Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quỷ Sứ Cũng Phải Dè Chừng

Một vụ hành quyết man rợ trong khu ngoại ô hoang vắng ở Paris đã mở đầu cho một chuỗi những tình tiết được sắp đặt để dẫn tới một thảm họa toàn cầu, khi trào lưu của thứ ma túy chết người đe dọa nhận chìm nước Anh những năm sáu mươi; một chiếc máy bay dân dụng của Anh bị mất tích trên vùng trời Iraq và tiếng sấm của cuộc chiến tranh đang vang rền khắp vùng Trung Đông... Bond đã tìm thấy kẻ đồng lõa tự nguyện trong dáng hình của một phụ nữ Paris xinh đẹp và quyến rũ tên là Scarlett Papava. Chàng sẽ phải cần tới mọi sự trợ giúp của nàng trong trận đấu sinh tử với kẻ thù nguy hiểm nhất - đó là kẻ luôn sẵn lòng nhảy múa với cả quỷ sứ. Bond đã trở lại. Cùng sự báo thù Phiên bản mới này là phần tiếp theo đầy uy lực của di sản James Bond - một chương mới rất giật gân trong cuộc đời của một điệp viên hình tượng nhất trong văn học và phim ảnh. "Việc một người viết tiểu thuyết tầm cỡ như Faulks, chứ không phải ai khác, mang vào mình chiếc áo khoác của Fleming là sự tôn kính phù hợp nhất đối với một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nước Anh chuyên viết về đề tài li kì và giật gân." Ben Macintyre - The Times *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là một buổi tối lạnh lẽo ở Paris. Mưa vẫn không ngừng rơi lộp độp trên mái ngói đá đen của những tòa nhà dọc theo những đại lộ và cả trên những căn nhà nhỏ hai mái ở khu Latin. Phía ngoài khách sạn Crillon và khách sạn George 5, nhân viên gác cửa đang huýt gọi những chiếc taxi đến từ trong màn đêm, rồi hối hả chạy tới giương dù che cho những người khách mặc áo lông thú khi họ bước lên xe. Cả một khoảng không bát ngát của quảng trường Concorde ẩn hiện lấp lánh mờ ảo trong cơn mưa ào ạt. Ở khu Sarselles, một vùng xa phía bắc ngoại ô, Yusuf Hashim đang trú mưa trên hè đường. Trên đầu hắn không phải là mái vòm duyên dáng của cây cầu số Chín, nơi các cặp tình nhân đang túm tụm trú mưa, mà là một mảng bê-tông dài của chiếc ban-công với những cánh cửa rẻ tiền gắn đầy then, mở vào những căn hộ ba phòng cáu bẩn của khu nhà mười tám tầng nhìn xuống một phần đông đúc của quốc lộ N1. Được kiến trúc sư đặt tên là Cầu vồng, song khu nhà được coi là một chốn đáng sợ, ngay cả khi nó tọa lạc trong cái quận khét tiếng này. Sau sáu năm trời chiến đấu chống lại quân Pháp ở Algeria, cuối cùng Yusuf Hashim cũng bỏ chạy. Hắn trốn đến Paris và tìm được một chỗ ở Arc en Ciel, nơi ba người anh em của hắn sẽ cùng tụ họp vào một lúc thích hợp. Người ta nói rằng chỉ những kẻ sinh ra ở những khu nhà gớm ghiếc mới có thể không do dự khi du thủ du thực, ấy thế mà Hashim lại chẳng sợ ai. Hắn đã bắt đầu chuyến liều mạng đầu tiên khi làm việc cho Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria (FLN), lúc mới mười lăm tuổi đầu, bằng vụ đánh bom lửa một trạm bưu điện. Suốt thời gian ở Bắc Phi hoặc ở Paris, hắn chưa hề gặp một ai lại coi cuộc đời độc thân quá giá trị cả. Cuộc đua luôn dành cho kẻ mạnh, và thời gian đã chứng tỏ Hashim cũng mạnh mẽ như ai. Hắn bước ra ngoài trời mưa, mau lẹ liếc trước liếc sau. Dưới ánh đèn trắng nhạt, khuôn mặt rỗ màu xám nâu với chiếc mũi khoằm to tổ bố nhô ra giữa hai hàng lông mày đen của hắn trông đầy thận trọng. Hắn vỗ nhẹ vào túi sau của chiếc quần lao động màu xanh, nơi có 25.000 đồng franc mới, gói kĩ trong bao xốp. Từ trước đến giờ, đây là món tiền lớn nhất hắn từng giao dịch, do vậy tuy đã từng trải, hắn cũng thấy phải cẩn trọng. Giấu mình trong bóng tối, hắn liếc nhìn năm sáu lượt xuống chiếc đồng hồ đeo tay. Hắn không bao giờ biết mặt người mà hắn đang đợi vì chẳng bao giờ hắn gặp lại họ lần thứ hai. Đó là một phần xuất sắc của mưu đồ: sau mỗi phi vụ phải dứt điểm ngay với nguồn cung cấp vô tận của đám buôn lậu. Hashim cố gắng giữ an toàn đều đặn trong khi chuyển hàng. Hắn luôn nài nỉ phải thay đổi địa điểm và yêu cầu gặp người giao dịch mới, thế nhưng không phải lúc nào cũng được như ý. Các biện pháp thận trọng thì tốn tiền, và mặc dù đám bạn hàng của Hashim khá liều mạng, song chúng lại hiểu rõ giá trị đường phố về những gì chúng giao dịch. Chẳng kẻ nào trong đường dây lại có thể kiếm đủ tiền để hoạt động một cách tuyệt đối an toàn, chắc chắn chẳng có ai, ngoại trừ một vài gã gộc nhất, đầy quyền lực kiểm soát, đang ở cách xa hàng ngàn dặm cái chỗ hôi thối trong lòng cầu thang, nơi hắn đang đứng. Mời các bạn đón đọc Quỷ Sứ Cũng Phải Dè Chừng của tác giả Sebastian Faulks & Nguyễn Việt Hải (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Sơ Cuối
Bạn đã từng nghe đến một tổ chức tâm linh nhưng do nhà nước quản lý? Đã bao giờ nghe đến những vụ án bí ẩn chưa từng được công khai? Những vụ án đầy ly kỳ, những tên tọi phạm cực kỳ hung tàn và những góc khuất thối nát trong xã hồi sẽ được phơi bày qua cuốn tiểu thuyết này... Hãy thử trải nghiệm nỗi kinh hoàng tột cùng bị chôn giấu... *** 1000 năm trước, cái thời mà nhân giới vẫn còn cuồng tín thần linh, vẫn còn run sợ quỷ thần... Có một vị thần vì đi ngược tôn nghiêm của thiên giới nên bị trục xuất khỏi thiên cung, căm hận trước những gì mình phải trải qua, trước những bất công mình bị đày đọa nên vị thần này đã mở mang một thế giới mới... Thế giới của những á thần bị quên lãng và ruồng bỏ... Thế lực của y càng lớn thì sự hận thù trong y càng lúc càng tăng lên... Quyết tâm phải đánh sập thiên cung để trả thù nỗi nhục bị trục xuất năm xưa nên y đã liên minh với đại quỷ thần vương nước la sát đem quân thảm sát nhân giới làm bàn đạp đánh đế thích thiên... Nhưng cuối cùng chính y lại phản bội vua pandaka của la sát giới vào phút chót để đổi lấy một danh thần... Y chính là asura ( atula vương) Vị thần chiến tranh của thiên giới năm xưa... Bắt đầu kỷ nguyên của một huyền thoại bất diệt.... Các bạn có tin câu chuyện bên trên không?   Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Cuối của tác giả Nguyễn Điệp.
Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele
Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mĩ Latinh, không có bản án của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschiwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những gì còn hơn một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mĩ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Ngòi bút tỉ mỉ của Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. “Một thành công lớn trong việc mô tả một con quỷ lăn lộn trong cái tầm thường xoàng xĩnh sau cái thời là Thiên thần chết ở Auschwitz.”       - Jean-Christophe Buisson *** Trốn chạy có phải là cách để cái ác không phải đền tội. Thế nhưng, trốn chạy cả đời vẫn khó có thể thoát khỏi bán án của lương tâm mình… Cuốn sách kể lại câu chuyện về hành trình bỏ trốn tới Nam Mỹ của Josef Mengele – một bác sĩ thời Đức quốc xã. Bằng ngòi bút sắc bén của một nhà báo kết hợp cùng sự điêu luyện của một nhà văn, Olivier Guez đã lột tả hết sức chân thực cuộc đời của một kẻ trốn chạy cả đời cũng không thoát khỏi bản án của lương tâm mình. Để đến cuối cùng, cuốn tiểu thuyết để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc mãnh liệt hơn bao giờ hết về tội ác của Đức quốc xã cùng những nỗi đau âm ỉ dai dẳng khôn nguôi. Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mỹ Latinh, không phải chịu sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những thứ còn hơn cả một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mỹ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Để hoàn thành tác phẩm Cuộc trốn chạy của Josef Mengele, Guez đã phải tìm tài liệu về bác sĩ quốc xã trong suốt ba năm. Trong suốt quá trình thai nghén cho cuốn sách, ông cũng tự mình đi tới Günzburg, Argentina và Brazil (đặc biệt là trang trại Santa Luzia ở ngoại ô Serra Negra), nghiên cứu rất nhiều tư liệu, gián tiếp tiếp cận các cuốn nhật ký của viên bác sĩ bỏ trốn để hiểu rõ cách nhìn thế giới của quốc xã. Về quá trình này, ông từng chia sẻ với tờ Le Monde: “Tôi đã sống cùng ông ta, với cái nhân vật đê tiện, tầm thường tột bực đó. Tôi đã bước lên sàn đấu. Tôi đối diện với ông ta. Sáu tháng đầu tiên, có lúc tôi đã kêu tên ông ta trong đêm.” Với ngòi bút tỉ mỉ của mình, Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. Auschwitz là một trong những trại tập trung do Đức Quốc xã xây dựng ở Ba Lan để hành hạ và sát hại dã man người Do Thái trong Thế chiến 2. Rất ít người Do thái đến các trại tập trung này có cơ hội được trở về *** Olivier Guez là nhà báo, nhà văn người Pháp. Ông lớn lên ở Strasbourg, một thành phố gần Đức. Ngay từ khi còn nhỏ, bà ngoại ông đã cho ông đọc rất nhiều. Sau khi học tại Sciences-Po Strasbourg, London School of Economics và Collège e’Europe de Bruges, ông làm nhà báo tự do cho nhiều tờ báo quốc tế như New York Times, Le Monde, Frankfurter Allgemeine Zeitung, Le Figaro Magazine, L’Express, etc. Ông viết chung tác phẩm đầu tay La Grande Alliance với Frédéric Encel. ***   Lão gia “Hạnh phúc chỉ nằm ở những gì khuấy động, và chỉ có tội ác mới khuấy động được; đức hạnh... không bao giờ có thể dẫn tới hạnh phúc.” SADE Con tàu North King rẽ nước trên dòng sông đầy bùn. Trên boong tàu, hành khách chăm chú ngắm nhìn đường chân trời từ khi bình minh lên, và giờ đây, khi những cây cần cẩu ở công trường đóng tàu và vạch kẻ đỏ của khu nhà kho cảng hiện ra trong màn sương, đám khách người Đức cùng hát một khúc quân hành, người Italia làm dấu thánh giá, còn người Do Thái thì cầu nguyện dù trời đang có mưa bụi, các cặp đôi hôn nhau, con tàu cập bến Buenos Aires sau ba tuần lênh đênh trên biển. Một mình dựa vào thành tàu, Helmut Gregor suy tư. Hắn từng hy vọng rằng một chiếc tàu tuần tra của cảnh sát mật sẽ tới đưa hắn đi và giúp hắn tránh khỏi những phiền nhiễu của hải quan. Khi lên tàu ở Gênes, Gregor đã xin Kurt đặc ân này, hắn tự giới thiệu là một nhà khoa học, một chuyên gia tầm cỡ về di truyền học và đề xuất với Kurt hắn sẽ trả tiền (Gregor có rất nhiều tiền), nhưng kẻ tổ chức vượt biên cười và né tránh: quyền ngoại lệ này chỉ dành cho những nhân vật tai to mặt lớn, những quan chức của chế độ cũ, chứ không mấy khi dành cho một đại úy của SS*. Dù sao thì Kurt cũng sẽ đánh điện tới Buenos Aires, Gregor có thể trông cậy vào ông ta. Kurt đã bỏ túi một số bền, nhưng chiếc tàu tuần tra thì không hề xuất hiện. Gregor phải kiên nhẫn chờ đợi trong sảnh đường rộng mênh mông của hải quan Argentina cùng với những người di cư khác. Hắn giữ chặt hai chiếc va li, một to một nhỏ, và khinh khỉnh nhìn đám dân châu Âu lưu vong đứng quanh đó, những hàng dài người vô danh lịch lãm hay nhếch nhác mà hắn luôn tránh xa trong suốt hành trình. Gregor thà ngắm nhìn đại dương và các vì sao hoặc đọc thơ Đức trong cabin của mình còn hơn; hắn đã nhìn lại bốn năm vừa qua trong đời mình, từ khi hắn chạy khỏi Ba Lan một cách thảm hại vào tháng Một 1945 và trà trộn vào lực lượng Vệ quốc Đức Quốc xã để thoát khỏi nanh vuốt của Hồng quân: hắn bị giam vài tuần trong một trại tù của Mỹ, sau đó được thả vì hắn có giấy tờ giả mang tên Fritz Ullmann, rồi hắn ẩn náu trong một nông trang đầy hoa ở Bavière, cách thành phố Gunzburg quê hương hắn không xa, ở đây hắn làm công việc cắt cỏ cho gia súc và phân loại khoai tây trong ba năm với cái tên Fritz Hollmann, rồi sau đó hắn chạy trốn tới Pâques cách đây hai tháng, vượt qua dãy núi Dolomites bằng đường mòn trong rừng của những kẻ buôn lậu, rồi đến vùng Nam Tyrol ở Italia, ở đây hắn đổi tên thành Helmut Gregor, cuối cùng hắn tới Genova, nơi tên buôn lậu Kurt đã giúp hắn làm các thủ tục với chính quyền Italia và cơ quan nhập cảnh Argentina. Tại hải quan, kẻ đào tẩu xuất trình giấy thông hành của Hội Chữ thập đỏ quốc tế, giấy phép lên bờ và visa nhập cảnh: Helmut Gregor, cao 1,74 mét, mắt nâu xanh lá cây, sinh ngày 6 tháng Tám 1911 tại Termeno, tiếng Đức là Tramin, tỉnh Nam Tyrol, công dân Đức quốc tịch Italia, theo Thiên Chúa giáo, nghề nghiệp kỹ sư cơ khí. Địa chỉ tại Buenos Aires: 2460 phố Arenales, khu phố Florida, nhà của Gerard Malbranc. Nhân viên hải quan kiểm tra hành lý của hắn, quần áo gấp cẩn thận, tấm ảnh chân dung một phụ nữ tóc vàng mảnh dẻ, vài cuốn sách và một số đĩa hát opera, rồi anh ta cau mày khi thấy các món đồ trong chiếc va li nhỏ: ống tiêm hạ bì, vài cuốn sổ ghi chép và bản đồ giải phẫu, các tiêu bản máu, tiêu bản tế bào: không liên quan gì tới một kỹ sư cơ khí. Anh ta bèn gọi nhân viên y tế của cảng tới. Gregor run rẩy. Hắn đã mạo hiểm một cách điên rồ để giữ chiếc va li nhỏ gây liên lụy, kết quả quý giá của biết bao năm trời nghiên cứu, của cả đời hắn, mà hắn đã mang lên tàu khi vội vã rời khỏi nơi làm việc ở Ba Lan. Nếu bị quân Xô viết bắt được khi đang giữ cái va li đó, hắn sẽ bị xử tử ngay lập tức mà chẳng cần xét xử gì. Trên đường trở lại Tây Âu mùa xuân 1945, khi quân đội Đức Quốc xã rút chạy tán loạn, hắn đã gửi va li cho một nữ y tá có lòng trắc ẩn, rồi sau đó tìm lại cô ở Đông Đức, trong vùng Liên Xô kiểm soát, một chuyến đi điên rồ sau khi hắn được thả khỏi trại giam Mỹ và ba tuần đi đường. Sau đó, hắn đưa va li cho Hans Sedlmeier, một người bạn từ thuở nhỏ và là người được cha hắn, một nhà công nghiệp, hết mực tin cậy, Sedlmeier mà hắn thường xuyên gặp gỡ trong khu rừng xung quanh nông trang nơi hắn ẩn náu suốt ba năm. Gregor không thể rời khỏi châu Âu mà không đem theo chiếc va li này: Sedlmeier đã trả lại va li cho hắn trước khi hắn đi Italia cùng với một chiếc phong bì dày đầy tiền mặt, và giờ đây một gã ngớ ngẩn móng tay bẩn thỉu đang bới tung mọi thứ, Gregor thầm nghĩ, còn nhân viên y tế của cảng thì xem xét các tiêu bản và những ghi chép viết bằng kiểu chữ gothic sin sít. Vì không hiểu gì cả, nên nhân viên hải quan hỏi hắn bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức, tay kỹ sư cơ khí giải thích với ông ta về thiên hướng trở thành nhà sinh vật nghiệp dư của mình. Hai người đàn ông khinh bỉ nhìn nhau, còn nhân viên y tế đang muốn đi ăn trưa nên ra hiệu cho nhân viên hải quan cho hắn qua. Ngày 22 tháng Sáu 1949 ấy, Helmut Gregor đặt chân tới nơi ẩn náu mới: Argentina. Mời bạn đón đọc Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele của tác giả Olivier Guez & Hoàng Mai Anh (dịch).
Vụ Án Bí Ẩn Ở Styles (Thảm Kịch Ở Styles)
Sau thời gian tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, đại úy Hastings quay trở về Anh dưỡng bệnh. Ông được người bạn cũ, cựu luật sư John Cavendish mời về điền trang của gia đình ở Styles, Essex để nghỉ ngơi. Tại đây Hastings đã làm quen với đại gia đình của nữ chủ nhân Emily Inglethorp, một gia đình có nhiều người đáng mến nhưng cũng nhuốm điều gì đó kỳ lạ. Sau vài ngày ở Styles, Hastings bất ngờ được chứng kiến một vụ án bí ẩn. Trong một đêm đẹp trời, bà Emily Inglethorp đột nhiên qua đời với những dấu hiệu của một người bị đầu độc strychnine. Tình cờ là trong khoảng thời gian đó thám tử Hercule Poirot, một thám tử lừng danh người Bỉ và là bạn cũ của đại úy Hastings, cũng đang sống lưu vong ở gần Styles. Poirot lập tức được John Cavendish mời về điều tra vụ án theo lời khuyên của Hastings. Ban đầu mọi nghi ngờ đều đổ dồn vào ông Alfred Inglethorp nhưng duy nhất chỉ có thanh tra Poirot tìm mọi cách bảo vệ cho ông khỏi bị bắt và đưa ra tòa. Một nghi phạm khác của vụ án, bác sĩ chuyên ngành độc dược Bauerstein hóa ra lại là một gián điệp người Đức trà trộn ở vùng đồng quê Anh. Cuối cùng sau thời gian liên tục khám xét tòa nhà và tìm kiếm bằng chứng, Sở Cảnh sát Anh Scotland Yard, đứng đầu là Chánh thanh tra Japp, đã bắt giam John Cavendish vì ông cựu luật sư gây ra nhiều sự nghi ngờ nhất. Tuy nhiên tại tòa, luật sư của John đã nhanh chóng bác bỏ được mọi lập luận của bên công tố vì không có bằng chứng trực tiếp nào chứng minh được John đã giết mẹ của ông. Vụ án kết thúc một cách bất ngờ khi Poirot chỉ ra rằng chính ông Inglethorp đã cùng với cô Evelyn Howard, bạn thân của bà Emily, giết vợ mình với mưu đồ chiếm đoạt tài sản thừa kế. Cô Evelyn Howard trước đó luôn tỏ ra khinh ghét ông Inglethorp với lý lẽ để bảo vệ bà Emily, nhưng thực chất chỉ là để che mắt mọi người về quan hệ họ hàng của cô với ông Alfred. Còn ông Inglethorp đã tìm mọi cách để bị bắt và kết án ngay từ đầu chẳng qua vì ông ta tin rằng mình không thể bị kết tội lần đầu tiên do thiếu bằng chứng, và như thế sẽ không thể bị kết án lại theo luật Bất hồi tố của Anh. Viên thám tử thông minh cũng giải thích lý do ông để cho John Cavendish bị bắt và đưa ra tòa mặc dù ông có bằng chứng chứng minh sự vô tội của John, đó là vì ông muốn dùng hoàn cảnh đó để hàn gắn mối quan hệ rạn nứt giữa John và Mary Cavendish. Vụ án kết thúc với việc Cynthia, cô gái mồ côi, và Lawrence Cavendish trở thành một cặp tình nhân. *** Nhân dịp Trẻ vừa phát hành thêm 2 cuốn mới về Poirot, xin được phép đăng review về lần xuất hiện đầu tiên của vị thám tử đầu quả trứng, coi như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng thân thiện để khuyến khích Trẻ xuất bản trọn bộ Agatha nhanh hơn.  ồ, hắn không phải thủ phạm -> đệch, hóa ra hắn là thủ phạm thật". Nói chung là dù không được đặc sắc như mấy tuyệt tác Vụ ám sát ông Roger hay Tàu tốc hành Phương Đông, nhưng vẫn rất xuất sắc, nhất là khi đây mới chỉ là tiểu thuyết đầu tay của Agatha Christie. Vậy nên, dù vẫn còn mấy điểm khá lấn cấn, ví dụ như việc thủ phạm tự giúp Poirot lật mặt mình, nhưng nhìn chung đây vẫn là một quyển sách mà mọi tín đồ của thể loại trinh thám đều nên có trên giá sách. Điểm: 8/10 Người viết: Phô Ních *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Vụ Án Bí Ẩn Ở Styles (Thảm Kịch Ở Styles) của tác giả Agatha Christie.
Hãng Thám Tử Tư (Những Kẻ Đồng Phạm)
Hãng thám tử tư/ Những kẻ đồng phạm Nguyên tác: Partners in Crime Năm phát hành: 1929 Thám tử: Tommy và Tuppence Giới thiệu: Sáu năm đã qua từ sau khi nhà Beresfords cộng tác phá án trong The Secret Adversary (Kẻ thù bí mật). Hiện nay Tommy làm công việc bàn giấy ở Sở Mật vụ Anh, còn Tuppence, mặc dù cực kì không hài lòng, vẫn phải ở nhà. Vì vậy, khi Giám đốc Cục tình báo Anh đề nghị họ điều hành hãng thám tử quốc tế, cả hai đều hào hứng nắm lấy những cơ hội phiêu lưu mới. 15 câu chuyện nhại lại các thám tử trong tiểu thuyết nổi tiếng với độc giả những năm 1920. Trong mỗi câu chuyện, Tommy và Tuppence bắt chước một phong thái và phương pháp của một thám tử hoặc đội thám tử, bao gồm cả Sherlock Holmes. (Nguồn bài giới thiệu: Fanpage Hội những người thích truyện trinh thám của Agatha Christie) *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Hãng Thám Tử Tư (Những Kẻ Đồng Phạm) của tác giả Agatha Christie.