Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hang Động

Lấy cảm hứng từ huyền thoại hang động trong đối thoại triết học của triết gia thời cổ đại Platon, José Saramago đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Hang động, để phê phán xã hội tiêu thụ nói riêng và chủ nghĩa tự do mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại, thông qua hình ảnh hủng khiếp của Trung tâm thương mại khổng lồ đang từng ngày từng giờ bành trướng về đất đai, về quyền uy, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần, “một thành phố trong một thành phố, nhưng lại to hơn chính cái thành phố kia”. Cuốn tiểu thuyết phản ánh bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp - thủ công nghiệp sang xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ nhanh chóng trên đất nước Bồ Đào Nha, qua đó chỉ rõ mỗi con người trong quá trình này đang bị đặt vào thế tiến thoái lưỡng nan: khi mà lối sống thực dụng, thói quen tiêu thụ, triết lý thị trường của xã hội tư bản ngày càng phát triển, sinh ra những mối quan hệ mới, những thế giới quan mới, buộc người ta phải quen với một trạng thái nô lệ kiểu mới, “ai không điều chỉnh được sẽ không dùng được”, và cũng như trong tác phẩm của Platon, một số người thoát ra khỏi hang động này, kịp thời nhận ra có thể có một cách sống khác. Câu chuyện xoay quanh số phận của một gia đình ba đời làm nghề gốm ở một vùng quê nghèo và đã bị Trung tâm đẩy vào bước đường cùng. Là nhân viên của Trung tâm, Marcal thì làm việc quần quật, đến nỗi vợ của anh, Maarta “chỉ được tận hưởng sự có mặt của chồng ở nhà và ở trên giường vẻn vẹn có sáu đêm và ba ngày mỗi tháng”. Trước bước phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật, công nghiệp, cha con ông Cipriano Algor là những người thợ gốm cuối cùng cũng đành bỏ nghề, một nghề xưa nay vẫn có thể sản xuất ra của cải nay chỉ còn là kỷ niệm, nhà xưởng biến thành nghĩa trang, sản phẩm thành di sản khảo cổ cho hàng ngàn năm sau. Họ chuyển vào sống ở Trung tâm, vốn là ước mơ của bao người, trong gần ba tuần, mà chẳng khác gì bị tù, để rồi người cha phải thốt lên: “tại sao mình lại có thể để bị giam kín trong suốt ba tuần mà không nhìn thấy mặt trời và những ngôi sao…”. Cuộc sống tự do đã thôi thúc họ từ bỏ tất cả, đi tìm một cuộc sống mới không chỉ cho họ mà cho cả con cái của họ nữa. Câu chuyện có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và cũng hết sức cảm động về tình cảm vợ chồng, cha con, về tình yêu giữa hai người goá bụa nảy nở trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực. Một cốt truyện giản dị, sâu sắc được kể liền mạch như trong một cuộc độc thoại nội tâm dài. Phong cách viết tiểu thuyết của José Saramago hết sức độc đào. Ông thường viết những câu văn rất dài, dùng dấu chấm, dấu phẩy mới nhìn tưởng là sai ngữ pháp, nhưng xem kỹ lại thấy hợp lý, mọi đối thoại đều liền mạch nối dài như mãi không dứt. Xen vào mạch truyện, ông thường đưa ra những nhận xét về mọi bình diện của cuộc sống, tuy đôi khi có những ý kiến rất khó hiểu những độc giả luôn tiếp nhận một cách thích thú. *** José de Sousa Saramago (16/11/1922 - 18/6/2010) là nhà văn, nhà thơ Bồ Đào Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1998. José Saramago sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở một làng nhỏ cách thủ đô Lisboa 100 km. Bố là lính pháo binh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, quyết định bỏ công việc đồng áng lên sống ở Lisboa. Những năm tiểu học, cậu là một học sinh giỏi: hoàn thành lớp ba và lớp bốn chỉ trong một năm. Khi lớn lên, vì không có khả năng tài chính Saramago phải vào học một trường kĩ thuật để trở thành thợ cơ khí. Học xong hai năm, Saramago làm việc cho một tiệm sửa chữa xe hơi, vào buổi tối, ông thường tới một thư viện công cộng ở Lisboa để đọc sách tự học thêm. Năm 1944, José Saramago cưới vợ, chuyển sang làm việc ở cơ quan phúc lợi xã hội. Năm 1947, ông viết xong cuốn tiểu thuyết đầu tiên Viúva (Góa phụ) nhưng do yêu cầu nhà xuất bản đã đổi thành Terra do Pecado (Mảnh đất tội lỗi). Sau đó Saramago còn bắt tay viết thêm mấy tiểu thuyết, nhưng rồi ông hiểu ra rằng mình chưa có gì để nói với thế giới nên đã lặng lẽ biến khỏi văn đàn suốt 19 năm không ai để ý. Vì các lý do chính trị, năm 1949 Saramago bị thất nghiệp nhưng nhờ lòng hảo tâm của một thầy giáo cũ ở trường kĩ thuật, ông tìm được việc làm ở công ty hợp kim. Sau đó ông chuyển sang làm việc với nhà xuất bản Estudios Cor. Đến năm 1966, ông xuất bản Os Poemas Possíveis (Chùm thơ có thể) đánh dấu sự trở lại của ông với văn chương. Năm 1969 ông vào Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha. Năm 1970, ông xuất bản tập thơ Provavelmente Alegria (Có thể đây là niềm vui). Sau khi li dị năm 1970, ông có mối quan hệ với nhà văn Isabel Da Nóbrega. Năm 1971, ông rời nhà xuất bản, làm việc trong hai năm cho tờ báo buổi tối Diario de Lisboa. Năm 1975, Saramago xuất bản tập thơ O Ano de 1993 (Năm 1993) và tiểu thuyết Manual de Pintura e Caligrafia (Tài liệu về hội họa và thư pháp, 1978); tiếp đó ông liên tiếp cho ra đời các tập truyện và tiểu thuyết như Objecto Quase (Mục tiêu Quase, 1978), Đêm tối (1979), Que farei com este livro? (Tôi có thể làm gì với quyển sách này?, 1980)... Năm 1988, ông kết hôn với nhà báo Pilar Del Rio. Năm 1993, ông bắt đầu viết hồi ký gồm năm tập. Năm 1995, ông được trao giải Camoes. Năm 1998 ông được trao giải Nobel Văn học, cho đến nay là người Bồ Đào Nha duy nhất được nhận giải thưởng này. Năm 2000 Saramago hoàn thành tiểu thuyết A Caverna (Hang động), là cuốn cuối cùng trong bộ ba tiểu thuyết - 2 cuốn đã xuất bản là Ensaio sobre a Cegueira (Mù lòa, 1995) và Todos os nomes (Tất cả các tên gọi, 1997). Sáng tác của Saramago đa dạng và đầy mâu thuẫn. Tiểu thuyết Phúc âm theo Jesus Christ (1991) bị nhà thờ Cơ đốc giáo buộc tội "coi thường sự thật lịch sử và xuyên tạc các nhân vật chính trong Tân ước" nhưng lại được tái bản hơn hai chục lần trong nước và được dịch ra 25 thứ tiếng nước ngoài. Một trí thức tự học, gắn bó với văn chương từ trẻ nhưng phải đến sáu chục tuổi mới được thừa nhận, Saramago thường cay đắng nói: "Lên sao Hỏa còn dễ hơn là gọi được cửa trái tim của những kẻ cùng thời". Tuy vậy, giải Nobel có vẻ đã phủ nhận suy nghĩ bi quan này. Một số tác phẩm của được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Mọi Cái Tên Mù Lòa Hang Động ... *** Đồ đạc của bố ở đây, Marta nói, không nhiều lắm, chứa đủ trong chiếc vali nhỏ nhất, hình như bố đã linh cảm thấy mình chỉ ở đây có ba tuần thôi phải không, Đến một lúc nào đó trong cuộc đời người ta chỉ còn vác trên vai cái thân mình nữa thôi, Cipriano Algor nói, Câu nói hay đấy, Vâng, thưa bố, nhưng con chỉ muốn bố nói xem sẽ sống bằng gì nào, Nhìn ngắm những bông hoa loa kèn, chúng đẹp giản dị, chẳng thêu dệt rắc rối. Cũng là một câu nói đẹp, chính vì thế thứ hoa đó mãi mãi cũng chỉ là hoa loa kèn, Con là một kẻ hoài nghi điên cuồng, một kẻ vô sỉ khó chịu, Bố ơi, con xin bố, con đang nói chuyện một cách nghiêm túc, Bố xin lỗi con, Con hiểu chuyện vừa rồi là một cú sốc lớn đối với bố, cả đối với con nữa, dù con không xuống dưới đó, con hiểu rằng những người đàn ông và đàn bà kia không chỉ đơn giản là những người đã chết, còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều, Thôi con đừng nói nữa, bởi vì họ không chỉ đơn giản là những người đã chết mà còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều nên bố không muốn tiếp tục sinh sống ở đây nữa, Thế còn chúng con, còn con thì sao, Marta hỏi, Các con hãy tự quyết định lấy cuộc đời mình, bố đã quyết định đời của bố rồi, bố sẽ không sống nốt những ngày còn lại của mình trong cảnh bị trói chặt vào ghế đá và nhìn vào bức tường. Thế bố sẽ sống ra sao, Bố có tiền mà người ta thanh toán cho những hình người bằng gốm, đủ sống một hoặc hai tháng, sau đó ta sẽ tính tiếp, Con không nói đến chuyện tiền nong, bằng cách này hay cách khác thì bố cũng không thiếu tiền cho những nhu cầu về ăn, mặc, điều con muốn nói là bố sẽ phải sống một mình, Bố đã có con Achado, rồi hai con thỉnh thoảng lại về thăm bố nữa, Bố ơi, Gì cơ, Thế còn Isaura, Isaura thì có liên quan gì đến chuyện này, Bố đã nói với con là tình hình giữa hai người đã có thay đổi, nhưng lại chẳng giải thích rõ nó thay đổi như thế nào và tại sao bằng, Và đúng vậy đấy, Nếu như vậy, Như vậy thì sao nào, Hai người có thể sống chung với nhau, ý con muốn nói như vậy. Cipriano Algor không trả lời. Ông xách vali lên, Bố đi đây, ông nói. Cô con gái ôm chặt lấy bố, Chúng con sẽ về thăm bố trong ngày nghỉ đầu tiên của Marçal, trong tiếng từ giờ đến lúc đó bố phải luôn thông báo tin tức cho con nhé, khi về đến nơi, bố nhớ gọi điện ngay cho con nói xem căn nhà ra sao, và cả tình hình con Achado nữa, đừng quên con Achado đấy, bố nhé. Với một chân ở ngoài cửa, Cipriano Algor còn nói, Con hãy ôm hôn Marçal thay cho bố nhé, Thì bố đã ôm hôn anh ấy và đã chia tay anh ấy rồi mà, Ừ, nhưng bố cứ nhờ con thêm một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Hang Động của tác giả José Saramago.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quà Của Chúa - Dorota Terakowska
AudioBook Quà Của Chúa Tiểu thuyết "Quà của Chúa" chứng tỏ khát vọng của con người muốn vươn lên làm chủ số phận và thế giới của mình. Tuy chưa thành hiện thực, nhưng khát vọng này vẫn tồn tại, vẫn cháy bỏng. Adam và Ewa là cặp vợ chồng lý tưởng, có cuộc sống lý tưởng với những kế hoạch lý tưởng cho tương lai. Công ty của họ làm ăn phát đạt, họ đã xây nhà to, nội thất sang trọng, chỉ còn thiếu mỗi đứa con nữa thôi là hạnh phúc của họ viên mãn. Thế mà tất thảy mọi tuyệt hảo đó đã biến khỏi cuộc sống của họ khi đứa con tật nguyền chào đời. Ngày con gái ra chào đời cũng là ngày toàn bộ kế hoạch đường đời của họ bị sụp đổ, cuộc sống của họ hoàn toàn bị đảo lộn, họ phải đương đầu với những thử thách mới cực kỳ cam go. Trong cái đầu tật nguyền của Myszka, con gái của Adam và Ewa, tiềm ẩn nhiều ma thuật. Cô gái đi tìm chỗ cho mình, kiến tạo cho mình một thế giới riêng: đẹp, an toàn, không có cái ác và cái không hoàn thiện. Thậm chí bé còn giúp Đức Chúa Trời trong công việc sáng tạo. Myszka tựa hồ một con nhộng, bên trong lớp vỏ bọc của con nhộng này đang náu mình một con bướm đẹp, một tâm hồn đẹp nhiều khát vọng, chẳng khác gì người bình thường. Có điều, con bướm náu mình trong cơ thể Myszka sẽ không bao giờ bay đi được. Phòng áp mái là chốn riêng tư đầy bí ẩn của bé, là nơi cho phép bé được vào vườn địa đàng, được sống cuộc sống thứ hai của mình, được gặp Adam và Ewa, được trò chuyện với Rắn và Đức Chúa Trời. Ở đây bé cảm thấy, cho dù chốc lát, mình có giá, thậm chí rất được việc. Tại phòng áp mái, sau khi tắt đèn, bé có thể rời bỏ vỏ bọc của mình, bé trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát và nhanh nhẹn, nhảy múa như một nghệ sĩ múa ba lê thực thụ, không còn phải vất vả với thân thể nặng nề, dị dạng của mình nữa. Chỉ có ở đây, tức trên thiên đường, Myszka mới có thể thoả mãn mọi mơ ước của mình, mới là mình thật sự. Tiểu thuyết Quà của Chúa chứng tỏ khát vọng của con người muốn vươn lên làm chủ số phận và thế giới của mình. Tuy chưa thành hiện thực, nhưng khát vọng này vẫn tồn tại, vẫn cháy bỏng. Cuốn tiểu thuyết đầy tính nhân văn và gây xúc động lòng người này cho chúng ta thấy, người ta phải tốn bao nhiêu thời gian để hiểu được rằng, tình yêu thực sự không đặt điều kiện, và rằng, thực khó phá vỡ bức tường vô hình của sự xa lạ mọc lên ngay trong một con người, bức tường ngăn cách con người này với thời thơ ấu của mình. Nhiều tình tiết của tiểu thuyết chứng tỏ, chúng ta thấy còn quá ít, hiểu còn quá ít, nhận ra còn quá ít, chúng ta thường hay hổ thẹn với những điều nhẽ ra chúng ta phải tự hào... và chính vì thế mà chúng ta đã để uổng phí, đã bị mất rất nhiều, có khi đánh mất chính mình. Thế giới nội tâm của Myszka vô cùng phong phú và đẹp tuyệt vời. Tác giả muốn chứng minh một điều: Cái đẹp kín đáo hay hơn cái đẹp phơi bày. Quà của Chúa là tiểu thuyết hiện đại, dẫu "hàm lượng ma thuật" khá cao, nhiều chương đoạn đậm màu sắc Thiên Chúa giáo (tiêu đề của các chương trong tiểu thuyết chứng tỏ điều này). Quà của Chúa đưa người đọc vào thế giới huyền ảo, hư hư, thực thực, khi trần thế, lúc thiên đường, khi vườn nhà, lúc Vườn địa đàng, nơi con người được trò chuyện với Đức Chúa Trời. Quà của Chúa giúp chúng ta khám phá chính mình, biết được nhiều điều bí ẩn của chính mình. Dẫu đề tài của tiểu thuyết là loại đề tài khó viết, song với tri thức uyên thâm, lối quan sát và cảm nhận tinh tế, khai thác rất hiệu quả "thẩm mỹ" từ "cái xấu", văn phong mượt mà, gợi cảm, bút pháp trữ tình, hư thực đan xen, kịch tính cao, các nhân vật giàu nội tâm, người đọc bị cuốn hút từ đầu đến cuối. Có lẽ lần đầu tiên trên thế giới có một cuốn tiểu thuyết viết về bệnh down hấp dẫn đến như vậy. Quà của Chúa mang lại cho người đọc những ấn tượng mạnh, cảm xúc sâu lắng, nhiều suy tư, trăn trở. Câu chuyện của Adam, Ewa và con gái của họ kết thúc có hậu, lạc quan, như một truyện cổ tích hay, cho dù đây không phải là truyện cổ tích. Cuối truyện Adam yêu con, Ewa yêu đời, đứa con gái thứ hai ra chào đời. Nói cách khác, Quà của Chúa lần này là món quà đổi đời cho họ. Thông điệp mà cuốn sách muốn gửi tới chúng ta là, phải thương yêu, phải cưu mang và đùm bọc những người khuyết tật. Quà của Chúa đã làm rơi nước mắt của rất nhiều bạn đọc Ba Lan, những người, như chính họ tự thổ lộ, chưa bao giờ khóc trong đời. Nhiều bạn đọc Ba Lan cho đây là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất, được họ thích nhất, trong thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, một số người còn cho đây là một kiệt tác văn chương. Có một điều chắc chắn, ngay sau khi ấn hành, Quà của Chúa đã trở thành thiên tiểu thuyết best-seller hàng đầu và từ năm 2001 đến nay cuốn sách liên tục được tái bản với số lượng bản in rất lớn, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Sau tiểu thuyết Hoang thai, xuất bản năm 2006, Quà của Chúa là tiểu thuyết thứ hai của nữ nhà văn Dorota Terakowska được Nhà xuất bản Phụ nữ và dịch giả Lê Bá Thự gửi tặng bạn đọc Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Quà Của Chúa của tác giả Dorota Terakowska.
Tình Yêu Trở Lại - Madge Swindells
AudioBook Tình Yêu Trở Lại Câu chuyện diễn ra tại một vùng đất mà sự phân biệt sắc tộc diễn ra cực kỳ khắc nghiệt và khoảng cách giàu nghèo quá lớn. Nơi đây, không chỉ cuộc sống khốn khó mà ngay cả sự giàu sang phú quý cũng ra sức tàn phá hạnh phúc bao con người. Đó là vùng Đất Mũi Nam Phi, nhưng không giới hạn ở đấy mà bối cảnh câu chuyện mở rộng tới thành phố London náo nhiệt và sang cả bờ Tây nước Mỹ… Tình yêu trở lại là một câu chuyện thật hoàn hảo về những biến động xảy ra trong một gia đình suốt ba mươi năm trời. Nhân vật trung tâm của câu chuyện là Anna, một phụ nữ tuy không thực dịu dàng nhưng xinh đẹp, thông minh và mạnh mẽ… đặc biệt, cô mang trong mình lòng kiêu hãnh đến cực đoan và niềm đam mê làm giàu không gì cưỡng nỗi. Xuất thân trong một gia đình giàu sang vào bậc nhất vùng, nhưng Anna lấy chồng lại là một nông dân nghèo xơ nghèo xác. Một mình cô phải đấu tranh quyết liệt với số phận khắc nghiệt để rồi từ trong cảnh bần hàn, cô đã vươn lên trở thành một nữ thương gia vô cùng sắc sảo và đầy quyền thế trong thời kỳ mà vai trò của người phụ nữ còn chưa được coi trọng. Chỉ có tình yêu là còn né tránh Anna… Chồng Anna là Simon – con một gia đình nông dân nghèo khó sớm mồ côi cha lẫn mẹ. Họ đến với nhau thật nhanh khi chưa kịp hiểu rõ về nhau. Và rồi có quá nhiều khác biệt cũng như lòng kiêu hãnh của mỗi người đều quá lớn đã khiến cho cuộc hôn nhân của họ trở thành một tấn thảm kịch. Nhưng cuối cùng, sau bao nhiêu biến cố của cuộc đời, họ mới hiểu được nhau và tìm về nhau. Tác phẩm còn có tên khác là Vụ Thu Hoạch Mùa Hè. Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Trở Lại của tác giả Madge Swindells.
3 Chị Em Nhà Họ Tống - Nguyễn Vạn Lý
AudioBook 3 Chị Em Nhà Họ Tống Trong lịch sử cận đại, không có một gia đình nào có thể khuynh đảo lịch sử quốc gia và đời sống của hàng trăm triệu người như gia đình họ Tống của Trung Hoa. Trên một nửa thế kỷ, những người của gia đình này đã dùng mọi thủ đoạn để độc chiếm quyền lực chính trị và tài chánh của Trung Hoa, và đã thu thập được những tài sản khổng lồ, lớn nhất thời đại. Dòng họ Tống gồm những ai? Họ là con cháu của một gã thiếu niên đi hoang. Gã thiếu niên đó gặp cơ duyên may mắn qua được Hoa Kỳ, sống dưới sự che chở của giáo hội Methodist vào khoảng cuối thế kỷ 19. Gã thiếu niên may mắn đó vốn người họ Hàn tại đảo Hải Nam, nhưng khi sang Hoa Kỳ, hắn đổi tên là Tống Charlie. Khi trưởng thành và trở về Trung Hoa, Tống Charlie lấy tên là Tống Giáo Nhân, và tạo được một sản nghiệp đồ sộ bằng nghề in và bán sách Thánh Kinh. Tống Giáo Nhân cũng bí mật tham gia phong trào cách mạng của Tôn Dật Tiên, chống lại triều đình Mãn Thanh. Nếu Tống Giáo Nhân không có ba cô con gái thì cuối cùng gia đình nhà họ Tống sẽ không giầu sang quyền thế đến thế, và cũng sẽ chỉ là một gia đình trọc phú tầm thường trong cái đám đông đảo những người Trung Hoa giầu có. Nhưng Tống Giáo Nhân sinh được ba cô con gái rất quý tướng. Đúng ra Tống Giáo Nhân có sáu người con, ba trai và ba gái. Nhưng chính ba cô con gái này đã trở thành những nhân vật xuất chúng trên chính trường Trung Hoa, vì kết hôn với những lãnh tụ lớn của Trung Hoa. Ba chị em nhà họ Tống đã tạo được một sự nghiệp chính trị hiển hách và những sản nghiệp vĩ đại cho nhà họ Tống. Trong số ba người con gái của Tống Giáo Nhân, chỉ có bà Tống Khánh Linh tạo được một địa vị cao quý trong lịch sử và tâm hồn người Trung Hoa. Bà được cả hai phe cộng sản và Quốc dân đảng kính trọng. Tống Khánh Linh kết hôn với Tôn Dật Tiên, nhà đại cách mạng Trung hoa của đầu thế kỷ 20. Mời các bạn đón đọc 3 Chị Em Nhà Họ Tống của tác giả Nguyễn Vạn Lý.
5 Tuần Trên Khinh Khí Cầu - Jules Verne
Jules Verne (1828 - 1905) nhà văn Pháp nổi tiếng được mệnh danh là bậc thầy về viết truyện phiêu lưu và khoa học viễn tưởng. Ông nổi tiếng ngay từ những tiểu thuyết đầu tay của mình, sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, phát hành rộng rãi khắp nơi, được mọi người, nhất là giới trẻ, háo hức đón đọc. Trong những năm 1970, so với các tác giả khác thì số sách của Jules Verne được xuất bản đứng hàng thứ ba trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên người ta gọi ông là "người đồng hành bất tử của tuổi trẻ". J. Verne vừa là nhà văn, vừa là nhà khoa học có kiến thức uyên bác, tư tưởng tiến bộ, trí tưởng tượng phong phú. Ông là người khởi xướng loại truyện khoa học viễn tưởng dựa trên sự thật khoa học. Ông còn là nhà văn kiệt xuất viết tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, đồng thời là người cố sức say sưa cho khoa học và tương lai của nó. Đến nay, nhiều dự kiến, ước mơ của ông đã trở thành hiện thực. Nhiều thế hệ bạn đọc trẻ đã được hiểu biết và giáo dục qua các tiểu thuyết của ông. Nhiều nhà bác học, nhà phát minh, nhà du lịch đã cảm ơn J. Verne mỗi khi nhớ lại rằng, thời niên thiếu, nhờ say mê đọc sách của ông mà họ đã phát triển được năng khiếu, thậm chí đã có những phát minh quan trọng. Mùa thu năm 1862, lúc ấy J.Verne 34 tuổi, ông hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay, mang tựa đề "5 tuần lễ trên khinh khí cầu" nói về những khám phá địa lý giả tưởng ở châu Phi được thực hiện từ trên một khinh khí cầu do ông "thiết kế chế tạo" ra. Là một tác phẩm đã từng bị từ chối bởi nhiều nhà phát hành khác khi cho rằng nó quá "khoa học", 5 tuần trên khinh khí cầu đã cực kì thành công và tiếng vang của nó đã vượt ra khỏi nước Pháp. Ngoài Hai vạn dặm dưới biển (1870), nhiều tác phẩm của Jules Verne như Năm tuần trên khinh khí cầu (1863), Vòng quanh thế giới trong 80 ngày(1873)... đã chinh phục người đọc khắp năm châu, khẳng định ông là nhà văn đi tiên phong trong thể loại khoa học viễn tưởng, một lối đi riêng biệt trong văn học thế giới. Những ý tưởng thiên tài của ông về cuộc sống hiện đại cũng như các thành tựu khoa học kỹ thuật và hơn hết là khát vọng của con người mà ông đã diễn tả dường như cho đến nay vẫn còn đang thời sự. Mời các bạn đón đọc 5 Tuần Trên Khinh Khí Cầu của tác giả Jules Verne.