Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khói Lửa

Henri Bacbuyxơ (Henri Barbusse, 1873 – 1935) là một nhà văn cách mạng lớn đã đặt nền móng cho phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Pháp. Ông là một chiến sĩ cộng sản kiên quyết bênh vực những kẻ bị áp bức bóc lột, dũng cảm đấu tranh cho tự do và tiến bộ. Hội nhà văn quốc tế đánh giá ông là “người chiến sĩ phản đối chiến tranh đế quốc đầu tiên và lớn nhất trong văn học thế giới”. Và G. Đimitrôp viết: “Tên tuổi của H. Bacbuyxơ sẽ chói lòa trên những lá cờ của hàng triệu người đấu tranh chống lại thế giới cũ, thế giới của sự bóc lột, của sự nô lệ và của những cuộc chiến tranh ăn cướp”.[1]   Henri Bacbuyxơ sinh ngày 17 tháng 5 năm 1873 tại Axnierơ (quận Xen) nước Pháp. Cha ông, Anđriên Bacbuyxơ, là một nhà viết báo và viết kịch. Mẹ, Eni Benxơ, là con một chủ trại ấp người Anh. Bà mẹ chết lúc Bacbuyxơ mới lên ba tuổi.   Lúc còn là học sinh, Bacbuyxơ đã tỏ ra có biệt tài về văn thơ. Năm 1895, sau khi tốt nghiệp đại học, ông chính thức bước vào nghề viết văn, làm báo. Cũng chính năm đó, ông cho xuất bản tập thơ đầu tay, một tập thơ được Catuylơ Mendet (một nhà thơ Pháp nổi tiếng đương thời) hết sức ca ngợi.   Năm 1903, Bacbuyxơ viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Những người van xin (Les suppliants) và năm 1908 viết cuốn Địa ngục (L’Enfer). Hai cuốn này được các nhà văn Mateclink và Anatôn Franxơ coi là những tác phẩm lớn của một nhà văn có thiên tài.   Trong giai đoạn sáng tác này, Bacbuyxơ đã bắt đầu đi theo phương hướng hiện thực chủ nghĩa, nhưng mãi đến những năm chiến tranh 1914 – 1918, ông mới thực sự bước vào con đường sự nghiệp của một nhà văn và nhà chiến sĩ cách mạng.   Ngày 19 tháng 7 năm 1914, cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Nguyên nhân chủ yếu của cuộc chiến tranh này là những mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa bọn đế quốc Anh và đế quốc Đức. Với mục đích đòi chia lại thị trường thế giới, ngay trong những năm 1879 – 1882 Đức đã liên minh với Áo, Hung và Ý nhằm chống lại Nga, Pháp và Anh. Và từ đầu thế kỷ XX, ở châu Âu đã dần dần thành hình hai phe đối địch. Cuộc chiến tranh thế giới năm 1914 đã lôi cuốn 28 nước với số dân trên một tỷ rưỡi, và có đến 74 triệu người bị động viên.   Lúc đó, Henri Bacbuyxơ đã ngoài bốn mươi, đã quá tuổi tòng quân. Nhưng dù tuổi cao, sức yếu, ông vẫn tình nguyện gia nhập quân đội. Ông vào quân đội không phải để phiêu lưu, mạo hiểm mà là để làm bổn phận đối với tổ quốc và nhìn cho rõ thực chất ghê tởm của chiến tranh đế quốc, đặng vạch trần nó, góp phần tiêu diệt nó. Tháng chạp năm 1914, ông được điều ra mặt trận với trung đoàn bộ binh 231, sống với một tiểu đội mà ông đã mô tả sâu sắc trong tác phẩm Khói lửa (Le Feu) bất hủ.   Sau những ngày lăn lộn ở chiến hào, sát cạnh những người lính bình thường, hàng ngày đụng đầu với gian khổ, khủng khiếp và chết chóc, Bacbuyxơ mang về hậu phương một quyển sổ ghi chép bết bùn. Từ quyển sổ tầm thường ấy, bắt đầu từ cuối năm 1915 và sau 6 tháng, Khói lửa ra đời.   Từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1916, Khói lửa được đăng dần trên báo Sự nghiệp, (Œuvre), bị kiểm duyệt cắt mất nhiều chỗ, và năm 1917, được xuất bản thành sách. Ngay từ lúc đầu, độc giả đã nhiệt liệt hoan nghênh, mặc dầu những công kích của bọn sô vanh chủ nghĩa. Tác phẩm đoạt giải thưởng Gôncua (Goncourt) và đến nay đã được dịch ra trên sáu mươi thứ tiếng.   Sau Khói lửa, cuốn Ánh sáng (Clarté), ra đời năm 1919, là một tác phẩm khác nổi tiếng của Bacbuyxơ. Ánh sáng có thể được coi là tiếng lòng của tác giả và của cả một lớp người trẻ tuổi đáp lại tiếng vọng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga. Viết Ánh sáng, H. Bacbuyxơ đã gửi vào đấy một mối hy vọng: Từ cảnh chết chóc của chiến tranh, do sức mạnh của quần chúng, một thế giới mới sẽ ra đời, trong đó con người được nảy nở toàn diện và cuộc sống thật là tốt đẹp.   Từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, Bacbuyxơ càng ra sức hoạt động chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Ông đã thành lập Hội cựu binh và thương binh ở Pháp (năm 1919) và Tổ chức cứu tế của Cựu binh sĩ (năm 1920). Cũng năm 1920, cùng với Raymôn Lơfevrơ (Raymond Lefevre) và Pôn Vayăng Cutuyriê (Paul Vaillant Couturier), ông sáng lập tạp chí Ánh sáng, cơ quan của nhóm Ánh sáng, một nhóm còn có tên là Tổ chức quốc tế của tri thức. Trong những năm đầu, tạp chí Ánh sáng đã có ảnh hưởng khá lớn, được sự cộng tác của các nhà trí thức tiến bộ toàn thế giới.   Từ năm 1917, trong những bài báo và diễn văn của mình, Bacbuyxơ luôn luôn lên tiếng ca ngợi Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa cộng sản. Đến năm 1923, giữa lúc chính phủ phản động Pháp ráo riết đàn áp phong trào của giai cấp công nhân, lùng bắt các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản, Henri Bacbuyxơ đã chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Ông tuyên bố: “Tôi đã lấy tư tưởng của họ làm tư tưởng của tôi thì ngày nay tôi phải chịu đựng những gian nguy mà họ phải chịu”.   Dưới lá cờ của Đảng, H. Bacbuyxơ càng có thêm nhiệt tình và phương hướng đúng đắn đấu tranh cho chân lý, cho sự nghiệp giải phóng những người bị áp bức bóc lột. Tiếng nói chính nghĩa của ông đã không ngớt vang lên tố cáo mọi bất công và tàn bạo. Năm 1925, ông đã kêu gọi chống chiến tranh xâm lược Marôc. Khi bọn thống trị ở Bancăng tiến hành khủng bố trắng đối với nhân dân vùng này, ông đã sang tận nơi điều tra, đã thành lập những ủy ban bảo vệ nhân dân của cuộc khủng bố và lúc về nước Pháp, đã viết bản tố cáo đanh thép Những tên đao phủ (Les bourreaux) (1925).   Cạnh những hoạt động chính trị có ý nghĩa lớn đó, Bacbuyxơ vẫn hăng say tiếp tục sự nghiệp văn học của mình, một sự nghiệp văn học tích cực phục vụ hoạt động chính trị chân chính. Năm 1925, ông cho xuất bản cuốn Những sự trói buộc (Enchainements) một cuốn sách vạch trần nguyên nhân đầu tiên của mọi tội lỗi: nạn người bóc lột người.   Năm 1926, cuốn Sức mạnh (Force), tập truyện ngắn, và năm 1927, cuốn Jêdu (Jésus) của ông ra đời. Cũng trong năm 1927, Bacbuyxơ đã đi thăm Liên-xô, và ở Mạc-tư-khoa, ông đã tham dự vào việc thành lập Tổ chức quốc tế của các nhà văn cách mạng, mà sau này ông là một trong những người lãnh đạo. Khi trở về Pháp, ông đã viết cuốn Đây, người ta đã làm gì cho xứ Georgi (Voici ce qu’on a fait de la Géorgie) (1927). Năm 1928, Bacbuyxơ sáng lập tờ tuần báo Thế giới (Le monde). Tờ báo được coi như là một công cụ để giải phóng trí thức và là cơ quan liên lạc của những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa.   Năm 1932, Bacbuyxơ viết tác phẩm Đời Zôla (La vie de Zola). Trong công trình lịch sử và phê bình văn học này ông đã vạch rõ tác dụng tích cực và những hạn chế của Zôla và của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học. Ông cũng đã trình bày tính chất và nhiệm vụ của văn học là phải thật sự hiện thực và phải phục vụ cho sự nghiệp giải phóng con người.   Trong những năm cuối cùng của đời mình, Bacbuyxơ đã ra sức chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh đang đe dọa thế giới, mặc dầu sức khỏe của ông ngày càng giảm sút. Ông đã tham dự và lãnh đạo nhiều cuộc hội nghị quốc tế chống chiến tranh và chủ nghĩa phát xít. Năm 1933, ông đã sang tận nước Mỹ nói chuyện trước nhiều cuộc mít-tinh và thành lập Liên đoàn chống chiến tranh và chủ nghĩa phát xít ở châu Mỹ.   Xtalin một thế giới mới nhìn qua một con người (Staline, un monde nouveau vu à travers un homme) ra đời năm 1935, là tác phẩm cuối cùng của đời ông. Trong cuốn sách này, ông đã hết lòng ca ngợi ý chí, tài năng của Xtalin, người đồng chí, người bạn và người kế nghiệp của Lênin.   Tháng 7 năm 1935, nhận lời mời của các nhà văn Xô-viết, ông lại sang thăm Liên-xô và đã tham dự Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế cộng sản. Lúc này, thân thể ông đã suy nhược, lại bị bệnh sưng phổi, nên ngày 30 tháng 8 năm 1935, ông đã từ trần tại Mạc-tư-khoa.   Nhân dân Pháp, nhân dân Liên-xô và nhân dân thế giới hết sức thương tiếc Henri Bacbuyxơ. Suốt trong ba ngày, nhân dân thành phố Mạc-tư-khoa liên tục diễu qua trước linh cữu ông. Sau đó, linh cữu ông được đưa về Pháp và ngày 7 tháng 9 tang lễ đã được cử hành trọng thể ở Pa-ri.   Đối với Việt Nam chúng ta, thân thế và sự nghiệp văn học của Henri Bacbuyxơ đã có ảnh hưởng lớn đến các nhà văn và các nhà hoạt động cách mạng ngay trong những năm trước Cách mạng tháng Tám. Bacbuyxơ đã nghiêm khắc lên án chế độ thuộc địa vô cùng tàn bạo của thực dân Pháp. Đã từ lâu, báo chí Việt Nam đã có những bài giới thiệu H. Bacbuyxơ như một nhà văn dùng nghệ thuật của mình để phục vụ nhân dân, phục vụ chân lý, phục vụ chủ nghĩa xã hội.[2]   Khói lửa mà Henri Bacbuyxơ gọi là “Nhật ký của một tiểu đội” và đề tặng hương hồn những bạn đồng đội đã hy sinh bên cạnh mình ở Cruy và trên sườn đồi 119, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng không những trong sự nghiệp sáng tác của Bacbuyxơ mà cả trong nền văn học hiện đại Pháp.   Có thể khẳng định rằng giá trị chủ yếu của Khói lửa là ở chỗ đã chống đối mãnh liệt chiến tranh đế quốc. Annet Viđan (Annette Vidal), nữ thư ký của H. Bacbuyxơ, đã từng phân tích Khói lửa, coi đó là cuốn tiểu thuyết của chiến tranh, của chiến hào, của người lính, của sự thật và là cuốn tiểu thuyết viết cho nhân dân. Ý nghĩa phản đối chiến tranh đế quốc của tác phẩm biểu lộ trước hết ở chỗ vạch trần sự thật khủng khiếp và cái vô lý của chiến tranh.   Trong Khói lửa, những người phải trực tiếp ra mặt trần phần lớn là công nhân, nông dân và dân nghèo. Lấy tiểu đội của tác giả làm ví dụ: hầu như không có ai là nghệ sĩ, tri thức hoặc tư sản. Dưới bề ngoài bình thường và phức tạp, họ chứa chất những tình cảm dịu hiền, lành mạnh. Họ hết sức thương yêu bố mẹ, vợ con, làng mạc, quê hương, trân trọng giữ từng lá thư nhà để sưởi ấm lòng. Blerơ đã từng chăm chú mài giũa làm chiếc nhẫn tặng vợ, Fuiat những lúc rảnh rỗi đã từng mơ tưởng về quê hương yêu dấu. Pôteclô vì mong thấy mặt vợ mà quên hết mọi gian nguy và trước hoàn cảnh éo le, những ý nghĩ ghen tuông của anh đã pha trộn nhiều niềm tha thứ. Lamuydơ coi trọng tình đồng đội, nhiều lúc quên mình để cứu bạn. “Họ không phải là lính tráng, họ là những con người…”. Nhưng chiến tranh đã bắt buộc người lính làm những điều trái ý muốn và tâm tư của họ. Ở trận địa có khi họ đánh đổi một mạng người lấy một bao diêm, một cặp ống chân lấy một đôi bốt. Họ phải trở thành ích kỷ, phải xoay sở, giành giật lẫn nhau. Có người đã phải kêu lên: “Tiến đến đây, thì ai cũng như thú dữ. Sống mãi như súc vật rồi đến thành súc vật cả nút”… Chiến tranh còn là chia ly, tan tác. Một lá thư của Bikê gửi an ủi mẹ, một bà mẹ suốt đời chỉ sống vì con bị trả về tiểu đội anh khi anh đã vĩnh viễn lìa đời: chiến tranh đã đẩy mẹ anh phiêu bạt không biết đi đâu. Lamuydơ bị đạn đại bác cướp mất Ođôxi và, khi anh được tự do gần nàng, ôm nàng thì nàng đã thành một trong những cái xác rữa nát, hôi thối dưới cái hầm bị sập. Và Pôteclô lìa đời trong lúc hình ảnh vợ anh cười nụ bên cạnh mấy thằng sĩ quan Đức trong căn buồng đầy ánh sáng, ở miền bị Đức chiếm, chưa làm anh hết băn khoăn. Cả một tiểu đội gồm 17 người, đến cuối tác phẩm bị tiêu hao gần hết. Cảm động nhất là cái chết của Mexin Anđrê. “Hắn có sáu anh em… Bốn đứa đã ngoẻo rồi, hai đứa nghoẻo ở Anđat, một ở Sampanhơ và một ở Acgôn…” Và Mexin cũng đã hy sinh.   Trong lúc ấy, bọn giàu sang ở thành thị coi chiến tranh chỉ là một việc bình thường, và cho rằng mỗi người một nghề, chúng ở hậu phương buôn bán, bóc lột làm giàu, công lao cũng không kém những người ra trận!   Bên cạnh việc mô tả đầy tính chất hiện thực cuộc chiến tranh đế quốc với những thảm trạng và bất công của nó; Khói lửa còn phản ánh được quá trình giác ngộ của những người lính. Lúc đầu, họ hục hặc với tất cả, họ phá phách và đôi khi độc ác. Dần dần sự phản ứng ấy đã hướng được vào đúng chỗ. Từ thái độ đối với bọn nhà báo bồi bút, đến sự phản kháng có ý nghĩa trước cái chết của Caja, và cơn phẫn nộ đối với bọn phục hậu, dần dần, người lính đã thấy rằng “một sự khác biệt bắt đầu hình thành giữa những con người, một sự khác biệt thật sâu xa, không thể dung hòa được… sự khác biệt giữa những kẻ bóc lột và những người phải làm quần quật, phải hy sinh tất cả… còn những kẻ khác thì giẫm đạp lên họ, tiến lên, mỉm cười và toại nguyện…”. Bước đầu giác ngộ giai cấp đã khiến họ có những suy nghĩ đúng đắn về chiến tranh: “… từng đoàn quân chui vào lò sát sinh là để cho một giai cấp đeo lon vàng có thể ghi tên tuổi quí phái của chúng vào lịch sử, để cho những kẻ cũng đeo đầy vàng, cũng thuộc vào một đẳng cấp như bọn kia có thể ôm đồm kinh doanh nhiều hơn để phục vụ cá nhân chúng…” Họ biết mình sinh ra là để làm những người chồng, người cha, làm những con người đúng với nghĩa của nó, chứ không phải để làm những con thú dữ cắn xé nhau, gieo khổ cho nhau. Cái băn khoăn của Mactơrô về bọn lính Đức không thích xung phong mà sao vẫn cứ phải ra trận, câu chuyện của anh lính phi cơ ở trạm cấp cứu về những lời cầu nguyện giống nhau trong một buổi sáng chủ nhật của lính Đức và lính Pháp, càng khẳng định thêm tội ác gây chiến của bọn thống trị bóc lột. Họ đã tự đặt nhiệm vụ phải tiêu diệt chủ nghĩa quân phiệt ở Đức và ở tất cả các nước một khi nó bành trướng đến và phải trừ khử chiến tranh ngay trong lòng tất cả các nước. Mục tiêu chiến đấu của họ là rồi đây phải chống những điều tội lỗi chứ không phải chống riêng một nước nào. Xã hội cần có một sự đổi thay và họ “hé thấy một cuộc Cách mạng nào đó lớn lao hơn cuộc cách mạng kia[3]”.   Khi nắm được thực chất của chiến tranh đế quốc, họ đã xác định được lòng tin, tin ở sức mạnh của mình, tin ở ngày mai tươi đẹp, tin rằng xã hội xấu xa sẽ mất, chiến tranh sẽ bị tiêu diệt và tương lai sẽ rực rỡ, vì mặt trời vẫn tồn tại.   Vạch trần được nguyên nhân của chiến tranh, nêu được những mâu thuẫn xã hội, Khói lửa còn đề cao được mối tình quốc tế mới nhóm trong lòng những người lính bị đưa ra mặt trận. Trong bao nhiêu đau khổ và mất mát chung, lính Đức và lính Pháp dần dần hiểu nhau hơn, bước đầu thấy sự phân biệt chủng tộc là một điều vô lý và bịp bợm. Những người lính Pháp coi việc giết được nhiều lính Đức là một điều tội lỗi hơn là một vinh quang. Và lính Đức cũng thế, cũng chửi rủa chiến tranh, chửi rủa cấp chỉ huy của họ. Ở phần cuối của tác phẩm, những bọn dân tộc hẹp hòi được coi là quân dòi bọ và viên cai Bectrăng đã lớn tiếng ca ngợi Lepnick, một lãnh tụ của nhân dân Đức là “nhân vật đã vươn cao mình lên trên cuộc chiến tranh và sẽ luôn luôn sáng ngời vì lòng gan dạ đẹp đẽ và lớn lao…”   Khói lửa đã nghiêm khắc lên án chiến tranh đế quốc giữa lúc đa số đảng trong Đệ nhị quốc tế phản bội quyền lợi của giai cấp công nhân, chạy theo ủng hộ chiến tranh, giữa lúc bọn Trôtxky đề ra luận điệu lừa bịp “không thắng, không bại” nhằm lợi dụng chiến tranh chống lại bước tiến của Cách mạng. Khói lửa là tiếng nói của sự thật vọng lên từ những chiến hào bùn lầy, tuyết đọng, đầy thiếu thốn, và chết chóc. Khói lửa động viên và tập hợp những lực lượng trước kia còn phân tán để chống chiến tranh một cách tích cực hơn.   Không những về mặt nội dung, mà cả về phương pháp nghệ thuật, Khói lửa là một hiện tượng rất mới, rất đặc biệt, rất có ý nghĩa trong văn học Pháp đương thời. Giữa lúc văn học Pháp và văn học các nước phương Tây nói chung vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đang ngày càng sa vào những khuynh hướng đồi trụy, không lối thoát, giữa lúc chủ nghĩa tự nhiên còn ảnh hưởng khá sâu sắc đến các nhà văn có khuynh hướng tiến bộ, Khói lửa đã mang nhiều yếu tố của chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ngòi bút của Bacbuyxơ vừa phê phán sâu sắc, vừa gợi lên ý niệm về tương lai, bước đầu gây lòng tin tưởng ở cái mới rồi đây sẽ thắng cái cũ.   Điều chủ yếu là trong Khói lửa, Bacbuyxơ đã sử dụng một ngòi bút hiện thực thật sinh động. Chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi phải xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Khói lửa, như tác giả đã gọi, chỉ là một tập nhật ký, một tập ghi chép, không phải là một cuốn tiểu thuyết, không tập trung vào một nhân vật nhất định nào cả. Nhân vật ở đây là cả một tiểu đội binh sĩ, mỗi người một khía cạnh, một sắc thái đúc lại làm thành điển hình người lính Pháp trong đại chiến thế giới lần thứ nhất. Cảnh trong Khói lửa cũng thường thay đổi: khi là những chiến hào lầy bùn, âm u và ghê rợn, khi là chặng đường hành quân dài dằng dặc, khi là chỗ trú quân nơi sơn cước, khi là mặt trận khói đạn mù trời, khi là nơi hậu phương lúc nhúc những bọn phục hậu hèn nhát, khi là một làng đã hoàn toàn bị chiến tranh san phẳng v.v… Những cảnh đó, cộng lại, tiếp nhau, đã khiến người đọc hình dung được phần nào hình ảnh nước Pháp điêu đứng trong chiến tranh và làm thành môi trường hoạt động của nhân vật người lính.   Đối với nhà văn hiện thực, những chi tiết của cuộc sống có tầm quan trọng đặc biệt. Chi tiết đưa vào đúng lúc, đúng chỗ, sẽ phản ánh được cụ thể bản chất của sự vật, nâng cao thêm tác dụng phê phán. Bacbuyxơ đã thành công nhiều ở điểm này. Ông đã mô tả sự thật đúng như sự thật, nhưng đã mô tả có khuynh hướng. Không bỏ sót một tí gì tai nghe mắt thấy, ông đã để cho sự vật tự nói lên kết luận, làm cho người đọc với lương tâm và lý trí của họ, thấy hết những đen tối, xấu xa của chiến tranh đế quốc. A. Ivasenkô, tiến sĩ ngữ văn Liên-xô đã nhận xét: “Bacbuyxơ liên miên bất tận trong những mô tả tàn khốc, vì bản thân thực tại cũng tàn khốc. Ở nhà tự nhiên chủ nghĩa, sự thể hiện tự nó là mục đích; ở nhà hiện thực xã hội chủ nghĩa Bacbuyxơ, mô tả cái gì là đứng trên lập trường của một lý tưởng xã hội nhất định và nhằm phục tùng nhiệm vụ tác động đến thực tại về mặt tư tưởng…”[4]   Quan điểm tôn trọng sự thật vì hiểu được ý nghĩa của sự thật đã được Bacbuyxơ biểu hiện khá rõ rệt trong chương “Những lời văng tục”.   Tính chất hiện thực sâu sắc của Khói lửa thực tế đã tác động mạnh mẽ đến người đọc. Một nữ độc giả bình thường đã viết cho Bacbuyxơ: “Đọc xong tác phẩm của ông, tôi như vừa chui ở chiến hào ra…”[5] Có những lá thư khác, gửi từ mặt trận về đã viết: “Ông đã thét lên tiếng thét của chân lý… Tác phẩm của ông là bức tranh của cuộc đời tối tăm như địa ngục của chúng tôi. Chúng tôi cảm ơn ông đã trả thù cho chúng tôi, đã tố cáo chiến tranh, đã vạch cho chúng tôi một tương lai vô cùng vinh quang…”[6]   Cho đến nay (1962) Khói lửa ra đời đã gần năm mươi năm, nhưng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong văn học thế giới. Chủ nghĩa đế quốc vẫn còn, nghĩa là vẫn còn âm mưu gây chiến. Các nước đế quốc, cầm đầu là đế quốc Mỹ đang ra sức chạy đua vũ trang, gây tình hình căng thẳng trên thế giới. Các khối quân sự Bắc Đại Tây Dương, trung tâm, Đông nam Á và các khối quân sự khác đang đe dọa nghiêm trọng hòa bình và an ninh chung. Và ngay trên đất nước ta, đế quốc Mỹ đang tiến hành một cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.   Đọc Khói lửa, càng ghê tởm những thảm trạng của chiến tranh, càng căm thù bọn đế quốc gây chiến, nhân dân thế giới càng nâng cao thêm ý chí đấu tranh cho hòa bình. Cái quyết định là lòng người. Khói lửa nhen thêm trong lòng mọi người sự căm ghét chiến tranh, nhất định sẽ góp phần xứng đáng vào việc chặn đứng mọi âm mưu gây chiến. Đối với bạn đọc Việt Nam, Khói lửa sẽ góp phần nung nấu thêm chí căm thù bọn Mỹ – Diệm khát máu, nâng cao thêm quyết tâm đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.   NGUYỄN TRỌNG THỤ – LÊ VĂN TỤNG   Mời các bạn đón đọc Khói Lửa của tác giả Henri Barbusse.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Trong Đêm Hè
Người Trong Đêm Hè là cuốn tiểu thuyết đã góp phần đưa giải Nobel Văn học năm 1939 về cho Frans Emil Sillanpää và về cho đất nước Phần Lan. Chính Sillanpää đã gọi "đứa con tinh thần" này là "chuỗi thơ mang tính tự sự" bởi sự đan kết tự nhiên giữa bốn mươi tám văn khúc tả cảnh, đối thoại, độc thoại, có lúc đầy kịch tính, khi lại man mác, nên thơ. Tuy là một tác phẩm ngắn trong địa hạt tiểu thuyết, Người trong đêm hè vẫn dựng được tuyến nhân vật phong phú và sinh động. Trước hết, Sillanpää dành nhiều trang viết cho những phụ nữ ở miền quê: cô thiếu nữ Helka đang trải qua quãng đời thanh xuân yên bình; còn hai người vợ - Hilja và Santra - mỗi người đối diện với một hoàn cảnh, đeo nặng một tâm tư. Song hành cùng các nhân vật nữ, dĩ nhiên, là bóng hình những người đàn ông: chàng sinh viên Arvid hào hoa (bạn trai Helka); anh nông dân Jalmari ngu ngơ, vụng về (chồng Hilja); Jukka - người chồng thờ ơ của Santra. Họ cùng xuất hiện trên nền bối cảnh điền trang, một không gian tưởng chừng đơn sơ, yên ả song lại làm nảy lên bức tranh nội tâm sâu kín, đa chiều. *** Frans Sillanpää sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuộc xứ đạo Hämeenkyrö. Cuộc sống vất vả khiến bố mẹ ông chỉ có thể nuôi ông ăn học trong 5 năm đầu tại trường trung học Tampere, 3 năm sau đó ông phải tự kiếm tiền để học tiếp. Năm 1908, ông đỗ vào Đại học Helsinki, ngành sinh vật học, với số điểm loại ưu. Nhưng chỉ theo học được một thời gian ngắn, ông đã phải bỏ, về nhà mở cửa hàng văn phòng phẩm kiếm sống. Ở nhà, ông bắt đầu viết truyện và ngay từ truyện ngắn đầu tiên, ông đã được tổng biên tập một tờ báo lớn đánh giá cao và mời cộng tác. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời), in năm 1916. Năm 1919, tiểu thuyết Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao) đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà văn danh tiếng, khiến một nhà xuất bản nổi tiếng đề nghị ông viết sách cho họ và sẵn sàng ứng tiền để ông chuyên tâm vào công việc; từ năm 1920 ông được chính phủ Phần Lan trao một khoản trợ cấp trọn đời. Tiểu thuyết đỉnh cao giúp ông đoạt giải Nobel năm 1939 là Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ), kể về số phận bi thảm của những gia đình nông dân Phần Lan bị những mối quan hệ tư bản thâm nhập vào nông thôn tàn phá. Cuối đời ông viết nhiều tiểu luận và hồi ký tự thuật. Trong các tác phẩm của mình, Frans Sillanpää luôn khẳng định sức mạnh bản năng và tư tưởng thần bí, bi quan. Năm 1936, ông được Đại học Helsinki trao bằng Tiến sĩ Danh dự và năm 1939 được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel. Do chiến tranh, buổi lễ trao giải không tổ chức được nhưng ông đã nhận bằng trong một cuộc họp của Viện Hàn lâm Thụy Điển vào tháng 12 năm 1939. Thời gian này, sức khỏe của ông giảm sút, ông rơi vào trạng thái trầm cảm nặng vì vợ mất và đất nước bị chiến tranh tàn phá, phải điều trị tại bệnh viện tâm thần đến năm 1943. Tác phẩm cuối cùng của ông là bộ hồi ký gồm ba cuốn xuất bản từ năm 1953 đến năm 1956. Frans Sillanpää được toàn thể nhân dân Phần Lan yêu quý, ông thường được mời phát biểu trên đài phát thanh. Ông mất ở Helsinki năm 66 tuổi. Tác phẩm: Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời, 1916), tiểu thuyết Ihmislapsia elämän saatossa (Những con người trong đường đời,1917), tập truyện Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao, 1919), tiểu thuyết Rakas isänmaani (Tổ quốc yêu dấu, 1919), tiểu thuyết Hiltu ja Ragnar (Hiltu và Ragnar, 1923), tiểu thuyết Enkelten suojatit (Sự bảo trợ của các thiên thần, 1923), tiểu thuyết Omistani ja omilleni (Về chính tôi và cho chính tôi, 1924), tiểu thuyết Maan tasalta (Từ độ cao của Trái Đất, 1924), tiểu thuyết Töllinmäki (Ngọn đồi ổ chuột, 1925), tiểu thuyết Rippi (Xưng tội, 1928), tiểu thuyết Kiitos hetkistä, Herra... (Cảm ơn Chúa đến đúng lúc..., 1930), tiểu thuyết Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ, 1931), tiểu thuyết Miehen tie (Con đường của người đàn ông, 1932), tiểu thuyết Virran pohjalta (Dưới đáy sông, 1933), tiểu thuyết Ihmiset suviyössä (Người trong đêm hè, 1934), tiểu thuyết Viidestoista (Thứ mười lăm, 1936), tiểu thuyết Elokuu (Tháng Tám, 1944), tiểu thuyết Ihmiselon ihanuus ja kurjuus (Hạnh phúc và đau khổ của đời người, 1945), tiểu thuyết Poika eli elämäänsä (Cậu bé đã sống cuộc đời mình, 1953), hồi ký Kerron ja kuvailen (Tôi kể chuyện và tôi mô tả, 1954), hồi kí Päiva korkeimmillaan (Ngày cực điểm, 1956), hồi kí *** Review SP: Tác phẩm văn học “Người trong đêm hè” – bản giao hưởng cho mùa hạ trắng Phương Bắc.Tiểu thuyết cũng đã nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng. “Mùa Hè phương Bắc gần như không có đêm, chỉ có ánh sáng mờ ảo ngập ngừng, chầm chậm trôi qua. Nhưng trong chạng vạng vẫn ngời lên tia sáng không ngôn từ nào có thể tả nổi. Đó chính là lời thì thầm của sáng Hè đang đến gần. Khi giai điệu hoàng hôn lắng lại thành nốt mềm xanh tim tím màu hoa violet, mê say dịu dàng ngân dài ngay trong quãng ngắt ngắn ngủi, là lúc violon chính bừng tỉnh và bắt vào giai điệu cao nghiêng nghiêng, để cho violon xen nhanh chóng hòa nhịp. Ta cảm nhận được từ trong sâu thẳm tâm hồn bức tranh giai điệu đó” trích Tiểu thuyết, tác phẩm văn học, “Người trong đêm Hè” của Frans Emil Sillanpää, (người dịch: Tiến sĩ Bùi Việt Hoa) Tiểu thuyết hay còn được gọi là “chuỗi thơ mang tính tự sự” với 48 bài văn dài ngắn khác nhau của nhà văn Frans Emil Sillanpää (1888 – 1964) cùng với những sáng tác trước đó đã đem giải Nobel văn học đầu tiên vào năm 1939 và cho đến giờ vẫn là giải Nobel duy nhất của Phần Lan. Mùa Hè, tháng Bảy ở Phần Lan, đất nước Cực Bắc của châu Âu, gần như không có đêm nên thường được gọi là mùa hạ trắng với những đêm trắng khi mặt trời gần như không ngủ và thiên nhiên được miêu tả đẹp như tranh vẽ. Tại vùng nông thôn, thiên nhiên êm đềm, không gian tĩnh lặng, trong lành, cũng có nhiều người không ngủ với nhiều lí do khác nhau. Có những lí do rất đẹp và lãng mạn như khi đôi lứa yêu nhau, cô gái mải suy tư mà không dỗ được giấc ngủ, có người mải chèo thuyền trên hồ và đi ngắm nghía đất đai, người đi dự tiệc đính hôn, người trò chuyện, khiêu vũ, người trở dạ sinh con, và có cả những thương đau như đứa trẻ không được chào đời hay người đàn ông mắc tội giết người, người chồng đi không trở về … Người kể chuyện, kể về các cảnh khác nhau với những giọng điệu khác nhau từ trẻ tới già, từ giàu tới nghèo, từ người không có học đến người học thức, có cả mặt tốt và mặt xấu. Ngôn ngữ của tác giả rất chân thật, biểu cảm và giàu chất thơ ngay từ những đoạn văn khởi đầu của cuốn tiểu thuyết mini đã tạo nên một tấm gương phản chiếu đời sống nông thôn điển hình của Phần Lan những năm 30’ nơi thiên nhiên và con người gần như hòa làm một, nơi mọi hoạt động đều chứa đựng nhiều xúc cảm, nơi trong sinh, yêu và tử có đan xen trong niềm vui, nỗi đau, sự trăn trở, tiếc nuối, những khát khao giới tính kỳ lạ… ”Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trong Người trong đêm Hè thiên nhiên mới là nhân vật trung tâm xuyên suốt tiểu thuyết. Ánh sáng và âm thanh, mặt trời và đêm trắng, cánh đồng lúa, rừng cây, mặt hồ nước, trang viên… một vùng quê với đủ mọi thăng trầm và cuộc sống của những người dân đủ mọi tầng lớp trong ánh sáng mờ ảo của đêm Hè hiện lên thật hoàn hảo dưới ngòi bút của Sillanpää. Đây là tác phẩm văn xuôi mang tính trữ tình đậm đặc nhất, nhiều tính nhạc nhất của nhà văn”. Dịch giả Bùi Việt Hoa, người đã có nhiều năm sống và làm việc ở Phần Lan, nghiên cứu văn hóa và văn học Phần Lan, cho biết. Tác phẩm văn học không chỉ đem đến những áng văn tả cảnh tuyệt đẹp, những câu chuyện đời sinh động, chân thực mà còn nêu ra những triết lý vô cùng đơn sơ mà sâu sắc: “Trên thế gian này ai cũng có lúc nghĩ họ đau khổ nhất trần gian – khi không nghĩ đến người khác, mà chỉ chăm chăm nghĩ về mình”. Chỉ một năm sau khi ra đời, tác phẩm văn học Người trong đêm Hè đã được dịch và xuất bản ở Thụy Điển năm 1935 và hai năm tiếp theo được dịch và xuất bản ở Estonia (1936), Đan Mạch (1937), Na Uy (1937) và Latvia (1937), Anh (1966). Cho đến nay, tiểu thuyết này đã được dịch ra 17 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tiểu thuyết được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1948 và nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng.   Mời các bạn đón đọc Người Trong Đêm Hè của tác giả Frans Emil Sillanpää.
Trốn Thoát Khỏi Thực Tại
Review Doan Truc: Những bà nội trợ kiểu Nhật, những cô nàng thất nghiệp Nhàn rỗi một cách quá đáng, những người đàn bà rớt lại và bị bỏ quên giữa xứ Phù Tang đương đại. Họ đi vào trang viết của Fumio Yamamoto với một khuôn dáng cô đơn, nhiều tự sự. Tôi luôn có một cảm giác bị mắc lại ở một nơi nào đó trong thế giới văn chương của Fumio Yamamoto. Từ Bến bờ thơm mùi dứa, Trúng độc yêu, Xanh màu lá,… cho tới tập truyện ngắn mới nhất Trốn thoát khỏi thực tại. Thứ cảm xúc vừa rõ ràng vừa mơ hồ này đôi khi đầy lên thành một ám ảnh không hồi kết. Fumio Yamamoto đã lưu trữ mình một cách không rõ ràng như thế. Và có lẽ, vì không thể nói ra hết được tư cảm đang đầy lên này nên bà dồn hết vào chữ nghĩa. “Tôi ảm đạm vì không thể nói cười”, đó gần như là một diễn đạt khác về văn chương của người đàn bà ở xứ mặt trời mọc. Văn Fumio Yamamoto không phải là thứ văn mỹ miều của những đường chữ đẹp, thơ mộng. Bà cũng không phải thuộc típ nhà văn nữ quyền để thỉnh thoảng gây hấn hoặc gây sốc. Văn mạch của bà điềm nhiên, có chỗ tỉnh queo, lúc lại sắc lạnh, thậm chí hơi gắt với nhiều câu trần thuật mộc mạc, ngắn gọn. Trong đó, có cảm giác, tác giả vừa muốn đi đến cùng để cắt nghĩa vùng u ám đó, lại như mặc kệ để nó diễn ra theo quy luật của “phi tiểu thuyết” hay những “tiểu tự sự” nhỏ vụn. Để rồi tất cả trống huơ hoắc trong một thế giới cô đơn, ít thấu hiểu và rời rạc. Để rồi, ở đó, những tự sự chồng lên nhau, lặp đi lặp lại một cách tầm thường, mòn vẹt và chán nản. Hakura, cô gái mắc bệnh ung thư vú, tự xem mình có dáng dấp của đồ cặn bã, lười nhác, sống tầm gửi, tâm lý bất định, đầy nhạy cảm, chán nản và nếu có kiếp sau, cô muốn làm một con giun dẹp bởi “giun dẹp sống trong khe suối trong vắt nơi rừng sâu, có bị băm thành trăm mảnh cũng sẽ không chết”. Izumi, người phụ nữ ngấp nhé tuổi 35, trải qua một đời chồng, đang sống trong một chung cư cũ kỹ và rơi vào khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, hay sầu muộn vô cớ, nhàn rỗi đến lạc lõng, không còn khái niệm thời gian rõ ràng, có thể làm tình và thỏa mãn ham muốn nhục dục với một cậu đồng nghiệp cũ kém cả tuổi mình. Catherine, một bà nội trợ đúng nghĩa, có người chồng vừa bị mất việc nên ngoài công việc nhà ban ngày, cô làm nhân viên bán hàng cho một tiệm tạp hóa buổi tối để kiếm thêm tiền. Cuộc sống của cô cứ như một mớ bòng bong, quanh đi quẩn lại vì chồng, con cái, bố mẹ; lắm lúc mỏi mệt, khủng hoảng, cô đơn và trơ trọi ngay trong mái ấm gia đình mình. Mido, cô gái trẻ 25 tuổi rơi vào “thế lưỡng nan của tù nhân”, đã có người yêu hơn 7 năm nhưng vẫn ngủ với những người đàn ông khác. Ngày ngày trôi trong nhịp sống tùy tiện, không buồn không vui, nhiều hồ nghi và vô nghĩa của mình. …Cứ thế, mỗi nhân vật của Fumio Yamamoto là một phần nứt toác của vỏ đương đại có vẻ bằng phẳng, đẹp đẽ đó. Họ là những con người đáng thương bị rớt lại trong đời sống nhộn nhạo, trôi tuột này. Những con người ấy từng xót thương cho người khác nhưng rồi chính họ, cũng không biết từ bao giờ, lại bước vào hoàn cảnh tương tự. Và bao nhiễu nhương, tù đọng và cô đơn vây bủa đó làm họ thỏa hiệp, thây kệ rồi trở nên nhàm chán, chết dần chết mòn. Và lửng lơ, và ám ảnh… Qua những mẩu chuyện nhỏ của những con người không liên quan đến nhau ấy, Fumio Yamamoto đã vẽ nốt những vệt màu còn khiếm khuyết trong bức tranh Nhật Bản hiện đại bằng ngôn ngữ. Một vệt màu trầm cảm triền miên. Một “sự tự sát” từ những vô định không có lời đáp. Bà đưa những người phụ nữ nhỏ bé, những người sống bên rìa xã hội vào vị trí trung tâm và để họ kể những câu chuyện của riêng mình. Kế thừa đặc điểm truyền thống của văn học Nhật nên không quá ngạc nhiên khi văn của Fumio Yamamoto mang đậm tính nữ. Bà đi vào ngóc ngách tâm lý li ti của phụ nữ bằng trải nghiệm và sự đồng cảm của một trái tim nhiều thổn thức. Bà để nhân vật nói những tiếng nói tự do nhất mà trong đời sống đôi lúc họ không có quyền lên tiếng hoặc chán phải lên tiếng. Bà tham dự vào những câu chuyện đó như một người có mặt và vắng mặt. Để rồi, mảng hiện thực của đời sống vừa quen vừa lạ ấy khoét vào ta những vết thương tỉnh thức, về một băn khoăn, bối rối đương đại. Cho đến khi gấp cuốn sách lại, tôi vẫn còn nguyên đó một lưỡng lự. Sự dở dang khó hiểu này rốt cuộc là gì? Vẫn còn một điều mơ hồ nào đó, tôi chưa hiểu lắm. Có khi nào, đó là những điều Fumio Yamamoto không muốn người khác chạm vào chăng? Hay thực ra, nó cũng trống rỗng hết thảy – như những nhân vật của bà cất tiếng. Nó khiến tôi bỗng dưng nhớ đến Woman in the Dunes (tạm dịch: Người đàn bà trong cồn cát) của đạo diễn Nhật sinh năm 1964 – Hiroshi Teshigahara – viên ngọc quý của lịch sử điện ảnh thế giới, sinh muộn hơn bà hai năm. Yamamoto ẩn mình trong “cồn cát” ngôn ngữ để nói về thế giới nội tâm sâu thẳm của người Nhật Bản hôm nay nói riêng và những người phụ nữ đâu đó trên khắp thế giới này. “Vì không nói ra được nên đã mang một nỗi buồn ảm đạm. Tôi ảm đạm vì không thể nói cười”. Năm 1999, Yamamoto đã vinh dự nhận được giải thưởng văn học Yoshikawa Eiji lần thứ 20 dành cho các tác phẩm mới xuất sắc và hiện là một trong những nhà văn đương đại có tác phẩm được đón chờ không chỉ trong phạm vi nước Nhật. *** Fumio Yamamoto sinh năm 1962 ở Kanagawa, là tiểu thuyết gia đương đại nổi tiếng của Nhật Bản. Với giọng văn mộc mạc, sâu lắng và cũng đầy trải nghiệm, các tác phẩm của bà nhanh chóng nhận được sự yêu thích của độc giả trong và ngoài nước, có thể kể đến như "Bến bờ thơm mùi dứa", "Anh chắc chắn sẽ khóc", "Trúng độc yêu", "Không phải nơi khác mà ở ngay đây"… Năm 1999 bà đã vinh dự nhận được giải tương văn học Yoshikawa Eiji lần thứ 20 dành cho các tác phẩm mới xuất sắc. ”…Một mình lái xe trên đường quốc lộ giữa đêm khuya, tuy biết là uổng công vô ích, nhưng tôi vẫn hướng lên những vì sao và cầu nguyện: “Kiếp sau, xin hãy để tôi được làm giun dẹp.”   Tác phẩm: Xanh Một Màu Xanh Khác Trốn Thoát Khỏi Thực Tại 31 Tuổi Thì Đã Làm Sao? Trúng Độc Yêu .... *** Kiếp sau mình phải làm giun dẹp! Tôi buột miệng khi đang tán gẫu bên bàn rượu. Mọi người cũng tò mò nhìn sang. Ngồi cùng mâm rượu là ba người bạn: hai gái một trai quen từ hồi làm thêm, tuổi đều nhỏ hơn tôi, ngoài ra còn bạn trai tôi ngồi bên cạnh. “Giun dẹp là cái giống gì vậy?” “À, tớ biết rồi. Nó dạt theo những dòng chảy dưới núi băng, đáng yêu như một thiên thần nhỏ, đúng không?” “Đích thị là thiên thần biển khơi rồi.” Mọi người thi nhau nói. Tôi lắc nhẹ ly rượu whisky Four Roses của mình, chậm rãi ngắt lời bọn họ. “Không, không đúng. Giun dẹp cũng có kích thước tương đương nhưng nó không sống dưới biển, mà sống trong khe suối trong vắt nơi rừng sâu.” “Hả?” Cả ba người bạn đồng thanh kêu lên. Những câu chuyện đại loại như vậy bạn trai tôi đã nghe quen, nên chỉ ngồi lặng thinh nhấm nháp chút đồ nhắm còn sót lại. “Trước đây tớ đã thấy ở trên tivi. Nó bám vào những tảng đá dưới khe suối, hoặc những mương nước trên cánh đồng không bị phun thuốc trừ sâu, dài khoảng một phân, màu nâu, nhìn rất giống con đỉa. Đầu của nó có hình tam giác, nếu quan sát kỹ sẽ thấy, có chút dáng dấp của đồ cặn bã.” Sao lại giống đồ cặn bã cơ chứ? Mọi người vừa cười vừa hỏi. Tôi uống cạn ly của mình và gọi thêm ly nữa. Sau gần ba tiếng đồng hồ, hai cô gái và bạn trai tôi không uống được nữa, mà chuyển sang gọi trà ô long. “Sao cậu lại muốn biến thành thứ đó hả Hakura?” Cậu bạn nồng nặc mùi rượu lên tiếng. Tôi chuẩn bị trả lời, thì một cô gái trong nhóm nhanh nhảu đáp: “Hình như tớ biết đấy. Loài sinh vật này chỉ cần được bơi lội tung tăng dưới làn nước trong xanh mà chẳng cần bận tâm bất cứ điều gì.” “Gì chứ? Tớ ghét mấy thứ kiểu như đỉa hoặc bao quy đầu, kiếp sau được đầu thai làm siêu mẫu thì tốt biết mấy.” “Toàn là gái nhà lành với nhau, đừng bao giờ nhắc tới mấy-thứ-ấy chứ!” Câu chuyện bắt đầu lan man, tôi cụt hứng và cố tình hắng giọng: “Giun dẹp dù có bị băm thành trăm mảnh cũng sẽ không chết.” Mọi người nhìn tôi đầy kinh ngạc. “Nghe nói, nếu chặt thành ba khúc, tự khắc nó sẽ tái sinh thành ba con, mà đừng nói ba con, dù chặt thành mười khúc, nó cũng sẽ giống đuôi thằn lằn tiếp tục sinh sôi, biến thành mười con.” Cách giải thích ngang ngược và ấu trĩ của tôi khiến mọi người đứng hình trong giây lát. Đúng lúc đó, đồ ăn vừa gọi khi nãy được đem ra. “Ăn chút đồ tráng miệng nhé!” Hai cô gái mở thực đơn ra và bắt đầu bàn bạc. “Những điều cậu vừa nói là thật hả?” Mời các bạn đón đọc Trốn Thoát Khỏi Thực Tại của tác giả Fumio Yamamoto.
Xuân Ngốc
Nếu bạn đang tìm một câu chuyện ngược tâm, ngược thân quằn quại, tốn khăn giấy thì... xin lỗi... nút back ở bên trái. Nếu bạn đang tìm một chuyện tình sủng, ngọt đến ê răng, hường phấn bay ngập trời thì… xin mời... cửa ra ở bên phải. Còn nếu bạn đang muốn đổi gió với những tình tiết hài, bựa về cuộc sống bình thường của những kẻ “bất thường” thì... chúc mừng... bạn đã đến đúng chỗ rồi. Trương Nghiêu (hay còn gọi là Trương Thiết Ngưu) chỉ là đứa con riêng không được yêu thương ở nhà họ Trương. Bởi vì anh trai cùng cha khác mẹ gây chuyện, làm con gái rượu của Từ lão Hổ ngã bị thương, trở nên ngốc nghếch, kết quả bị người ta cầm dao đến nhà đòi cưới.    Nhà họ Trương vì bảo vệ “con trai cưng” mà đẩy cậu con riêng là Trương Nghiêu đi “gả” thay. Trương Nghiêu vốn cho rằng sau khi Từ lão Hổ - ông bố vợ biết mình không phải là “thằng con rể” mà ông muốn sẽ rất tức giận, thậm chí có thể lần nữa xách dao phay sang nhà họ Trương báo thù. Nhưng, sự thực là sau khi biết chuyện, ông bố vợ của anh vẫn vui vẻ, thản nhiên tiếp nhận. Với ông thì chỉ cần con rể “đẹp trai khoai to được con gái ông yêu thích” là đủ. Từ đó, Trương Nghiêu bắt đầu cuộc sống với cô vợ ngốc Từ Tái Xuân và gia đình nhà vợ với toàn những kẻ biến thái. Từ Tái Xuân cho dù sau khi ngã trở thành một cô bé ngốc, nhưng xét cho cùng vẫn là một đứa trẻ tinh ranh. Cô đặc biệt thích ăn kẹo que, mỗi ngày đều quấn lấy Trương Nghiêu làm đủ trò, từ ăn vạ đến làm nũng để đòi kẹo. Thời gian lâu dần, có Từ Tái Xuân bên cạnh trở thành thói quen của Trương Nghiêu. Mặc dù miệng anh vẫn “độc”, vẫn tỏ ra “khó ở” mỗi lần cô vòi vĩnh, nhưng ngay sau đó anh lại tự động thoả mãn cô. Thậm chí có thể vì cô, mặc bộ đồ con gấu ngốc nghếch, chịu đựng bị dị ứng, chờ hàng giờ trong nhà hàng để tặng quà sinh nhật cho cô. Bởi vì, cuộc sống của anh từ khi có cô bỗng trở nên rực rỡ, trái tim anh nhờ cô mà cảm nhận được sự rung động, ấm áp.  Cho đến một ngày, Trương Nghiêu chợt nhận ra, từ khi nào anh đã yêu cô vợ ngốc của mình. Cho dù cô ngốc, anh cũng muốn nắm tay cô, chăm sóc cô, cùng cô đi hết cuộc đời. Vào đúng lúc này, Từ Tái Xuân bất chợt nhớ lại mọi chuyện. Cô không còn ngốc nữa nhưng lại quên anh, quên quãng thời gian “bi thảm nhưng hạnh phúc” của hai người.  Liệu Trương Nghiêu phải làm gì để giành lại cô vợ ngốc của mình?  *** Nam chính Trương Nghiêu ngoài cái bản mặt đẹp trai thì chính là một anh chàng ba không: không học vấn, không nghề nghiệp, không gia đình. Anh trải qua tuổi thơ khốn khó với cái danh con hoang, cha không thương, “mẹ” muốn giết. Cộng thêm việc năm Trương Nghiêu mười tám tuổi bị người hãm hại phải ngồi tù. Những điều này hình thành lên bản tính lưu manh, vô lại cùng khuynh hướng bạo lực trong anh.  Nhưng bù lại, Trương Nghiêu là một gã trai vừa chung tình lại rất mềm lòng. Ngoài miệng lúc nào cũng mắng Từ Tái Xuân là cô ngốc, không đáp ứng yêu cầu của cô nhưng quay lưng đi lại tự động thực hiện những điều cô muốn. Anh yêu chiều cô, bảo vệ cô, vì cô mà thu lại tính tình, cũng không ngại cái danh “bám váy vợ”. Anh chàng Trương Nghiêu mặt dày, độc miệng với cái đầu toàn ý xấu, siêu kute đảm bảo có thể khiến tất cả các nàng “yêu anh từ cái nhìn đầu tiên”. So với Trương Nghiêu, nữ chính Từ Tái Xuân cũng đáng yêu không kém. Mặc dù là một cô ngốc, nhưng “em Xuân” của tớ không hề bánh bèo hay thánh nữ. Ngược lại, cô nàng này cực kỳ hoạt bát, mặc dù dễ dụ nhưng rất tinh ranh. Từ Tái Xuân thích kẹo que, nhưng mỗi lần cô nàng “ăn kẹo” luôn là một thảm hoạ. Ví dụ như, đêm tân hôn, Từ Tái Xuân bổ nhào vào người Trương Nghiêu, vạch quần áo tìm kẹo que.  Trương Nghiêu chơi ác (lại còn ngu), móc “kẹo que” cho em Xuân mút. Kết quả là, mút xong hai người đều rớt nước mắt. Từ Tái Xuân oán hận “kẹo” của Trương Nghiêu không ngon, còn không cắn được. Còn Trương Nghiêu, một câu cũng không thể nói lên lời, ôm bụng dưới nóng rát, tối đó chả biết ngủ thế nào.  Mặc dù hay làm nũng, chơi xấu nhưng Từ Tái Xuân cực kỳ quan tâm “anh chồng” của mình. Cô sẽ vì anh học nấu ăn, vì anh đưa cơm, vì anh mà đánh cả “mẹ chồng”. Sau này, khi cô trở lại bình thường, cho dù đã quên Trương Nghiêu, nhưng cô không tỏ ra bài xích hay khinh thường anh. Ngược lại, còn học cách tiếp nhận anh, từ từ tìm lại đoạn ký ức của hai người. Ngoài nam, nữ chính, các nhân vật phụ cũng rất đặc biệt. Từ con chó lười nam chính nuôi, ông bố thần kinh thô của nữ chính, đến dì Thái - quản gia kiêm đối tượng theo đuổi của Từ lão Hổ đều là những kẻ “biến thái” dễ thương. Cũng không thể không nhắc đến anh bạn Cố Tây Dương của nam chính. Anh chàng này đầy mình tật xấu, so với nam chính cũng không kém bao nhiêu. Cố Tây Dương thích làm “quân sư quạt mo” cho Trương Nghiêu, nhưng mỗi lần kết quả đều không như mong đợi, cuối cùng phải chịu anh Trương đàn áp. “Xuân ngốc” là bộ truyện hoàn toàn khác với các tác phẩm trước đây của Phó Du. Nó khá bựa, đậm chất biến thái đan xen giữa ngọt ngào và cảm động. Cách hành văn của tác giả mượt mà, cách chuyển biến tình tiết logic. Thêm một điểm cộng nữa là edit rất tốt, khiến người đọc có cảm giác thân thiết.  “Xuân ngốc” đảm bảo là một sự “cứu cánh” hoàn hảo cho những ai đang cảm thấy “ngán ngôn tình” hay đang kiếm tìm một câu chuyện để giải toả tâm trạng chán nản của mình. ________ Review by Mỹ Dung Hoa - fb/ReviewNgonTinh0105 *** Review bởi: Tiểu Thư Họ Phạm - fb/hoinhieuchu  Thiệt tình là tui chưa từng đọc truyện nào vừa bựa vừa cảm động như bộ "Xuân ngốc" này. Nhiều cảnh vừa cười vừa khóc luôn á.  Câu chuyện nói về một nàng ngốc và anh chàng cưng chiều nàng ngốc. Thật ra thì lúc đầu nữ chính không ngốc, mà do yêu lầm tra nam rồi bị tra nam đẩy té cầu thang nên mới mất trí nhớ rồi bị ngốc luôn. Xong, vì thương con gái mình, ông cha giang hồ mò tới tận nhà thằng tra đòi chém. Thằng tra sợ quá xách quần trốn sang nước ngoài. Để yên ổn vụ này cha mẹ thằng tra đẩy nam chính là con riêng ra chết thay. Cha của nam chính vờ đạo mạo thanh minh: "Bậy bạ, nhà chúng tôi được phường tặng bằng khen là có văn hoá đấy nhá, chết chóc gì ở đây" Xong quay sang nhìn người đang hằm hè: "Nào nào, anh trai ơi tụi mình kết thông gia nhé." Cha nữ chính không biết mình bị lừa, do thương con gái rượu của mình quá với lại thấy con bé thích người ta nên cũng chịu. Thế là tèng teng teng teng…  Lúc đầu nam chính hận lắm, tính lợi dụng cả nhà nữ chính để chèn ép nhà mình. Nào ngờ ngày đầu tiên về ở rể đã bị trình độ chưa tốt nghiệp tiểu học của cha vợ và kĩ năng liếm kẹo của vợ ngốc hạ gục. Kể từ đó anh chàng bước lên con đường 'cầu phá trinh' không lối về. Ngày ngày lập kế hoạch dụ dỗ vợ yêu. Thậm chí anh chàng còn tí ta tí tởn chạy lên mạng hỏi thầy bói xem thiên thời địa lợi nhân hoà. Nào ngờ hê hê hê... Đã lên chục cái kế hoạch ABCD thì đương nhiên phải thành công một cái rồi. Rốt cuộc đến một ngày nào đó khá xa là xôi, anh chàng cũng thoả mãn nguyện vọng phá thân của mình. Nhưng cũng bắt đầu từ hôm đó, tên lưu manh ấy càng tha hoá hơn giống như một tên tâm thần phân liệt sáng thì dịu dàng chiều chuộng, tối thì biến thành sói quất sạch sành sanh nữ chính tới nỗi cô nàng sợ quá trốn biệt sang phòng 'người thương của cha'. Đọc tới đây mình cười hộc máu, cả một bộ truyện chỉ duy nhất có khúc này cha vợ và con rể mới đồng lòng nhau.  Còn về tra nam, nữ phụ. Mọi người yên tâm đi vì đây là truyện bựa cho nên hai nhân vật này không hề đáng ghét mà chỉ có cười sái quai hàm. Ngày xưa thằng tra chê nữ chính béo bao nhiêu thì sau này ổng bị đồ ăn của nữ chính hấp dẫn bấy nhiêu. Ngày nào cũng ăn bánh ngọt hỏi sao không phì lũ. Thế là một body sáu múi, săn chắc đầy quyến rũ đã biến thành cục mỡ chảy xệ. Nói chứ tra nam trong truyện này thấy thương lắm mọi người ạ. Bị nam chính 'oánh' lên bờ xuống ruộng, đánh hơn đánh con luôn ý.  Về em nữ phụ ấy à, ẻm bị AIDS bị giang mai các kiểu, đã vậy còn bị phim hàn quốc đầu độc. Haizz…nhớ lại đoạn này mà cạn lời với ẻm. Muốn biết vì sao thì mọi người cứ vào đọc. Nói chung là đáng thương không kém tra nam. Mà thôi nhân vật qua đường không xuất hiện nhiều có thể skip. Túm cái quần lại là chế nào chưa đọc bộ này thì đọc ngay lập tức cho tui. Truyện moẹ gì mà hài méo chịu được. Mời các bạn đón đọc Xuân Ngốc của tác gải Phó Du.