm nhận thời gian theo cách riêng của họ," Vivian nói khi cô rũ rũ mái tóc vàng lấp lánh ánh đỏ của cô ra sau lưng rồi ngáp dài. "Có điều, họ dậy sớm quá. Mẹ mình chưa 7 giờ là đã ra khỏi cửa rồi."  "Chị nghe Mẹ nói gì đó về thứ Bảy giảm giá đặc biệt ở cửa tiệm." Gracie trườn lên ngồi trên 1 chiếc ghế đặt trước bàn ăn và để ly xuống bàn. “Buổi bán hàng mà lẽ ra em đã đi phụ mẹ."  "Em biết." Vivian vươn vai. "Là lỗi của em đã chọn mua 1 chiếc áo cưới trị giá 3000 đô la. Em có hai chọn lựa: một là dồn hết tiền lo lễ cưới vô cái áo và cho khách nhịn đói, hai là trả góp." Cô nhoẻn miệng cười. "Ít nhất thì em cũng sẽ có được 1 cái bánh cưới tuyệt vời mà không mất đồng nào." "May cho em."  Là chị gái của cô dâu, Gracie đã tình nguyện đóng góp một trong những kiệt tác của cô cho buổi tiệc. Cô nhìn tờ lịch treo trên tường. Tính từ hôm nay thì còn đúng 5 tuần nữa là lễ cưới sẽ diễn ra. Nếu là người thông minh, cô đã tránh mặt cho đến phút cuối, rồi xuất hiện cùng với cái bánh, ăn tiệc rồi lại bỏ đi. Nhưng những cú điện thoại hốt hoảng của mẹ cô, của Vivian và Alexis, người chị cả, đã khuấy lên cảm giác tội lỗi trong cái bụng vốn đã hay bị cồn cào của Gracie làm cô đồng ý trở về nhà để giúp đỡ với kế hoạch tổ chức lễ cưới.  Và Gracie đã được tưởng thưởng bằng việc phải nướng tất cả các bánh đã được đặt hàng với cô trong 1 cái lò nướng lạ hoắc mà cô không cảm thấy tin tưởng gì mấy, và bị các cụ bà tra tấn khi họ khăng khăng nhắc lại chuyện tình cảm đầy vấn đề trong quá khứ của cô.  "Thời gian đó có gì hay đâu," Gracie lẩm bẩm với ly cà phê của mình.  Vivian cười toe toét. "Bà Baxter  có nói rằng Riley Whitefield đã trở lại thị trấn không?"  Gracie trừng mắt với em. " Em phải đi đâu mà hả?"  Vivian cười vang và chạy ra cầu thang.  Gracie nhìn em bỏ đi, rồi mở tờ báo, sẵn sàng tận hưởng 1 buổi sáng bình yên. Chiều hôm nay, cô sẽ chuyển vào ngôi nhà cô đã thuê cho sáu tuần cô ở lại thị trấn, nhưng cho đến khi đó, cô không bận gì cả, ngoại trừ -  Cánh cửa bếp bật mở.  "Ồ, tốt quá. Em dậy rồi."Alexis, chị gái lớn hơn Gracie 3 tuổi, liếc nhìn xung quanh. "Vivian đâu?" "Đang sửa soạn để chuẩn bị ra cửa hàng."  Alexis cau mày. "Chị tưởng nó đã đi rồi chứ. Không phải đợt bán hàng giảm giá bắt đầu lúc 8 giờ à?"  "Em có biết gì đâu," Gracie thừa nhận.  Cô mới về lại nhà được hai ngày và vẫn đang cố tìm cách thích nghi. Trong khi Alexis và Vivian đã lớn lên trong ngôi nhà này, thì Gracie đã bỏ đi vào mùa hè cô vừa lên mười bốn và đã không một lần trở lại.  Alexis rót cho mình một tách cà phê và ngồi lên ghế cạnh ghế của Gracie.  "Chúng ta cần nói chuyện", người chị cả khẽ nói với giọng hơi run rẩy. "Nhưng em không được kể cho Vivian. Hoặc Mẹ. Chị không muốn họ phải lo lắng, khi họ đang phải lo chuyện đám cưới."  "Được rồi," Gracie chậm rãi trả lời, biết là cô không cần phải hỏi chị là mọi chuyện có ổn không. Nếu mọi chuyện đều ổn, Alexis đã không ở đây đòi cô giữ bí mật, hoặc trông có vẻ hoảng hốt.  "Chuyện về Zeke," Alexis nói, rồi mím môi lại. "Chết tiệt, chị đã tự nhủ là sẽ không khóc rồi."  Gracie thấy căng thẳng. Zeke và Alexis đã kết hôn được năm năm, hạnh phúc về mọi mặt.  Alexis hít một hơi sâu, rồi thở ra. "Chị nghĩ anh ấy đang ngoại tình."  "Cái gì? Không thể nào. Anh ấy mê chị đắm đuối mà. "  "Chị cũng đã nghĩ vậy." Alexis đưa tay chùi mắt. "Chỉ là ..." Chị dừng lại khi cả hai nghe thấy tiếng ầm ầm ở trên lầu. "Anh ấy biến mất mỗi đêm và không về lại nhà cho đến khi ba hoặc bốn giờ sáng. Khi chị hỏi anh ấy có chuyện gì không, anh ấy nói rằng anh ấy làm việc trễ vì lo cho cuộc vận động tranh cử. Nhưng chị không tin anh ấy."  Gracie cẩn thận gấp tờ báo lại. "Vận động tranh cử gì? Không phải Zeke bán bảo hiểm sao?"  "Phải, nhưng anh ấy đang lo chiến dịch vận động để Riley Whitefield tranh chức thị trưởng.  Chị tưởng em biết rồi."  Gracie lạc hậu với thông tin hơn cô đã nghĩ. "Chuyện bắt đầu khi nào?"  "Vài tháng trước đây. Anh ta thuê Zeke vì-"  Tiếng bước chân rầm rầm ở cầu thang. Vài giây sau Vivian xông vào nhà bếp.  "Chào chị, Alexis," Vivian nói khi cô đang bím mái tóc dài của cô lại. "Hôm nay chị muốn làm ở ngoài tiệm thay em không?"  "Không hẳn."  Vivian cười toe toét. "Đâu có thiệt gì mà không hỏi. Em đi làm nô lệ để trả tiền cho chiếc váy cưới của em đây. Đừng có quậy bạo lúc em không có đây đó nha."  Cánh cửa bếp đóng sầm lại sau lưng cô. Một phút sau, tiếng máy xe khởi động, lụt phụt muốn tắt nhưng rồi lại nổ được.  Alexis đi ra phía cái cửa sổ nằm ngay trên bồn rửa chén và nhìn ra đường. "Rồi, nó đi rồi. Mình nói tới đâu rồi?"  "Chị đang kể với em là chồng của chị hiện đang làm việc cho Riley Whitefield. Sao lại thế?"  "Sau Đại học, Zeke đã làm việc cho thượng nghị sĩ bang Arizona khoảng 2 năm." Chị có vẻ nguôi bớt nỗi lo khi chị quay sang nhìn Gracie mỉm cười. "Lúc đó chị đang ở Arizona và anh ấy..." Alexis lắc đầu. "Trời ạ, chuyện lâu lắm rồi. Chị không thể tin rằng anh ấy sẽ làm điều này với chị. Chị yêu anh ấy rất nhiều và và ch… chị nghĩ ..." giọng nói của chị nghẹn ngào. "Chị phải làm gì?"  Gracie có cảm giác không thoải mái của người bị kẹt trong 1 ngôi nhà kỳ lạ. Không có gì trong nhà giống như vẻ bề ngoài của ngôi nhà, và cô tìm không được lối thoát ra. Chắc chắn rồi, Alexis và Vivian là chị em với cô. Người thân của cô. Nhìn họ đủ giống nhau để không ai có thể nhầm lẫn quan hệ máu mủ của họ, cũng mái tóc dài màu vàng - vàng nhạt cho Alexis, vàng ánh đỏ cho Vivian và vàng ánh kim cho chính cô, cũng đôi mắt xanh to tròn và thân hình cân đối vừa phải. Nhưng quan hệ chị em này đã được duy trì từ 1 khoảng cách khá xa suốt cả nửa cuộc đời cô - không được khởi động lại từ từ thì cô không biết làm sao để lại quay về với mối quan hệ đủ thân mật để có thể gửi gắm tâm sự hay cho lời khuyên. "Chị không biết chắc chắn là Zeke đang làm gì mà," Gracie nói. "Có thể là vì cuộc vận động tranh cử thật."  "Chị không biết, nhưng chị nhất định sẽ tìm hiểu cho rõ." Chị tiến lên 1 bước.  Gracie có 1 cảm giác không hay trong cái bụng đang cồn cào của cô. "Em ái ngại khi phải hỏi lắm, nhưng chị định tìm hiểu bằng cách nào?"  "Theo dõi anh ấy. Anh ấy có kế hoạch họp với Riley tối nay và chị sẽ đi đến đó."  "Không phải là ý kiến hay," Gracie nói và với lấy ly cà phê của cô. "Tin em đi, xuất phát từ kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm về Riley đó."  "Chị sẽ tiến hành kế hoạch này," Alexis nói, mắt chị ngân ngấn nước, "và chị cần em giúp chị." Gracie đặt ly cà phê xuống. "Không, Alexis, không. Em không thể, và chị cũng không thể làm thế. Điên quá."  Nước mắt lăn tròn trên má chị. Niềm đau làm đôi mắt chị xanh thẫm. Alexis làm cho sự đau khổ như hiển hiện và Gracie không biết làm sao để cưỡng lại. Nhưng cô vẫn cố thử. "Cách này chỉ gây thảm họa", cô khẳng định. "Em sẽ không dự phần vào đâu."  "Chị h… hiểu," Alexis nói và môi chị run rẩy.  "Tốt. Vì em sẽ không đi với chị đâu."     Khuya hôm đó, Gracie thấy mình theo sau chị, men theo một hàng rào cắt tỉa gọn gẽ nằm ở phía đông của một ngôi nhà cũ lớn, mà không phải là nhà ai khác, chính là biệt thự của họ Whitefield, nhà của nhiều thế hệ Whitefield giàu có và bây giờ là nơi ở của chính Riley. "Đúng là điên quá mà," Gracie thì thầm với chị khi họ lom khom cách cái cửa sổ hậu của tòa nhà vài mét. "Em đã thôi theo dõi Riley khi em mười bốn tuổi. Em không thể tin rằng em đang làm như vậy một lần nữa."  "Em không theo dõi Riley, em theo dõi Zeke. Có một sự khác biệt lớn đó."  "Em không tin Riley sẽ nghĩ thế nếu bắt gặp chúng ta.”  “Vậy thì chúng ta sẽ không bị bắt gặp. Em có đem theo máy ảnh của em chứ?"  Gracie lấy cái máy chụp hình Polaroid yêu quí (loại in hình ra ngay sau khi chụp) cô đang kẹp dưới cánh tay đưa ra. Ánh đèn đường phản chiếu cái ống kính nhỏ bé của máy sáng lấp lánh. "Hãy sẵn sàng", Alexis nói. "Sau góc này là cửa sổ thư viện. Từ vị trí đó em có thể chụp được những bức ảnh rất rõ ràng."  "Sao chị không chụp đi?" Gracie hỏi, sự sợ hãi làm chân cô nặng như chì. "Vì chị cần phải ở đây để xem có con lăng loàn nào trốn ra từ cửa sau không." "Nếu Zeke ngoại tình, sao anh ấy không đi thuê phòng ở khách sạn chứ?" Gracie hỏi. "Sao anh ấy làm vậy được, chị quản lý chuyện chi tiêu trong nhà mà. Với lại lúc tụi chị còn cặp bồ, anh ấy cũng thường cho bạn mượn nhà để đưa bạn gái về chơi. Nói cho em hay, Riley cũng đang làm như vậy cho Zeke. Có ai mà họp hành tranh cử đến tận 2 giờ sáng chứ?" Lý lẽ nghe hợp lý 1 cách kỳ cục, Gracie thầm nghĩ khi cô rón rén đi ra bên hông tòa nhà, nhất là khi mình cố tình lờ đi thực tế là mình đang lẻn vào nhà riêng của người khác để chụp hình qua cửa sổ nhà họ. "Chúng ta thậm chí không biết là họ có đang ở trong thư viện không," Gracie trầm giọng nói. "Zeke nói rằng họ luôn họp ở đó. Nếu anh ấy thực sự đang họp tranh cử thì đó là nơi họ nên có mặt."  "Hay là em nhìn qua cửa sổ rồi nói lại cho chị nghe là em đã thấy gì nha?" Gracie hỏi.  "Chị cần bằng chứng."  Còn Gracie thì cần tránh xa thật xa nơi này. Nhưng cô nhận ra vẻ ương ngạnh của Alexis và thấy ái ngại. Dù cô có muốn quay lưng không giúp chị, cô cũng không thể. Tốt nhất là chụp đại tấm hình rồi đi về hơn là cứ lom khom ở đây mà tranh cãi. "Sẵn sàng," Gracie nói khi cô tiếp tục bước ra phía hông tòa nhà. Các bụi cây quanh tòa nhà đã dày hơn lúc mới được trồng. Chúng cào xước cánh tay để trần của cô và níu kéo quần áo cô. Tệ hơn nữa, cái cửa sổ thư viện cao hơn cô, có nghĩa là cô phải cầm máy để lên trên đầu, chĩa xuống, hướng vào trong thư viện để chụp mà không biết chắc là cái gì, hay ai đang ở đó. Số cô sẽ thật may khi có ai đó nhìn ra cửa sổ ngay lúc cô chĩa máy hình vô(!) "Chỉ phí công vô ích thôi," cô làu bàu khi vươn người đứng trên đầu ngón chân và nhấn cái nút màu đỏ. Một ánh sáng chói lóa lóe lên trong màn đêm. Gracie vội ngồi sụp xuống và thầm chửi thề. Đèn flash! Sao mà cô lại quên mất cái đèn flash cơ chứ? "Bởi vì tôi sử dụng máy ảnh để chụp ảnh bánh cưới, không phải để theo dõi người ta," cô lẩm bẩm trong khi gượng đứng lên và chạy về phía Alexis đậu xe. Không thấy bóng dáng của Alexis đâu hết, và Gracie cũng không biết cô đã chụp được gì. Nhưng chuyện đó không quan trọng. Cô chỉ muốn đi khỏi chỗ này trước khi- "Đứng yên!"  Khi mệnh lệnh hùng hồn đó được đi kèm với 1 cái gì cứng cứng giống như mũi súng chĩa vào giữa xương bả vai, Gracie liền làm theo mệnh lệnh. Cô đứng yên. "Ngươi định làm cái quái gì vậy? Nếu là ăn trộm thì ngươi là một tên trộm dở tệ. Hay là ngươi luôn thông báo sự có mặt của ngươi bằng đèn flash?"  "Biết thì đã chẳng làm." Gracie nói và hít một hơi thật sâu. "Tôi xin lỗi tôi đã làm anh giật mình. Tôi có thể giải thích." Vừa nói, cô vừa quay lại và khi cô quay lại, nhìn thấy người đàn ông cầm súng và anh thấy cô… Cả hai đều nhảy ngược trở lại. Trong khi Gracie ước mặt đất mở ra và nuốt chửng lấy cô, anh ta nhìn như bị gặp ma.  "Lạy Chúa lòng lành," Riley Whitefield thở ra. "Gracie Landon, là cô?"            Chương 2 Vì mặt đất tốn quá nhiều thời gian để nuốt lấy cô nên Gracie bắt đầu ước có một con khủng long ăn thịt người khổng lồ trỗi dậy từ trong mộ và nuốt trửng lấy cô. Hoặc người ngoài hành tinh. Cô bằng lòng để người ngoài hành tinh bắt cô vào tàu du hành của họ để cô khỏi phải đứng đây và nhìn thấy gương mặt tuyệt đẹp của Riley. Cô thậm chí sẽ chịu mấy cái xét nghiệm mà không than van gì.  Cô đã không gặp anh từ mùa hè cô lên mười bốn tuổi. Anh lúc đó đã được mười tám tuổi, cái tuổi vừa con nít, vừa người lớn đáng yêu và đầy ngượng ngập. Anh giờ đã trưởng thành, cao lớn và trông hấp dẫn, nguy hiểm hơn lúc trước.Tuy nhiên, ánh mắt sững sờ của anh làm cô muốn chết ngay tại chỗ.  "Tôi có thể giải thích," cô nói, rồi tự hỏi nếu cô thực sự có thể làm được điều đó. Có từ ngữ nào có thể thuyết phục anh là cô đã không còn là con nhỏ bám đuôi điên khùng vừa mới được thả ra khỏi viện tâm thần?  "Gracie Landon?" Anh lặp lại.  Cô nhận thấy anh đã hạ súng xuống để nó không chỉa trực tiếp vào cô. Vậy cũng được. "Chuyện không phải như anh nghĩ đâu," cô nói và bước lùi một bước. Có lẽ nó sẽ tốt hơn cho cả hai người họ nếu cô tan biến vào trong màn đêm. Và chị cô đâu rồi? Làm cái quái nào mà Alexis luôn biến mất khi có chuyện rắc rối xảy ra vậy. Lúc nào chị cũng để Gracie lãnh đủ.  "Cô không phải đang rình rập bên ngoài nhà của tôi để chụp ảnh sao?" Riley hỏi.  "Ừ thì có, tôi có làm thế, nhưng không phải vì anh. Không hẳn là thế." Mắt anh có màu của đêm giông bão. Ít nhất đó là cách cô mô tả chúng khi cô còn thiếu nữ.Cô đã viết hẳn 1 bài thơ hai-ku (thể thơ Nhật) dở òm về đôi mắt và miệng của anh. Cô đã tưởng tượng anh sẽ hôn cô thế nào khi cuối cùng anh cũng đã giác ngộ và nhận ra được họ thuộc về nhau. Thậm chí cô còn làm thơ và gửi đến cho các bạn gái của anh - sau khi anh đã bỏ họ - để chia buồn cùng họ.  Phải rồi Jenny ạ, Chỉ mình tôi hiểu được Phút giây thần tiên ấy Khi anh nắm tay bạn Gracie đặt tay lên bụng khi cảm thấy nó bắt đầu cồn cào, nhộn nhạo.  Bình thường cô chẳng nhớ nổi cô đã để chìa khóa xe ở đâu, sao giờ cô lại có thể nhớ ra được mấy câu trong cái bài thơ dở òm cô đã làm từ đời thuở nào? "Chắc là mình bị trục trặc gì nặng lắm rồi," cô lẩm bẩm. "Tôi đồng ý,” Riley nói.  Cô nheo mắt nhìn anh. " Anh chẳng giúp được gì cả. Anh biết điều đó không? Tôi biết chuyện trông có vẻ tồi tệ, nhưng có tin mới nè. Tôi đến đây không phải vì anh. Anh rể tôi, Zeke lẽ ra tối nay phải ở đây với anh để giúp anh chuyện vận động tranh cử chức thị trưởng. Chuyện là vậy đó." Cô vẫy vẫy cái máy ảnh trước mặt anh.  Anh cau mày. " Cô có gì đó với anh rể của cô à?"  "Cái gì?" Cô la lên. " Không! Ghê quá! Tất nhiên là không rồi. Chị tôi, Alexis, nhờ tôi -", cô bặm môi lại và quay đi, hướng về phía xe chị cô đã đậu - mong là Alexis đã không lái xe chạy mất sau khi đã lén lút bỏ đi. "Thôi bỏ qua đi." "Đừng có vội thế ", Riley nói và chụp lấy tay cô."Cô không thể xuất hiện như thế này, chụp ảnh, rồi bỏ đi. Làm sao tôi biết cô đã không gài bom vào xe của tôi?"  Gracie giật tay lại rồi hiên ngang ưỡn ngực ra trước khi quay lại đối mặt với anh. "Tôi chưa từng cố ý làm hại anh." Cô nói với vẻ bình tĩnh hết sức trong khi điều cô muốn làm là hét lên và chạy biến vào trong màn đêm. Thật là không công bằng mà. "Khi tôi còn thương thầm anh, tôi chỉ cố ngăn cản anh đi hẹn hò với bạn gái của anh thôi, chứ tôi chưa thực sự làm tổn thương bất cứ ai."  “Cô đã nằm lăn ra ngay trước xe của tôi và xin tôi cán qua người cô."  Mặt cô bừng bừng lên. Sao mọi người không thể để quá khứ ngủ yên? Sao tất cả các chuyện đáng xấu hổ của cô phải bị mổ xẻ nơi công cộng chứ?  "Như thế sẽ làm tôi đau, chứ không phải anh." Cô hít một hơi thật sâu. Tư tưởng hòa bình, cô tự nhắc mình. Và thuốc kháng axit (để trung hòa dịch vị bao tử). Đó là tất cả những gì cô cần. "Tôi xin lỗi đã làm phiền anh. Tôi xin lỗi đã để chị tôi thuyết phục tôi đến đây. Tôi biết đó không phải là ý kiến hay. Chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Dù vấn đề của chị ấy với Zeke là gì đi nữa, tôi cũng sẽ không dính líu vô. Không bao giờ nữa." Anh nheo mắt lại. "Zeke có chuyện gì?" "Đó là chuyện riêng tư."  "Thôi nào, cô nương, từ lúc cô bắt đầu chụp ảnh qua cửa sổ nhà tôi thì nó đã thành chuyện của tôi rồi." Anh ấy cũng có lý. Không nhiều nhưng cũng vẫn có... "Gần đây Zeke xử sự hơi kỳ lạ - về nhà trễ, không chịu nói chuyện. Anh ta nói anh ta bận rộn suốt với chiến dịch tranh cử của anh nhưng Alexis nghĩ anh ta đang ngoại tình." Riley chửi thề và lại chụp lấy tay cô. "Đủ rồi. Đi nào." "Thả tôi ra." Anh không thả tay cô ra mà bắt đầu bước đi, lôi cô theo cùng. "Chúng ta đi đâu vậy?" cô hỏi. "Vào nhà. Chúng ta cần nói chuyện. Nếu người tổ chức cuộc vận động tranh cử của tôi đang dối gạt vợ anh ta thì tôi cần được biết." "Tôi không nghĩ anh ta đang ngoại tình. Anh ta có vẻ không thuộc loại người đó. Tối nay cuộc họp của hai người kết thúc lúc nào?" Riley ngừng lại ngay trước hiên nhà. Ánh sáng từ ngọn đèn lớn trên cửa chính phản chiếu các nét hoàn hảo của gương mặt anh - đôi mắt sẫm, đôi gò má cao, và đôi môi có thể khiến một người phụ nữ bình thường luôn tỉnh táo lại khao khát làm một điều gì đó thật hư đốn. Anh vẫn đeo bông tai, nhưng chiếc khuyên bằng vàng mà cô nhớ rất kỹ nay đã được thay thế bằng 1 hạt kim cương. "Chúng tôi không có họp", anh nói thẳng. "Tôi đã không thấy Zeke ba ngày nay rồi."  Cơn nhộn nhạo trong bụng trở nên trầm trọng hơn. Gracie giằng tay khỏi tay của Riley và xoa xoa bụng. "Không hay rồi." "Tôi cũng nghĩ như thế. Vậy cô nên vô nhà đi, tôi muốn cô kể từ đầu tất cả những gì cô biết về Zeke và chuyện ngoại tình của anh ta." "Có điều, tôi thậm chí không biết anh ta có phải đang ngoại tình không. Alexis có thể đã phản ứng quá mạnh." "Cô ấy hay như vậy lắm sao?” anh hỏi, tay giữ cánh cửa mở và ra hiệu cho cô bước vô. "Tôi không nghĩ vậy. Có thể lắm. Tôi sống ở Los Angeles. Tôi không thường ở cùng chị ấy." Cô bước vô nhà và đứng sững lại ngay tiền sảnh. Bên trong thật rộng, đã cũ nhưng đẹp tuyệt với trần nhà thật cao và chạm trổ điêu luyện, nội thất và các vật trang trí cùng các tác phẩm nghệ thuật bên trong đủ để chương trình Antique Roadshow dành riêng 1 tháng phát sóng cho chúng (đây là 1 chương trình chuyên định giá (trị) của đồ cổ). "Chà, tuyệt quá," Gracie vừa nói vừa nhẹ xoay người vòng vòng. "Cả căn nhà của tôi để trong tiền sảnh này cũng vừa." "Ừ, nó rộng thật. Thư viện bên này." Một lần nữa anh lại túm tay cô lôi đi. Cô nhìn thoáng thấy phòng ăn và một phòng giải trí hay phòng khách trước khi bị anh kéo hẳn vào thư viện. Anh thả tay cô và bước đến khay rượu đặt ở bệ cửa sổ. Sau khi để cây súng lên bàn, anh rót gì đó giống như rượu Scotch vào hai cái ly. Cô đặt cái máy hình xuống. "Để tôi nói cho rõ - á, đau quá," cô vừa nói vừa xoa xoa cánh tay cô. "Hồi trước anh đâu có thô bạo với phụ nữ." Anh trừng mắt với cô rồi đưa cô li rượu. "Tôi không tin cô." "Chuyện cách đây 14 năm rồi, Riley à. Anh cần phải để quá khứ ngủ yên đi." "Tôi đã vui vẻ làm thế cho đến khi cô lại xuất hiện ở đây. Cô đã làm khổ tôi suốt 2 năm trời. Họ đã viết về chuyện đó trên báo. Họ gọi nó là "Truyền thuyết Gracie". Sự bối rối làm cô muốn ngọ nguậy. "Ừ, à, vụ đó không phải lỗi của tôi. Sao chúng ta không nói chuyện khác thích hợp hơn? Như chuyện của Zeke vậy." "Tại sao Alexis nghĩ anh ta đang ngoại tình?" Gracie nhún vai. "Anh ta hay về trễ, và không chịu nói là đã đi đâu." "Chuyện diễn ra bao lâu rồi?" "Khoảng 6 tuần. Lúc đầu Alexis nghĩ anh ta thực sự bận rộn với cuộc vận động tranh cử, nhưng anh ta ngày càng về trễ và không chịu nói là có chuyện gì đang diễn ra..." Cô ngừng lại, liếc anh. "Sao anh lại tranh chức thị trưởng? Tôi thấy anh đâu giống người thích chính trị." Riley phớt lờ câu hỏi và chỉ vào ly rượu của cô. "Cô muốn đồ uống khác không?" Gracie ngửi ngửi cái ly rồi đặt nó trở lại bàn. "Không, nó cũng được. Có điều stress làm dạ dày tôi khó chịu." Cô rút cái gì giống như 1 cây kẹo thuốc kháng axit ra và bỏ vài viên vào miệng. "Phòng này tuyệt quá." Riley dõi theo ánh mắt cô khi cô ngước nhìn dãy kệ sách cao vời vợi chứa đầy sách. Anh không buồn nói cho cô biết là trong tòa nhà này, thư viện là 1 trong vài nơi anh cảm thấy thoải mái khi ở đó. "Nói cho tôi nghe về Zeke," anh nói. "Anh nói cho tôi nghe." Cô bước đến bộ so-fa bằng da đối diện 1 lò sưởi trang nhã và ngồi ịch xuống. "Anh ta là người lo vận động tranh cử cho anh. Anh ta có phải đang ngoại tình không?" "Làm quái nào tôi biết được." Riley bước đến cạnh cái bàn làm việc và tựa vào đó. "Lúc nào anh ta cũng nhắc đến Alexis. Tôi nghĩ anh ta yêu cô ấy lắm." "Nhưng mấy cuộc họp của anh không kéo dài đến 3 giờ sáng chứ." Anh mỉm cười. "Tôi tranh chức thị trưởng, có phải chức tổng thống đâu." "Ừ, tôi cũng nghĩ thế. Chà, tôi nghĩ tôi phải nói với Alexis là Zeke không có ở đây. Chị ấy sẽ không muốn thế đâu." Riley cũng không muốn như thế. Còn 5 tuần nữa là đến ngày bỏ phiếu rồi, anh không thể để có bất kỳ rắc rối gì, nhất là khi anh đang bắt đầu được lòng các cư dân lương thiện ở thị trấn Los Lobos này. Anh đặt ly của mình xuống và giật tấm hình đang kẹp lơ lửng ở máy ảnh ra. Sau khi lột bỏ lớp bảo vệ, anh nhìn chằm chằm vào bức ảnh.  Ngoài cái trần thư viện và vài kệ sách, nó chẳng có gì khác. "Cô không giỏi vụ này lắm," anh nói. Cô đảo tròn mắt. "Tôi chẳng thèm. Dù anh nghĩ gì về tôi đi nữa thì tôi không lớn lên để thành thám tử hay kẻ chuyên bám đuôi. Tôi kiếm sống bằng nghề trang trí bánh cưới." Cô có vẻ hơi bực bội, tự ái và cả xấu hổ nữa. Mặt cô ửng hồng lên và môi cô hơi run run. Cô đã trưởng thành, trổ dáng, nhưng các nét cơ bản thì vẫn thế. Vẫn đôi mắt xanh to tròn, vẫn mái tóc dài vàng óng và vẻ cương quyết đã từng làm anh vãi hồn khi xưa. "Tôi xin lỗi. Cho chuyện này và tất cả các chuyện kia. Anh biết mà. Trước đây." "Có phải chúng ta đang nói đến chuyện bột ngứa được bỏ vào trong quần lót của tôi không?" "Ừ, thì, tôi nghĩ vậy. Chỉ là..." Cô hơi chồm người tới trước và đưa tay vẽ vòng vo trên mặt cái bàn đặt cạnh bộ so-fa. "Nhìn lại thì tôi không ngờ tôi đã làm như vậy với anh. Thật kinh khủng." "Dân quanh đây vẫn còn nói về chuyện đó."  Cô ngồi thẳng dậy và nhìn anh. "Anh còn nói. Ai cũng có thể bỏ quá khứ của họ lại sau lưng, nhưng tôi thì không được. Khônnngggg. Tôi trở thành huyền thoại. Và phải nói chứ, chuyện đó thật vớ vẩn." Anh nghĩ về liều thuốc xổ cô đã xoay sở lén bỏ vô chén canh của anh buổi trưa trước ngày lễ tốt nghiệp. "Cô rất là sáng tạo." "Tôi là một hiểm họa. Lúc đó tôi chỉ muốn..." Mặt cô lại hồng lên. "Ừ thì, cả hai chúng ta đều biết lúc đó tôi đã muốn gì." "Bây giờ có hay hẹn hò không?" "Vài lần, nhưng tôi cẩn thận không đưa họ về đây." "Cô không muốn họ nghe chuyện cô đã dụ 1 con chồn hôi vào xe của tôi, rồi nhốt nó trong đó vài giờ chứ gì?" Cô nhăn nhó. "Tôi đã chịu chi phí rửa xe rồi." "Xe của tôi không bao giờ được như cũ. Tôi đã phải bán nó. Ở 1 cuộc đấu giá." Anh nâng ly lên. "Cô đã rất cương quyết phá vỡ chuyện tôi với Pam. Bằng vào chuyện đã xảy ra thì lẽ ra tôi nên nghe lời cô." Vẻ mặt tự đắc của Gracie khiến anh nghĩ cô sẽ đồng ý với nhận xét của anh nhưng thay vì có ý kiến về chuyện đó, cô lại hỏi. "Bây giờ cần làm gì?" "Tôi sẽ tìm hiểu xem Zeke đang tính chuyện gì. Lúc này tôi không muốn có rắc rối gì. Cô có thể khuyên chị cô rút lui, chờ tôi có thông tin chắc chắn được không?" Khi thấy Gracie ngại ngần, anh trừng mắt với cô. "Cô nợ tôi." Anh nhắc nhở. Cô rùng mình. "Tôi biết. Được rồi - tôi sẽ làm hết sức với Alexis. Nhưng tôi không thể hứa là hoãn chị được hơn 2,3 ngày, vì chị ấy đã quyết rồi." "Và tất cả chúng ta đều biết chuyện gì xảy ra khi phụ nữ nhà Landon quyết làm một điều gì đó." "Chính xác." Cô đứng dậy và nhìn anh. "Tôi thành thật xin lỗi anh, Riley. Tôi biết câu xin lỗi này đã trễ 14 năm, nhưng nó là lời thật từ đáy lòng tôi. Tôi không bao giờ có ý định làm cuộc sống của anh khổ sở thế." "Tôi cảm kích điều đó." "Anh có muốn tôi để số điện thoại di động của tôi lại cho anh liên hệ với tôi về chuyện của Zeke hay anh muốn trực tiếp liên lạc với Alexis?" Giữa "quỷ sứ và ma vương" thì Riley chọn "quỷ sứ" mà anh biết. "Số của cô là được rồi." Anh đưa cho cô tập giấy, cô viết số lên rồi trả lại cho anh. "Máy ảnh của tôi?" cô nói. Anh đưa nó cho cô. Mời các bạn đón đọc Lỡ Yêu Gracie (Falling for Gracie) của tác giả Susan Mallery.