Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

HOÀNG ĐẾ NỘI KINH - NGUYỄN ĐỒNG DI

"Hoàng Đế Nội Kinh" là loại sách y học, tùng thư, tự thuật khoa y học ở thời thượng cổ ra đời sớm nhứt thế giới, cách đây trên bốn ngàn sáu trăm năm. Sách này chia ra làm hai phần:

Phần đầu thuộc về nguyên tắc của Sách Linh Khu, luận về Giải Phẫu Học và Châm Cứu Học.

Phần sau thuộc về nguyên tắc của sách Tố Vấn, luận về Sinh Lý Học, Bịnh Lý Học và Chẩn Đoán Học.

Đại khái, nội dung của toàn bộ HOÀNG ĐẾ NỘI KINH chỉ chú trọng trên học thuyết, chuyên luận về NGUYÊN TẮC TRỊ LIỆU, mà không đề cập đến PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU. Lấy sự động biến đổi lập của hai khí âm dương, hỗ tương sinh trưởng, hỗ tương hủy diệt của Ngũ Hành và hiện tượng SINH, TRƯỞNG, THU, TÀNG, tân trần đại tạ của bốn mùa làm biện chứng cho luận thuyết - Đề cập đến vấn đề vệ sinh và miễn dịch thì chú trọng trên TINH THẦN VỆ SINH và TÂM LÝ MIỄN DỊCH. Cứu cánh lại lấy phương pháp điều tiết liệu năng làm cơ bản lập luận.

Sách HOÀNG ĐẾ NỘI KINH tuy đáng quý thật nhưng vì văn chương cổ áo mà lại ra đời quá sớm, trải qua rất nhiều thời đại nên không tài nào tránh khỏi cái nạn "tam sao thất bổn" và người sau đem ý kiến riêng của mình phụ hội vào, khiến cho ngọc đá xô bồ, vàng thau lẫn lộn...Nếu không chọn lọc lại cẩn thận, xưa sao nay vậy, cứ ôm trọn cả bộ sách tối cổ điển kia ra làm Sách Đông Y Giáo Khoa, bắt kẻ học phải ăn tươi nuốt sống, thì nhất định không tài nào tiêu hóa nổi. Kẻ học không lĩnh hội nổi cũng là việc thường, thậm chí có nhiều chỗ người dạy cũng không biết đường nào mà giảng giải.

Sách HOÀNG ĐẾ NỘI KINH hoàn thành trên một tư tưởng nhất quán, tổ chức trên một học thuyết hoàn bị, là nền tảng văn hóa học thuật của Đông Y, là kinh điển y gia, cũng như Ngũ Kinh, Tứ thư của Nho gia, Đạo đức knh của Đạo gia vậy. Thế nên người đời sau muốn biên soạn các loại Y thơ xây dựng thêm những tòa lâu đài mới cho Đông Y, tất phải xây dựng trên nền tảng này (Nội Kinh), muốn nghiên cứu Y học cũng phải nghiên cứu theo học thuyết này (Nội Kinh). (Trích dẫn trong LỜI NÓI ĐẦU của Nguyễn Đồng Di - Đông Y Sĩ - Đầu mùa xuân năm Canh Tuất 1970).

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Lão Tử - Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê chú dịch!
Về cuốn  Lão Tử- Đạo đức kinh PDF , trong bộ Hồi kí (Nxb Văn học – 1993), cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết: Về cuốn Lão Tử- Đạo đức kinh PDF, trong bộ Hồi kí (Nxb Văn học – 1993), cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết:“Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi. Tôi góp thêm một bản dịch nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão tử. “Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi. Tôi góp thêm một bản dịch nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão tử. Theo các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỉ thứ IV hay thứ III, trước Tây lịch, do môn sinh của Lão tử chép lại lời thầy; tuy có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào nhưng tư tưởng vẫn là nhất trí. Theo các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỉ thứ IV hay thứ III, trước Tây lịch, do môn sinh của Lão tử chép lại lời thầy; tuy có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào nhưng tư tưởng vẫn là nhất trí. Lão tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông lại xét tính cách và qui luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tần. Lão tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông lại xét tính cách và qui luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tần. Ông tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do, trọng hoà bình, không tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về tự nhiên, sống thanh tịnh. Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái trái cây, mà trở về buổi đầu thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc, có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão tử chúng ta chỉ nên nhớ rằng ông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ. Ông tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do, trọng hoà bình, không tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về tự nhiên, sống thanh tịnh. Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái trái cây, mà trở về buổi đầu thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc, có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão tử chúng ta chỉ nên nhớ rằngông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ.MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)
64 QUẺ DỊCH (Tham khảo)
  |||||| Thuần Càn (乾 qián)  :::::: Thuần Khôn (坤 kūn)  |:::|: Thủy Lôi Truân (屯 chún)  :|:::| Sơn Thủy Mông (蒙 méng)  |||:|: Thủy Thiên Nhu (需 xū)  :|:||| Thiên Thủy Tụng (訟 sòng)  :|:::: Địa Thủy Sư (師 shī)  ::::|: Thủy Địa Tỷ (比 bǐ)  |||:|| Phong Thiên Tiểu Súc (小畜 xiǎo chù)  ||:||| Thiên Trạch Lý (履 lǚ)  |||::: Địa Thiên Thái (泰 tài)  :::||| Thiên Địa Bĩ (否 pǐ)  |:|||| Thiên Hỏa Đồng Nhân (同人 tóng rén)  ||||:| Hỏa Thiên Đại Hữu (大有 dà yǒu)  ::|::: Địa Sơn Khiêm (謙 qiān)  :::|:: Lôi Địa Dự (豫 yù)  |::||: Trạch Lôi Tùy (隨 suí)  :||::| Sơn Phong Cổ (蠱 gǔ)  ||:::: Địa Trạch Lâm (臨 lín)  ::::|| Phong Địa Quan (觀 guān)  |::|:| Hỏa Lôi Phệ Hạp (噬嗑 shì kè)  |:|::| Sơn Hỏa Bí (賁 bì)  :::::| Sơn Địa Bác (剝 bō)  |::::: Địa Lôi Phục (復 fù)  |::||| Thiên Lôi Vô Vọng (無妄 wú wàng)  |||::| Sơn Thiên Đại Súc (大畜 dà chù)  |::::| Sơn Lôi Di (頤 yí)  :||||: Trạch Phong Đại Quá (大過 dà guò)  :|::|: Thuần Khảm (坎 kǎn)  |:||:| Thuần Ly (離 lý)  ::|||: Trạch Sơn Hàm (咸 xián)  :|||:: Lôi Phong Hằng (恆 héng)  ::|||| Thiên Sơn Độn (遯 dùn)  ||||:: Lôi Thiên Đại Tráng (大壯 dà zhuàng)  :::|:| Hỏa Địa Tấn (晉 jìn)  |:|::: Địa Hỏa Minh Di (明夷 míng yí)  |:|:|| Phong Hỏa Gia Nhân (家人 jiā rén)  ||:|:| Hỏa Trạch Khuê (睽 kuí)  ::|:|: Thủy Sơn Kiển (蹇 jiǎn)  :|:|:: Lôi Thủy Giải (解 xiè)  ||:::| Sơn Trạch Tổn (損 sǔn)  |:::|| Phong Lôi Ích (益 yì)  |||||: Trạch Thiên Quải (夬 guài)  :||||| Thiên Phong Cấu (姤 gòu)  :::||: Trạch Địa Tụy (萃 cuì)  :||::: Địa Phong Thăng (升 shēng)  :|:||: Trạch Thủy Khốn (困 kùn)  :||:|: Thủy Phong Tỉnh (井 jǐng)  |:|||: Trạch Hỏa Cách (革 gé)  :|||:| Hỏa Phong Đỉnh (鼎 dǐng)  |::|:: Thuần Chấn (震 zhèn)  ::|::| Thuần Cấn (艮 gèn)  ::|:|| Phong Sơn Tiệm (漸 jiàn)  ||:|:: Lôi Trạch Quy Muội (歸妹 guī mèi)  |:||:: Lôi Hỏa Phong (豐 fēng)  ::||:| Hỏa Sơn Lữ (旅 lǚ)  :||:|| Thuần Tốn (巽 xùn)  ||:||: Thuần Đoài (兌 duì)  :|::|| Phong Thủy Hoán (渙 huàn)  ||::|: Thủy Trạch Tiết (節 jié)  ||::|| Phong Trạch Trung Phu (中孚 zhōng fú)  ::||:: Lôi Sơn Tiểu Quá (小過 xiǎo guò)  |:|:|: Thủy Hỏa Ký Tế (既濟 jì jì)  :|:|:| Hỏa Thủy Vị Tế (未濟 wèi jì)
Tử Vi Đẩu Số Tân Biên - Văn Đằng Thái Thứ Lang (NXB Sài Gòn 1956)
Tử vi đẩu số có thể tìm hiểu được một phần nào cuộc sống trước sau mà định mệnh đã an bài cho mỗi người. Nghiên cứu Tử Vi đẩu số là để biết mình và cũng là để biết người. Môn cổ học này do một nhà Lý học uyên thâm đời Tống là Trần Đoàn tức là Hi Di Tử lập ra. Sau lại được nhiều nhà Lý học khác bổ sung, diễn dịch, triển khai và xếp đặt thành một môn học có hệ thống rành mạch. Tử vi đẩu số có thể tìm hiểu được một phần nào cuộc sống trước sau mà định mệnh đã an bài cho mỗi người. Nghiên cứu Tử Vi đẩu số là để biết mình và cũng là để biết người. Môn cổ học này do một nhà Lý học uyên thâm đời Tống là Trần Đoàn tức là Hi Di Tử lập ra. Sau lại được nhiều nhà Lý học khác bổ sung, diễn dịch, triển khai và xếp đặt thành một môn học có hệ thống rành mạch. Ở nước ta, từ xưa đến nay, đã có nhiều người nghiên cứu Tử Vi đẩu số. Nhưng mỗi người hiểu một cách khác. Thậm chí có người lại coi mỗi vị sao như một ông thần có quyền ban phúc, giáng họa xuống trần gian. Rồi khi gặp cơn đen vận túng, hay khi mắc hoạn nạn, người ta lập đàn cúng bái, viết tên vị sao vào sớ biểu để kêu van. Nực cười thay, người ta còn đốt vàng, đốt mã bày ra chuyện đút lót cho vị sao để cầu yên thân hưởng phúc, tiêu tai giải nạn và dĩ nhiên là để cầu sống lâu giàu bền. Bởi vậy Tử Vi đẩu số đã bị hạ xuống ngang hàng với người tà thuật của bọn thầy bùa qủy quái chuyên nghề mê hoặc người đời. Ở nước ta, từ xưa đến nay, đã có nhiều người nghiên cứu Tử Vi đẩu số. Nhưng mỗi người hiểu một cách khác. Thậm chí có người lại coi mỗi vị sao như một ông thần có quyền ban phúc, giáng họa xuống trần gian. Rồi khi gặp cơn đen vận túng, hay khi mắc hoạn nạn, người ta lập đàn cúng bái, viết tên vị sao vào sớ biểu để kêu van. Nực cười thay, người ta còn đốt vàng, đốt mã bày ra chuyện đút lót cho vị sao để cầu yên thân hưởng phúc, tiêu tai giải nạn và dĩ nhiên là để cầu sống lâu giàu bền. Bởi vậy Tử Vi đẩu số đã bị hạ xuống ngang hàng với người tà thuật của bọn thầy bùa qủy quái chuyên nghề mê hoặc người đời.
Vạn Sự Bất Cầu Nhân - Lý Thuần Phong
Vạn Sự Bất Cầu Nhân được xây dựng dựa vào thuyết Âm dương Ngũ hành sinh khắc chế hoá lẫn nhau, kết hợp với Thập can, Thập nhị chi, Cửu cung, Bát quái và nhiều cơ sở lý luận khác thuộc khoa học cổ đại phương Đông như Thập nhị trực (Kiến Trừ thập nhị khách), Nhị thập bát tú, 12 cung Hoàng đạo, Hắc đạo... để tính ngày, giờ, tốt, xấu và được đối chiếu với lịch của Ban lịch Nhà nước. Vạn Sự Bất Cầu Nhân được xây dựng dựa vào thuyết Âm dương Ngũ hành sinh khắc chế hoá lẫn nhau, kết hợp với Thập can, Thập nhị chi, Cửu cung, Bát quái và nhiều cơ sở lý luận khác thuộc khoa học cổ đại phương Đông như Thập nhị trực (Kiến Trừ thập nhị khách), Nhị thập bát tú, 12 cung Hoàng đạo, Hắc đạo... để tính ngày, giờ, tốt, xấu và được đối chiếu với lịch của Ban lịch Nhà nước. Cuốn sách giúp độc giả xem và tra cứu lịch Âm - Dương; nó cũng có chức năng để xem chọn ngày lành, tháng tốt, giờ Hoàng đạo / Hắc đạo (Giờ ở đây, là tính theo giờ tại nơi cư ngụ của bạn), sao tốt / sao xấu lo cho công việc chọn người xông đất đầu năm, chọn tuổi làm nhà, cưới, chọn ngày, giờ đẹp cho xuất hành, khai trương, mở hàng, thành lập công ty... của mình được tối đẹp nhât.Tags:FacebookTwitterMới hơnCũ hơnĐăng bởi:☯ Dân tộc KING hoạt động với tiêu chí phi tôn giáo, phi lợi nhuận, phi chính trị. Mục đích của dantocking.com là cung cấp thông tin quý giá từ các bậc tiền nhân, để hậu thế có thể dễ dàng tìm đọc. Không có mục đích nào khác!