Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Chết Thứ Năm

Hai nữ sinh trung học liên tiếp mất tích. Xác của Ella Reynolds được phát hiện bên dưới mặt nước đóng băng ở công viên Jackson, còn xác của Lili Davies được tìm thấy trong phòng tranh nơi cô bé làm thêm sau mỗi buổi học. Không lâu sau đó, đến lượt hai người cha của các cô bị giết hại. Cảnh sát gần như không thể tìm ra điểm chung nào giữa các nạn nhân Trong khi các thanh tra của Sở cảnh sát Chicago chạy đua với thời gian để đưa tên sát nhân “mới nổi” ra ánh sáng thì Thanh tra Sam Porter bí mật tiếp tục săn lùng 4MK. Với hành trang là cuốn nhật ký của Anson Bishop và một bức ảnh nhòe mờ, Porter chạy đôn chạy đáo khắp các đường phố của New Orleans và tình cờ bước vào một thế giới còn tối tăm hơn những gì anh có thể tưởng tượng, nơi anh nhanh chóng nhận ra rằng thứ duy nhất đáng sợ hơn tâm trí của một kẻ giết người hàng loạt là tâm trí của người mẹ đã sinh ra hắn. Bộ sách 4MK Thriller gồm có: 4MK Cái Chết Thứ Năm Đứa Trẻ Thứ Sáu *** J.D. Barker là một tác giả người Mỹ nổi tiếng quốc tế về phim kinh dị hồi hộp, thường kết hợp các yếu tố kinh dị, tội phạm, bí ẩn, khoa học viễn tưởng và siêu nhiên. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, Forsaken, là người vào chung kết cho Giải thưởng Bram Stoker năm 2014. *** Porter Ngày 1 • 8:23 tối Bóng tối. Bóng tối dày đặc cuộn xoáy quanh anh, hút cạn ánh sáng, chẳng để lại gì ngoài khoảng không tối đen như mực. Một màn sương đang bủa vây tâm trí anh, những từ ngữ loay hoay tìm cách gắn kết với nhau, cố sao cho được một câu rành mạch, cố tìm cho ra ý nghĩa nào đó, nhưng đến lúc tưởng như đã ở rất gần thì chúng lại bị nuốt chửng và tan biến, thay vào đó là dự cảm chẳng lành cứ lớn dần, một cảm giác thật nặng nề - thân xác anh chìm dần vào vùng nước âm u sâu thẳm từ lâu đã rơi vào quên lãng. Anh ngửi thấy mùi ẩm thấp. Nấm mốc. Ướt át. Sam Porter những muốn mở mắt ra. Phải mở cho bằng được. Nhưng đôi mắt chẳng chịu tuân theo ý muốn của anh, chúng cứ thế nhắm chặt lại. Đầu anh vừa đau vừa nhức. Cơn đau dậy lên từng hồi phía sau tai bên phải và ở cả thái dương. “Cố gắng đừng cử động, Sam. Tôi không muốn anh cảm thấy buồn nôn.” Giọng nói cất lên loáng thoáng, xa xăm, quen thuộc. Porter đang nằm duỗi dài. Mười đầu ngón tay đặt trên tấm thép lạnh ngắt. Giờ anh nhớ ra mũi tiêm ấy rồi. Cây kim cắm vào dưới gáy, cú đâm diễn ra chóng vánh, dung dịch lạnh lẽo tràn vào bên dưới da, ngấm vào cơ bắp, sau đó… Porter cố mở mắt, song hai mí nặng trĩu nhất quyết kháng cự. Khô khốc, cay xè. Anh muốn dụi mắt, nhưng bàn tay phải vừa đưa lên đã ngay lập tức bị kéo về khi sợi xích ở cổ tay anh căng ra. Hơi thở nghẹn lại trong anh, anh gắng gượng ngồi dậy, đầu óc quay cuồng khi máu huyết từ trên dồn xuống. Suýt nữa anh lại nằm vật ra. “Ái chà, từ từ nào, Sam. Giờ anh đã tỉnh, etorphine* sẽ hết tác dụng nhanh thôi. Chịu khó chờ một lát đi.” Đèn bật lên, một chiếc đèn halogen sáng rực chiếu thẳng vào mặt anh. Porter nheo mắt nhưng quyết không quay đi, anh nhìn chằm chằm vào gã đàn ông đứng cạnh chiếc đèn, dáng người lờ mờ khuất trong bóng tối. “Bishop?” Porter gần như không nhận ra giọng mình nữa, nghe khàn đặc. “Khỏe không, Sam?” Cái bóng tiến sang phải một bước, lật úp cái xô đựng sơn rỗng có dung tích mười tám lít rồi ngồi lên đó. “Đừng chiếu cái đèn chết tiệt ấy vào mắt tao.” Porter kéo giật sợi xích ở cổ tay, đầu còn lại của chiếc còng va leng keng vào một đường ống dày, loại ống dẫn nước hoặc cũng có thể là dẫn ga. “Cái mẹ gì thế này?” Anson Bishop với tay đẩy cho chiếc đèn hơi chếch sang trái. Nó là loại đèn chiếu sáng trong các cửa hàng, được đặt trên một kiểu chân đế nào đó. Ánh sáng rọi lên bức tường gạch không nung, trong góc đằng xa có đặt cái máy nước nóng, phía bên kia là máy giặt và máy sấy cũ. “Đỡ hơn rồi chứ?” Porter giật sợi xích lần nữa. Bishop ném cho anh nụ cười nửa miệng và nhún vai. Lần cuối cùng Porter nhìn thấy hắn, hắn để tóc húi cua màu nâu sẫm. Mái tóc ấy nay đã dài ra, nhạt đi, bù xù. Mặt hắn lún phún lớp râu ba, bốn ngày chưa cạo. Bộ trang phục công sở theo phong cách đời thường đã không còn, thay vào đó là chiếc quần jeans và áo nỉ có mũ màu xám đậm. “Độ này coi bộ xuống mã nhỉ.” Porter nói. “Thời buổi khó khăn mà.” Nhưng hắn không thể thay đổi được cặp mắt, cũng như vẻ lạnh lùng ẩn chứa trong đó. Cặp mắt ấy muôn đời chẳng đổi khác. Bishop rút từ trong túi quần sau ra một cái thìa nhỏ, loại thìa ăn hoa quả có răng cưa, hắn lơ đãng xoay nó giữa những ngón tay, mép răng cưa sáng lên dưới ánh đèn. Porter ngó lơ cái thìa. Thay vào đó, anh liếc xuống, gõ ngón trỏ lên tấm kim loại mà anh đang nằm lên. “Cái băng ca này cũng cùng một kiểu với cái mày dùng để xích Emory vào phải không?” “Gần như thế.” “Không kiếm nổi cái giường gấp nào sao?” “Giường gấp hay hỏng lắm.” Một vũng màu đỏ sậm đọng lại bên dưới băng ca, vết nhơ tối thẫm trên mặt sàn bê tông nhếch nhác, bẩn thỉu. Nhưng Porter không hỏi han gì về nó. Sờ vào mặt dưới tấm kim loại rồi thu tay về, anh thấy ngón tay mình dinh dính. Điều này anh cũng chẳng thắc mắc. Bức tường bên trái anh có vài cái kệ, trên đó chất đầy dụng cụ quét sơn: thùng, chổi sơn, bạt phủ. Trần nhà phía trên đầu được ghép từ những tấm ván gỗ cỡ 2x6*, mỗi tấm cách nhau chừng bốn mươi centimet. Mạch điện để trần, ống nước và ống thông gió lấp đầy khoảng trống giữa các tấm ván. “Chỗ này là tầng hầm của một nhà dân. Ngôi nhà không lớn. Nhưng cũng cũ rồi. Đường ống trên đầu mày được bọc bằng a-mi-ăng, vì thế tao khuyên mày chớ có dại mà dây vào nó. Tao đoán nơi này bị bỏ hoang, vì cái đèn của mày đang phải dùng cáp nối dài, sợi cáp chạy lên tầng trên và cắm vào… gì nhỉ, một loại ắc quy nào đó chăng? Máy phát điện thì không phải rồi. Sẽ nghe thấy tiếng ngay. Mày không thèm dùng mấy ổ cắm trên tường, chứng tỏ nhà này đã bị cắt điện. Đã thế còn lạnh như nhà xác. Tao nhìn thấy được cả hơi tao thở ra, vậy nghĩa là hệ thống sưởi không hoạt động. Điều đó càng cho thấy đây là nhà hoang. Chẳng ai dám mạo hiểm ở trong căn nhà có đường ống bị đóng băng bao giờ.” Bishop tỏ vẻ hài lòng khi nghe điều này, một nụ cười thấp thoáng trên môi hắn. Porter tiếp tục nói. “Nhà này bề ngang tương đối hẹp. Vì thế đây hẳn là kiểu nhà thông cửa*. Mày chắc sẽ không chọn một khu dân cư sang chảnh nào đó có Starbucks, Internet, nơi người dân thường báo cảnh sát khi phát hiện đối tượng có tiền án tiền sự, bởi vậy tao đoán nhiều khả năng mày sẽ bám trụ ở khu Tây. Có thể là một con phố như phố Wood chẳng hạn. Ở đó nhiều nhà không người ở lắm.” Porter luồn bàn tay không bị còng vào trong chiếc áo khoác dày để tìm súng, nhưng chỉ thấy cái bao rỗng. Điện thoại di động của anh cũng mất rồi. “Đúng là cảnh sát có khác.” Phố Wood nằm cách căn hộ của anh ở Wabash những mười lăm phút lái xe nếu đường thông hè thoáng, Porter bị tiêm thuốc khi anh chỉ còn cách căn hộ chừng một khu nhà. Dĩ nhiên những điều này hoàn toàn chỉ là suy đoán, nhưng anh muốn gợi chuyện để Bishop nói tiếp. Càng mải ba hoa thì hắn càng ít nghĩ tới cái thìa kia. Cơn đau nhức nhối ở đầu giờ đã dồn cả vào phía sau mắt phải của Porter. “Anh không định thuyết phục tôi ra đầu thú sao? Rằng anh có thể giúp tôi thoát án tử nếu tôi ngoan ngoãn hợp tác ấy mà?” “Không có đâu.” Lần này Bishop mỉm cười thật. “Ê, có thứ này, anh muốn xem không?” Porter định bảo không, nhưng anh biết có nói gì đi nữa cũng vô ích. Tên này đã sắp sẵn trong đầu một kế hoạch, một âm mưu nào đó rồi. Chẳng kẻ nào dám liều lĩnh bắt cóc một thanh tra của Sở Cảnh sát Chicago ngay giữa phố nếu như không có mục đích rõ ràng. Anh cảm nhận được chùm chìa khóa đang nằm trong túi bên phải. Bishop đã chừa lại nó khi lấy súng và điện thoại của anh. Trong đó có chìa khóa mở còng, phần lớn còng tay đều dùng chung một chìa để mở. Hồi mới vào nghề, anh được biết lý do là vì người còng tay đối tượng và người mở còng cho chúng sau đó gần như chắc chắn không phải là một. Đối tượng bị bắt có thể sẽ qua tay vài người trong quá trình làm thủ tục nhập khám. Bởi vậy, các sĩ quan được dạy phải tịch thu chìa khóa tìm thấy khi khám người đối tượng, tất cả các chìa. Tên tội phạm sành sỏi nào cũng đem theo chìa khóa mở còng để dễ bề tẩu thoát trong trường hợp có gã cảnh sát gà mờ quên kiểm tra. Porter sẽ phải xoay xở để lấy được chùm chìa khóa ra khỏi túi bên phải, rồi bằng cách nào đó chuyển nó sang tay trái, mở còng và hạ gục Bishop trước khi hắn kịp băng qua khoảng cách một mét rưỡi giữa hai người. Tên này xem chừng không có vũ khí gì ngoài cái thìa. “Mắt nhìn thẳng phía trước, Sam.” Bishop nói. Porter lại hướng ánh mắt về phía hắn. Bishop đứng dậy, đi về phía cái bàn nhỏ cạnh máy giặt ở bên kia tầng hầm. Sau đó hắn trở lại chỗ cũ, đem theo một chiếc hộp gỗ trên nắp có đặt khẩu Glock của Porter. Hắn bỏ khẩu súng xuống sàn cạnh chỗ ngồi, dùng ngón cái gạt chốt cài của chiếc hộp và mở nắp ra. Sáu nhãn cầu ngước lên nhìn Porter từ bên trong chiếc hộp lót nhung đỏ. Những nạn nhân trước đây của Bishop. Porter liếc xuống khẩu súng. “Mắt nhìn thẳng phía trước.” Bishop nhắc lại kèm theo tiếng cười khẽ. Có điều gì đó không ổn rồi. Bishop xưa nay luôn tuân theo một khuôn mẫu cố định. Hắn xẻo tai nạn nhân trước, sau đó móc mắt, rồi cắt lưỡi, đặt vào một chiếc hộp màu trắng thắt dây màu đen và gửi đến cho gia đình mỗi nạn nhân kèm theo một tấm thiệp. Luôn là như vậy. Hắn không bao giờ thay đổi quy trình. Hắn không giữ lại chiến lợi phẩm. Hắn tin rằng mình đang bắt gia đình này phải trả giá cho tội ác nào đó mà họ gây ra. Một kiểu thay trời hành đạo quái đản. Hắn không giữ lại những cặp mắt. Không bao giờ hắn giữ… “Bắt đầu vào việc thôi.” Bishop vuốt tay lên nắp hộp, một cử chỉ đầy âu yếm, rồi đặt nó xuống sàn cạnh khẩu súng và giơ cái thìa ra trước ánh sáng. Porter lăn người xuống khỏi băng ca rồi kêu lên đau đớn khi đầu còng bằng kim loại cứa vào cổ tay anh, cái ống đã níu chiếc còng lại. Cố gắng quên đi cơn đau, anh lóng ngóng thò tay trái vào túi bên phải để lấy chìa khóa, đồng thời đạp băng ca về phía Bishop. Ngón tay Porter sượt qua chùm chìa khóa khi Bishop né được cái băng ca và tung cú đá vào ống quyển bên trái của anh. Chân anh khuỵu xuống, anh ngã nhào ra sàn, cái còng ở cổ tay phải mắc vào đường ống và giật mạnh đến nỗi trật cả khớp vai. Chưa kịp phản ứng gì thì anh chợt thấy đau nhói khi một mũi tiêm nữa đâm vào da thịt, lần này là bắp đùi. Anh cố cúi nhìn nhưng Bishop đã nắm lấy tóc anh, giật ngửa đầu anh ra sau. Ý thức bắt đầu rời bỏ anh. Porter cố cưỡng lại, cố phản kháng bằng tất cả sức lực trong anh. Anh cầm cự đủ lâu để trông thấy cái thìa đang từ từ đưa lại gần mắt trái của mình, đủ lâu để cảm nhận mép răng cưa cứa vào sụn mi nằm dưới nhãn cầu khi Bishop dùng sức chọc cái thìa vào hốc mắt anh, đủ lâu để… “Cô nàng nóng bỏng chứ?” Porter giật nảy người trên ghế, nhưng dây an toàn đã níu anh lại. Anh hít một hơi dài, hết nhìn trái rồi lại nhìn phải, ánh mắt anh dùng lại ở Nash đang ngồi trên ghế lái. “Hả? Ai cơ?” Nash cười giễu. “Em gái trong mơ của anh chứ ai. Thấy anh rên rỉ mà.” Sáu nhãn cầu. Tuy vẫn còn ngơ ngác nhưng Porter cũng đã nhận ra mình đang ngồi ở ghế phụ trên chiếc Chevy của Nash, dòng xe Nova đời 1972 cũ mà Nash tậu cách đây hai tháng, khi chiếc Ford Fiesta con cưng đột ngột khục khặc rồi chết ngóm trên đường 290 lúc ba giờ sáng, khiến anh buộc phải gọi về trụ sở xin một xe đến đón vì không liên lạc được với Porter. Porter đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Kính xe bị phủ một lớp mỏng bụi đường và băng. “Đây là đâu?” “Chúng ta đang trên đường Hayes, phía trước là công viên.” Nash đáp và bật xi nhan. “Có lẽ anh nên đứng ngoài vụ này thì hơn.” Porter lắc đầu. “Tôi vẫn ổn.” Nash ngoặt xe sang trái, rẽ vào Công viên Jackson và đi theo con đường chính dẫn tới cổng vào mới được ủi sạch tuyết, ánh đèn chớp xanh đỏ lấp loáng hắt lên những rặng cây tăm tối xung quanh họ. “Từ đó đến nay đã bốn tháng rồi, Sam à. Nếu anh vẫn gặp vấn đề về giấc ngủ thì nên nói chuyện với ai đó. Không nhất thiết phải là tôi hay Clair, mà… người nào cũng được.” “Tôi vẫn ổn.” Porter nhắc lại. Họ đi qua một sân bóng chày nằm ở bên phải, cái sân bị lãng quên suốt mùa đông, rồi chiếc xe tiếp tục dấn sâu vào trong rừng cây khẳng khiu, trụi lá. Phía trước có thêm ánh đèn - nửa tá ô tô, mà cũng có thể nhiều hơn. Bốn xe cảnh sát tuần tra, một xe cứu thương, một xe van cứu hỏa. Những chiếc đèn pha công suất lớn sắp thành hàng ven đầm nước, máy sưởi chạy bằng khí propane đặt rải rác quanh khu vực được quây lại bằng dải băng cách ly màu vàng. Nash dừng lại phía sau chiếc xe van, gạt cần số về chế độ đỗ rồi tắt máy. Cái xe khục khặc hai lần, nghe như sắp sửa phát ra một tiếng nổ ngược kinh hoàng, sau đó mới chịu im hẳn. Porter nhận thấy vài sĩ quan nhìn chằm chằm về phía họ khi họ xuống xe và bước ra ngoài giữa trời đông buốt giá. “Chúng ta có thể đi bằng xe của tôi cũng được mà.” Porter nói với Nash, gót giày anh đạp trên lớp tuyết mới tinh phát ra tiếng lạo xạo. Porter sở hữu một chiếc Dodge Charger đời 2011. Phần lớn đồng nghiệp ở Sở vẫn hay gọi đùa cái ô tô của Porter là “con xế khủng hoảng tuổi trung niên”. Cái xe ấy đã thay thế cho chiếc Toyota Camry cách đây hai năm, khi Porter đón sinh nhật lần thứ năm mươi. Heather, người vợ quá cố của anh, đã mua cái xe thể thao này để làm quà tặng bất ngờ cho anh, sau khi chiếc Toyota bị kẻ xấu phá hoại rồi vứt bỏ tại một trong những khu vực “không mấy thiện cảm với cảnh sát” ở vùng phía nam của thành phố. Chính Porter cũng thừa nhận rằng khi ngồi sau tay lái, anh cảm thấy như trẻ ra mấy tuổi, nhưng chủ yếu là cái xe luôn khiến anh mỉm cười. Heather đã giấu chìa khóa xe vào trong chiếc bánh gatô sinh nhật rồi đem nướng lên, làm anh suýt mẻ răng khi cắn phải. Cô bịt mắt anh lại, dẫn anh xuống cầu thang và bước ra ngoài cổng, sau đó hát bài Happy Birthday cho anh nghe bằng giọng hát khó có cơ hội được góp mặt trong chương trình American Idol. Porter luôn nghĩ đến cô mỗi khi ngồi vào trong xe, nhưng giờ đây, dường như những điều gợi cho anh nhớ về cô cứ ngày càng ít đi, khuôn mặt cô mỗi lúc một mờ nhạt trong tâm trí anh. “Cái ô tô ấy chính là một phần của vấn đề đấy. Chúng ta lúc nào cũng đi bằng xe của anh, để cho em Connie kia bị xếp xó đến hoen gỉ trên lối đi nhà tôi. Nếu lái em ấy, tôi sẽ nhớ ra rằng tôi muốn cải tạo lại em ấy. Mà khi đã nhớ ra, biết đâu tôi sẽ chịu lết xuống gara và bắt tay vào thực hiện.” “Connie á?” “Ô tô cũng phải có tên chứ.” “Phải cái gì mà phải. Ai lại đi đặt tên cho ô tô bao giờ, mà anh đâu có biết cách cải tạo em… nó… sao cũng được. Có mà lúc anh lôi cái xe cũ rích ấy về nhà, lần đầu tiên cầm lấy cờ lê, anh đã hiểu ra còn lâu anh mới cải tạo xong nó chỉ trong vòng bốn mươi ba phút giống như mấy gã trong Overhaulin’*.” Porter nói. “Chương trình đó đúng là nhảm nhí. Lẽ ra phải nói thật quá trình sửa chữa kéo dài bao lâu chứ.” “Như thế vẫn còn tốt chán. Ít nhất anh cũng không đâm nghiện kênh HGTV* và tưởng mình có thể tranh thủ những lúc rảnh rỗi để cải tạo nhà cửa rồi rao bán.” “Cái đó thì đúng. Nhưng họ sửa lại mấy căn nhà chỉ trong vòng có hai mươi hai phút mà lãi thu về còn khủng hơn.” Nash đáp. “Nếu sửa được một, hai căn, tôi có thể thuê người độ lại xe. Ê, Clair kìa…” Họ chui qua dải băng cách ly màu vàng, tiến lại gần đầm nước. Clair đang đứng cạnh một cái máy sưởi, di động áp vào tai. Nhìn thấy họ, cô lấy tay bịt loa thoại, hất hàm về phía bờ đầm và bảo “Bọn tôi nghĩ đó là Ella Reynolds,” rồi lại tiếp tục nói chuyện điện thoại. Tim Porter chùng xuống. Ella Reynolds là cô bé mười lăm tuổi mất tích ở gần khu vực Quảng trường Logan sau khi tan học cách đây ba tuần. Lần cuối cùng có người trông thấy Ella là lúc cô xuống xe buýt của trường, cách nhà khoảng hai khu. Bố mẹ cô lập tức gọi cảnh sát, thông báo khẩn cấp tìm trẻ em mất tích được đưa ra chỉ một giờ sau khi cô biến mất. Nhưng nỗ lực đó không mang lại kết quả gì. Cảnh sát chẳng nhận được tin báo nào có giá trị. Nash tiến lại gần mép nước, Porter theo sau. Cái đầm đã đóng băng. Bốn cọc tiêu hình nón màu cam được đặt trên mặt băng ở xa bờ, quây lại bằng dải băng vàng, tạo thành một hình chữ nhật. Tuyết ở đó đã được quét sạch. Porter rón rén bước lên băng, dỏng tai nghe ngóng xem có tiếng “rắc” cảnh báo nào vang lên dưới chân không. Dù cho có bao nhiêu dấu giày để lại trên mặt đầm đóng băng đi nữa, anh lúc nào cũng run khi thêm vào đó dấu giày của mình. Khi Porter tiến đến gần, cô bé dần dần hiện ra trong tầm mắt. Lớp băng trong vắt như pha lê. Cô ngước lên nhìn bằng ánh mắt vô hồn từ bên dưới băng. Da cô trắng bệch trông thật ghê rợn, hơn nữa còn ánh lên sắc xanh, chỉ trừ vùng da quanh mắt. Hai quầng mắt cô tím bầm lại. Môi cô hé mở như có điều muốn nói, những điều vĩnh viễn không được thốt ra. Porter quỳ xuống để có thể quan sát kĩ hơn. Cô bé mặc áo khoác đỏ, quần jeans đen, đội mũ len trắng và đeo găng tay cùng bộ, đi đôi giày màu hồng có vẻ giống kiểu giày tennis. Hai tay buông thõng, chân hơi cong lại, mất hút dưới vùng nước tối đen. Thường thì xác ngâm dưới nước sẽ trương lên, nhưng ở nhiệt độ này, cái lạnh lại giúp bảo quản thi thể. Porter thà phải nhìn xác trương còn hơn. Khi người chết ít nhiều mất đi diện mạo của con người, anh thấy dễ tiếp nhận những gì mình đang chứng kiến hơn, ít bị cảm xúc chi phối hơn. Cô bé này trông chỉ như đứa trẻ con, tuyệt vọng, đơn độc, say ngủ bên dưới tấm chăn bằng băng. Nash đứng phía sau anh, đưa mắt quan sát rừng cây bên kia đầm. “Nơi này từng là địa điểm tổ chức Hội chợ Quốc tế vào năm 1893. Ngày trước còn có khu vườn kiểu Nhật ở đằng xa, chỗ cây cối um tùm ấy. Bố tôi từng dẫn tôi tới đây chơi khi tôi còn nhỏ. Ông bảo hồi Thế chiến thứ hai, ở đây bung bét lắm. Tôi nhớ có đọc được ở đâu đó rằng người ta đã huy động vốn để cải tạo khu này vào mùa xuân. Thấy đám cây bị đánh dấu kia không? Chúng sắp bị chặt đấy.” Porter nhìn theo ánh mắt người cộng sự. Cái đầm được chia thành hai mé đông và tây, bao quanh một đảo nhỏ. Nhiều cây trên đảo Cây được thắt những dải ruy băng màu hồng quanh thân. Có vài chiếc ghế nằm rải rác bên kia bờ, bị phủ một lớp tuyết trắng mỏng. “Theo anh, cái đầm này đóng băng từ bao giờ?” Nash ngẫm nghĩ giây lát. “Chắc là cuối tháng Mười hai, đầu tháng Một. Sao anh lại hỏi thế?” “Nếu đây đúng là Ella Reynolds, vậy làm thế nào cô bé nằm dưới băng được? Cô bé mới mất tích ba tuần trước. Lúc đó băng đã rắn chắc lắm rồi.” Nash mở bức ảnh chụp gần đây của Ella Reynolds lưu trong điện thoại và cho Porter xem. “Trông giống đấy, nhưng cũng có thể chỉ là trùng hợp, có thể một cô bé nào đó rơi xuống đầm khi băng vẫn còn mềm chẳng hạn.” “Nhưng cô bé kia giống y hệt người trong ảnh.” Clair bước tới bên cạnh họ. Cô hà hơi vào tay và xoa xoa. “Tôi vừa nói chuyện với Sophie Rodriguez ở Ban Tìm kiếm Trẻ em Mất tích. Tôi chụp ảnh gửi cho cô ấy và cô ấy khẳng định người này là Ella Reynolds, nhưng quần áo thì không khớp. Cô ấy nói lúc mất tích, Ella mặc áo khoác màu đen. Ba nhân chứng cũng xác thực khi ở trên xe buýt cô bé mặc áo đen chứ không phải áo đỏ. Cô ấy đã gọi điện cho mẹ của Ella và bà ấy nói con gái mình không có áo khoác đỏ, mũ len và găng tay len trắng nào cả.” “Vậy thì hoặc đây là một người hoàn toàn khác, hoặc có kẻ đã thay đồ cho Ella.” Porter nói. “Chỗ này cách địa điểm cô bé mất tích những hai mươi lăm kilômét.” Clair cắn môi dưới. “Bên pháp y sẽ phải xác định danh tính của cô bé.” “Ai tìm thấy cô bé vậy?” Clair chỉ về phía chiếc xe tuần tra đỗ ở đằng xa, ngoài khu vực cách ly. “Một cậu bé và ông bố. Cậu nhóc mới mười hai tuổi.” Cô xem lướt phần ghi chú trong điện thoại. “Scott Watts. Cậu ta tới cùng với bố để xem cái đầm đã đông cứng đủ để học trượt băng chưa. Tên ông bố là Brian. Ông ta nói cậu con trai gạt đi lớp tuyết và trông thấy một phần cánh tay cô bé. Ông ta bảo con tránh ra và tự mình phủi sạch tuyết đủ để xác thực đúng là người thật, sau đó gọi 911. Chuyện xảy ra khoảng một giờ trước. Cuộc điện thoại gọi đến lúc bảy giờ hai mươi chín phút. Tôi đã bảo họ ngồi chờ trong xe tuần tra, phòng khi anh có điều muốn hỏi họ.” Porter dùng móng tay trỏ cạo lên băng, rồi nhìn quanh bờ đầm. Hai sĩ quan khám nghiệm hiện trường đứng dạt về bên trái, nhìn ba người bọn họ bằng ánh mắt cảnh giác. “Ai trong số hai người đã dọn chỗ này?” Porter hỏi. Sĩ quan trẻ hơn, một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi có mái tóc vàng cắt ngắn, đeo kính và quàng khăn màu hồng, giơ tay lên. “Là tôi ạ, thưa Thanh tra.” Cộng sự của cô rục rịch chân. Anh ta có vẻ lớn hơn cô khoảng năm tuổi. “Tôi là người giám sát. Sao thế?” “Nash, đưa tôi thứ kia được không?” Anh chỉ vào cây cọ có lông dài màu trắng đặt trên một trong mấy bộ dụng cụ của Đội Khám nghiệm. Porter ra hiệu cho hai sĩ quan lại gần. “Đừng sợ, tôi không mấy khi cắn đâu.” Hồi tháng Mười một vừa rồi, Porter quay lại làm việc sớm dù còn đang trong đợt nghỉ phép bắt buộc do cấp trên áp xuống sau khi vợ anh bị giết trong một vụ cướp xảy ra tại một cửa hàng tiện ích gần đó. Anh muốn tiếp tục đi làm, chủ yếu là vì công việc giúp anh phân tâm, tạm quên đi chuyện xảy ra. Những ngày đầu tiên sau khi vợ mất, khi anh tự giam mình trong căn hộ, là quãng thời gian tồi tệ nhất. Nhìn đâu cũng thấy những thứ gợi nhớ về cô. Khuôn mặt cô nhìn anh từ những bức ảnh bày ở hầu khắp các dãy kệ. Mùi hương của cô vẫn phảng phất đâu đây, nguyên tuần đầu tiên anh không sao chợp mắt được nếu không đặt vài bộ đồ của cô trên giường. Ngồi trong căn hộ, anh chỉ nghĩ đến một điều duy nhất, đó là anh sẽ làm gì với kẻ đã giết cô, những ý nghĩ anh không muốn lưu giữ trong đầu. Cuối cùng, tên sát nhân Bốn Con Khỉ - tức 4MK - đã kéo anh ra khỏi nhà. Cũng chính 4MK là kẻ đã bắt hung thủ giết vợ anh phải đền mạng. 4MK là lý do khiến những người như hai sĩ quan này cư xử kỳ quặc khi có mặt anh. Không hẳn là họ sợ, đúng hơn là họ kiêng dè. Anh là tay cớm đã để cho 4MK thâm nhập vào cuộc điều tra của cảnh sát dưới danh nghĩa sĩ quan khám nghiệm hiện trường. Anh là tay cớm bị 4MK đâm trong chính ngôi nhà của mình. Anh là tay cớm đã bắt được tên sát nhân hàng loạt ấy rồi lại để hắn trốn mất. Bốn tháng sau, người ta vẫn còn nói về vụ đó, chẳng qua không nói với anh thôi. Hai sĩ quan tiến lại gần. Người phụ nữ ngồi xổm xuống cạnh anh. Porter dùng cọ quét đi chỗ tuyết ở sát bờ và cả ngoài rìa khu vực họ đã làm sạch trước đó. Sau khi mở rộng vòng tròn thêm sáu mươi centimet, anh đặt cọ xuống rồi xoa tay lên mặt băng, bắt đầu từ tâm vòng tròn và chầm chậm tiến dần ra ngoài. Khi chỉ còn cách đống tuyết khoảng mười centimet thì anh dừng lại. “Chỗ này. Cô sờ thử xem.” Sĩ quan trẻ tuổi tháo găng và dè dặt làm theo anh, đầu ngón tay cô lướt trên mặt băng. Cô dừng lại cách lòng bàn tay Porter khoảng gần ba centimet. “Có cảm thấy không?” Cô gật đầu. “Có chỗ hơi võng xuống. Ít thôi, nhưng chắc chắn là có.” “Cô lần theo đi. Đánh dấu lại bằng cái này.” Anh đưa cho cô chiếc bút dạ. Một phút sau, cô đã vẽ xong một hình vuông lớn ngay ngắn phía trên cái xác và hai hình vuông nhỏ hơn ở hai bên, mỗi hình có cạnh khoảng mười centimet. “Vậy là đã có câu trả lời.” Porter nói. Nash nhíu mày. “Thế này nghĩa là sao?” Porter đứng dậy, đỡ người phụ nữ lên cùng. “Cô tên gì?” “Sĩ quan khám nghiệm hiện trường Lindsy Rolfes, thưa Thanh tra.” “Sĩ quan Rolfes, cô có thể giải thích ý nghĩa của hình vẽ này không?” Cô ngẫm nghĩ giây lát, nhìn từ Porter sang mặt băng, rồi lại nhìn anh. Cuối cùng, cô đã hiểu. “Cái đầm này bị đóng băng, nhưng có người đã cắt băng ra, có thể là bằng cưa máy không dây, sau đó thả cô bé xuống nước. Nếu cô bé sảy chân ngã thì chỗ băng vỡ sẽ nham nhở chứ không vuông vắn thế kia. Nhưng có điểm bất hợp lý…” “Điểm gì?” Cô nhíu mày, thò tay vào hộp dụng cụ và lấy ra cái máy khoan không dây, lắp mũi khoan có đường kính hai mươi lăm milimet rồi khoan hai lỗ, một lỗ ở ngoài phạm vi mấy hình vẽ, một lỗ gần với thi thể. Cô dùng thước đo khoảng cách từ mặt băng tới mặt nước ở cả hai lỗ. “Sao lại thế nhỉ, cô bé nằm bên dưới ranh giới đóng băng.” “Tôi chẳng hiểu gì cả.” Clair nói. “Hắn đã đổ nước vào.” Porter nói. Rolfes gật đầu. “Đúng vậy, nhưng tại sao? Hắn có thể khoét một cái hố, đẩy cô bé xuống bên dưới lớp băng sẵn có, rồi để cho cái hố tự đông lại được mà. Như thế sẽ nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều chứ. Cô bé có thể biến mất, thậm chí là vĩnh viễn.” Clair thở dài. “Làm ơn giải thích cho những người không được học qua lớp Hố Băng sơ cấp như tụi tôi được không?” Porter ra hiệu về phía cái thước, Rolfes đưa nó cho anh. “Băng ở đây dày ít nhất mười centimet. Mọi người có thể thấy mực nước đo được ở chỗ này.” Anh chỉ vào dấu vết trên cái thước. “Nếu khoét một hình vuông trên băng rồi nhấc ra, ta sẽ được một thành băng dày mười centimet tính từ mặt băng tới mặt nước. Giả sử ta thả xác cô bé vào đó, cô bé chìm xuống, sau đó ta muốn xóa cái hố này đi. Chỉ có một cách. Đó là đợi cho tới khi mặt nước phía trên cái xác đóng băng, chí ít là một lớp mỏng, sau đó đổ nước vào hố cho bằng với mặt băng xung quanh.” “Ít nhất phải hai giờ sau nước mới bắt đầu đóng băng.” Rolfes nói. “Cũng có thể nhanh hơn một chút, căn cứ vào nhiệt độ ngoài trời mấy ngày gần đây.” Porter gật gù. “Hắn tiếp tục đổ nước vào cho tới khi lượng nước mới ngang bằng với lớp băng xung quanh. Hung thủ là kẻ rất kiên nhẫn. Việc này cực kỳ mất thời gian.” Anh quay sang viên sĩ quan giám sát. “Chúng ta sẽ cần đến chỗ băng này. Thu thập tất cả những gì có ở phía trên cô bé cộng thêm ít nhất vài centimet xung quanh hình vuông. Rất có thể có dấu vết nào đó rơi vào nước trong lúc đóng băng. Hung thủ quanh quẩn ở đây rất lâu.” Viên sĩ quan có vẻ như muốn cãi lời, sau đó lại miễn cưỡng gật đầu. Anh ta biết Porter nói đúng. Ánh mắt Porter lại hướng về phía đám cây cối um tùm ở đằng xa. “Có điều, tôi không hiểu tại sao kẻ làm việc này lại không vứt cô bé ở kia. Đem cái xác tới nơi quang đãng này, hì hục cắt băng, lấp đầy nước, chờ cho đóng băng… như vậy quá mạo hiểm. Hung thủ có thể đem cô bé qua cầu rồi bỏ lại ở bất cứ chỗ nào bên đó, sẽ chẳng ai phát hiện ra cho tới tận mùa xuân, khi công nhân bắt đầu thi công. Vậy mà hắn lại dành hàng giờ để dàn dựng hiện trường gần khu vực có nhiều người qua lại. Chấp nhận nguy cơ bị bắt quả tang. Để làm gì? Để tạo cảm giác cô bé đã nằm đây lâu hơn nhiều so với thực tế ư? Hắn chắc chắn phải biết cảnh sát thế nào cũng đoán ra chứ.” “Xác chết thường không nổi lên mặt nước.” Nash nói. “Ít nhất là trong vài ngày đầu. Nhìn cô bé xem. Được bảo quản hoàn hảo. Tôi vẫn chưa hiểu sao cô bé lại nổi lên thế kia.” Porter di ngón tay theo cạnh của hình vuông lớn rồi dừng lại ở một trong hai hình vuông nhỏ kế bên. Áp mặt lại gần lớp băng, anh nhìn nghiêng từ bên cạnh và quan sát thi thể. “Quỷ tha ma bắt.” “Gì thế?” Rolfes rướn người tới. Porter rà bàn tay lên mặt băng trên vai cô bé. Khi tìm thấy thứ cần tìm, anh đặt tay Rolfes lên đó. Cô nhìn anh, mắt cô dần mở lớn trong lúc ngón tay hơi bấm xuống băng. Cô sờ vào vị trí tương ứng ở phía đối diện. “Hắn giữ cho cô bé khỏi chìm bằng cách dùng một vật bắc ngang qua cái hố này, có thể là tấm ván cỡ 2x4, căn cứ vào những dấu vết để lại. Sau đó, hắn quàng một sợi dây hoặc sợi thừng qua vai cô bé, rồi buộc vào tấm ván trong lúc chờ cho chỗ nước mới đóng băng. Xong xuôi, hắn cắt dây đi. Mọi người vẫn có thể sờ thấy hai đầu dây trong lớp băng ở chỗ này. Đoạn dây còn lại đủ để giữ cho cô bé nổi lên gần mặt nước. Mọi người sẽ thấy một sợi thừng mảnh nếu lựa đúng vị trí nhìn xuống lớp băng theo một góc nghiêng.” “Hắn muốn cô bé được tìm thấy ư?” Clair hỏi. “Hắn muốn để lại dấu ấn sâu đậm trong trường hợp cô bé được tìm thấy.” Porter nói. “Hắn hao tâm tổn trí dàn dựng sao cho nhìn bề ngoài tưởng như cô bé chết cóng dưới đầm từ nhiều tháng trước, dù thực tế cô bé mới ở đây cùng lắm là vài ngày, có thể ít hơn. Ta cần phải tìm hiểu lý do.” “Tên này đang giỡn mặt chúng ta.” Rolfes nói. “Hắn sắp đặt hiện trường để truyền tải câu chuyện nào đó.” Bản năng tự bảo vệ và nỗi sợ là hai trong số những bản năng mạnh mẽ nhất của con người. Porter không rõ liệu mình có muốn gặp một kẻ vô cảm với cả hai điều đó hay không. “Vớt cô bé lên đi.” Cuối cùng, anh nói. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Thứ Năm của tác giả J. D. Barker & Matryoshka (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trò Chơi Của Ripley
Tom Ripley chỉ quan tâm đến tiền. Tom Ripley chỉ giết người vô tội. Tom Ripley chỉ giả vờ hiền lành để người khác quý mến. Thông qua phần 1 – Quý ngài tài năng và phần 2 – Thế giới ngầm của Ripley, độc giả đã hiểu rõ về quá trình mà Tom Ripley từ một thanh niên “có vẻ hiền lành” trở thành một kẻ sát nhân. Hai phần đầu dường như khiến người đọc cảm thấy đã hiểu rõ về nhân vật này. Thế nhưng… Mọi điều bạn nghĩ mình biết về Tom Ripley – nhân vật phản anh hùng được yêu thích nhất của Patricia Highsmith – sắp hoàn toàn thay đổi. Anh tham gia vào một phi vụ chỉ vị cảm thấy bản thân có trách nhiệm. Anh trừng trị những kẻ sát nhân. Nhưng anh vẫn bị người khác ghét đến mức nhổ nước bọt vào mặt. … Và trong trò chơi nguy hiểm này, không còn những tay cảnh sát, thám tử ngờ nghệch. Những tên mafia Ý ra tay dứt khoát và tàn độc sẽ không dễ dàng buông tha cho Tom Ripley. Liệu với quá nhiều biến động xảy ra như vậy, anh có thể bảo toàn tính mạng cho màn đấu trí tiếp theo? *** REVIEW “TRÒ CHƠI CỦA RIPLEY” “Hai ô tô đậu trên sân sỏi một cách tùy ý, Tom muốn ngôi nhà của mình trông giống bức tranh một bữa tiệc đang diễn ra huyên náo, đông vui hơn so với thực tế. Dù Tom biết rằng thật ra chuyện này cũng sẽ chẳng cản trở hành động của tụi mafia đâu, nếu chúng định quẳng một quả bom vào, và do đó có thể anh đang đẩy bạn bè mình vào vòng nguy hiểm. Nhưng Tom có cảm tưởng là lũ mafia thích mưu sát anh một cách lặng lẽ hơn: chọn lúc anh ở một mình rồi tấn công anh, có thể là không dùng súng, chỉ cần tấn công đột ngột và gây chết người là đủ”. Hào hứng chờ quyển thứ 3 trong series Ripley và quả thật không cảm thấy thất vọng sau khi đọc xong. Ripley ở quyển này mang đến những màn giết người trầm tĩnh đến đáng sợ dù ở những chương đầu, một cuộc sống khá yên ả của nhân vật chính hiện ra trước mắt bạn đọc. Nhưng sự thanh bình trong đời sống của Tom chỉ là giây phút thoáng qua, dường như vận mệnh của một kẻ như anh là vậy, nhìn cứ tưởng là hào nhoáng, là nhẹ nhàng sau bao màn giết chóc nhưng ẩn giấu tận cùng đều là mùi máu tanh. Reeves – một người quen cũ của Tom đến tìm anh với mục đích nhờ giết dùm mấy tên mafia. Với cách cảm nhận của mình thì Reeves là một tên có tính cách đáng ghét và ăn hại. Vậy mà Ripley vẫn giúp hắn, nhưng anh nâng tầm lên bằng việc “nhờ cậy” Jonathan Trevanny. Thực chất, đưa Jonathan vào vụ này vì Tom muốn có kẻ thay mình làm, sau đó tâm lý dần chuyển thành muốn có bạn làm chung rồi cuối cùng là chuyển hóa thành tâm lý muốn bảo vệ Jonathan thoát khỏi vụ này. Ban đầu, việc thuyết phục Jonathan Trevanny khá khó khăn nhưng Tom nắm thóp được Jonathan đang cần tiền để chữa bệnh và lo cho gia đình, Reeves thì nhìn nhận Jonathan là một kẻ nhát gan và thiếu ý chí nên sẽ dễ dắt mũi. Một vài chiêu trò về tiền bạc, về sự cám dỗ đã khiến Jonathan rơi vào vòng xoáy phạm pháp mà Ripley vẽ ra. Cũng từ đó, hàng loạt vụ giết người diễn ra và Jonathan đáng thương cứ bị cuốn theo như thế, không thể nào tách ra được. Về mạch truyện, “Trò chơi của Ripley” thực sự rất cuốn vì ban đầu cứ thư thả, nhẹ nhàng, dần dần chuyển nhanh và đẩy cao trào một cách trọn vẹn. Những vụ ám sát xảy ra khá nhiều, cảm giác những cái chết của mấy tên mafia đến nhanh chóng và hồi hộp vô cùng. Nhân vật Tom ở phần 3 này dường như đã bớt “phản anh hùng” hơn hai quyển trước. Thứ nhất là ở tâm lý chỉ giết kẻ xấu, không giết người tốt nữa – một sự chuyển biến khá tích cực mà Patricia Highsmith đã dựng lên khá hay trong câu chuyện lần này. Thứ hai là cảm giác ăn năn khi kéo Jonathan Trevanny vào vụ việc ám toán lũ mafia. Sự hối hận này không giúp Jonathan thoát khỏi những rắc rối giết chóc nhưng cũng phần nào có thêm sự hỗ trợ để tránh những hiểm nguy chết người khi thực hiện “nhiệm vụ”. Dù rằng sau đó kết cục hơi cay đắng nhưng màn xây dựng tâm lý cho Tom ở quyển này đã mang nặng tình nghĩa và tình người hơn. Đây cũng là điểm yếu của quyển sách này vì khác với hai quyển trước, khi tâm lý tội phạm là nghệ thuật đỉnh cao trong cách viết của Highsmith thì ở quyển này, vì “tính tội phạm” của Ripley đã giảm một phần nào đó trong tính cách nên phần diễn tả nội tâm có phần kém hấp dẫn. Một điểm thú vị mà mình thấy được trong cách sống phức tạp của nhân vật Ripley là Jonathan Trevanny có một sức hút đặc biệt lạ kỳ đối với anh ta. Điều này cũng đã từng xảy ra ở hai quyển trước đó, dường như Tom rất dễ bị ảnh hưởng, bị ám ảnh bởi một người khác. Lần nào cũng vậy, một khuôn mẫu mà anh dễ bị tác động đến, vừa muốn bảo vệ vừa muốn làm hại người đó – vừa ngưỡng mộ vừa muốn phá bỏ để thay thế cái mà bản thân khao khát. Mình không nghĩ điều này là do Tom có tâm lý bệnh hoạn gì nhưng có xuất phát từ tài năng bắt chước, xuất phát từ hoàn cảnh thuở bé mà mãi cho đến tận sau này, Ripley vẫn chưa hề hài lòng về bản thân. Có lẽ, ở “Trò chơi của Ripley”, ai chết đã không còn quan trọng nữa, vì đối với Tom thì chúng là mafia – là những kẻ đáng phải chết. Và đúng với tinh thần đó, tác giả cũng miêu tả những cái chết một cách chớp nhoáng, kịch tính và không phức tạp tâm trạng của nhân vật chính khi giết người. Đúng là khi chúng ta ở thế giới của một nhân vật chính “phản anh hùng” thì luôn thấy những lý do giết chóc ấy ở một góc độ hợp lý. Sự biện minh chính nghĩa ấy được nâng tầm khá tốt ở quyển sách này và giống như một biểu tượng trưởng thành của Tom vậy. Nếu lần đầu, khi đọc “Quý ngài tài năng”, mình cảm thấy hình ảnh của “Gatsby vĩ đại”; lần hai khi đọc “Thế giới ngầm của Ripley”, mình liên tưởng đến “Bức tranh Dorian Grey” thì lần này, đọc “Trò chơi của Ripley”, mình chẳng liên tưởng đến bất cứ tác phẩm nào nữa, cảm thấy Tom Ripley của phần này khác biệt quá. Thật sự, cốt truyện của quyển này không phải là một chất xúc tác hấp dẫn mà thứ chinh phục bạn đọc chính là hình tượng nhân vật chính đã mang bản sắc cá nhân rất riêng biệt, rất độc đáo, khác đi với chính hắn trong quá khứ và chắc sẽ còn khác biệt nữa ở những quyển sau. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 16-11-2020) *** “Trần đời không thể có một vụ giết người hoàn hảo,” Tom nói với Reeves. “Đó chỉ là một trò chơi tự biên tự diễn, cố gắng khiến nó trở nên hoàn hảo. Tất nhiên anh có thể tranh luận là có rất nhiều vụ án chưa được giải quyết. Hai chuyện này khác nhau.” Tom thấy chán. Anh đi đi lại lại trước lò sưởi nhà mình, bên trong có một ngọn lửa nhỏ nhưng ấm cúng nổ lép bép. Tom cảm thấy cái cách anh vừa nói chuyện có vẻ trịch thượng lại còn bảo thủ. Nhưng vấn đề là, anh không thể giúp Reeves và anh cũng đã nói với anh ta điều đó rồi. “Phải, không sai,” Reeves nói. Anh ta đang ngồi trên một chiếc ghế bành lụa màu vàng, cơ thể mảnh dẻ chúi về phía trước, hai tay chụm lại giữa đầu gối. Anh ta có khuôn mặt xương xẩu, mái tóc ngắn màu nâu sáng, đôi mắt màu xám lạnh lẽo - không phải một khuôn mặt dễ chịu nhưng có thể được xem là khá đẹp trai nếu không có một vết sẹo dài mười hai phân từ thái dương bên phải vắt ngang qua má và gần chạm đến miệng. Có màu hồng sáng hơn một chút so với da mặt, vết sẹo giống như một tác phẩm khâu vá không lành nghề, hoặc cũng có thể nó chưa bao giờ được khâu lại. Tom chưa một lần hỏi về chuyện đó, nhưng Reeves từng tự nguyện kể lại, “Một cô gái dùng hộp phấn bỏ túi của cô ta gây ra đó. Anh có tưởng tượng nổi không?” (Không, Tom không thể.) Reeves nở một nụ cười buồn bã thoáng qua, một nụ cười hiếm hoi mà Tom nhớ ở anh ta. Vậy nhưng trong một dịp khác, “Tôi bị ngã ngựa - bị kéo lê theo bàn đạp vài thước.” Reeves đã nói vậy với một người khác, nhưng Tom cũng có mặt ở đó. Anh thì nghi là do một con dao cùn trong một trận ẩu đả hết sức hung hãn ở đâu đó gây ra. Giờ thì Reeves lại muốn Tom đề cử một người để thực hiện một mà có lẽ là hai “vụ giết người đơn giản” và có thể thêm một vụ trộm nữa, cũng rất an toàn và đơn giản. Reeves đã từ Hamburg đến tận Villeperce để nói chuyện với Tom và anh ta sẽ ở qua đêm, rồi ngày mai tới Paris để nói chuyện thêm với một người khác, sau đó mới quay về nhà, hẳn là để suy nghĩ thêm nếu mời chào thất bại. Reeves vốn chỉ làm việc mua bán đồ ăn cắp, nhưng dạo này đã bắt đầu nhúng tay vào thế giới cờ bạc phi pháp của Hamburg, giờ anh ta đang đảm nhận vai trò bảo vệ. Bảo vệ khỏi cái gì? Khỏi lũ cá mập Ý muốn nhảy vào ăn phần. Một gã từng là sát thủ đánh thuê của mafia đã được cử ra làm người thử lửa, ngoài ra còn có một gã nữa có thể đến từ một băng đảng khác, Reeves nghĩ. Khi trừ khử một hoặc có thể là cả hai kẻ xâm nhập đó, anh ta mong muốn sẽ dập tắt được những nỗ lực trong tương lai của bọn mafia, thêm vào đó là thu hút sự chú ý của cảnh sát Hamburg tới mối hiểm họa này, còn lại để cảnh sát giải quyết nốt việc tống cổ lũ mafia đi. “Bọn nhóc Hamburg đó là một băng đảng đứng đắn,” Reeves đã hùng hồn tuyên bố như vậy. “Có thể những gì chúng làm là phi pháp, việc điều hành vài casino tư, nhưng với câu lạc bộ thì không, vả lại chúng cũng chẳng thu về những khoản lợi nhuận kếch xù. Không giống Las Vegas, hoàn toàn bị mafia thao túng, lại còn ngay dưới mũi đám cảnh sát Mỹ!” Tom cầm que cời và gạt lửa lại một chỗ cho gọn, đút thêm một khúc gỗ nhỏ được chẻ gọn gàng vào. Giờ là gần sáu giờ tối. Chẳng mấy nữa là đến lúc uống rượu. Mà sao không uống luôn nhỉ? “Anh có muốn. Bà Annette, quản gia của nhà Ripley, đúng lúc ấy từ bếp vào. “Xin thứ lỗi. Anh Tome, anh có muốn uống rượu luôn không, vì hai anh đã không hề uống trà?” “Có, cảm ơn bà Annette. Tôi cũng vừa mới nghĩ vậy xong. Bà mời Heloise uống rượu cùng chúng tôi luôn được không?” Tom muốn cô giải tỏa bầu không khí một chút. Trước khi đến sân bay Orly lúc ba giờ chiều để đón Reeves, anh đã dặn Heloise là anh ta muốn nói chuyện riêng với mình, nên cô đã nhẩn nha trong vườn hoặc ở lỳ trên gác cả buổi chiều. “Anh vẫn không,” Reeves nói với vẻ khẩn thiết và dồn hết hy vọng lần chót, “cân nhắc chuyện tự mình đảm nhận việc đó sao? Anh thấy đấy, anh không có liên hệ nào với thế giới đó hết, đó là điều chúng tôi muốn. Sự an toàn. Sau tất cả, số tiền chín mươi sáu nghìn đô đâu phải là tệ.” Tom lắc đầu. “Theo một cách nào đó mà nói, tôi có liên hệ với anh còn gì.” Chết tiệt, anh từng giúp Reeves Minot vài việc vặt, như là gửi những món đồ nhỏ bị ăn cắp, lấy lại đồ từ các tuýp kem đánh răng, nơi anh ta đã đút chúng vào, những vật nhỏ xíu như các cuộn vi phim chẳng hạn, được những hành khách mang theo không chút hoài nghi. “Anh nghĩ tôi có thể trốn thoát bao nhiêu phi vụ bí mật như thế này nữa? Tôi còn phải bảo vệ danh tiếng của mình, anh biết đấy.” Tom suýt phì cười khi nói ra câu này, nhưng đồng thời tim anh cũng rộn ràng với một cảm xúc rất thật. Và anh đứng thẳng hơn, ý thức sâu sắc về ngôi nhà hoa lệ mà mình đang sống, về sự tồn tại an toàn của mình hiện giờ, tròn sáu tháng sau sự vụ Derwatt, suýt nữa đã trở thành một thảm kịch. Nhưng anh đã thoát được, chẳng phải chịu hậu quả gì ngoài chút hoài nghi quấn thân. Đi trên làn băng mỏng, đúng thế, nhưng mặt băng chưa vỡ. Tom đã tháp tùng thanh tra người Anh Webster và vài chuyên gia pháp y tới khu rừng ở Salzburg nơi anh đã hỏa thiêu cái xác của người được xem là họa sĩ Derwatt. Cảnh sát cũng hỏi vì sao anh lại đập nát sọ người. Tom vẫn nhăn nhó khi nghĩ lại, vì anh đã làm vậy để cố gắng rải rác và che giấu hàm răng trên. Hàm răng dưới dễ dàng bung ra, và Tom đã chôn nó ở cách đó một đoạn. Nhưng hàm răng trên... Vài chiếc răng đã được một chuyên gia pháp y thu thập lại, nhưng hoàn toàn không có hồ sơ nha khoa của Derwatt từ bất kỳ một nha sĩ nào ở Luân Đôn hết, Derwatt đã sống (như người ta nghĩ) ở Mexico suốt sáu năm trước đó. “Lúc ấy nó có vẻ là một phần của công tác hỏa táng, việc phải làm để giúp anh ấy biến thành tro bụi,” Tom đã trả lời họ như vậy. Cái xác bị đốt thực ra là xác của Bernard. Đúng thế, Tom vẫn thấy rùng mình trước sự nguy hiểm trong thời khắc ấy cũng như hành động đáng kinh sợ của anh, thả một tảng đá lớn xuống cái sọ đã cháy đen. Nhưng ít nhất anh không hề giết Bernard. Bernard Tufts đã tự tử. Tom nói, “Chắc chắn là trong số những người mà anh quen thì anh có thể tìm được một người làm việc đó chứ.” “Đúng thế, vậy nhưng họ đều có liên hệ với tôi - nhiều hơn anh. À, những người mà tôi quen thì đều khá tai tiếng,” Reeves nói với giọng đượm vẻ đầu hàng buồn bã. “Anh quen rất nhiều người đáng kính, Tom, những người thật sự trong sạch, những người không thể chê trách.” Tom bật cười. “Anh định dụ dỗ những người như thế bằng cách nào hả? Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ anh mất trí rồi đấy, Reeves.” “Không! Anh hiểu ý tôi mà. Một người chịu làm vì tiền, chỉ cần tiền mà thôi. Họ không nhất thiết phải là chuyên gia. Chúng tôi sẽ chuẩn bị chu đáo. Nó sẽ giống như... một vụ mưu sát công cộng. Một ai đó mà nếu bị thẩm vấn thì trông anh ta sẽ... hoàn toàn không có khả năng gây ra hành động đó.” Bà Annette đẩy xe chở rượu vào. Xô đá bạc bóng loáng. Chiếc xe đẩy kêu lọc xọc. Tom đã định tra dầu cho nó mấy tuần nay rồi. Anh có thể giễu cợt Reeves tiếp vì bà Annette, Chúa phù hộ linh hồn bà ta, không hiểu tiếng Anh, nhưng Tom đã chán ngán chủ đề này rồi và thậm chí còn thấy sung sướng khi bà Annette cắt ngang. Bà ta tầm sáu mươi tuổi, gốc Normandy, đường nét đẹp và cơ thể rắn rỏi, một viên ngọc quý trong số những người hầu. Tom không thể tưởng tượng ra Belle Ombre vận hành mà thiếu bà ta. Mời các bạn đón đọc Trò Chơi Của Ripley của tác giả Patricia Highsmith & Nguyễn Mai Trang (dịch).
Bùn Nhơ Trên Tuyết
Bùn nhơ trên tuyết Tác giả: Georges Simenon Người dịch: Lê Văn & Vân Phong Nhà xuất bản Thuận Hóa Năm xuất bản 1988   Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. Mời các bạn đón đọc Bùn Nhơ Trên Tuyết của tác giả Georges Simenon.
Kẻ Gây Hấn
XIN MỜI QUÝ BẠN ĐỌC THỬ NGAY CUỐN SÁCH NÀY ĐỂ ĐƯỢC SỐNG HAI GIỜ TUYỆT THÚ CHƯA TỪNG CÓ, NHƯ CẦM TRÊN TAY MỘT QUẢ BOM NỔ CHẬM Nguyên tác “Le Provocateur” của Maurice Ellabert Bồ Giang dịch thuật Tác phẩm thứ 1 của TỦ SÁCH BỒ-GIANG In lần thứ nhất: Tháng 4-1974   LỜI TỰ GIỚI THIỆU CỦA TỦ SÁCH BỒ-GIANG Để giúp Quý Bạn thuộc mọi giới công tư chức, quân nhân, sinh viên và học sinh một vài giờ giải trí đầy những bất ngờ vừa kinh hoàng vừa lý thú, chúng tôi xin gửi đến Quý Bạn Tủ Sách Bồ Giang mà tác phẩm đâu tiên là “KẺ GÂY HẤN” của Maurice Ellabert, tác phẩm đã đoạt Giải Thưởng Tiểu Thuyết Phiêu Lưu Hay Nhất Năm 1967 tại Pháp. Sau đó, Tủ Sách Bồ-Giang sẽ lần lượt phát hành những tác phầm lừng danh khác đã từng chiếm những giải thưởng đặc biệt trong lãnh vực văn chương trinh thám và khoa học giả tưởng trên khắp thế giới như: ♦ Giải Thưởng Edgar của Hiệp Hội Các Nhà Văn Bí Mật Mỹ Châu: ♦ Giải Thưởng Nebula và Hugo của Hiệp Hội Các Nhà Văn Khoa Học Giả Tưởng Mỹ Châu. ♦ Các Giải Thưởng Quai des Orfèvres. Tiểu Thuyết Phiêu Lưu Hay Nhất Năm, Tiểu Thuyết Trinh Tham Hay Nhất Năm, ♦ Giải Thưởng Văn Chương Trinh Thám tại Pháp ♦ Các Giải Thưởng Văn Chương Trinh Thám khác tại Anh, Bắc Âu... Bên cạnh đó, còn có những tác phẩm kỳ tuyệt khác tuy không chiếm giải thưởng nào nhưng vẫn sôi động không kém, sẽ khiến cho độc giả mỗi khi cầm lên tay là phải đọc một hơi từ đầu đến cuối. Đó là trường hợp của TUẦN TRĂNG MẬT THẢM KHỐC của Lawrence Block, tác phẩm thứ 2 trong Tủ Sách Bồ Giang sẽ phát hành vào đầu tháng sau. Trong giai đoạn đầu tiên, Tủ Sách Bồ Giang sẽ xuất bản mỗi tháng một cuốn. Về sau nếu hoàn cảnh thuận tiện hơn chúng tôi sẽ xuất bản mỗi tháng hai cuốn hoặc nhiều hơn. Muốn vậy, trong trường hợp Quý Bạn vừa ý với tác phẩm đầu tiên này của Tủ Sách Bồ Giang, chúng tôi ước mong Quý Bạn giúp chúng tôi một việc mọn: Giới thiệu cuốn sách này với hai người bạn thân cùng sở thích mê đọc sách, nhất là loại kinh dị. Được như thế, Tủ Sách Bồ-Giang mới có hy vọng sống còn trong giai đoạn cực kỳ khó khăn này và sẽ tiếp tục phục vụ tận tình với Quý Bạn trong những tác phẩm khác càng ngày càng thêm hấp dẩn từ hình thức đến nội dung. Chúng tôi xin thành khẩn ghi ơn Quý Bạn. Gia định, ngày 11-4-1974 BỒ GIANG và Nhóm Bằng Hữu *** CHƯƠNG 1 Người chủ khách sạn của tôi đang chăm chú làm việc tựa hồ cố tính toán để dùng số tiền dành dụm mua lại nhà hàng Ritz hoặc Crillon. Tuy nhiên ông ta vẫn ngẩng đầu lên khi tôi đi qua và cất tiếng gọi tôi: - Ông Charmoy! Sáng nay có người đến thăm dò tôi về ông. Tôi quay bước trở lui, có vẻ thú vị. - Một ký giả chứ gì? - Chắc không phải. Một người muốn biết rõ tư cách của ông. Tôi liền bảo: - Tôi hết lòng tin cậy ở ông. Vì thanh danh khách sạn của ông, lẽ ra ông nên nhờ một tên giết mướn thanh toán bọn nghèo đói như tôi. - Ông ta cũng đặc biệt lưu ý đến hoạt động kịch nghệ của ông. - Chắc ông đã hết lời khai ra rằng hiện giờ tôi vô cùng nhàn rỗi? Viên chủ khách sạn cằn nhằn: - Đâu có phải vì tôi mà lúc này ông không có việc làm? Người đó đã hỏi tôi hiện giờ ông có bận tập một vở kịch gì hay đang quay một cuốn phim nào không. Tôi đã ngầm nói cho ông ta hiểu rằng ông không đến nỗi bận rộn lắm. - Như thế thì kỳ lạ thật. Không lẽ ông ta đi thăm dò để lập gánh hát? - Ông sẽ hiểu rõ nếu người ta đề nghị với ông một giao kèo đóng phim với Brigitte Bardot. Tôi trở về phòng và cố suy đoán nguyên do chính xác về vụ xâm phạm đời tư của tôi một cách kỳ lạ này. Giả thuyết cho rằng đây là một cuộc điều tra để tìm diễn viên sân khấu hoặc màn ảnh tôi thấy không hẳn là vô lý. Thật tình tôi có một bản chất lạc quan và tôi sẵn sàng đón nhận những thất vọng của cuộc đời với tất cả bình tĩnh, kể từ khi ban giám khảo Trường Quốc Gia Kịch Nghệ cấp cho tôi một giấy ban khen, đúng với lời ông thầy tử vi đã tiên đoán tôi sẽ đoạt Giải Nhất về ngành hài kịch. Tôi đã để lại hình và địa chỉ cho khá nhiều nhà sản xuất điện ảnh và các vị giám đốc đoàn ca kịch nên rất có thể một người nào đó vì không tin, vì thận trọng hoặc vì theo một thủ tục bắt buộc, đã đi thăm dò kỹ về tôi trước khi ký hợp đồng với tôi. Tôi ngủ thiếp đi với những nhận định này. Ngày hôm sau, những tư tưởng đó bỗng trở về trong tâm trí tôi khi tôi nghe nói có ai điện thoại. Tôi vội vàng chạy xuống chiếc tủ được ngụy trang thành một buồng điện thoại. Tôi nói vào máy bằng một giọng ung dung của kẻ không chờ một ai cả. - Tôi là Pierre Charmoy, đang nghe đây. - Tôi muốn nhờ ông giúp một việc. Tôi không hy vọng lạc quan của mình thành sự thật một cách nhanh chóng như thế. Tôi bảo: - Mình sẽ cùng nhau bàn tính. Xin lỗi ông là ai? Người ở đầu dây đằng kia trả lời ngay: - Ông dù có biết cũng không lợi gì. Vì vậy xin ông cho tôi được giấu danh tánh, Tôi chưa kip trình bày nỗi kinh ngạc của tôi thì người kia lại tiếp: - Vì lẽ nghề nghiệp của ông là đóng những vở kịch vui, tôi muốn đem đến cho ông một vai trò đặc biệt và hết sức bất ngờ. Đây không phải là một màn trên sân khấu mà ở ngoài đường phố. Tôi xin giải thích: ông hãy đến lưu ngụ trong một đô thị nhỏ, suốt ngày hãy xuất hiện quan sát thiên hạ và giả vờ tò mò muốn tìm hiểu các hành vi và cử chỉ của họ để làm cho họ phải khó chịu, phải tức tối. Tôi hy vọng ông sẽ đóng được vai trò này. Biết chắc mình đang bị một kẻ vô danh đùa cợt, tôi trả lời: - Đó chỉ là trò trẻ con. Người kia vẫn tiếp lời: - Có lẽ ông đã hiểu vì sao tôi bày trò lừa phỉnh này? Tôi thú thật không được hiểu rõ bao nhiêu. Y liền trình bày rõ: - Lý do rất đơn giản. Tôi có một mối ác cảm với dân chúng trong vùng đó. Tôi tưởng có thể làm thế cho bõ ghét, một lối trả thù mà chắc ông cũng công nhận là không lấy gì làm ác độc, nhưng không kém phần khôi hài. Tôi tiếp: - Như mọi soạn giả khác, ông không được khiêm tốn mấy. Và để trình diễn tác phẩm của ông, ông sẽ trả cho tôi bao nhiêu? - Tùy theo điều kiện của ông. Ông muốn bao nhiêu cũng được. Câu trả lời quả quyết làm cho tôi sửng sốt mất một lúc lâu mới nói đại một con số: - Một ngàn quan mỗi tuần chưa kể mọi chi phí. Người kia im lặng một lát. Tôi vội vàng nói tiếp: - Đó là giá lương hiện lại của tôi. Lẽ tất nhiên vì đây là trường hợp đặc biệt tôi phải đầu cơ lên giá chút đỉnh. Nếu ông không quyết định ngay, không chừng tôi còn lên giá cao hơn nữa. Gã đối thoại nặc danh đề nghị: - Tổng cộng một ngàn quan. Các chi phí của ông chắc sẽ không nhiều lắm đâu. Ông đồng ý chứ? Tôi la lớn: - Ồ! Đâu có gấp như thế được! Ông phải cho tôi biết rõ các chi tiết đã chứ. Trước hết là thời gian trình diễn? - Ít ra cũng một tuần. Có lẽ hai. - Nơi nào? - Gần Nancy...Foncourt. Lại im lặng một lát, rồi người kia hỏi: - Cái tên đó làm ông nhớ tới chuyện gì hay sao? Tôi bảo: - Thủy tinh. - Đúng thế. Đó là xứ sở sản xuất nhiều loại thủy tinh nổi tiếng, ông có quen biết người nào ở nơi đó không? - Không. - Càng hay. Như vậy càng đỡ rắc rối. Tôi sẽ trả tiền trước. Ông có thể đi ngay được chứ? Tuy đã quyết định chấp thuận mọi điều kiện về tiền thù lao và thời hạn, tôi vẫn không muốn tỏ ra mình đã chấp thuận một cách gấp rút tố cáo rằng mình đang túng tiền. Tôi liền trả lời: - Tôi đâu đã nói với ông rằng tôi bằng lòng. Nói trắng ra, vai trò do ông đề nghị là một trò hề! Đó không phải kịch nghệ mà chính là làm xiếc. Nói như thế vẫn còn chưa được đúng. Phải bảo là trò múa rối. Vì vậy, tôi do dự. Tôi không muốn giảm giá cũng như làm ô danh nghệ thuật... Y cắt ngang mục khôi hài của tôi bằng một tiếng cười nhạt xấc láo: - Với một ngàn quan mỗi tuần, ông nên dẹp quách cái luận điệu đó đi. Tôi vẫn còn cãi bướng, viện lý do nhiều vận động quan trọng đòi hỏi sự hiện diện của tôi ở Paris và tôi lại hỏi y: - Người đã đến đây hôm thứ bảy để hỏi thăm viên chủ khách sạn có phải là nhân viên của ông? Y trả lời: - Những điều thuận tiện mà tôi được biết về ông trên lãnh vực nghề nghiệp cần phải được nhiều chi tiết khác bổ khuyết cho hoàn toàn đầy đủ. Thế nào mình cùng nhau thỏa thuận chứ? - Mình sẽ thỏa thuận khi tôi đã nhận được tiền. - Ông sẽ nhận tiền vào ngày mai. Tôi bỏ tiền vào phong bì gửi ngay tức khắc cho ông. Ông hãy đến Foncourt dùng cơm tối và đi tới Khách Sạn Thương Mãi. Ông cứ ghi tên thật vào sổ và cho biết nghề nghiệp của ông. Phần còn lại, tôi để cho ông tùy nghi hành động. Lúc này, tôi không còn nghi ngờ thiện ý của kẻ đã điện thoại với tôi và sự việc y muốn giữ kín danh tánh đã xác nhận điều tôi suy nghĩ. Y lại còn nhấn mạnh sự kiện tôi không được tiết lộ lý do thái độ của tôi khi đã đến Foncourt và cũng không được cho bất cứ một ai trong đám bạn bè thân thuộc hay biết sứ mạng dị thường này. Rồi y xác định với tôi một cuộc điện đàm tại chỗ cũ, vào ngày thứ ha tuần tới; đúng mười hai giờ trưa, và y gác máy. Tối đến, ở tiệm ăn, tôi không bỏ qua một chi tiết nào trong lúc kể lại cho Sylvie nghe vụ đề nghị không mấy bình thường đó. Nàng quả quyết bảo: - Gã đó phải tồi tệ lắm mới nghĩ ra một cách trả thù như thế này. Nếu mang lòng thù hận với tất cả người dân trong thành phố thì chắc bởi vì y đã bị xã hội bạc đãi, vừa là một con người giàu tưởng tượng và thâm hiểm. Tôi đáp: - Dù tên tồi tệ này có những lý đo gì đi nữa, cuộc phiêu lưu vẫn khiến anh thích thú. Anh sẽ khuấy động cả một vùng đã có một không khí buồn chán từ nhiều thế kỷ nay. Sylvie đầy vẻ nghi ngờ. - Anh nhớ không được lạm dụng đó. Anh chịu hứa với em anh sẽ không dối gạt em chứ? Tôi làm mặt giận: - Em tin anh theo cái kiểu đó à? Em dám mở miệng nói với anh như thế, sau khi anh vừa tỏ hết lòng tin cậy em bằng cách kể hết câu chuyện cho em nghe, bất chấp những chỉ thị minh bạch của gã đó? Nàng vừa trả lời vừa đưa tay qua mặt bàn siết nhẹ lấy tay tôi: - Chà, sung sướng cho cho em quá! Anh không có nói gì với má anh hay sao? - Ồ! Không. Bà cụ đâu còn đủ đầu óc khôi hài để thưởng thức vụ đùa dai cỡ này. Anh sẽ tối tăm mặt mũi với những lời căn dặn phải lưu ý đề phòng và những lời trách móc về cái tính thích phiêu lưu của anh. Tôi đã giới thiệu Sylvie với má tôi. Bà có cảm tình đặc biệt với nàng, nhưng nhất thiết không chịu thừa nhận rằng một kịch sĩ - dù là kịch sĩ sáng giá đến mấy đi nữa, và tôi lại còn chưa đạt tới mức đó - có thể kết hôn với một người con gái sắp sửa thi ra trường y-khoa và có dự định mở phòng mạch ở tỉnh nhỏ. Sylvie và tôi thì trái hẳn lại, có những tư tưởng lành mạnh và hết sức thành thực: tương lai về sự phối hợp giữa đôi lứa chúng tôi không vượt qua cái bằng bác sĩ của nàng. Lúc ra tới ngưỡng cửa tiệm ăn, tôi hỏi nàng: - Em cùng về với anh? - Tối nay không được, anh à. Suốt tuần vừa qua em đã không về ngủ ở nhà trọ lấy cớ phải đi trực đêm ở bệnh viện. Anh đừng có quên bà chủ nhà của em vẫn thường báo cáo tất cả cho gia đình em hay. Em khó lòng tìm cách chạy tội. Tôi vẫn còn cố thuyết phục: - Anh sắp sửa phải xa em suốt bảy tám ngày... Sylvie chận lời: - Mình sẽ thừa thời giờ sắp đặt mọi việc cần thiết khi ngày đi của anh đã được xác định. Dù sao vẫn còn một điều chưa rõ rệt và chính điều đó quyết định việc đi hay không. Tôi chắc lưỡi. - Vấn đề tiền! Anh tin chắc ngày mai sẽ có. Tôi nói đúng. Người đưa thư sáng hôm sau đã mang đến nhà tôi một chiếc phong bì màu xám, gửi từ Nancy, bên ngoài kẻ mấy hàng chữ in rất ngay ngắn đều đặn, rõ ràng được viết bằng dụng cụ vẽ. Chiếc phong bì đựng hai tờ giấy bạc năm trăm quan. Tôi đến tìm Sylvie tại bệnh viện Cochin và chúng tôi cùng đi ăn trưa, không ngừng bàn bạc nêu ra đủ mọi giả thuyết về nhân cách và những âm mưu thực sự của người bí mật vừa gửi tiền cho tôi. Tôi đã định sẽ đóng vai trò của mình một cách trọn vẹn để chiếm được lòng tin của kẻ quái dị đang mướn tôi và kéo dài giao kèo thêm một tuần lễ thứ hai. Tôi hứa với Sylvie sẽ điện thoại về cho nàng mỗi ngày, nhưng tôi nghĩ không cần phải báo tin việc tôi đi vắng trong một thời gian ngắn cho má tôi hay. Trong phòng riêng của tôi, tôi đã cẩn thận sắp đặt các thứ hành lý trước khi đi ăn trưa. Quả nhiên ngay khi cửa vừa khóa, Sylvie đã mở cuộc tấn công "những việc cần thiết" mà nàng muốn có một bảo đảm đầu tiên cho sự trung thành của tôi trong những ngày sắp tới. Khi tôi bước lên chiếc Triumph của tôi, trễ mất hai tiếng đồng hồ so với thời khắc biểu mà tôi đã định trước trong trí, cả hai ống chân của tôi đều mềm nhũn như đã hóa thành bông gòn, và đôi mí mắt chỉ muốn sụp xuống để ngủ một giấc mê say. Tình trạng này quả thật không thích hợp với công việc lái một chiếc xe hơi kiểu thể thao. Sylvie khuyên tôi nên ngừng xe ở dọc đường để uống cà phê và mở máy thâu thanh thật lớn. Mời các bạn đón đọc Kẻ Gây Hấn của tác giả Maurice Ellabert.