Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tay Sát Thủ Mù

Giữa những sát thủ mù, người thằn lằn, ma nữ, tiểu thư thượng lưu, nghệ sĩ hiện đại, tư sản học làm sang, cựu  chiến binh, thủ lĩnh công đoàn, tài phiệt… Margaret Atwood cuốn người đọc qua một câu chuyện trải hơn một thế kỷ,  hai lục địa và vài hành tinh. Từ những mảnh tưởng chừng rời rạc, Atwood đã dệt nên một tiểu thuyết đáng kinh ngạc,  thêm một lần nữa khẳng định vị thế của bà như một trong những tiểu thuyết gia đương đại hàng đầu, người kể những  câu chuyện ly kỳ một cách xuất chúng.   Nhận định   “Nghệ thuật kể chuyện vĩ đại trên quy mô lớn… Tuyệt hay.” - The Washington Post Book World   Hãy tưởng tượng vị hãn Agha Mohammed, kẻ đã lệnh đem hạ sát hoặc chọc cho mù mắt toàn bộ dân thành Kerman, không từ một ai. Đội cận vệ hăm hở bắt tay vào việc. Chúng gom cư dân thành hàng, người lớn cắt đầu, trẻ con khoét mắt… Về sau, đàn đàn lũ lũ trẻ con mù rời khỏi đô thành. Một số, sau khi xiêu dạt nơi thảo dã, lạc đường trong sa mạc mà chết khát. Số khác tìm được tới nơi người ở… hát những bài ca về cuộc tận diệt gái trai già trẻ Kerman… - RYSZARD KAPUŚCIŃSKI   Ta bơi, biển khơi vô tận, nhìn chẳng thấy bờ. Tanit nguyệt thần không biết xót thương, ta nguyện cầu, người đền đáp. Hỡi kẻ kia chìm trong bể ái, hãy nhớ về ta. - KHẮC TRÊN BÌNH TRO THỜI CARTHAGE   Lời là lửa cháy trong lòng kính tối. - SHEILA WATSON *** TAY SÁT THỦ MÙ – BẤT CẦN VÀ SAY ĐẮM Có rất nhiều điều để nói về văn chương Margaret Atwood, một tên tuổi lớn khác của văn chương Canada hiện đại (cùng với Alice Munro). Chẳng hạn như lối viết hết sức chi tiết, nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sống động, cách dẫn dắt tài tình hay ngôn ngữ sắc lạnh và có phần giễu cợt nhưng chứa chan tình cảm. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất có lẽ là tính nữ đậm đạc trong các tác phẩm của bà. NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA BÀ GIÀ IRIS “Bà Iris Chase Griffen đã đột ngột tạ thế thứ Tư tuần trước, thọ 83 tuổi, trong ngôi nhà của mình ở cảng Ticonderoga. Bà Griffen là chị gái nữ tác giả danh tiếng người thị trấn là Laura Chase. Bên cạnh đó bà còn là con gái Đại úy Norval Chase, chắc chắn sẽ được thị trấn ghi nhớ lâu dài, và cháu nội Benjamin Chase, người sáng lập công ty Công nghiệp Chase, đã mở Nhà Máy Cúc cùng nhiều cơ sở khác. Thêm vào đó, bà là vợ ngài Richard E. Griffen quá cố, nhà công nghiệp và chính trị gia lừng danh, cũng như chị dâu bà, Winifred Griffen Prior, nhà hảo tâm Toronto vừa qua đời năm ngoái, để lại quỹ tiền thưởng hào phóng cho trường trung học thị trấn ta. Gia đình còn lại cháu gái bà là Sabrina Griffen, cô vừa về nước và nghe đồn là sắp tới thị trấn lo liệu công việc cho bà ngoại” (tr. 469) Đó là những dòng trích bản tin về cái chết của bà Iris Chase Griffen mà tờ Sứ điệp và Tinh kỳ thuộc Cảng Ticonderoga đã đưa, trong chương cận kề chương cuối cuốn tiểu thuyết Tay sát thủ mù của Margaret Atwood (An Lý dịch; Nhã Nam & NXB Hội Nhà văn ấn hành 2015). Một bản tin tóm lược, giới thiệu ngược trở lại các nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết. Laura Chase: em gái của Iris người đã qua đời ở tuổi 25, sau một tai nạn ô tô, hay có thể nói là tự lái xe lao xuống vực, để lại một bản thảo dở dang: Tay sát thủ mù. Iris, khi về già, lọm khọm, đơn độc, bị bệnh tim, luôn sống trong trạng thái bị phơi bày sự tan hoang của tuổi tác. Bà muốn náu mình, muốn quên lãng. Nhưng việc tình cờ tìm thấy bản thảo của Laura khiến quá khứ sống dậy. Từng trang bản thảo, mỗi khi giở ra, khiến bà nhớ lại, liên tưởng, ráp nối và “ngoan cường viết” như hiệu đính (những phần trong bản thảo dang dở của cô em Laura), bình luận và hoàn thiện, một cách tinh tế, hài hước, thậm chí có phần độc địa. Một thiên truyện trải dài gồm ba câu chuyện đan cài vào nhau như dệt vải kiểu ngẫu hứng, rất phong phú và bất ngờ. Từ thời thơ ấu, với những biến cố lớn lao như chuyện chiến tranh và những rung động đầu đời. Tưởng chẳng là bao, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng khi chạm vào sột soạt trang giấy, khi chữ dẫn đường cho cảm xúc, thì Iris nhớ lại, cảm xúc cứ dâng mãi lên như nước dâng lên lòng hồ, rồi tràn bờ đập lai láng, miên man. Và dần dần hé lộ những bí mật trong cuộc đời từng nhân vật. Cấu trúc “truyện lồng trong truyện” Atwood sử dụng không phải tân kỳ gì. Nhưng đây không phải là cuốn sách đặt nặng vấn đề kỹ thuật hay cấu trúc (mặc dù nó được tác giả tính toán khá thông minh). Đây có lẽ là một tuyệt tác về văn phong, cách hành văn điêu luyện chỉ có ở những bậc thầy. Cho nên, câu chuyện dẫu dằng dặc, đôi khi có cảm giác lê thê, ảm đạm như bánh xe lửa rin rít trên đường ray ngày mưa vẫn khiến người đọc bị mê hoặc, chìm đắm. Từng câu chữ được viết ra, từng trang văn được bày biện ngập tràn cảm xúc, tỉ mẩn đến từng chi tiết. Tuy nhiên, không chỉ có vậy, văn chương Atwood vừa viễn tưởng về phía tương lai vừa phảng phất chút phong vị cổ điển u hoài. Giở bất kỳ trang văn nào, người đọc cũng có thể bắt gặp những câu, đoạn văn hay và lạ, tỉa ra những đoạn kinh điển. Một đoạn tả thời tiết: “Cái nóng mùa Hè đã về đầy đủ, vánh lại trên thị trấn như súp kem. Tiết trời sốt rét, một thời; tiết trời thổ tả. Hàng cây che đường tôi đi xòe những tán ô rũ rượi, giấy ẩm nhớp dưới tay, chữ viết đâm râu tua tủa như son môi rỉ vào đường chân chim ven khuôn miệng già cỗi. Chỉ cần leo thang đã trổ một hàng ria mồ hôi”… (tr. 48) Hoặc: “Thảm dệt ra đời này sang đời khác đều nhờ trẻ con nô lệ, bởi chỉ có ngón tay trẻ con mới đủ nhỏ cho những động tác tinh vi đến thế. Nhưng những giờ dằng dặc sít sao khiến đám trẻ lên tám hay chín là thảy mù lòa, và người bán thảm dựa vào đó mà tính toán cũng như quảng bá giá trị hàng hóa. Tấm thảm này đã khiến mười đứa trẻ mù đấy, họ rao thế”. (tr. 24) Những câu văn đầy bi phẫn và hài hước, bóc trần tất cả, từ chuyện tình yêu, hôn nhân đến chính trị, nghệ thuật, tài phiệt qua giọng kể cay độc, tưởng như vô cảm của bà già “khó ưa” Iris. Không dễ gì tìm được một tác giả có giọng văn vừa ngầu đời, bất cần mà vừa lại thi vị và say đắm như vậy. Nó dường như lột tả hết tính cách nhân vật, cô gái tên Iris với một vẻ nhu mì cam chịu nhưng ẩn chứa một nội tâm nổi loạn, cá tính ngang ngạnh tiềm tàng với khát vọng tự do. Không tâm sự hay thở than, không một chút ai oán, Iris chính là hiện thân của tính nữ, mềm mại dịu dàng nhưng không bao giờ đầu hàng hay bỏ cuộc, với sự bền bỉ âm thầm và khôn khéo. Iris là kiểu phụ nữ bao nhiêu sức mạnh lặn cả vào trong để sự nhún nhường ra mặt chiến đấu. Cô kiên cường nhưng không lộ liễu, mạnh mẽ nhưng không phô phang, nữ tính nhưng không ẻo lả. Và vì bà là một nhà thơ, nên chúng ta có một cuốn sách đầy chất thơ và tính ẩn dụ, đồng thời có một cuốn sách gai góc, đầy những vết thương. Tấm vải mà Margaret dệt nên vừa mềm mại vừa thô nhám, vừa êm ái vừa đầy vết cứa. Nó chính là thế giới được chiếu rọi từ ánh sáng phát ra phía tâm hồn những người phụ nữ, đầy nhạy cảm nhưng rất can trường. Không nhiều, nhưng đủ để quàng chiếc khăn lên mình như khát vọng của chính họ, được cuộc đời ôm ấp và vỗ về đầy dịu dàng và đau đớn. Như khoác lên mình thứ mà thế giới này ưu ái dành cho họ, là tình yêu. Một tác phẩm đáng thưởng thức, như lời Margaret mượn của Sheila Watson đề từ: Lời là lửa cháy trong lòng kinh tối. *** Mười ngày sau khi chiến tranh kết thúc, Laura em tôi lái xe lao khỏi cầu. Cầu đang sửa, nó phi thẳng qua biển báo Nguy hiểm. Chiếc xe rơi ba chục mét xuống vực, bổ qua những ngọn cây lơ thơ trổ lá, rồi cháy đùng đùng lăn xuống lòng con suối nông choèn dưới đáy. Từng tảng ván cầu lả tả rơi lên trên. Em tôi không còn lại gì ngoài tro tàn than vụn. Tôi được tin từ một viên cảnh sát: xe là xe tôi, họ tra ra biển số. Anh ta tỏ ra lễ độ: hẳn nhiên anh ta nhận ra họ Richard. Anh ta nói có lẽ bánh bị kẹt vào rãnh xe điện hoặc phanh bị hỏng, nhưng anh cũng có bổn phận báo tôi biết có hai người - một luật sư về hưu và một thu ngân ở nhà băng, toàn những người đáng tin tưởng cả - tự nhận đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Họ cho biết Laura đã chủ động quành xe rất gắt, và đâm qua tường cầu thản nhiên cứ như đang bước trên hè xuống. Họ có nhận ra tay em tôi vẫn đặt trên vô lăng nhờ đôi găng trắng. Không phải tại phanh, tôi nghĩ. Nó có những lý do riêng. Không bao giờ giống lý do của ai khác. Về mặt đó nó tàn nhẫn vô cùng. “Tôi nghĩ các anh cần người nhận dạng,” tôi nói. “Tôi sẽ cố gắng xuống đó ngay khi được.” Tôi nghe giọng mình vang lên bình tĩnh, như từ xa vọng lại. Thực tế tôi hầu như không thốt được thành lời; miệng tôi tê dại, mặt sắt lại vì đau. Cảm giác như vừa đi nhổ răng. Tôi tức muốn điên vì việc Laura đã làm, và còn vì viên cảnh sát cả gan ám chỉ nó đã làm thế. Một luồng gió nóng đang cuộn quanh đầu tôi, những cọng tóc bị bốc lên ngoằn ngoèo trong gió, như mực loang trong nước. “Tôi e rằng sẽ có điều tra, thưa bà Griffen,” anh ta nói. “Tôi hiểu mà,” tôi đáp. “Nhưng đây là tai nạn thôi. Em gái tôi chưa bao giờ lái xe thành thạo cả.” Tôi hình dung khuôn mặt trái xoan của Laura, búi tóc cài trâm gọn, chiếc áo chắc hẳn nó mặc lúc ấy: áo chẽn eo cổ tròn khoét hẹp, một màu nghiêm nghị - xanh nước biển hoặc xám ánh thép, hoặc lá cây thứ màu hành lang bệnh viện. Những màu thống hối - nhìn không giống đồ tự chọn, mà như đồ ép mặc trước khi nhốt lại. Nụ cười nửa miệng nghiêm trang; đôi mày nhướng lên kinh ngạc, như là nó đang chiêm ngưỡng khung cảnh trước mắt. Găng tay trắng - cử chỉ học của Pontius Pilatus[1]. Nó đang rửa tay cho sạch khỏi tôi. Khỏi tất cả chúng tôi. Nó nghĩ gì khi chiếc xe bay bổng khỏi cầu, lơ lửng giữa hoàng hôn đầy nắng, lấp loáng như cánh chuồn trong khoảnh khắc nín hơi trước lúc bổ nhào? Nghĩ tới Alex, tới Richard, tới lòng man trá, tới cha chúng tôi và cuộc lụn bại của ông; có lẽ là tới Chúa, và cuộc thỏa thuận tay ba chết người của nó. Hay tới tập vở học trò rẻ tiền hẳn nó đã giấu vừa sáng hôm ấy, trong ngăn để tất của tôi, vì biết tôi sẽ là người tìm thấy. Khi viên cảnh sát đi rồi tôi lên lầu thay áo. Muốn tới nhà xác tôi cần găng tay, và mũ có mạng. Để che đôi mắt. Có thể sẽ có nhà báo. Tôi sẽ phải gọi tắc xi. Cũng cần báo trước cho Richard lúc này đang ở văn phòng; chắc sẽ muốn chuẩn bị trước vài lời ai điếu. Tôi vào phòng thay đồ: cần có đồ đen, và khăn tay nữa. Tôi mở ngăn kéo, nhìn thấy tập vở. Tôi tháo nắm chun chằng chịt buộc ngoài. Tôi nhận ra răng mình đang va lập cập, người mình đang lạnh từ đầu đến chân. Chắc đang bị sốc, tôi kết luận. Trong đầu tôi lúc đó nhớ lại Reenie, từ hồi chúng tôi còn nhỏ. Luôn là Reenie lo lấy bông băng, băng những vết trầy xước hay đứt tay và các thương tích lặt vặt khác: mẹ đang nghỉ, hoặc đi làm việc thiện ở đâu đó, nhưng Reenie thì luôn có mặt. Chị sẽ túm lấy chúng tôi đặt ngồi lên bàn men trắng trong bếp, cạnh chỗ bột làm bánh đang nhào hay con gà đang chặt hoặc con cá đang làm ruột, và dúi cho cục đường đen để chúng tôi ngậm miệng. Nói xem đau ở đâu nào, chị bảo. Đừng có rú lên nữa. Bình tĩnh lại rồi bảo cho tôi đau ở đâu. Nhưng có những người không thể nói được đau ở đâu. Không thể bình tĩnh lại. Thậm chí không thể ngừng rú lên. Mời các bạn đón đọc Tay Sát Thủ Mù của tác giả Margaret Atwood & An Lý (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vụ Án Mạng Thứ Sáu
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của "Vua trinh thám Việt" - nhà văn Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lí trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Vụ án mạng thứ sáu là tác phẩm tiếp theo trong Series truyện Thám tử Kỳ Phát, đánh dấu sự trở lại của Kỳ Phát sau một thời gian ở ẩn. Đón chờ chàng thám tử tài ba của chúng ta là một vụ án khá hóc búa. Hai cụ già, có thân phận và hoàn cảnh không liên quan gì đến nhau nhưng lại lần lượt bỏ mạng bởi một sợi dây thừng siết chặt quanh cổ. Thủ phạm sau khi ra tay đã để lại những lời cảnh báo đầy ngạo mạn, tự xem mình là "sứ giả" được Trời sai xuống để "hóa kiếp" cho các cụ già tới số. Bí mật ẩn sau những vụ án mạng này là gì? Thân phận thật sự của kẻ giết người là ai? Liệu Kỳ Phát có thể tìm ra thủ phạm trước khi có thêm những nạn nhân mới. *** Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Vụ Án Mạng Thứ Sáu Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Kỳ Phát giết người: Một hôm, nhận được thư của Cúc, Kỳ Phát vội vàng tới gặp tình cũ. Chồng Cúc mới qua đời, đứa con trai tên Hoàn lại bị bắt cóc, khiến cho nàng vô cùng hoang mang, đau đớn. Cùng lúc đó, một cậu bé tên Hoàn khác cũng mất tích. Kỳ lạ là trong cả hai vụ, hai gia đình đều bị trộm đột nhập nhưng chỉ mất mấy đôi đũa. Ai là kẻ chủ mưu đứng sau tất cả mọi chuyện? Kỳ Phát phải làm gì để tìm được con trai Cúc? Bí mật nào ẩn giấu đằng sau hai vụ bắt cóc và những đôi đũa bị đánh cắp? *** Qua con đường Sông Máng ngoằn ngoèo khúc khuỷu, tới gốc đa cụt, rẽ theo con đường điện thoại lối hai trăm thước thì đến đầu làng Văn Bối. Người ta có cảm tưởng như vừa bước vào một ngôi đền rộng lớn, vì ở đây, cổng làng dựng theo kiểu tam quan, và từ đó trở đi, đường lát toàn bằng đá phiến màu xanh biếc, bên lề lại có hàng thông, tiếng reo theo gió vi vu... Ngay cổng làng có hai dãy hàng quán: mấy lều bán nước, một hiệu thợ giày, một nhà chữa xe đạp, còn thì toàn hàng thịt chó. Ở đây, hình như có mấy tay chuyên môn làm thịt chó đã nổi tiếng từ xưa ở Hà Nội, vẫn thường được triệu đến khi các nhà quyền quý muốn thiết khách phương xa một bữa tiệc thịt chó cầu kỳ. Tới đây, chàng thiếu niên chợt dừng bước, ngơ ngác nhìn quanh, vì như thoáng nghe tiếng gọi: - Ông Kỳ! Ông Kỳ! Không thấy ai là người quen thuộc, chàng lại toan cất bước, ngờ rằng cặp tai mình bị huyễn hoặc theo dư âm của tư tưởng vừa thoáng qua. Nhưng không, quả có tiếng người gọi: - Ông Kỳ! Tiếp đó là tiếng người vừa hỏi, vừa cười ha hả: - Ông Kỳ Phát, ông đã chóng quên anh em thế? Kỳ Phát nhận ra người gọi mình là một người vào trạc tứ tuần, nhỏ bé, vận một bộ com-lê màu rêu rộng thùng thình, dáng chừng mua lại của một hàng quần áo cũ nào đó, đầu đội một chiếc mũ cát-két bằng da báo. Người ấy rướn cổ nhòm ra, trước một cửa hàng thịt chó, những toan chạy theo ra hẳn nếu Kỳ Phát không dừng bước. Sự thực, tuy ngờ ngợ quen quen, Kỳ Phát cũng chưa nhận ra là ai cả. - Ông Kỳ, thì ông hãy vào đây đã nào, ông hàng đây không lấy tiền chỗ ngồi của ông đâu mà sợ. Ông hàng thịt chó cũng đon đả tiếp: - Nhà cháu vừa pha ấm nước ngon lắm! Người đội mũ cát-két vênh mặt lên bảo ông chủ hàng: - Uống nước là thế nào? Hôm nay thì ông Kỳ phải ở lại đây xơi rượu đã! Và thấy Kỳ Phát có vẻ lúng túng, chưa biết trả lời ra sao thì người ấy lại phá lên cười: - Lòng người chóng thay đổi thực, ông quên tôi chứ tôi quên ông thế nào được? Vậy ông không phải họ Kỳ tên Phát, là chàng trinh thám muôn đời vẫn còn trẻ mãi trong lòng người ư? Ông quên thiên hạ, đã bao năm nay kín tiếng bặt hơi, nhưng thiên hạ quên ông sao được, người ta vẫn nhớ ông mãi, nhớ ông là người anh hùng trong bao vụ án rắc rối ly kỳ như vụ “Nhà sư thọt”, “Ba viên ngọc bích”... Người ấy nói nhiều quá, làm cho Kỳ Phát ngượng và không còn cách nào hơn là bước vào hàng: - Tôi gần đây không được khỏe lắm nên trí nhớ kém đi nhiều... Người ấy vỗ vào vai chàng, gật gù đỡ lời: - Nào tôi có dám trách gì ông đâu! Năm, sáu năm rồi còn gì nữa! Nhưng để tôi nói ông nghe... Thế này thì ông sẽ nhớ ra ngay tức khắc: tôi chính là bác Ba “thợ cạo” vẫn ngồi làm ở cửa nhà ông... gì này này, bạn ông ấy mà... Kỳ Phát reo lên mừng rỡ: - Bác Ba Hùy! Người đội mũ cát-két cũng reo lên nhắc lại: - Ba Hùy, đúng rồi, chắc ông không bao giờ lại ngờ “tha hương ngộ cố nhân” đấy nhỉ? Kỳ Phát không ngờ, vì chàng không bao giờ tưởng tới lại có thể gặp ở chỗ hẻo lánh này người thợ cạo mà chàng vẫn gọi đùa là Ba Hùy, người mà bạn chàng, hoặc chàng, mỗi khi đi vắng lại khóa cửa dặn: - Này, bác Ba Hùy, hễ có ai gọi hỏi gì thì bác nói giùm rằng chúng tôi đi hai hôm nữa mới về nhé! Bác Ba Hùy, vì hàng ngày vẫn bắc chiếc ghế vải ngồi cắt tóc cho khách ngay ngoài cửa nhà này, nên đã thành một “nhân viên thường trực” không lương cho hai chàng thanh niên ưa hoạt động. Kỳ Phát ngắm nghía Ba Hùy lại một lần nữa, rồi cười bảo: - Trông bác sang thế này, khác hẳn trước, thì tôi nhận ra sao được! Ba Hùy vỗ vào túi áo rồi đặt chiếc mũ cát-két xuống, trả lời: - Nghĩa là cũng “hình thức” cả thôi, ông ạ. Được cái tản cư thế này com-lê com liếc hay quần nâu áo vải, ăn vận thế nào cũng được, láo nháo chẳng ai để ý đến ai cả. Quay lại ngắm nghía Kỳ Phát, giây lâu, Ba Hùy tiếp: - Trông ông thì vẫn thế, chẳng thay đổi chút nào cả. Vẫn cặp mắt sáng nhanh, vẫn cái cười nửa miệng, còn cách ăn vận đối với ông thì chẳng kể được, ngay thời bình cũng vậy, ông luôn luôn thay hình đổi dạng đố ai nhận ra được nữa là... Ngừng lại một phút để suy nghĩ bác lại tiếp: - Đã hai lần tôi gặp ông đi qua đây, song không dám gọi vì thấy ông đi vội, và lại tôi cũng ngại sợ ông bận việc gì. Kỳ Phát mỉm cười, lắc đầu bảo: - Tôi có bận gì đâu, ít lâu nay chẳng làm gì, chỉ nằm một chỗ xem sách nên sinh ra lười, không giống như ngày xưa luôn luôn ưa hoạt động... Ba Hùy nhìn Kỳ Phát chăm chú giây lát, bỗng thở dài nói: - Nếu thế thì tiếc lắm nhỉ, tôi cứ tưởng rằng óc trinh thám của ông vẫn còn ưa tìm tòi hoạt động nên muốn hiến ông một vụ... Bỗng Ba Hùy dừng bặt, bước sấn lại bên Kỳ Phát, nắm chặt lấy hai vai chàng, nhìn sát lại gần thật kỹ, rồi ha hả cười lớn: - Có thể chứ, Kỳ Phát bao giờ cũng là Kỳ Phát của thời xưa. Tôi thấy mắt ông sáng quắc hẳn lên khi thoáng nghe có chuyện ly kỳ bí mật, tôi biết chắc rằng ngọn lửa thiêng trong lòng chàng thanh niên trinh thám số một của nước Việt Nam vẫn cháy bất diệt suốt ngàn đời... Kỳ Phát mỉm cười, kéo Ba Hùy ngồi xuống rồi bảo: - Điều này tôi nhận xét thì chắc không sai được, đó là ông Ba Hùy của tôi dạo này nói nhiều lắm, thao thao bất tuyệt, tôi không tài nào theo kịp được. Quay lại phía ông hàng thịt chó, Kỳ Phát vui vẻ tiếp: - Mà rượu của ông hàng chắc hẳn phải ngon lắm, nên ông bạn tôi đây càng uống càng ngọt giọng nói nhiều... Ba Hùy gật gù cười khi, ngắt lời Kỳ Phát: - Chết chửa, mải chuyện lôi thôi quên ngay mất điều cốt tử. Rượu hàng đây là của lò ngon nhất Đồng Văn, uống ngọt giọng mà say phải biết. Ông hàng cho thêm đũa chén ra đây, ông Kỳ phải uống với tôi một bữa thực là say túy lúy! Kỳ Phát lắc đầu từ chối: - Thôi, ông để cho khi khác. Ông cũng chẳng còn lạ gì, tôi có uống được rượu đâu, góc chén hạt mít thì đã gọi là say túy lúy, mặt bấy giờ sẽ hệt như Quan Công hiển thánh... Ba Hùy vẫn không lưu ý đến lời Kỳ Phát, vẫn ung dung lấy giấy bản lau đũa chén cho chàng rồi rót rượu: - Điều ấy không can hệ gì mấy, ông Kỳ ạ! Tôi chỉ muốn biết: ông thích tôi kể cho ông nghe vụ án ly kỳ hiện đương làm cho nhà chuyên trách vùng này rối như tơ vò không? Kỳ Phát gật đầu: - Điều ấy thì đã hẳn rồi, ông còn hỏi tôi thì khí thừa một chút! Ba Hùy gật gù đắc ý: - Vậy thì ông Kỳ ạ, ông không nên từ chối gì hết, hãy uống rượu và nhắm món rựa mận đi đã, ông sẽ thấy rằng ông hàng đây quả đã xứng danh là vô địch trong khoa nấu nướng thịt cầy... Kỳ Phát lắc đầu: - Ngồi chơi với ông thôi, chứ uống rượu thì chịu, tôi có uống được đâu... Ba Hùy ngắt lời: - Không nói lôi thôi gì hết, tôi chỉ biết có một điều kiện: ông có thích nghe chuyện thì đánh chén thịt chó với tôi, bằng không thì tôi nhất định nửa lời cũng không nói nữa... Kỳ Phát biết rằng Ba Hùy đã nắm được nhược điểm của mình, đành đấu dịu: - Vâng, thì tôi xin uống rượu thôi, chứ còn thịt chó thì chịu... - Sao lại chịu? “Sống ở trên đời chén miếng dồi chó” mà lại! - Không, tôi không biết ăn thịt chó thực! - Lại không biết! Cái gì mà đầu tiên người ta chẳng không biết, vậy rồi mà cũng biết tất. Ông Kỳ Phát ạ, ông không nên thoái thác, ông xơi một hớp rượu, rồi nhắm một miếng chả chó xem nó có “thú lý tình” không? - Tôi không biết ăn thực! - Tôi đã bảo không sao mà lại, rồi biết tất. Vả lại, ông chớ có quên, tôi chỉ có một điều kiện, ông phải đánh chén thịt chó với tôi, nếu không... Ngừng lại một phút, Ba Hùy nheo cặp mắt tinh nghịch nhìn Kỳ Phát: - Mà vụ án ly kỳ đặc biệt ông ạ, một án mạng, hai ba án mạng, rồi không chừng năm sáu án mạng nữa tiếp theo... Kỳ Phát gợi chuyện: - Ông nói đúng đấy, đã có hai ba thì sẽ tiếp theo năm sáu là thường, nhưng phải biết rõ người bị giết đầu tiên đã. Ông có thấy gì đáng để ý... Ba Hùy cười ha hả, gắp một miếng chả chó đặt vào bát Kỳ Phát rồi tủm tỉm cười: - Tôi tuy vô phép ông mà uống trước mất non một cút rượu rồi, nhưng tôi vẫn chưa đến nỗi say đâu, ông ạ, và không say, lẽ tất nhiên tôi không dại gì mà ông chưa đánh chén với tôi, tôi đã khờ khạo đi nói chuyện cho ông nghe về vụ án, dù là một đoạn mở đầu! Nào, xin rước ông, ta hãy đưa cay đi đã, rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau. Kỳ Phát biết Ba Hùy đã nhất định đưa mình vào con đường cụt, khó thoát lối nào được nữa. Chàng gắp miếng chả chó lên rồi lại ngần ngại đặt xuống bát. Ba Hùy khuyến khích: - Ông cứ xơi thử mà xem, ngọt hơn thịt bò mà đậm hơn thịt gà, ông ạ, ăn một miếng thịt chó làm đúng cách thì dư vị còn ngon đến ba ngày sau không ít... Người ta vẫn nói, sức mạnh của tuyên truyền lợi hại thực, có nói thành không, không thành có là thường. Kể ra thì Ba Hùy tuyên truyền cho cái sự ngon lành của món ăn hoàn toàn Việt Nam ấy cũng đã mạnh, nhưng Kỳ Phát lúc nhắm miếng thịt chó đầu tiên trong đời vẫn thấy rùng mình ghê rợn, và chàng vội vàng tợp ngay một hớp rượu đưa cay... Ba Hùy ha hả cười lớn: - Khá lắm, có thể chứ, biết mùi rồi, chỉ sợ từ nay ông lại chẳng ngày nào cũng lại đây đánh chén thịt chó tì tì! ... Mời các bạn đón đọc Vụ Án Mạng Thứ Sáu của tác giả Phạm Cao Củng.
Đứa Con Xa Lạ
Đứa con xa lạ là tiểu thuyết của nhà văn Anh - Rachel Abbott. Tác phẩm vừa được Nguyễn Xuân Hồng dịch, Nhà xuất bản Văn học và Văn Việt Books phát hành. Câu chuyện mở đầu bằng một vụ tai nạn khó hiểu trong một đêm không trăng. Caroline Joseph lái xe đưa con gái sáu tuổi Natasha về nhà sau bữa tối cùng họ hàng thì nhận một cuộc điện thoại bí ẩn. Sau cuộc điện thoại, chiếc xe của cô bị trượt trên đường và lật ngửa. Caroline qua đời còn con gái cô - Natasha - biến mất không dấu vết. Sáu năm sau, Natasha đột ngột xuất hiện trong nhà như một bóng ma bí ẩn. Bố cô là David lúc này đã đi bước nữa với Emma và có cậu con trai nhỏ tên Olive. Natasha đối xử với bố và dì như những kẻ thù với sự lạnh lùng, tàn nhẫn mà khó ai ngờ một đứa trẻ 12 tuổi có thể làm được. Cô bé cũng không hé một lời về sáu năm qua của mình và vì sao cô có thể quay trở về. Cuộc điều tra của cảnh sát dần hé lộ thân phận của Natasha. Ngoài sự căm hận với bố, Natasha còn phải đứng trước lựa chọn hoặc làm theo hoặc bị những kẻ điều hành giết. Trong thời gian đó, chính Natasha bị cảm hóa bởi sự kết nối lạ lùng với người mẹ kế và đứa em cùng cha khác mẹ.Trong khi David cố tìm cách để kết nối lại với con gái, vợ anh là Emma cảm thấy bất an trước sự xuất hiện lạ lùng của Natasha. Khi Emma ra ngoài để tránh sự ngột ngạt trong gia đình, con trai cô Olive đã bị Natasha giao cho những kẻ bí ẩn. Tác phẩm cũng dần hé lộ người liên quan tới vụ tai nạn của Caroline Joseph năm nào. Sâu xa của vụ việc là những mối quan hệ làm ăn bí hiểm, những lựa chọn, đấu tranh để giữ gìn hạnh phúc... *** Tác giả Rachel Abbott sinh ra và lớn lên ở Manchester, Anh. Bà được đào tạo làm chuyên gia phân tích hệ thống nhưng lại mở công ty truyền thông đầu thập niên 1980. Sau khi bán công ty năm 2000, bà chuyển tới vùng Le Marche, Italy và bắt đầu viết lách. Rachel từng xuất bản các tiểu thuyết Only the Innocent (Chỉ là  kẻ vô tội), The Back Road (Lối sau) và Sleep Tight (Say ngủ). *** Thêm mười phút nữa, và cô sẽ an toàn ở nhà. Caroline Joseph rùng mình khoan khoái vì chuyến đi dài đằng đẵng sắp kết thúc. Chưa bao giờ cô thích việc lái xe ban đêm và cô luôn cảm thấy hơi mất kiểm soát. Từng cặp đèn pha tiến đến gần dường như đều hút cô về phía chúng, thứ ánh sáng màu trắng của chúng soi tỏ không gian trong xe, trong khi cô nắm chặt vô lăng, cố hướng chiếc xe thẳng về phía trước. Nhưng giờ thì không còn lâu nữa. Cô mong được đem Natasha đi tắm nước ấm, uống một cốc sô cô la nóng, và ủ con bé trên giường. Sau đó cô có thể dành nốt thời gian còn lại của buổi tối cho David. Anh đang gặp chuyện gì đó bực bội, và Caroline nghĩ rằng nếu họ có thể ngồi trước đống lửa cùng với một ly rượu vang khi Natasha đã say ngủ thì cô có thể thuyết phục được anh nói ra mọi chuyện. Chắc chắn phải là chuyện gì đó liên quan đến công việc. Cô liếc nhìn cô con gái quý báu của mình qua gương chiếu hậu. Tasha đã sáu tuổi - hay sáu ba phần tư, như cách cô vẫn thích đem khoe - mặc dù thân hình mảnh khảnh của con bé khiến nó trông nhỏ tuổi hơn. Mái tóc vàng nhạt của nó buông thành những lọn quăn mềm mại trên vai, và những đường nét thanh tú của nó thỉnh thoảng lại sáng bừng lên trong thứ ánh sáng vàng khi họ đi qua những ngọn đèn đường. Mắt con bé nhắm chặt, và Caroline mỉm cười trước vẻ bình an của con bé. Hôm nay Tasha thể hiện tính cách dịu dàng như thường lệ, chơi rất vui vẻ với anh chị em họ trong khi đám người lớn bận rộn làm theo lệnh bố của Caroline. Ông cụ đã đưa ra một “chỉ dụ” - lần này tuyên bố rằng Caroline, cùng với các anh chị em và gia đình của họ, phải đến dự một bữa tối trước dịp Giáng sinh. Bình thường, tất cả mọi người đều vâng lời. Tất cả mọi người có nghĩa là trừ David ra. Đường rẽ vào những con hẻm dẫn tới nhà họ vùn vụt tiến lại gần, Caroline liếc nhìn Natasha lần chót. Khi họ rời khỏi đường chính và xa dần những khung cửa sổ của các cửa hiệu đèn đuốc sáng choang, quầng sáng màu hổ phách của những ngọn đèn đường cao vút, khoang sau xe chìm vào bóng tối. Con bé ngủ suốt cả chuyến đi, nhưng lúc này bắt đầu cựa quậy. “Con ổn chứ, Tasha?” Caroline hỏi. Đứa bé chỉ làu bàu đáp lại, vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn để trả lời trong lúc đưa mu bàn tay dụi dụi mắt. Caroline mỉm cười. Cô đạp nhẹ phanh và chuyển số để rẽ. Tất cả những gì cô phải làm là chạy nốt vài dặm đường cuối cùng của chuyến đi này, dọc theo những ngõ phố hẹp có hàng giậu hai bên, chìm sâu trong bóng tối, và rồi cô có thể nghỉ ngơi. Cô chợt thấy lo lắng về David. Anh biết cô rất ghét lái xe buổi tối, và lẽ ra anh có thể cố gắng - vì Natasha, nếu không phải vì cô. Hôm nay cả hai người đều nhớ anh. Có một chuyển động đột ngột bên trái thu hút ánh mắt của Caroline, và cô xoay đầu về phía đó, tim cô đập nhanh trong lồng ngực. Một con cú xà thấp xuống hàng giậu, phần ngực trắng xóa của nó bắt trọn quầng ánh sáng từ đèn pha của cô, sáng rỡ trên nền trời đen. Cô thở phào. Trời không có trăng, và mặt đường đen kịt trên các ngõ phố dẫn tới ngôi nhà của họ lấp loáng những hạt sương. Mọi thứ xung quanh cô dường như yên tĩnh hoàn toàn, như thể cả thế giới vừa dừng lại, và giờ nếu con cú bay đi thì cô là vật duy nhất vẫn còn chuyển động. Caroline biết, nếu cô mở cửa sổ, sẽ chẳng có tiếng động gì ngoài tiếng động cơ xe ầm ì khe khẽ. Phía trước hay đằng sau đều chẳng có ánh sáng, và trong phút chốc, nỗi sợ bóng tối rất tự nhiên của cô nhăm nhe ụp xuống. Cô rướn người về phía trước, bật radio với âm lượng nhỏ, cảm thấy bình tâm nhờ sự vui tươi của những ca khúc dịp lễ. Chẳng mấy cô sẽ phát ngán với những âm thanh này nhưng ngay lúc này, sắc thái vui vẻ thường lệ của chúng khiến cô thấy thư thái. Cô mỉm cười khi điện thoại trên ghế ngồi cạnh mình bắt đầu reo. Chắc chắn rằng đó là David muốn hỏi khi nào cô về, cô chỉ hơi liếc nhìn màn hình, nhưng đúng khoảnh khắc cuối cùng cô nhận ra, cuộc gọi đến từ một số đã được ẩn. Cô chạm vào màn hình và hủy cuộc gọi. Dù là ai thì cũng cứ đợi tới lúc cô về đến nhà đã. Cô đánh lái bằng một tay để cua nhanh trong lúc đặt điện thoại trở lại ghế ngồi, khiến chiếc xe hơi trượt đi trên mặt đường lạnh lẽo. Cô cảm thấy hơi hoảng. Nhưng chiếc xe vẫn vững, và cô lại thở bình thường. Caroline ngoặt thật cẩn thận ở những chỗ tiếp theo, nhưng đôi vai căng cứng của cô trùng xuống khi cô chạy đến một đoạn đường thẳng có bờ giậu cao che chắn, cùng những đường rãnh sâu dọc hai bên. Caroline rướn sát vào kính chắn gió, đăm đăm nhìn sâu vào màn đêm. Đèn pha xe cô đang rọi vào một khoảng tối thẫm hơn - có gì đó trong ngõ phố phía trước. Cô hơi đạp phanh và ve một số, chạy chậm lại vẻ phòng xa. Cô chuyển tiếp về số hai để tiến gần vật cản, hãi hùng nhận ra đó là một chiếc xe hơi, xoay nghiêng chắn ngang đường, hai bánh trước của nó vùi xuống rãnh bên mé phải đường. Cô nghĩ mình nhìn thấy một bóng đen trong xe, như thể có ai đó đổ gục trên vô lăng. Khi Caroline chầm chậm tiến về phía chiếc xe, tim cô bỗng đập rộn, cô nhấn nút để hạ kính cửa sổ. Trông như có người cần được giúp đỡ. Điện thoại lại reo vang. Ý nghĩ đầu tiên của cô là mặc kệ, nhưng nếu đã xảy ra một vụ tai nạn thì cô có thể cần gọi thêm hỗ trợ. Cô vớ lấy điện thoại trên ghế và trả lời cuộc gọi, nhận ra tay mình đang run bắn. “A lô?” “Caroline, em về nhà chưa?” Đó là một giọng nói cô mơ hồ nhận ra, nhưng không sao xác định rõ được. Mắt cô không rời vật cản phía trước trong lúc cô dừng lại và mở dây an toàn. “Vẫn chưa. Nhưng sao? Ai đấy?” “Nghe anh này. Cho dù em làm gì, em cũng đừng dừng xe lại. Cho dù có chuyện gì xảy ra, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đừng dừng xe lại.” Người đàn ông nói nhỏ và nhanh. “Về nhà. Về thẳng nhà. Em nghe anh nói không?” Vẻ hoảng hốt của giọng nói trong điện thoại tương ứng với tâm trạng lo lắng dần tăng của chính Caroline. Cô ngập ngừng. “Nhưng có một chiếc xe nằm ngang đường, và trông như có người bên trong. Có thể họ bị bệnh, hoặc họ vừa gặp tai nạn. Tại sao tôi không thể dừng lại? Có chuyện gì vậy?” “Cứ làm như lời anh đang bảo, Caroline. Đừng ra khỏi xe. Đạp chân xuống ngay và chạy qua chiếc xe đó, đừng có dừng lại vì bất kỳ ai hay bất kỳ cái gì. Cứ làm đi.” Giọng nói khẩn trương, gấp gáp. Caroline cảm thấy nỗi sợ dâng lên trong cổ họng. Chuyện này là sao? Cô liếc nhìn gương chiếu hậu, và quyết định. Cô ném điện thoại di động lên ghế cạnh mình, nắm lấy vô lăng bằng cả hai tay. Chiếc xe nằm bẹp kia dài và thấp, choán hầu hết bề rộng mặt đường với hai bánh sau hơi hẫng khỏi mặt đất vì ca-pô chếch xuống rãnh. Không có nhiều chỗ để vòng qua phần thùng sau của chiếc xe, nhưng cô có thể làm được. Cô phải làm được. Cô đạp mạnh chân xuống sàn. Lốp xe trượt trên mặt đường lạnh lẽo, nhưng vẫn bám được, và cô đánh xe sang trái. Bánh xe bên trái cô leo lên bờ đường bên dưới hàng giậu và chiếc xe lượn một góc khá nguy hiểm. Cô xoay vô lăng trở lại bên phải và chiếc xe của cô nện mạnh xuống, hướng thẳng mé bên kia đường. Caroline lại đánh lái sang trái để chỉnh thẳng hướng, động cơ rồ lên khi cô tăng tốc. Đột nhiên cô cảm thấy mình bắt đầu trượt đi. Cô cuống cuồng xoáy vô lăng hết hướng này lại hướng khác, nhưng cho dù cô làm gì, chiếc xe vẫn chẳng nghe lời. Băng phủ mặt đường, và cô đang đi quá nhanh. Cô nhớ đã được dặn cách lái xe ở chế độ trượt, nhưng cách đó cũng không ổn. Trong đầu cô vụt lóe lến một cái tên. Cô đột nhiên nhận ra ai vừa gọi cho mình. Nhưng tại sao lại là anh ta? Cô gọi to tên anh ta, nhưng cô biết rằng lúc này anh ta chẳng thể làm được gì. Mắt cô bị hút về phía gương, về phía khoang sau tối om của chiếc xe, nơi tất cả những gì cô nhìn thấy là màu trắng trong đôi mắt mở to, hãi hùng của Natasha. Cô đạp mạnh chân phanh, nhưng chẳng ăn thua. Chiếc xe trượt nghiêng, va vào bờ đường lần nữa, chồm lên một góc và bật tung, lăn lông lốc, va mạnh qua hàng giậu và đâm sầm xuống rãnh, cơ thể gãy rời của Caroline văng đi rồi nằm yên nửa trong nửa ngoài ô cửa sổ để ngỏ. Viên cảnh sát lái xe dọc theo những ngõ phố hẹp, tận hưởng khoảnh khắc bình yên hiếm hoi trong thời khắc sắp đến Giáng sinh. Một người giấu tên gọi đến báo có một chiếc xe hơi văng khỏi đường ở đâu đó quanh đây, nhưng theo nhân viên điều phối, người gọi đến không cung cấp thêm được chi tiết nào nữa. Viên cảnh sát hy vọng vụ này chỉ là một gã đần nào đó phá xe vì bị cạn xăng hoặc trục trặc. Anh đã phải xử lý quá đủ đám say xỉn vào cái mùa tiệc tùng này rồi, và một chiếc xe xinh xắn bị bỏ lại sẽ lại khiến anh phải rời khỏi đường một lúc - thậm chí có khi đến hết ca trực luôn. Dần dần anh nhận ra rằng không thể tìm được sự lạc quan ấy của mình. Những ánh đèn khiến anh phải tin. Không ai vứt bỏ xe của mình mà đèn vẫn sáng cả, và đằng trước anh còn nhìn thấy một ngọn đèn trắng đứng yên, chiếu sáng quắc, soi tỏ những hàng cây trơ trụi bên đường. Lúc anh lại gần hơn, quầng ánh sáng chói chang từ cặp đèn pha khiến anh lóa mắt. Anh dùng mu bàn tay che bớt mắt, hết sức thận trọng tiến lại gần phòng trường hợp có người nằm trên đường mà anh không thể nhìn thấy. Anh tiến đến cách chiếc xe khoảng hai mươi mét và tắt động cơ. Ngay lập tức anh thấy rằng tình hình rất tệ. Chiếc xe bị lật ngửa, phần trước ghếch lên một bên bờ hẻm. Nhưng chính tiếng động mới khiến anh rùng mình sởn tóc gáy. Xen lẫn với tiếng nổ đều đều êm ả của động cơ xe đắt tiền vang lên trong không gian thôn dã tĩnh mịch xung quanh, chính là nhạc nền rất huyền ảo không lẫn đi đâu được của bài White Christmas của Bing Crosby. Tiếng nhạc thư thái tuôn vào không khí buổi đêm lạnh lẽo qua một ô cửa để ngỏ, nơi đầu của một người phụ nữ thò ra ở một góc rất khó tin khiến viên cảnh sát không cần đến gần chiếc xe cũng biết cô ấy đã chết. Anh chầm chậm tiến lại phía chiếc xe dựng ngược để tắt động cơ, và cả tiếng nhạc. Anh đã có thể hít thở trở lại. Giờ thì đây chỉ là một vụ tai nạn giao thông trên đường với duy nhất một chiếc xe gặp nạn, mặc dù rất thảm khốc. Anh với lấy bộ đàm. Trong lúc đợi nhân viên cấp cứu đến, biết rõ rằng họ chẳng thể làm gì hơn là xác nhận những gì anh đã biết, viên cảnh sát tiến hành chặn đường, gọi nhóm chuyên gia đến điều tra vụ tai nạn và đề nghị kiểm tra trên hệ thống máy tính cảnh sát toàn quốc về chiếc xe để xác định chủ sở hữu. Anh vớ lấy một chiếc đèn pin cực mạnh trong ngăn hành lý của mình và rọi quanh ngõ phố, rọi xuống hào, dọc theo bờ đường, cố tìm kiếm xem có ai từng tìm cách bò ra khỏi chiếc xe, có thể bị thương, hoặc thứ gì đó trên đường có thể là nguyên nhân khiến chiếc xe bị mất lái không. Chẳng có gì cả. Con đường trống trơn. Viên cảnh sát thấy nhẹ người khi không khí yên ắng bị phá vỡ bởi những tiếng còi rúc càng lúc càng gần, và chỉ vài phút sau xe cứu thương vụt đến, ánh đèn của xe làm hiện ra một người đi xe đạp một mình đang ngập ngừng tiến lại hiện trường. Người đàn ông nhảy xuống xe và đứng cách một quãng. Viên cảnh sát tiến lại phía anh ta. “Xin lỗi, thưa ông - ông cần lùi lại.” “Vâng, thưa ngài sĩ quan. Tôi chỉ đang trên đường về nhà thôi.” “Tôi hiểu, nhưng tôi không thể để ông đi qua đoạn đường này vào lúc này, thưa ông. Tôi tin chắc ông thông cảm chuyện đó.” “Có người bị thương à? Trông như xe của Caroline Joseph. Tôi nói có đúng không?” Người đi xe đạp hỏi. “Lúc này tôi chưa khẳng định được, thưa ông.” Người đàn ông ngó qua viên cảnh sát để nhìn chiếc xe rõ hơn. “Tôi nhìn thấy kia là cô ấy thì phải? Ôi lạy Chúa. Cô ấy chết rồi, phải không?” Anh ta nhìn viên cảnh sát, miệng há ra vì sốc. “David tội nghiệp. Đó là chồng cô ấy. Anh ấy sẽ suy sụp mất.” Viên cảnh sát không nói gì. Tất cả những gì anh có thể làm là giữ người đàn ông cách hiện trường vụ tai nạn càng xa càng tốt cho tới khi lực lượng hỗ trợ đến, nhưng ngay cả từ khoảng cách này, vẫn nhìn thấy rất rõ phần đầu của người phụ nữ. “Không có Natasha đi cùng cô ấy sao?” Người đi xe đạp hỏi, giọng anh ta run lên. “Cô gái bé bỏng của cô ấy? Đứa bé đáng yêu nhất.” Viên cảnh sát lắc đầu, có phần nhẹ người. “Không, thưa ông. Ghế cho trẻ con có ở phía sau nhưng thật may là trống không. Không có ai khác ở trong xe.” Mời các bạn đón đọc Đứa Con Xa Lạ của tác giả Rachel Abbott.
Say Ngủ
Bạn sẽ chấp nhận đi bao xa để níu giữ những người mình yêu thương? Khi Olivia Brookes gọi điện tới đồn cảnh sát, trình báo sự việc chồng con mình mất tích, trong cô đồng thời có một niềm tin mãnh liệt rằng cô sẽ không bao giờ gặp lại họ lần nữa. Tại sao ư? Bởi đây không phải bi kịch duy nhất từng xảy đến trong đời cô. Hai năm sau đó, thanh tra thám tử Tom Doughlas lại được cử đến điều tra gia đình ấy, nhưng lần này, chính Olivia mới là người biến mất. Tất cả mọi bằng chứng đều cho thấy cô đã ở đây, trong chính ngôi nhà này vào buổi sáng hôm ấy. Thế nhưng ô tô của cô vẫn ở trong gara, bóp tiền vẫn nguyên trong túi xách đặt trên mặt bàn bếp. Cảnh sát muốn phát lệnh tìm kiếm và cầu cứu sự giúp đỡ, song chẳng hiểu vì sao, từng bức ảnh trong album gia đình, điện thoại lẫn máy tính cá nhân đều đã bị xóa bỏ. *** Tác giả Rachel Abbott sinh ra và lớn lên ở Manchester, Anh. Bà được đào tạo làm chuyên gia phân tích hệ thống nhưng lại mở công ty truyền thông đầu thập niên 1980. Sau khi bán công ty năm 2000, bà chuyển tới vùng Le Marche, Italy và bắt đầu viết lách. Rachel từng xuất bản các tiểu thuyết Only the Innocent (Chỉ là  kẻ vô tội), The Back Road (Lối sau) và Sleep Tight (Say ngủ). *** Cô gái mỉm cười lúc rời khỏi quán rượu đông nghẹt, ồn ào, những tiếng cười vẫn văng vẳng bên tai khi cô chật vật mở cánh cửa nặng trịch, để một luồng khí lạnh buốt ùa vào. Cô quay người và hét lên, “Đêm!” với bất kỳ ai có thể đang dõi theo mình, một vài cánh tay giơ lên chào tạm biệt, nhưng hầu hết còn đang bận giữ những ly bia, hoặc khua múa loạn xạ để nhấn mạnh một phần nào đó trong câu chuyện thú vị mới nhất đang được chia sẻ với bất kỳ ai sẵn sàng lắng nghe. Cánh cửa đóng sầm lại sau lưng cô, chặn hết thứ ánh sáng màu vàng ấm áp cùng những âm thanh hân hoan của đám người trẻ tuổi đang vui thú. Đêm đen bủa xuống xung quanh cô và sự im lặng đột ngột ập tới như một cú đòn hiện hữu. Trong khoảnh khắc, cô đứng im bất động. Rùng mình trước cái rét đầu đông, cô siết chặt khăn quàng xung quanh cổ và khoanh hai cánh tay, co ro ôm lấy mình tìm hơi ấm. Cô thật sự sẽ phải tìm lấy một chiếc áo choàng mình thấy đủ ưa thích để mặc trong những dịp ra ngoài buổi tối. Mỉm cười trước ý nghĩ phù phiếm đó, cô tự nhủ chỉ mất có mười lăm phút đi bộ để về đến căn hộ của họ, cho nên nếu rảo bước thì chẳng mấy chốc cô sẽ được ấm áp. Không gian im lặng tạm thời bị gián đoạn khi cánh cửa quán rượu bật mở một lần nữa, ánh đèn từ phía trong hắt quầng sáng màu hổ phách ngang qua vỉa hè ẩm ướt. Cô nghĩ mình đã nghe thấy tiếng ai đó hét gọi tên cô, át cả tiếng nhạc ầm ĩ phát ra từ quán rượu ấm áp, nhưng cánh cửa đã đóng sập, tất cả lại chìm vào im lặng. Tại khu vực này của Manchester, vẫn còn vài người đang vội vã rảo chân, mất hút theo những con đường nhánh dẫn về nhà họ. Thời tiết khốn khổ và cái lạnh tê tái đầu mùa có vẻ đã giữ chân mọi người trong nhà tối nay, ai có thể oán trách họ được chứ? Phía trước cô vài thước, một cặp đôi đang dừng lại hôn nhau, cô gái choàng cánh tay quanh cổ chàng trai, đứng kiễng mũi chân lên, áp toàn bộ cơ thể mình vào người yêu, đêm tối dường như ấm áp hơn. Cô lại mỉm cười khi nhìn họ, nghĩ rằng khi yêu cảm giác thật tuyệt vời làm sao. Cô và bạn trai chỉ mới dọn về ở với nhau gần đây, cô chưa bao giờ hạnh phúc được như vậy. Cô đi đến chỗ giao với con đường chính, đợi ở chỗ băng qua đường. Không có nhiều xe cộ, nhưng đây là một trong những trục đường chính ra vào Manchester nên nó chẳng bao giờ hoàn toàn yên ắng cả. Cô hối hả băng qua khi đường phố quang hẳn, tiến về phía những con phố yên ắng hơn ở mé bên kia, rời xa dần những khu nhà cùng căn hộ hiện đại. Cô đã mừng run lên khi họ tìm được một căn hộ trong một ngôi nhà kiểu Victoria thời xưa - toàn bộ tầng trệt là của họ, mặc dù vẫn còn hơi nhếch nhác, song họ đang thu vén dần. Tuyệt vời nhất là nó lại nằm trên một trục đường có hàng cây xanh rất thanh bình, nhờ thế mà từng ngôi nhà đều trông có vẻ rất riêng tư. Cô rẽ vào con đường đầu tiên. Khu công viên nhỏ bên tay phải thường rất đông trẻ con chơi đùa, nhưng lại vắng tanh vào giờ này buổi tối, chuyển động duy nhất là từ một chiếc xích đu lẻ loi đang đung đưa nhè nhẹ, không hề phát ra tiếng. Đôi giày đế bằng của cô gõ nhè nhẹ trên vỉa hè, cô có cảm giác rất lạ như thể mình đang bị tách ra khỏi phần còn lại của thế giới. Cô liếc về phía ô cửa sổ của những ngôi nhà mình đi qua, nhưng hầu hết trong số chúng đều đã bị những bờ giậu cao chắn khỏi tầm nhìn, còn những chỗ cô có thể thấy được đều tối đen, chỉ có hình phản chiếu vô hồn của những ngọn đèn đường làm cho những căn phòng phía sau dường như vắng vẻ một cách kỳ quái. Cái cảm giác rằng mình không hề một mình len đến trong cô. Không phải một khoảnh khắc riêng rẽ - tiếng lẹt xẹt của một chiếc giày, thấp thoáng một bóng đen - khiến cô có cảm giác ấy. Mà là một thứ gì đấy hoàn toàn khác. Là cảm giác đôi mắt ai đó đang xoáy vào lưng mình. Cô chỉ biết như vậy. Người cô cứng đờ, mọi đầu dây thần kinh đều râm ran. Cô có nên vùng chạy không? Hay như thế sẽ là tín hiệu cho kẻ kia đuổi theo, tóm lấy cô? Cô có nên rẽ vào lối chạy xe của nhà ai đó? Nhưng gã có thể bắt kịp cô trước khi cô đến được cửa nhà. Hay sẽ tốt hơn nếu gã biết cô đã nhận ra gã? Nếu cô quay lại nhìn, liệu có thôi thúc hắn phản ứng lại hay không? Cô không biết nữa. Nhưng gã ở đó. Chỉ là cô không biết gã đang ở gần cô đến mức nào. Không hề suy nghĩ, cô xoay đầu thật nhanh. Đường phố vắng tanh. Gã không ở phía sau cô ư? Nhưng gã đang ở đâu đó, cô chắc chắn là vậy. Cô liếc nhìn qua bên kia công viên và nghĩ đến chiếc xích đu đung đưa. Gã có thể đang đi sát bên cô, nấp sau những bụi cây dọc vỉa hè tối om, không một ánh sáng. Tâm trí cô vụt nhớ đến một chuyện đã xảy ra lúc trước, cũng trong buổi tối nay. Xen giữa tất cả những tiếng cười và không khí vui vẻ ở quán rượu, có một khoảnh khắc cô đã cảm thấy không thoải mái. Cô đã xoay tròn rất nhanh trên chiếc ghế đẩu ở quầy rượu, gần như mong chờ sẽ nhìn thấy sự hiện diện của một gã đàn ông không quen biết đứng cách sau lưng cô chỉ vài phân. Nhưng chẳng hề có ai cả; thậm chí không có ai đang nhìn cô. Cô cố xua cái cảm giác đó đi, để cho sự vui vẻ của buổi tối lấn át cơn rùng mình ớn lạnh vì bất an và rồi dập tắt nó. Nhưng nó vẫn như vậy. Chính xác thì đó là những gì cô đang cảm thấy lúc này. Ngay phía trước là một lối vào công viên. Nếu gã ở trong đó và đang tới gần để tóm lấy cô thì đây chính là chỗ gã sẽ ra tay. Cô có vài giây để đưa ra một kế hoạch. Cô sẽ hành động như thể chẳng có gì phải lo lắng, đến khi tới ngang với cổng vào, cô sẽ bỏ chạy. Và nếu phải làm như vậy, cô sẽ hét thật to. Chỉ hai bước nữa thôi, cô sẽ đến được chỗ đó. Cô buông thõng hai tay, thả xuống hai bên sườn. Cô có thể nhìn thấy góc đường nhà mình ngay phía trước, nhưng thậm chí chỗ đó còn tối hơn, những thân cây đan kết dày kịt vốn rất được yêu thích hắt bóng đen xuống vỉa hè chật hẹp, mớ cành cây đen đúa trơ trụi của chúng lẫn vào bầu trời đêm. Một, hai - và chạy. Cô không dám liều liếc nhìn cánh cổng mở toang của công viên, cũng không thể nghe thấy tiếng ai đang bám đuổi theo mình do tiếng bàn chân giậm thình thịch cùng tiếng thở hổn hển của cô. Nhưng khi cô chỉ còn cách góc phố mười mét thì mọi chuyện xảy ra. Cô đã gần tới được đó, gần như đã về được đến nhà, gần như đã an toàn. Một bóng đen trồi ra từ phía sau cái cây đen đúa cuối cùng, đứng im bất động, hai chân xoạc rộng ra, đang chờ đợi để tóm lấy cô. Mời các bạn đón đọc Say Ngủ của tác giả Rachel Abbott.
Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút
Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.