Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Em Sinh Đôi

Có anh em trai thật lắm chuyện! Tôi không hiểu tại sao các em bé tí xíu thật dễ thương lại lớn lên làm con trai làm gì. À! Mà giá có làm con trai thì cùng không đến nỗi tệ hại lắm, nhưng có nhiều lúc tôi cứ không hiểu tại sao những trẻ nít dễ thương lại thành các anh em trai nhiều chuyện. Nói thật với các bạn chứ tôi lại cảm thấy vui thích vì trên đời này có mặt con trai, nhất là loại con trai như Trần Quốc Danh. Anh ấy thật là thiệt hay, dễ thương vô cùng. Tiếc thay Tuấn, em của tôi thì không được như vậy, nó không như anh Trần Quốc Danh chút nào. Tuy vậy, cô bạn của tôi là Trần Mộng Thu lại cho rằng thằng Tuấn thật dễ thương, nhưng dĩ nhiên tôi nghĩ khác. Có lẽ thằng Tuấn hay kiếm chuyện làm tôi bực mình. Cũng có thể vì tôi chưa hết lòng quí trọng đứa em sinh đôi của tôi. Nhưng thật ra Tuấn khôi hài lắm. Không phải lối khôi hài làm mình cười được đâu, nó có kiểu khôi hài khác kỳ cục lắm kìa. Có lúc nó cười cợt vẻ chế nhạo bất cứ việc gì tôi làm, rồi sau đó nó lại nhờ tôi giữ bí mật dùm một chuyện gì cho nó. Sáng Chủ nhật tuần trước, nó đã có một dịp cười nhạo tôi nữa. Lần đó, sao mà nó cười thỏa thích thế, còn tôi tức muốn phát khóc lên được. Chuyện xảy ra bắt đầu từ hôm thứ bảy cơ. Số là các bạn gái trong lớp học của tôi đã bắt chước nhau cái mốt đi giày cao gót và quần dài phét đất, vì thế tôi mới xin Bố Mẹ sắm cho tôi một đôi giày cao gót. Lúc tôi nêu vấn đề này ra, Bố Mẹ đã trả lời bằng một mẫu câu như thường lệ: "Để Bố Mẹ nghĩ xem đã". Nghe câu trả lời, tôi biết ngay là còn lâu tôi mới có giày cao gót mà đi. Tôi đã từng kinh nghiệm rằng, mỗi khi Bố Mẹ trả lời như vậy: "Để Bố Mẹ nghĩ xem đã", thì thật sự Bố Mẹ muốn nói rằng: "Cứ để từ từ, không có gì phải vội vã". Ít ra, tôi cũng đoán được ý nghĩa câu nói của Bố Mẹ là như vậy. Nhưng cuối cùng, đến ngày thứ Bảy tuần rồi, là ngày tôi được dẫn đi mua đôi giày cao gót. Tôi không biết rõ chuyện, nhưng có lẽ Bố Mẹ thấy tôi đã đề cập đến vấn đề này từ lâu, nên Bố Mẹ không muốn để từ từ nữa. Vì vậy, hôm đó Bố đã dẫn tôi đi ra phố. Khi đến tiệm giầy, tôi nhìn chăm chăm vào tủ kính rồi chỉ cho Bố thấy đôi giày mà tôi rất thích. - Ủa, con thích đôi giày này thật à? - Bố nói với một giọng đầy ngạc nhiên - Gót giày cao quá mà. Tôi mở tròn to đôi mắt và cười thật tươi, rồi uốn giọng: - Thưa Bố, vâng ạ. Bố hơi cau mày làm như bố sợ bị lãng trí hay sao ấy. Bằng một giọng nghiêm nghị, bố nói: - Không hiểu làm sao có người đi được loại giày cao như đi cà kheo vậy. Chắc phải khó chịu lắm. Ồ, có thể Bố không hiểu tại sao người ta mang loại giày đó làm gì, nhưng riêng tôi, cứ muốn có một đôi như vậy để đi. Tôi hình dung ra những đôi mắt chứa đựng ghen tuông của mấy cô bạn trong lớp học với tôi. Cứ nghĩ đến lúc tôi có được đôi giày cao nhất, hơn hẳn những đôi giày của họ. Thích biết bao! Lúc Bố dắt tôi vào trong tiệm, người bán hàng đưa chúng tôi lại ghế ngồi. Rồi ông bán hàng hỏi tôi muối loại giày như thế nào. - Loại giày để đi phố, mang với áo dài. Tôi trả lời ông ấy minh bạch như vậy, làm ra vẻ như mình đã từng quen thuộc với việc đã mua giày lắm rồi. Nhưng khi người bán hàng đem một lô giày ra, thì Bố tôi chỉ lo chọn những đôi giày kiểu cổ lổ sĩ, gót thấp lè tè. Tôi thầm nghĩ có lẽ mình nói chưa rõ nên ông bán hàng không hiểu chăng. Tôi đâu có muốn mua những đôi giày đế thấp như vậy! Tôi chỉ thích những đôi giày thật cao kia mà. Cuối cùng, ông bán hàng cũng đã mang ra một đôi giày mà tôi thật ưng ý. Khi ông ta thử giày vào chân tôi, tôi đã suýty chút nữa kêu lên "úi da". Sao nó nhọn bó lại ở phía trước và đâm vào ngón chân tôi đau quá. Nhưng sau đó nó lọt gọn vào gót chân tôi. Ôi! Trông tuyệt đẹp! Tôi muốn mua đôi giày này ngay lập tức. Ônb bán hàng đề nghị: - Sao em không thử xem có đi nổi không? Tôi hơi cau mày nhìn ông ta. Việc gì ông ta phải nói: "Thử xem có đi nổi không?" Bộ ông ta không nói được rằng: "Cô thử đi đi lại lại trong phòng thử xem sao?". Tôi không biết ông ta có hiểu rằng đây là đôi giày cao gót đầu tiên mà tôi mang hay không, nhưng qua cách cư xử của ông, chắc ông biết như vậy. Tôi đứng lên, và cảm thấy loạng choạng trân sàn nhà, như muốn nghiêng đằng trước, ngả đằng sau. Ông ta hỏi tôi: - Em thấy thế nào? - Ồ, được lắm. Tôi nói nhưng có lẽ hơi ngập ngừng. Có lẽ đôi giày không thật sự "được vừa vặn cho lắm", nhưng cũng tạm gọi là được đi. Trong khi đứng ngắm mình trong gương, tôi tưởng như có thể thấy được vé mặt và ý nghĩ của các cậu con trai khi họ thấy tôi mang đôi gìay cao gót kiểu mới này. Tư tưởng đó làm tôi nôn nao, khó có thể chờ đến Chủ nhật, dù chỉ mai này là tới. Khi tôi trở lại chỗ ngồi, Bố tôi hỏi đi hỏi lại: - Có chắc thật là con thích đôi giày này không? Không biết lý do tại sao Bố tôi không tưởng tượng được là có người là thích loại giày như vậy. - Thưa Bố, đôi giày này đúng là kiểu con ưa thích. Tôi biết mình phải nói một cách quá quyết như vầy, vì tôi chắc rằng Bố tôi không muốn mua kiêu giày như vầy. Dù sao Bố cũng là người chi tiền trong vụ này. Bố tôi hỏi: - Có vừa vặn không? Mới đầu Bố nhìn tôi rồi Bố nhìn lên ông bán hàng. Tôi đang định cam đoan với Bố rằng đôi giày vừa khít chân tôi thì ông bán hàng đã nói dùm tôi. Ông ấy đáp: - Thưa ông, đúng là số chân của cô bé đó ạ. Chắc cô bé phải bỏ ra một ít thời giờ để tập đi kiểu giày này, nhưng các cô gái mới lớn nào cũng phải trải qua giai đoạn đó. Tôi tức muốn chết, định cấu cho ông ấy một cái vì câu nói vô duyên của ông ấy. Trước tiên là ông ta không được nói: "phải trải qua giai đoạn đó" như kiểu mẹ tôi ở nhà vẫn nói; và sau nữa là ông ta làm như tôi không biết cách phải mang làm sao cho vững nữa. Nhưng lúc đó, ông bán hàng đã làm một việc đáng khen khiến tôi muốn tha thứ cho ông ấy ngay. Ông đã đem ra một đôi giày khác cao hơn đôi giày đang thử này khoảng một ngàn đồng. Đôi giày ấy cũng có gót cao như vậy và trông lại đẹp hơn đôi giày tôi mang thử nữa. Nhưng khi Bố tôi nhìn thấy giá tiền mắc hơn như vậy. Bố liền quyết định ngay rằng nên mua đôi giày tôi đang thử đó mà thôi. Lúc tôi thấy đôi giày đẹp và mắc hơn kia; tôi mừng quá định nắm tay ông bán hàng để tỏ lòng cám ơn ông ấy; nhưng vì ông ta là người lạ, nên tôi biết chắc Bố tôi không muốn tôi tỏ bày tình cảm thân mật như vậy. Vả lại, tôi cũng cảm thấy mắc cỡ nữa. Sau đó, Bố tôi lấy tiền để trả cho ông bán giày, rồi cha con tôi dắt nhau về nhà. Tôi mở ngay họp giày ra để khoe với Mẹ đôi giày mới. Chà, tôi cứ tưởng rằng cha tôi là người khó có thể thuyết phục được, nhưng bây giờ tôi mới thấy Mẹ tôi còn khó tính hơn nữa, và nếu Mẹ dắt tôi đi mua giày, thì chắc chắn còn rắc rối hơn nữa. Lúc nhìn thấy đôi giày, Mẹ tôi chẳng nói gì với tôi ngay, mà Mẹ chỉ nhìn Bố rồi nói như khiển trách Bố. Me hỏi: - Sao mình lại để cho con bé nó chợn kiểu giày như vậy nhỉ? Khổ quá, mình thử nhìn lại đôi gót cao như tháp kia kìa. Tôi ngắt lời Mẹ: - Con mà còn bé sao ạ? Lúc nào Mẹ cũng nói như vậy không à. Mẹ coi, con đã mười lăm tuổi rồi chứ còn bé bỏng gì nữa đâu ạ. Mẹ tôi cầm một chiếc giày lên, nhìn kỹ càng. Rồi Mẹ tôi lăng lặng bỏ vào hộp. - Sao Mẹ vẫn thấy gót giày gì mà kinh khủng thế. Mẹ tôi lắc đầu rồi quay vào bếp sửa soạn dọn bữa ăn. Mãi đến sáng Chủ nhật, tôi mới khám phá ra lý do tại sao người ta lại nói rằng các bé gái phải "học" cách đi đôi giày cao gót như thế nào. Mới đầu, khi lấy đôi giày mới ra để mang, tôi thấy dường như chân tôi to hơn lúc thử giày ở tiệm hôm qua, nếu không, sao nó lại chật kinh khủng thế này. Tôi cởi ra, xem lại bên trong coi số giày là bao nhiêu. Biết đâu người bán hàng đã để lầm đôi giày số nhỏ hơn vào hộp. Nhưng không, số giày vẫn y như đôi tôi đã thử hôm qua. - Ô, thảo nào - tôi kêu to lên, nhưng lại nhớ rằng đâu có ai ở đây mà nói chuyện với. Có lã bây giờ giầy chật hơn và bó vào chân tôi như vầy là vì tôi chưa mang thêm đôi vớ mỏng cho trơn tru hơn. Tôi nhớ lúc ở tiệm giày, người bán hàng có đưa cho tôi một miếng gì để lót vào chân cơ mà. Tôi nhảy vội lên, chạy lại ngăn kéo tủ, lôi ra được một đôi vớ. Xỏ vội đôi vớ vào chân rồi mang giày vào, tôi mới thấy đôi giày thật quá chặc. Tôi vặn vẹo bàn chân đẩy tới đẩy lui mãi, mệt cả hơi mới cho được đôi chân lọt vào giày. Lúc tôi nhìn xuống đôi chân seo tôi thấv "quê" quá chừng. Trông hình mình đang mặc bộ đồ nhăn nhúm, lại mang vớ với giày cao gót, kỳ cục ghê. Khi tôi thử đứng lên, tôi cảm thấy khó có thể bước đi được. Chao ôi, sao mà chật bó tay chân thế này! Tôi không biết hồi Mẹ còn trẻ như tôi, Mẹ có trải qua giai đoạn khó khăn như vậy khi mẹ mới bắt đầu mang giày cao gót không. Rồi tôi cừ thắc mắc không biết bây giờ Mẹ tôi có còn cảm thấy như vậy không, hay là lớn lên thì phụ nữ sẽ thấy quen dần với đôi giày cao gót. Nghĩ một lúc, tôi nhất định cho rằng, nếu bỏ vớ ra, tôi sẽ dễ chịu hơn. Vì vậy, tôi bèn ngồi lên giường, cởi bỏ đôi vớ nặng chình chịch đó ra, rồi xỏ giày vào chân lại. Lần này tôi cương quyết đi xuống dưới nhà để đánh răng, rửa mặt. Có lẽ như người bán hàng đã nói, tôi phai tập đi cho quen dần. Tôi mở cưa phòng rồi đi xuống dưới nhà. Thật ra, tôi nào có bước đi tự nhiên được, tôi loạng choạng từng bước mới xuống được tới nơi. Lúc bước vào phòng tắm, tôi thấy như mình bị say sóng, Trong chốc lát, tôi phải sẵn sàng công nhận rằng tôi chọn đôi giày quả có hơi cao. Suốt lúc tôi chải răng, tôi thấy dường như gót giày cứ nghiêng qua nghiêng lại. "Eo ôi" - tôi tự nhủ, rồi nhổ hết chất kem đánh răng trong miệng ra - "Đôi gót giày này sao lung lay dữ quá. Chắc phải đóng lại cho chặt mới được". Tôi tháo một bên giày ra rồi xem thử chiếc gót. Đâu có sao, nó vẫn chắc chắn như thường mà. Tôi cảm thấy e ngại khi phải trở lại phòng vì tôi sợ thằng Tuấn bắt gặp tôi, chắc chắn thế nào nó cũng cười nhạo tôi cho mà xem. Tôi mở cửa phòng tắm thật khẽ. Tôi mông cả nhà còn ngủ, nhưng chắc cũng có người thức rồi. Tôi bắt đầu bước lảo đảo từng bước cẩn thận để về phòng. Nhưng không tránh khỏi được thằng em. Nó đã nhìn thấy tôi. Kìa, nó đang đứng ở ngay trên lối đi, nhìn tôi cười nghiêng ngã, làm như nó được nghe một câu chuyện chọc cười hay nhất thế giới vậy. - Hay quá ta! - Nó vừa nói vừa cười ầm ĩ, rồi tiếp tục trêu chọc tôi - Hôm nay chắc phải là một ngày Chủ nhật đi bằng cà kheo đây mà. Em phải đi kiếm lại mấy cây cà kheo hồi năm ngoái mới được. Em cá với chị rằng thế nào em cũng đi nhanh hơn là chị di bằng đôi giày cao "quê" như vậy đó. Tôi cố tìm một câu gì để quật lại cái thằng Tuấn này, nhưng nó cứ liến thoắng cái miệng. - Không biết bố có chịu đi bằng cà kheo không. Cha cha, Bố mà đi như vậy chắc cao lêu khêu, nổi bật cho mà coi. Càng nghe thằng Tuấn nói, tôi càng bực tức. Đó mà, tôi nói có sai đâu. Tuấn nó cứ trêu chọc tôi hoài, làm gì nó cũng phá được, nếu không như vệy, thì chị em tôi đã chơi hợp với nhau quá rồi. Nhưng phần lớn, nó cứ kiếm chuyện trêu chọc tôi. Tôi ráng bước loạng choạng cho thật mau tới phòng, ráng bước với đôi giày mời đó. Rồi đóng ngay cửa lại. Thật ra là tôi đã đóng một cái ầm. Tôi chợt nhớ đã có lần tôi bị phạt vì đóng cửa mạnh như vậy, nên lần này tôi liền hé cửa ra độ một phân, như tỏ vẻ xin lỗi, rồi mới dám đóng cửa lại. Dĩ nhiên lần này tôi đóng thật nhẹ nhàng. Tôi ngồi thật lâu bên giường để chờ đợi. Phải chi Tuấn đi xuống nhà dưới rồi, để tôi có thể ra ngoài tập đi cho quen với đôi giày mới. Tôi chắc rằng mình sẽ đi thạo nếu có dịp đi qua lại thử trong vài phút. Nhưng tôi biết ngay rằng tôi mà mở cửa đi ra, thì Tuấn cũng thế nào ở đó nhìn tôi chằm chặp cho mà xem. Rồi chắc chắn tôi sẽ bị bối rối và luống cuống đến nỗi đi có thể té dập mặt xuống sàn mất. Tôi đảo mắt nhìn quanh phòng. Phải chi cái giường không chắn nhiều lối đi, chắc tôi có thể tập đi quanh phòng để quen dần với cảm giác đi bằng đôi giày cao, quả thật cao lênh khênh như cà kheo vậy. Tôi sẽ không bao giờ nói cho Tuấn biết như vậy đâu, nhưng chính lúc này tôi thật có cảm tưởng như mình đang cà kheo vậy. Tôi nhớ lại hồi hà na8nm ngoái, tôi có dịp đi đôi cà kheo của Tuấn; đi cà kheo mà dễ thăng bằng hơn đôi giày cao gót này nhiều, vì ít ra cà kheo còn có chỗ cho mình vịn tay vào. Thế mà đôi giày oái oăm này. Chao ơi, mang nó vào bạn sẽ có cảm tưởng như bị treo lơ lửng trên không. Giá mà tôi được buột vào một chiếc dù hay một vật gì khác để biết chắc rằng mình sẽ đặt chân an toàn trên mặt đất thì đỡ cho tôi biết bao. Nhưng tôi chẳng có vật gì cả, ngay dù đó là một chiếc gối êm mà ngày xưa tôi hay dùng để kê lúc tập lộn đi lộn lại. Tôi đi tới tủ kính, nhìn vào tấm gương soi để thấy đôi chân đau ê ẩm của tôi. Trông thật kỳ cục làm sao. Nhưng có lẽ tôi tôi mang giày cao gót mà lại mặc đồ ngủ nên trông mới kỳ như vậy, chứ có ai ăn mặc như thế bao giờ. Khi cởi bỏ đôi giày ra khỏi chân, tôi lấy một chiếc khăn sạch lau cho thật bóng. Rồi tôi lấy giấy gói riêng từng chiếc một, rồi cất vào trong hộp đựng gìay còn nằm trên giường, giữa đống chăn màn chưa xếp dọn. Bây giờ nhìn đôi giày, tôi thấy nó kỳ khôi làm sao, nhưng lạ thật, lúc nó nằm trong tu kính ở cửa hàng thì trông đẹp tuyệt. Đem để vào hộp giày thấy cũng không đến nỗi nào, vậy mà, ui cha, lúc đi vào chân mới đau kinh khủng. Suýt chút nữa, tôi đã nhất định sẽ mang đôi giày có gót thấp lè tè để đi nhà thờ sáng Chủ nhật này. Nhưng tôi biết nếu tôi làm như vậy; Bố tôi sẽ không tha tôi về tội đã bắt Bố tôi đã trả nhiều tiền để mua cho tôi được đôi giày mới cao gót kia. Trong lúc này không phài là lúc tôi nên làm Bố Mẹ bực mình vì tôi, lý do là tại tôi có một điều muốn xin Bố Mẹ tôi. Từ buổi tan học chiều Thứ Sáu, tôi đã lần lữa về chuyện này, chưa dám đem ra hỏi Bố Mẹ. Vậy mà mấy cô bạn cứ giục tôi phai trả lời cho họ biết sớm. Chao ơi, tôi thật mong muốn được cùng đi với họ. Số là Kiều và Thu định rủ tôi tới Phú Lâm trong mấy ngày nghỉ cuối tuần. Ở Phú Lâm, ba má Kiều có một căn nhà để không nên họ cho phép chúng tôi đen ở chơi trong ba ngày thứ Sáu, Thứ Bảy và Chủ nhật tuần sau. Chúng tôi muốn đi xe đạp tới đó và chỉ chỉ ba đứa tụi tôi ở trong căn nhà đó mà thôi, Kiều cho biết là có một khu phố ở gần nhà, chúng tôi có thể ra đó mua sắm đồ đạc, thức ăn và những thứ cần thiết. Bố Mẹ cứ coi Tuấn và tôi như những đứa con nít. Ít ra, Bố Mẹ đã làm cho chúng tôi có cảm tưởng như vậy. Vì mỗi lần Bố Mẹ phảii đi đâu có việc vào buổi tối, Bố Mẹ luôn luôn nhờ một bà nào tới ở coi chúng tôi. Trong khi đó chúng tôi vẫn cho rằng mình đã đủ khôn lớn để ở nhà một mình, không cần ai coi giữ như vậy, nhất là chúng tôi thấy mấy đứa cùng tuổi với chúng tôi đã thường ở nhà một mình lúc cha mẹ họ có việc đi khỏi. Vì thế nên tôi thấy thật khó để xin phép Bố Mẹ cho đi chơi cuối tuần ở Phú Lâm với hai cô bạn. Tôi biết thế nào Mẹ tôi cũng tưởng tượng ra hàng trăm điều rắc rối và cứ lo nghĩ mãi về việc tôi không thể làm gì cho chính tôi được. Đầu đuôi là như vậy đó các bạn ạ. Đó là lý do khiến tôi không muốn làm cho Bố Mẹ phai bực mình về chuyện đôi giày mới này của tôi. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ một điều quan trong. Đi đôi giày cao gót mới như vậy thì tôi phải có một cái quần dài để mặc cho nó đi đôi với nhau chứ. Ai lại mang giày cao gót mà mặc cái quần ngắn tới mắt cá như mấy cái quần cũ mà tôi vần mặc khi đi dép, trông sao được. Chắc chắn là không ai coi được rồi. Tôi bèn mở cửa phòng nói vọng sang phòng Mẹ: - Mẹ ơi, con mặc cái gì bây giờ? Tôi cho rằng Mẹ đoán được điều tôi đang nghĩ. Nhưng Mẹ tôi trả lời ngay, làm như không có chuyện gì rắc rối cả: - Ơ kìa, thì con cứ mặc chiếc ào dài để dành đi nhà thờ chứ sao nữa. Tôi nói rõ hơn: - Không phải ạ, con muốn nói là mặc gì để đi đôi với giày cao gót kìa. Bố nói ngay: - Con mặc cái quần nào dài dài một chút. Chứ còn muốn mặc gì nữa? May mà người nói câu đó là Bố, chứ nếu Tuấn nói như vậy, thế nào tôi cũng chun cái mũi lại, nói một câu gì cho bõ ghét. Nhưng đối với Bố thì tôi đâu dám. Có lần tôi cũng đã lỡ làm kiểu đó, Bố liền có biện pháp kỷ luật với tôi ngay. Mà biện pháp kỷ luật của Bố nghĩa là bóp tai hoặc bắt tôi nằm sắp xuống giường, "phết" cho mấy roi vào mông. Một lát, Mẹ tôi bước vào, tay cầm chiếc quần dài của mẹ đưa cho tôi. Tôi cầm ngay lấy, ướm thử vào người. Chu cha ơi, quần gì mà dài quá thế này, trông buồn cười ghê. Chắc không làm sao vừa với tôi được. Mẹ bảo: - Đó, con mặc tạm cái quần của mẹ đi. Tôi kêu lên: - Thôi Mẹ ơi! Quần của Mẹ dài quà chừng, con phải kéo lên tới ngực sao. Mẹ ngắt lời tôi: - Làm gì mà dài tới ngực được, chỉ hơi dài một chút thôi. Tôi chống chế: - Nhưng mẹ ạ, con không mặc vừa đâu. Mẹ tôi nghiêm giọng: - Vậy con định làm sao? Tôi nhìn lên Mẹ. Tôi thấy mẹ có vẻ giận. Mà mẹ tôi có lý thật. Bây giờ tôi không có quần dài để mặc đi với với đôi giày cào gót, nên tôi muốn đi giày mới, thì phải mặc đỡ quần của mẹ chứ sao. Nghĩ vậy tôi liền xỏ thử quần mẹ vào. Mẹ tôi căn dặn kỹ càng: - Con phải cẩn thận đấy, đừng làm rách cái đường viền ren của mẹ, nếu không thì… Mẹ tôi bỏ lửng câu nói. Tôi biết mẹ rất ghét thấy đườg ren viền ống quần bị sứt. Nhớ một lần nọ, lúc đang ngồi trong nhà thờ, tôi thấy có một mối chỉ tua ra ờ gấu quần viền ren của mẹ, cái quần sa tanh mẹ vừa mới may. Tôi liền ngồi xuống đất, kéo sợi chỉ ra. Tôi càng kéo, chỉ càng tuột ra. Thình lình, mẹ tôi cúi xuống, nhìn thấy tôi đang kéo sút đường may ra, khiến cả nửa ống quần tuột khỏi đường viền ren. Mẹ tôi bối rối và ngượng chín cả người. Dĩ nhiên lúc về nhà, tôi bị một trận đòn nên thân. Khi nghĩ lại buổi hôm đó, tôi đã định rằng sẽ không bao giờ mặc quan dài viền ren cả, nhất là quần như của Mẹ. Vậy mà bây giờ tôi lại "vi phạm" cả hai điều đó; đã thế còn phải làm bộ như mình rất vui thích được mặc chiếc quần dài của Mẹ. Mẹ vừa ra khỏi phòng thì tôi cũng vừa mặc xong chiếc quần dài kinh khủng này. Lớp sa tanh mềm mại và bóng láng thật đẹp nhưng cái quần không vừa vặn với tôi chút nào. Chỗ thì lùng bùng rộng phình ra, chỗ lại xếp thành nhiều "banh", dồn về một phía. Tôi thấy mình ăn mặc như một người nhà quê mới ra tỉnh. Phải chi tôi đừng có quá nài nỉ xin Bố Mẹ sắm giày cao gót cho bằng được như vậy, thì chắc bây giờ tôi đỡ bị rắc rối biết bao. Nhưng lỡ rồi. Lúc tôi đang còn cố sửa đi sửa lại chiếc quần cho dễ coi hơn, thì Bố đã gọi xuồng ăn sáng ngay cho kịp giờ. Tôi vội diện thêm chiếc áo dài vào rồi ráng xỏ chân vào đôi giày mới tinh, cao như cái thang đó. Tôi phải cố làm bộ như đôi giày mang vô làm tôi dễ chịu lắm, và tôi rất vui thích được có đôi giày mới kinh khủng này. Nhưng thật ra, sâu tận trong tâm khảm tôi, tôi chẳng thích thú chút nào. Tôi nhìn khá lâu vào đôi giày cũ thấp gót của tôi trên sàn nhà một lần nữa, rồi mở cửa đi xuống nhà ăn sáng. Khi nhìn chiếc cầu thang dẫn xuống nhà dưới, tôi tưởng mình không thể nào đi hết được. Làm sao đi nổi hết mấy bậc thang đó với đôi giày cao gót này! Nhưng tôi biết rõ rằng mình phải cẩn thận từng bước một. Nếu không, tôi dám bị té lộn đầu xuống trước cho mà xem. Vì thế tôi ráng nắm chặt vào tay vịn cho chắc ăn. Chợt có tiếng Tuấn vang lên: - Đôi giày cao gót mới coi điệu quá ta! Vừa nói nó vừa cười khúc khích. Tôi cắt ngang: - Thôi mà, nói hoài. Nhưng rồi tôi lại thấy nó đâu có lỗi gì trong chuyện đàn bà con gái của tôi, dù sao, làm thân con trai như nó cũng sướng. Tôi nói tiếp để bào chữa cho mình: - Đôi giày mới này hơi trơn một chút, nhưng kiểu mới là như vậy. Tuấn vẫn cười, nói thêm: - Dĩ nhiên rồi. Nói xong nó quay vào bếp. Tôi mừng thầm. Ít ra tôi cũng có thể thong thả đi một mình hết các bậc thang còn lại, mà không ngượng ngập lo nó nhìn theo. Cuối cùng tôi cũng đi được vào tới bếp một cách an toàn và với một vẻ cố làm ra tự nhiên. Bố nhìn tôi bằng cặp mắt to vẻ bỡ ngỡ. Bố đứng lên khỏi bàn ăn, kéo ghế cho tôi ngồi làm như tôi là một người khách hay là một người nào quan trọng lắm vậy. Bố nói: - Chà, người thiếu nữ duyên dáng này là ai vậy nhỉ? - Đó là chị Thảo yểu điệu của con đấy, Bố ạ. Tuấn tía lia cái miệng, không để tôi kịp mỉm cười duyên với bố vì câu nói rất lịch sự của Bố. Rồi Tuấn lại nói luôn: - Trông chị Thảo nổi bật hẳn lên, bố nhỉ. Có lẽ chị ấy cao hơn Chủ nhật tuần trước cả một tác nữa đấy. Tôi chỉ muốn nói móc lại Tuấn một câu gì cho ra hồn, nhưng chắc thế nào Bố Mẹ cũng không bằng lòng kiểu đó. Nghĩ vậy, tôi đành cố nở một nụ cười với Tuấn. Nhưng chao ơi, nụ cười giả tạo đó méo xẹo làm sao. Trông nó dễ ghét quá chừng, tôi chẳng muốn gì khác hơn là tìm cách gì thật tệ để tra thù cho nó cho bõ ghét. Tôi vừa miên man nghĩ đến một biện pháp thật xấu để đương đầu với Tuấn, thì Bố đã mở Kinh thánh ra và bắt đầu đọc. Tôi đoán là Bố còn đọc nhiều hơn nữa, nhưng tôi nghe rõ và nhớ dược chừng đó. Như vậy, tôi không được quyền ghét giận Tuấn. Nếu tôi có bị khó chịu, tức mình thì cũng không hẳn là lỗi của nó gây ra. Suốt thời gian Tuấn cầu nguyện, tôi đâm ra lo sợ; vì trong gia đình tôi, chúng tôi cầu nguyện cho mọi điều. Vâng, đúng là chuyện gì cũng được chúng tôi cầu nguyện cho. Vì vậy, nếu Tuần mà cầu nguyện xin cho tôi được vui thích và thoải mái trong đôi giày mới này, thì tôi chắc - Ồ, có lẽ chắc tôi ngượng đến chết mất. Mời các bạn đón đọc Đứa Em Sinh Đôi của tác giả Thùy Trang.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Anh em Nhà Karamazov - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Anh em nhà Karamazov (tiếng Nga: Братья Карамазовы) là tác phẩm cuối cùng của Fyodor Dostoyevsky (Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky). Fyodor Dostoyevsky thuộc loại thiên tài hiếm hoi mà càng về cuối đời thì sự nghiệp sáng tác càng lên tới đỉnh cao hơn. Anh em nhà Karamazov là tác phẩm vĩ đại nhất của ông. Trước khi bắt tay vào viết tác phẩm mà thật ra ông đã ấp ủ ý đồ từ nhiều năm trước, Dostoyevsky đã linh cảm thấy mình nắm bắt được một đề tài xứng đáng với tầm vóc của mình. Ông viết: "Ít khi tôi gặp trường hợp nói lên được những điều mới mẻ, đầy đủ, độc đáo như thế này". Tiếp đó là quá trình làm việc hết sức căng thẳng. Trong một lá thư đề ngày 23 tháng 7 năm 1879, ông viết: "Cuốn tiểu thuyết tôi đang viết (Anh em nhà Karamazov) hiện thời nuốt hết mọi sức lực và thời giờ của tôi… Tôi viết không hối hả, không vội làm cho xong việc, sửa đi sửa lại, gọt tỉa, tôi muốn tận tâm hoàn tất tác phẩm, bởi vì chưa hề có tác phẩm nào mà tôi nhìn nhận một cách nghiêm túc hơn tác phẩm này" *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình *** Alecxei Fedorovich Karamazov là con thứ ba một địa chủ hạt chúng tôi tên là Fedor Pavlovich Karamazov, người đã có thời làm xôn xao dư luận (mà đến tận bây giờ cũng còn được nhắc đến ở vùng chúng tôi) do cái chết bi thảm và mờ ám của ông ta xảy ra đúng mười ba năm trước, rồi đến một lúc nào đó tôi sẽ kể chuyện này. Còn bây giờ, về ông “địa chủ” đó, người ta gọi ông ta như vậy, tuy suốt đời ông ta hầu như không cư ngụ tại điền địa của mình, tôi chỉ nói rằng đấy là một kẻ thuộc loại người lạ lùng tuy là khá thường gặp, chính là loại người chẳng những đồi bại và trác táng mà còn vô lối biết lo liệu rất khôn khéo mọi việc lắt léo liên quan đến tài sản của mình. Chẳng hạn Fedor Pavlovich bước vào đời gần như là tay trắng, vốn điền sản của ông ta rất nhỏ nhoi, ông ta chuyên đi chực bữa nhà người, khét tiếng là kẻ ăn boóng, vậy mà lúc chết ông ta còn có đến một trăm ngàn rúp tiền mặt. Tuy thế suốt đời ông ta cứ là kẻ ngông cuồng nhất trong hạt chúng tôi. Tôi xin nhắc lại lần nữa: đây không phải là ngu xuẩn; phần lớn những kẻ ngông cuồng ấy khá tinh khôn và ranh mãnh, mà đây là vô lối nhưng là cái vô lối khá đặc biệt, mang màu sắc dân tộc. Ông ta đã hai đời vợ và có ba con trai: con cả, Dmitri Fedorovich, là con người vợ thứ nhất, hai đứa còn lại Ivan và Alecxei, là con người vợ sau. Người vợ đầu của Fedor Pavlovich là con một gia đình khá giàu có và danh tiếng thuộc dòng họ quý tộc Miuxov, cũng là địa chủ vùng chúng tôi. Làm sao một cô gái có của hồi môn, lại xinh đẹp, thêm nữa lại thuộc loại thông minh lanh lợi - loại thiếu nữ không lấy gì làm hiếm trong thế hệ hiện nay, nhưng thời trước cũng vẫn có - mà chịu lấy một gã “còm nhom” (như mọi người hồi ấy vẫn gọi gã) và hèn mọn như thế, điều này tôi sẽ không giải thích rườm rà. Tôi biết một cô gái thuộc thế hệ “lãng mạn” thời trước, sau mấy năm đeo đuổi mối tình bí ẩn với một người danh giá mà cô ta bao giờ cũng có thể rất yên tâm về làm vợ ông ta, nhưng rốt cuộc cô ta lại tưởng tượng ra những trở ngại không thể vượt qua được và một đêm bão bùng, từ mé bờ cao giống như một ghềnh đá cheo leo, cô ta gieo mình xuống dòng sông khá sâu chảy xiết: cô ta chết do tính đồng bóng của chính mình, chỉ cốt để được giống như Ophelia của Shakespeare, thậm chí nếu như bờ đá cheo leo ấy, mà cô đã để ý và ưa thích từ lâu, không được nên thơ như thế, nếu như thay vào đó chỉ là một bờ sông bằng phẳng tầm thường thì có lẽ không làm gì có chuyện tự vẫn. Đấy là việc có thực, và hẳn là trong đời sống Nga của chúng ta, hai hay ba thế hệ gần đây, những sự việc cùng loại đã xảy ra không ít. Cũng tương tự như vậy, hành động của Adelaida Ivanovna Miuxova chắc chắn là hồi âm của những luồng gió nước ngoài dội vào: đồng thời cũng là sự bực tức của tư tưởng bị cầm tù. Có lẽ nàng muốn biểu lộ ý chí độc lập của phụ nữ, đi ngược lại hoàn cảnh xã hội, chống lại sự chuyên chế của họ mạc và gia đình, và trí tưởng tượng hay chiều lòng người khiến nàng tin chắc, dù chỉ trong giây lát rằng Fedor Pavlovich tuy có tiếng là kẻ ăn chực, nhưng vẫn là một người can đảm nhất và tinh quái nhất trong cái thời đại đang chuyển mình theo chiều hướng tốt: nhưng thực ra gã chỉ là một thằng hề độc ác, không hơn không kém. Điều giật gân là sự việc xoay chuyển tới chỗ cô nàng bỏ nhà trốn theo gã và lấy thế làm khoái chí. Còn về phần Fedor Pavlovich thì thậm chí do địa vị xã hội của gã, gã hoàn toàn sẵn sàng thực hiện tất cả những trò vào loại đó, và gã háo hức muốn tiến thân bằng bất kì cách nào: chui luồn được vào một gia đình tử tế và kiếm được món hồi môn, là điều hết sức hấp dẫn. Còn về tình yêu đôi lứa thì hình như hoàn toàn không có, cả nàng cũng như chàng, mặc dù Adelaida Ivanovna rất xinh đẹp. Thành thử có lẽ đấy là trường hợp duy nhất thuộc loại này trong đời Fedor Pavlovich, một kẻ suốt đời háo sắc, sẵn sàng bám ngay lấy bất cứ cái váy nào vẫy gọi gã. Duy chỉ có người phụ nữ này không khơi gợi trong gã một hứng thú tình dục đặc biệt nào cả. ... Mời các bạn đón đọc Anh em Nhà Karamazov của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.
Du Hành Cùng Herodotus - Ryszard Kapuściński
Bạn có thể đọc vội, lướt qua, nhảy cóc hay bỏ đoạn một cuốn sách nào đó, nhưng xin đừng làm vậy với Du hành cùng Herodotus. Bởi như vậy, nghĩa là bạn đã tự khép lại trước mắt mình một cánh cửa độc đáo mở ra thế giới, đã rút ngắn một con đường mà kẻ ham hiểu biết cần đi, đã góp phần lãng quên một sử gia cần được hồi sinh, và nhất là, đã tự dập tắt khao khát bản năng và cháy bỏng trong mỗi con người: khao khát được xê dịch và khám phá! Nước Ba Lan xã hội chủ nghĩa những năm 1950, nghèo nàn và phong bế, phóng viên trẻ Kapuscinski chỉ có một ao ước duy nhất: được bước sang bên kia biên giới. Và khao khát ấy đột ngột trở thành hiện thực khi một năm sau, Kapuscinski được tổng biên tập cử đi công cán tại Ấn Độ, quà tặng lên đường không gì khác là tập Sử ký của Herodotus. Mang theo cuốn sách của người cha của lịch sử, niềm hứng khởi vô bờ trong tim và khuôn mặt ngơ ngác của kẻ lần đầu bước ra thế giới, Kapuscinski bắt đầu cuộc hành trình kép của mình. Một bên là những miền đất trải dài theo đường kinh độ và vĩ độ, sông ngòi và thác lũ, biển cả và núi non, còn bên kia là con đường qua từng trang sách để tìm lại dấu chân một trong những triết gia vĩ đại trong lịch sử nhân loại: Herodotus. Nếu bạn là người thích nối liền hai khoảng thời gian quá khứ và hiện tại, hãy theo con đường thứ hai, nơi Kapuscinski, bằng niềm ngưỡng vọng dành cho bậc triết nhân từ nhiều thế kỷ trước, đã nêu lên những câu hỏi, phỏng đoán và suy ngẫm về cuộc đời, thân thế, triết thuyết của Herodotus. Còn nếu bạn là người thích nối liền những khoảng cách không gian, hãy khoác ba lô lên và đồng hành cùng Kapuscinski trên con đường lầm bụi thứ nhất. Đó là Italy nhìn từ trên cao như một dòng sông ánh sáng, và duyên dáng với những piazza lúc lại gần, là Ấn Độ với đoàn người áo trắng lặng lẽ hành hương về sông Hằng thiêng, nơi những bè hỏa táng đang cháy rực trong đêm tối, là Bắc Kinh nghiêm cẩn xa lạ, khác với vẻ hào hoa cổ kính của đất Thượng Hải kề bên. Và cái nóng như tắm lửa buổi ban ngày và rét thấu xương của sa mạc đêm khiến bạn không thể quên Ai Cập. Có hai điểm nổi bật trong cách tiếp cận và khám phá một vùng đất mới của Kapuscinski, đó là: tiếp cận đối tượng từ góc độ thời sự và văn hóa. Bằng lối trần thuật tỉ mỉ, khách quan không khí, nếp sống, những bất ổn chính trị, Kapuscinski đã truyền cho người đọc hơi thở mỗi vùng đất ông qua. Algiers đang trong tâm bão của cuộc đảo chính những ngày Kapuscinski tới, im lặng và căng thẳng! Ngọn lửa nồng nhiệt của ông hoàng nhạc jazz Louis Amstrong không đủ làm loãng không khí nghi kỵ đặc quánh tại Ai Cập, và chế độ đẳng cấp tồn tại nghìn năm ở Ấn Độ, hiện lên sinh động hơn qua chân dung những người kéo xe, hầu phòng khách sạn hay đuổi ruồi đời con nối tiếp đời cha trong dinh thự lãnh chúa. Chuyển tải một cách trung thực những sự kiện trên trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm, Kapuscinski xứng đáng được tôn vinh trong vai trò của một thông tín viên quốc tế. Và giúp người đọc nhìn nhận mỗi vùng đất từ khía cạnh khác: khía cạnh văn hóa, Kaspuncinski xứng đáng được tôn vinh trong vai trò một nhà văn hóa. Hơn nửa thế kỷ trước, con người của xê dịch và du hành ấy đã nhìn thấy bên cạnh một Châu Phi bạo động bất ổn, là một Châu Phi của bản sắc văn hóa, với những diễn viên đường phố, những điệu nhảy cuồng nhiệt cùng hàng nghìn mặt nạ độc đáo góp phần tạo nên một thế giới bí ẩn và khác biệt. Những dòng so sánh sắc sảo, thú vị và hóm hỉnh giữa Ấn Độ và Trung Quốc cũng là điểm đáng dừng lại và đọc kỹ trong cuốn sách “Người Hindu là một cá thể thoải mái, người Trung Quốc- cứng nhắc và cảnh giác. Đám đông người Hindu là không định dạng, trôi nổi và chậm chạp, đám đông người Trung Quốc được xếp thành hàng, trật tự và bước đều bước. Tôi cảm thấy trên đám đông người Trung Quốc có một vị chỉ huy, một người có uy quyền, trái lại trên đám đông người Hindu là hội đồng tối cao các thánh thần không đếm xuể và có phần dễ dãi…”. Cuốn sách có tên là Du hành cùng Herodotus, và chuyến du hành ngược dòng thời gian cùng sử gia Hy Lạp là một trong hai mạch chủ đạo của tác phẩm. Song song với việc tái hiện những điểm chính trong cuốn sử ký của Herodotus, Kapuscinski góp phần làm sống lại một trong những sử gia vĩ đại nhất qua những suy đoán về cuộc đời, cá tính, hành trình chép sử của Herodotus cũng như nhận định về văn phong, cách xử lý tư liệu của sử gia cổ đại này. Ở cuối chuyến đi, Kapuscinski đã tới thăm quê nhà của Herodotus, như một cuộc gặp gỡ sau hơn hai mươi thế kỷ, nhưng mỗi người đọc đều phần nào nhận ra rằng, hai con người này, dường như đã gặp gỡ từ những trang đầu của cuốn sách, bởi những địa điểm họ cùng đặt chân tới, bởi khả năng đi, nhớ, ghi chép, kể lại, và đặc biệt, bởi niềm tin rằng: có thể miêu tả được thế giới này. Những lời sau đây Kapuscinski dành để nói về Horodotus cũng là những gì người đọc muốn dành để nói về Kapuscniski - phóng viên đã góp phần nối liền không chỉ một thế giới: “Cuốn sách của Herodotus hình thành chính là từ những chuyến đi, đó là thiên phóng sự vĩ đại đầu tiên trong nền văn học thế giới. Tác giả của nó có trực giác phóng viên, tai và mắt phóng viên. Ông không biết mệt mỏi, phải vượt biển, băng qua thảo nguyên, đi sâu vào sa mạc- chúng ta trân trọng điều này. Ông làm chúng ta khâm phục vì sự dẻo dai của mình, không bao giờ than vãn mệt mỏi, không gì làm ông ngã lòng, ông chưa một lần nào nói rằng mình sợ hãi điều gì đó. Điều gì đã thôi thúc ông, để ông không mệt mỏi và không sợ hãi dấn thân vào cuộc phiêu lưu vĩ đại của mình? Tôi nghĩ đó là niềm lạc quan mà chúng ta, những con người hiện đại đã đánh mất từ lâu: niềm tin rằng có thể miêu tả được thế giới”. *** Vài nét về Kapuscinski và Herodotus: - Kapuscinski Ryszard Kapuscinski (1932-2007) học lịch sử tại Warsaw rồi làm báo, trở thành phóng viên, chuyên viết về phóng sự nước ngoài, trong khoảng bốn mươi năm phụ trách các khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ Latin. Ông rất thành công trong sự nghiệp phóng viên với các tác phẩm về chế độ Shah ở Iran hay các chế độ độc tài. Những cuốn sách nổi tiếng nhất của ông gồm Du hành cùng Herodotus, Imperium, Gỗ mun... - Herodotus Sử gia người Hy Lạp, sống ở thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, ông được coi là người cha của môn sử học trong văn hóa phương Tây. Herodotus là nhà sử học đầu tiên sưu tầm tài liệu một cách có hệ thống, tự kiểm chứng độ chính xác và sắp xếp thành những thể truyện sống động, hấp dẫn. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm Sử ký - một tài liệu ghi chép những tra cứu về nguồn gốc cuộc chiến tranh Ba Tư - Hy Lạp xảy ra vào giai đoạn 490 đến 479 trước công nguyên, cũng như phong tục của các sắc dân sinh sống tại Châu Á, Phi, Âu. *** Du ký là mảnh đất màu mỡ lúc xa xôi khi lạ lẫm vẫn là ấn tượng của con người vì thế giới rộng lớn bên ngoài. Tưởng chừng sự hoàn thành quá trình tìm hiểu cặn kẽ những miền đất lạ đã tước đi chỗ đứng của những nhà văn ưa phiêu lưu như Pierre Loti, Blaise Cendrars hay Rudyard Kipling, chấm dứt cái thời Paul Morand cảm khái mà thốt lên rằng: “Đi là chết một ít, nhưng ở lại là vỡ tan thành trăm mảnh” (Những cuộc du hành). Vậy nhưng, thế giới hiện đại của chúng ta vẫn còn những người như V.S. Naipaul và nhất là Ryszard Kapuscinski, một con người xê dịch, một thiên tài của quan sát và sự xâu chuỗi quá khứ với hiện tại. Nhà văn Ba Lan nhiều lần có tên trong danh sách ứng cử viên giải Nobel Văn học đã kể cho ta về châu Á, châu Phi trong một giọng văn đầy hứng khởi nhưng tỉnh táo và tỉ mỉ, mô tả con người ở khắp các ngóc ngách thế giới bằng một chủ nghĩa nhân văn được truyền lại theo con đường kỳ bí nào đó từ phần sáng chói của lịch sử nhân loại. Và không chỉ có vậy, ông còn mang trở lại cho chúng ta một sử gia Hy Lạp ít nhiều bị lãng quên: Herodotus. *** “Rất ít nhà văn viết được đẹp đến vậy về những điều không thể nói ra. Rất ít nhà văn có được sự can đảm của ông, gần như không ai sở hữu tài năng lớn như ông. Những cuốn sách của ông thay đổi cách thức mà nhiều người chúng ta thường nghĩ về phi hư cấu.” - The New York Times “Mỗi khi có biến cố nào xảy ra trên thế giới, ông lại muốn lẻn một chiếc máy bay để tới. Nếu nghe nói về một con đường không ai đi nổi mà sống sót, ông sẽ đi vào đó, chỉ để xem mình có vượt qua được hay không. Cách hiểu thế giới của ông là đi tới điểm nóng, nơi mọi thứ đang sôi sục lên. Và quả thực tôi nghĩ không ai tự đẩy mình vào vòng hiểm nguy nhiều như ông lại hoàn toàn bình thường cho được.” - Salman Rushdie “Dù thế nào đi nữa ông cũng vẫn là một thiên tài đặc biệt có một không hai ở thời hiện đại, có lẽ ngoai trừ Kafka.” - Jonathan Miller, Guardian   Mời các bạn đón đọc Du Hành Cùng Herodotus của tác giả Ryszard Kapuściński.
Trò Chuyện Trong Quán La Catedral
Trò chuyện trong quán La Catedral là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, chỉ bằng những câu đối thoại, những tình tiết đan xen như phong cảnh qua cửa sổ trên chuyến tàu lao vùn vụt, lịch sử đất nước Peru trong một thời kỳ nhiễu nhương hiện ra với tầm vóc đồ sộ và những chi tiết rung động tâm can. Santiago Zavalita, con trai của một kỹ nghệ gia giàu sang, đã từ bỏ tất cả cơ hội tiến thân để làm cho một tờ báo nhỏ, sau khi cảm thấy không cuộc sống nào thực sự dành cho mình – một luật sư thành đạt theo mong ước của gia đình, hay một thành viên nhiệt thành của Đảng cộng sản theo những người bạn cùng trường đại học. Một ngày, trong khi đi tìm con chó bị lạc, anh tình cờ gặp lại Ambrosio, người tài xế trung thành đã phục vụ cha của anh trong nhiều năm, giờ tay trắng, sống vất vưởng ở một góc thành phố Lima. Bên những chai bia trong quán rượu La Catedral, họ trôi theo dòng quá khứ của cả hai. Từ cuộc trò chuyện đó, không gian mở rộng cho những giọng nói của người sống và người chết thi nhau kể lại số phận nhỏ nhoi và những nỗi khổ đau ngỡ đã tan biến trong dòng thác lịch sử. Cuốn tiểu thuyết chứa đựng hàng loạt nhân vật đại diện cho các loại người, các tầng lớp trong xã hội Peru dưới thời tên độc tài Odría. Don Fermín, cha của Santiago, một kỹ nghệ gia có nhiều dính líu mờ ám đến chính quyền; Cayo Bermudez, giám đốc An ninh của chính quyền Odría, một kẻ đê tiện; bọn tay sai của Bermudez phục vụ cho những thủ đoạn chính trị dơ bẩn; Hortensia – người tình của Bermudez, đã bị giết vì nắm được bí mật của Don Fermín; Amalia, hầu gái của gia đình Santiago và sau đó là Hortensia, vợ của Ambrosio; Queta, gái điếm và người tình đồng giới của Hortensia... Mỗi người đều dường như không thể thoát ra khỏi tiến trình tha hóa và sụp đổ, tiêu biểu là Ambrosio, vừa là nạn nhân vừa là tội phạm, xuất thân là kẻ cùng đinh và cuối cùng mất tất cả. Ngay chính Santiago, một thanh niên thông minh, trong sáng và đầy nhiệt tâm, cuối cùng cũng vỡ mộng, chán nản kéo lê cuộc sống tẻ nhạt của một phóng viên vô danh, “không là luật sư và cũng chẳng là hội viên của Club Nacional, không là kẻ vô sản cũng chẳng là tay tư sản”. Dù không chịu trở về với gia đình để trở thành trưởng giả, anh đã đủ trưởng thành để thôi huyễn tưởng về những thứ đã chi phối cả tuổi trẻ mình: “Còn nếu mày gia nhập hôm ấy thì sao, Zavalita? hắn nghĩ. Phải chăng nhiệt tình tranh đấu sẽ lôi mày theo, càng lúc càng dấn sâu vào hơn, mày có sẽ trở thành một kẻ có niềm tin, một kẻ lạc quan, một kẻ trong trắng khác, bí hiểm và anh hùng?... Thay vì những bài xã luận chống chó dại trên La Crónica, mày sẽ viết cho những trang in nghèo nàn của Unidad… Mày sẽ tệ hại hơn hay cũng thế hay hạnh phúc hơn? Hắn nghĩ: ồ, Zavalita”. Đào sâu đến tận gốc rễ những mảng hiện thực ngổn ngang nhiều tầng lớp của Peru, Trò chuyện trong quán La Catedral như một cuốn biên niên ký vừa hiện thực vừa mang tính huyền thoại, khiến người đọc kinh ngạc vì sức mạnh và sức cuốn hút của nó. Toàn bộ tiểu thuyết là một dòng thác ngôn ngữ, không có một đoạn nào tách ra khỏi khung cảnh để suy tưởng độc lập. Từng chữ, từng chi tiết đều gắn với tâm trạng cụ thể hoặc mạch đối thoại của nhân vật. Những đoạn đối thoại cách xa về không gian và thời gian, được lồng vào nhau một cách tưởng như ngẫu nhiên, nhưng rất công phu – giống như những gì người ta nghe thấy trong một quán rượu ồn ào, mỗi lúc một câu, nhưng vẫn tìm được sự liên hệ. Ngôi nhân xưng thay đổi từ gián tiếp sang trực tiêp, từ đối thoại sang độc thoại, liên hệ với nhau bằng một logic ngầm xây dựng dựa trên các mối quan hệ, tính cách và hoàn cảnh của nhân vật. Những hình ảnh trái ngược gắn liền nhau một cách nhức nhối: lòng nhân hậu bên cạnh sự giả trá, tâm hồn đa cảm nằm trong sự thô lỗ, lòng vị tha đi đôi với tính ích kỷ… Ở đó, ranh giới thiện - ác bị xóa nhòa trước sự bất định của số phận, không cá nhân nào có quyền phán xét, không ai có quyền cho rằng mình nắm chân lý. Khổ đau của một xã hội – cũng là khổ đau của nhân loại – ngay cả cuộc đối thoại bất tận giữa nhiều thế hệ cũng không bao giờ đủ để nói hết về những con đường sai lầm mà người ta đã và đang đi… *** Mario Vargas Llosa (sinh 1936), người Peru, là một trong những nhà văn hàng đầu của Mỹ la tinh và thế giới. Tác phẩm nổi bật của ông gồm có La casa verde (1966), Conversación en la Catedral (1969), La tía Julia y el escribidor (Dì Julia và nhà văn quèn, 1977, đã dịch ra tiếng Việt), La guerra del fin del mundo (1981), La fiesta del chivo(2000), v.v. Ngoài tiểu thuyết, ông còn viết tiểu luận, phê bình, báo chí. Vargas Llosa được Viện hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải Nobel Văn chương năm 2010 *** Từ ngưỡng của tòa báo La Crónica, Santiago dửng dưng nhìn Avenida Tacna: những chiếc xe hơi, các tòa nhà cao thấp không đều và bợt màu, các khung bích chương lòe loẹt lơ lửng trong sương mù, buổi trưa xám xịt. Peru đã trở nên khốn khổ khốn nạn vào đúng khi nào? Bọn trẻ bán báo len lỏi ra vào giữa đám xe có dùng chờ đèn xanh trên đường Wilson, rao bán mấy tờ báo ra buổi chiều và hắn bắt đầu bước chậm rãi về phía Colmena. Hai tay xỏ trong túi, đầu cúi, hắn đi giữa những người cũng đi về hướng Plaza San Martin. Hắn cũng như Peru, Zavalita, hắn đã làm khốn khổ khốn nạn đời mình vào lúc nào chẳng rõ. Đối diện Khách sạn Crillón, một con chó tới liếm chân hắn: Đừng lây bệnh dại của mày cho tao, cút đi. Cả nước Peru khốn nạn, Carlicos cũng khốn nạn.mọi người đều khốn khổ khốn nạn. Hắn nghĩ: Vô phương cứu chữa. Hắn nhìn thấy một hàng dài ở bến tắc xi đi Miraflores, hắn băng qua quảng trường, và Norwin kìa, chào anh, ở một bản trong cha Bar, mời anh ngồi, Zavalita, anh ta đang vuốt ve một ly chilcano, giày của anh đang được đánh bóng, ' anh mời hẳn một ly. Anh chưa có vẻ say, Santiago ngồi xuống, bảo người đánh giày đánh bóng giày của hắn luôn. Dạ, thưa sếp, có ngay, thưa sếp, sẽ bóng như gương, thưa sếp.   “Lâu lắm rồi chẳng ai gặp anh, Ông Xã Luận,” Norwin nói. “Anh thích trang xã luận hơn cột tin địa phương hả?” “Ít việc hơn." Hắn nhún vai, có thể bữa đó lúc ông biên tập gọi hắn vào, hắn gọi một chai Crisral lạnht hắn có muốn thế chỗ của Orgambide không, Zavalita? Hắn nghĩ: đó là lúc mình làm khốn nạn đời mình. "Tôi tới sớm, họ đưa tôi đề tài, tôi bịt mũi ráng nhịn, rồi trong hai ba tiếng là xong hết, tôi tháo xiềng, thế thôi.”   “Cho hết cả tiền trên thế gian tôi cũng không viết xã luận,” Norwin nói. “Xã luận quá xa rời tin tức, mà nghề báo là tin tức, Zavalita, tin tôi đi. Tôi sẽ chấm dứt đời mình ở Cột tin cảnh sát, thế thôi. Ả này. Carlitos chết chưa?”   “Anh ra vẫn nằm bệnh viện, nhưng họ sẽ cho anh ta ra sớm," Santiago nói. “Anh ta thể lần này bỏ rượu. “   “Có đúng là một đêm kia lúc đi ngủ anh ta thấy gián và nhện không?" Norwin hỏi.   “Anh ta lật tấm trải giường lên, hàng ngàn con nhện lông và chuột nhào tới anh ta,” Santiago nói. “Anh ta trần truồng chạy ra đường la hét.” ... Mời các bạn đón đọc Trò Chuyện Trong Quán La Catedral của tác giả Vargas Llosa Mario.
Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn - Gerald Gordon
“Hãy để ngày ấy lụi tàn”, tựa tiếng Anh Let the day perish của Gerald Gordon được ra đời năm 1952. Tác phẩm là sự lên án gay gắt cái thiên kiến màu da phi nhân tính tại Nam Phi đã đưa đẩy con người đến bên bờ vực thẳm. Gerald Gordon khơi gợi niềm thương cảm sâu sắc của mỗi người đọc dành cho những nạn nhân của chế độ Apartheid. Không đánh đập, không ngược đãi nhưng “Hãy để ngày ấy lụi tàn” là một loạt những khinh miệt rẻ rúng, sự hắt hủi xem thường của giới quý tộc đối với người da màu. Đến với một trong những thời kì đen tối nhất trong lịch sử loài người, “Hãy để ngày ấy lụi tàn” có sức chinh phục trái tim người đọc bởi hình ảnh cao đẹp, đầy tấm lòng vị tha của Steve luôn dõi theo bước anh trai Antoine, dù rằng anh đã quay lưng lại với dân tộc mình. Dưới ngòi bút của tác giả, tâm hồn và trái tim luôn hướng về cội nguồn của Steve – người em da màu dám hiên ngang ngẩng cao đầu đấu tranh, cất lên tiếng lòng của dân tộc mình – toả sáng hơn bao giờ hết… Có cay đắng, ngậm ngùi; có xót thương, day dứt, “Hãy để ngày ấy lụi tàn” đã khắc hoạ nỗi đau trong cuộc sống và bi kịch tình yêu mà hàng ngàn số phận bất hạnh đã nếm chịu trong xã hội oan nghiệt thời bấy giờ. Người phụ nữ da màu xinh đẹp nhưng khốn khổ Merry đem lòng yêu anh lính người Anh Geogio. Kết quả của cuộc hôn nhân không được ủng hộ này là 2 người con trai – Antoine, cậu bé da trắng khoẻ mạnh, và người em trai da đen của cậu bị xã hội lúc bấy giờ ruồng rẫy – Steve – lần lượt chào đời. Số phận trớ trêu đã buộc Steve không được học cùng trường với anh trai Antoine, bởi xã hội không chấp nhận em, bởi lẽ em là người da màu. Cái thiên kiến màu da độc địa kia đã chia rẽ gia đình họ, làm Merry quyết định đưa Steve theo mình rời xa Antoine. Hơn ai hết, cô biết rằng mình không thể mạo hiểm về tương lai của Antoine, đứa con da trắng đáng được hưởng những thứ tốt đẹp chứ không phải sự hắt hủi mà chính cô, chính màu da của cô đã mang lại cho cả gia đình. Con Steve ư, đứa con trai bất hạnh phải sống cuộc đời cay đắng như của cô ư? Không, cô không thể để cho Steve cản trở tương lai của Antoine. Antoine con cô. Antoine da trắng… Những đẩy đưa của cuộc sống khiến Antoine xa lánh mẹ và em, bỏ lại phía sau gốc gác đáng hổ thẹn của mình. Mỗi khi nghĩ về nó, anh luôn tìm cách chạy trốn chính con người của anh. Thế nhưng, như một trò đùa của số phận, anh gặp lại người con gái anh yêu Ren – đứa con của những người da trắng. Tình yêu với Ren ngày càng sâu đậm khiến Antoine không thôi nghĩ về nguồn gốc của mình. Định kiến da màu ngày nào quay trở lại trong anh, gặm nhấm, day dứt tâm hồn anh. Anh yêu Ren, họ sẽ lấy nhau ư? Liệu đứa con đầu lòng của anh sẽ may mắn giống bố mẹ nó, hay sẽ giống như Steve em trai anh? Bí mật đắng lòng về con người thực sự của anh sẽ vẫn mãi nằm trong bóng tối nếu không có một ngày… Antoine lỡ tay ngộ sát kẻ thù anh vì muốn che giấu Steve, che giấu thân phận của anh – trong cái đêm mà Steve đến thăm anh. Bên bờ vực thẳm, anh có hai lựa chọn, hoặc là bị kết tội trong thân phận giả dối bấy lâu nay của mình, hoặc chấp nhận em ruột Steve làm chứng cho anh; và “anh sẽ trắng án trong 1 phiên tòa hình sự, nhưng sự kết án của cuộc đời này là điều anh không thể tránh khỏi” Và Ren – người duy nhất anh tin tưởng rằng sẽ ủng hộ anh cho đến hết cuộc đời này cuối cùng cũng chỉ như bao người da trắng khác, cũng mang trong máu thịt mình sự khinh miệt rẻ rúng đối với người da màu, dẫu đó có là người cô yêu mãnh liệt, yêu tha thiết đi chăng nữa. Cuối cùng thì tình yêu chân thực vẫn không thắng nổi cái định kiến nghiệt ngã đã tồn tại từ bao đời nay. Anh, suy cho cùng, cũng chỉ là một đứa con da màu đã quay lưng lại với dân tộc. *** - Cho tôi rượu seri[1], thưa ông. Từ sau quầy bàn, Ôttô Hunđơ quan sát người đàn ông có nước da nâu sẫm vừa bước vào, y ra lệnh, giọng cộc cằn: - Bỏ mũ ra! - Ja[2], thưa ông chủ. - người khách hàng lúng túng bỏ mũ. - Tóc gã này xoăn tít mà. - Hunđơ vừa nói, vừa chỉ những vòng tóc xoăn dựng đứng, đặc trưng, nằm trên đầu người đàn ông đó. - Mày là một tên Caphia[3]. Tao không bán cho mày. Cút đi! Người đàn ông đưa mấy ngón tay vuốt đầu - Không phải thưa ông chủ, tôi là người da màu[4], không phải Caphia đâu. Thưa ông chủ, cho tôi mua một cốc seri. Ánh mắt mang vẻ van nài, người đàn ông đó đặt một đồng nửa silinh[5] lên mặt quầy. Hunđơ đảo mắt quanh quầy rượu. Y gọi to: - Giôn, lại đây! Một thổ dân cao lớn đặt chiếc cốc đang rửa xuống, bước tới chỗ chủ tiệm. Hunđơ trỏ khuôn mặt lo âu bên kia quầy rượu: - Nó là một tên Caphia hay một gã da màu? Giôn chột mắt chằm chằm nhìn người kia một lát. - Thưa ông chủ, một tên Caphia đấy. Chủ của hắn, vóc người to lớn, nét mặt cáu kỉnh, trông hãm tài, có bộ ria oai vệ nhìn trừng trừng một cách tàn nhẫn. - Tao không bán cho mày, xéo mau đi! - Hunđơ chỉ ra cửa. Người đàn ông đó đứng yên, vẻ cau có giận dữ thoáng qua trên mặt anh ta. Hunđơ cúi xuống nắm lấy chiếc roi da nặng trịch để giữa các chai rượu. Y giơ chiếc roi cao quá vai và đập đen đét trên quầy. Người đàn ông đó bước lùi lại, hai tay che mặt, miệng há hốc sợ hãi. - Xéo đi! - Hunđơ thét lên. - Này, cầm lấy tiền của mày, cút đi mau! Mắt vẫn theo dõi chiếc roi da đã lại vung lên, người đàn ông rón rén tiếng về phía trước, chộp lấy đồng tiền của mình và lui ra cửa, đến đây anh ta trừng mắt nhìn Giôn trước khi lén bước ra. Hunđơ ném lại chiếc roi da xuống dưới quầy. - Chắc hẳn chúng lại muốn giở trò! - Y càu nhàu với Giôn khi quay nhìn các khách hàng khác đang ở trong gian hàng dành cho khách không phải người Âu. Rót ra thứ rượu vang Kêp rẻ tiền, y nhăn mũi và quay đầu tránh cái hơi người ấm và ẩm của khách. Những người da màu không quan tâm đến thái độ khinh miệt của “ông chủ Hunđơ” đối với họ. Khi họ đứng đợi, háo hức, mắt thao láo và thèm khát nhìn rượu chảy ồng ộc vào các cốc thì điều quan trọng đối với họ là rượu khách sạn Đại Bàng này không có vị nhạt như pha nước lã. Khi họ đã trả tiền và ra về hết, Hunđơ mệt mỏi lui vào căn phòng của y ở phía sau quầy rượu. Y nói với mụ vợ cao kều, xương xẩu: - Bọn quỷ ấy bốc mùi hôi thối quá! ... Mời các bạn đón đọc Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn của tác giả Gerald Gordon.